Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chùa Một Cột Với Tinh Thần Phật Giáo Việt Nam Thời Lí

12 Tháng Ba 201400:00(Xem: 10995)
Chùa Một Cột Với Tinh Thần Phật Giáo Việt Nam Thời Lí


CHÙA MỘT CỘT

với

TINH THẦN PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI NHÀ LÍ

 

Hạnh Cơ

 

 

Cũng như triều đại nhà Đinh (968-980) trước đó, triều đạiĐại Hành (980-1005)(1) là một triều đại vẻ vang trong lịch sử dựng nước của nước ta. Nhưng sự nghiệp ấy quá ngắn ngủi vì sự phá nát của vua Lê Long Đĩnh (1005-1009)(2), cho nên bắt buộc phải có một sự đổi thay. Phú cườngan cư lạc nghiệp là những nhu cầu thiết yếu của quốc gia dân tộc, và đó đã là động cơ thúc đẩy Lí Công Uẩn(3) lên nắm chính quyền (1010-1028) để phục hưng quốc gia, bảo vệ tinh thần đạo đức của dân tộc. Và sự lên ngôi của Lí Công Uẩn để khai sáng ra nhà Lí đã là một công trình, một sắp xếp chính trị rất khéo léo của thiền sư Vạn Hạnh(4). Đó là một kết quả của “tinh thần Vạn Hạnh”, và Lí Công Uẩn lên ngôi, cũng như các vua Lí kế tiếp, là thực hiện cái sứ mệnh “đem ĐẠO vào ĐỜI” của Tổ Vạn Hạnh. Nói cách khác, tư tưởng của Vạn Hạnh đã ảnh hưởng sâu xaquyết định phần lớn cho tinh thần giới lãnh đạo suốt triều đại nhà Lí; đó là tinh thần tập thành Thiền và Mật, có kiến thức cao siêu thần toán, thấu suốt và nối liền quá khứ, hiện tại, vị lai, sử dụng các thuật phong thủy và sấm vĩ, làm lợi khí cho những hành động ích quốc lợi dân, phụng sự quốc giabảo vệ chủ quyền dân tộc. Nhà Lí đã xây dựng một quốc gia tiến bộ khác hẳn Đinh, Lê trước đó, và chùa Một-cột đã xuất hiện một cách độc đáo trong cái tinh thần tiến bộ toàn diện đó.

 

1. Sự Hình Thành và Ý Nghĩa Chùa Một Cột

 

Chùa MỘT-CỘT được hình thành là do một giấc mộng của vua Lí Thái-tông (1028-1054)(5). Đại Việt Sử Kí Toàn Thư chép: “Tháng hai, mùa xuân năm Kỉ-Sửu (1049) đổi niên hiệu là Sùng-hưng-đại-bảo (1049-1054)(6) năm đầu. Trước đó vua mộng thấy Phật Quán Âm ngồi trên đài hoa sen, dẫn vua lên đài. Khi tỉnh dậy, vua nói lại với triều thần. Có người cho là điềm gở, nhưng nhà sư Thiền Tuệ thì khuyên vua nên xây chùa, dựng cột đá giữa hồ, xây đài hoa sentượng Phật Quán Âm ở trên, đúng như hình ảnh đã thấy trong mộng. Các nhà sư chạy đàn chung quanh, tụng kinh cầu sống lâu, nhân đó đặt tên chùa là Diên-hựu.”(7)

Theo đó thì chùa Một-cột đã lấy nguồn cảm hứng từ giấc mộng đài sen với Phật Bà Quán Âm. Cảm hứng từ mộng là một thứ tâm lí nghệ thuật của các dân tộc Đông- phương, và hình dáng chùa đã bao hàm nhiều ý nghĩa nghệ thuật tôn giáo.

Theo giáo sư Nguyễn Đăng Thục (trong sách Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam) thì từ thời nhà Đinh đã dựng cột bia đá “Đà-la-ni”, gọi là cột “nhất-trụ”, để cầu tuổi thọ, cầu cho vận nước dài lâu bên cạnh cái không khí luôn luôn đe dọa nặng nề của Trung-quốc. Đến nhà Lí thì cây cột “nhất-trụ” ấy lại bao hàm nhiều ý nghĩa hơn nữa, khi vua Lí Thái-tông đã biến hình “nhất-trụ” thành hình hoa sen (bằng cách cho xây trên đỉnh cột một cái điện nhỏ bằng gỗ lợp ngói, mái cong), để trở thành chùa Diên-hựu (tức Một-cột). Chùa có hình dáng một hoa sen, và nếu nhìn từ xa thì quả đó một hoa sen lớn mọc lên từ hồ nước, – dĩ nhiên, cây cột đã trở thành cọng sen.

Vẫn theo giáo sư Nguyễn Đăng Thục thì hình ảnh hoa sen cũng đã có những ấn tượng rõ nét trong tinh thần dân tộc ta từ thời nhà Đinh: Đinh Bộ Lĩnh (tức vua Đinh Tiên-hoàng-đế, 968-979) ở cạnh đền Sơn-thần, ngoài cửa có đám sen núi có dấu chữ “thiên tử”; mẹ Lê Hoàn (tức mẹ vua Lê Đại Hành) có mang nằm mộng thấy trong bụng sinh hoa sen; tháng sáu, niên hiệu Long-thụy-thái-bình (1054-1058)(8) thứ 5 (1058), vua Lí Thánh-tông (1054-1072)(9) cho xây điện Linh-quang, bên trái dựng điện Kiến-lễ, bên phải dựng điện Sùng-nghi; phía trước điện dựng lầu chuông một cột sáu cạnh hình hoa sen.(10)

Vậy thì, hoa sen luôn luôn mang một ý nghĩa tốt đẹp, tượng trưng cho những gì cao quí nhất trên đời. Nơi nào có hoa sen là nơi đó có Phật, Bồ-tát ngự trị; nơi nào có dấu sen là nơi đó có dấu vết hiền nhân; nơi nào có hồ sen nhất định phải là nơi thanh tịnh; và chính hoa sen đã được người bình dân tôn quí để ví với những người có tâm hồn thanh cao, sống nơi bụi trần đầy danh lợi mà không bị những thứ ô uế cám dỗ, ràng buộc:

Trong đầm gì đẹp bằng sen,

Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng;

Nhụy vàng bông trắng lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

(Ca Dao)

 

Cuối cùng, hoa sen có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, đến nỗi nó đã được dùng làm tựa đề cho một bộ kinh cao thâm của Phật giáo đại thừa: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Do đó có thể thấy, tín ngưỡng HOA SENtín ngưỡng PHẬT THỪA vậy.

Cũng vì hoa sen mang những ý nghĩa như thế, nên hễ người ta nói đến hoa sen là nói đến Phật. Sen là chỗ Phật ngự. Tòa sen là tòa Phật. Và bộ ba “Tam Thánh”: Di ĐàQuán Âm - Thế Chí đã dính liền mật thiết với hoa sen trong tín ngưỡng Tịnh Độ tông.

Cõi Cực-lạc là cả một thế giới hoa sen. Vì vậy, vua Lí Thái-tông đã mộng thấy hoa sen với Phật Bà Quán Âm đứng trên đài sen, và giấc mộng ấy đã được hiện thực bằng ngôi chùa Một-cột có hình dáng hoa sen với tượng Bồ Tát Quán Thế Âm được thờ trong đó.

Tín ngưỡng Phật Bà Quán Âm trong tâm thức dân tộc Việt cũng là một tín ngưỡng đặc biệt, nó biểu hiện cho lòng yêu thương vô bờ của MẸ, hòa đồng với tín ngưỡng sùng bái Nữ Thần cố hữu trong tư tưởng bình dân Việt-nam. Người bình dân Việt-nam với tâm hồn chất phác, chân thật, luôn luôn có khuynh hướng nguyện cầu một “tha lực” từ bi cứu khổ cứu nạn như Bồ Tát Quán Thế Âm, hay là Nữ Thần của họ. Họ nương tựa vào đó như một nơi an lành, như đứa bé cảm thấy được yên ổn trong lòng mẹ. Họ luôn luôn yên tâm khi tin tưởngBồ Tát Quán Thế Âm ở bên cạnh để che chở, độ trì.

Xem thế, chùa Một-cột quả là một tác phẩm nghệ thuật tân kì, thể hiện trọn vẹn cái tâm linh độc đáo của dân tộc. Với cây cột độc nhất dựng sừng sững giữa hồ, nó biểu hiện cho tín ngưỡng về nguồn sống vũ trụ, về âm dương hòa hợp của tư tưởng Bà-la-môn giáo và Chiêm-thành – vốn cũng đã ảnh hưởng ngấm ngầm vào tinh thần dân Việt từ lâu. Với cái điện hình hoa sen mọc lên từ hồ nước, nó nói lên cái tinh thần phấn đấu âm thầm với dục vọng để tự kiến tánh thành Phật của các thiền sư, tức là giới trí thức bác học. Và với tượng PhậtQuán Âm, nó bộc lộ cái tình Mẹ, tượng trưng cho Nữ Thần, một tha lực từ bi luôn luôn cứu độ chúng sinh, đó là tín ngưỡng của giới bình dân chơn chất. Vì vậy, chùa Một-cột quả đã gói ghém hoàn toàn tinh thần tín ngưỡng đặc biệt của Việt-nam thời đó.

Tinh thần chùa Một-cột là một tinh thần tổng hợp của Phật giáo Việt-nam thời Lí. Tinh thần đó đã dung hòa các tư tưởng vừa Thiền, vừa Mật, vừa Nho, vừa Lão, vừa trí thức, vừa bình dân, nhất là nó thể hiện một tinh thần hợp sáng nhưng độc lập của quốc gia; và chính cái tinh thần đó đã là nguyên nhân sâu xa của việc thành lập thiền phái Thảo Đường, một phái thiền Việt-nam độc đáo thời nhà Lí.

 

2. Thiền Phái Thảo Đường: Một Kết Tinh Của Tinh Thần Phật Giáo Việt Nam Thời Nhà Lí

 

Thời đại nhà Lí là thời đại toàn thịnh của Phật giáo Việt-nam, mà cũng là thời đạiý thức dân tộc cao nhất, tinh thần quốc gia hùng mạnh nhất trong lịch sử độc lập của Việt-nam. Về điểm này, giáo sư Hoàng Xuân Hãn có nói: “Lí Thánh-tông là vua ta đầu tiên có óc lập một đế quốc có danh ngang với một nước thiên tử. Vua đặt quốc hiệu là Đại-việt (1054), tôn các vua trước là Thái-tổ, Thái-tông, coi các nước nhỏ là chư hầu, và muốn ngăn cấm Chiêm-thành thần phục Tống.”(11) Và chính ở trong cái ý thức dân tộc và tinh thần độc lập, tự cường cao độ đó mà phái thiền Thảo Đường đã xuất hiện, như học giả Trần Văn Giáp đã nói: “Đến thế kỉ XI, đạo Phật rất thịnh vượng ở Việt-nam. Những người nhiệt thành với đạo này không phải chỉ là quần chúng mà cả những quan lớn ở triều đình, và cả những vua chúa nữa. Những ông vua ấy muốn thiết lập một phái mới. Nhưng thay vì trực thuộc với Bồ Đề Đạt Ma, họ lại chọn một thiền sư Trung-hoa tên là Thảo Đường đã đến Chiêm-thành và ngụ một thời gian ở đó. Chắc chắn họ đã theo giáo huấn của vị sư trưởng này và thực hành giáo pháp của ông. Thời kì thứ tư này quả là thời kì Thiền học Việt-nam.”(12)

Từ Lí Thái-tông, ta thấy nhà vua đã có khuynh hướng xây dựng một nền Phật giáo riêng biệt, đặc thù cho Đại-cồ-việt(13) qua việc xây cất chùa Một-cột. Đến vua Lí Thánh-tông thì cái khuynh hướng ấy lại càng mạnh mẽ hơn nữa, đến nỗi đã đưa đến việc sáng lập một phái thiền mới lấy tên của thiền sư Thảo Đường.

Về sự tích Tổ Thảo Đường, sách An Nam Chí Lược chép: “Thảo Đường đi theo sư phụ sang ở đất Chiêm-thành. Khi vua Lí Thánh-tông đánh Chiêm-thành, bắt được làm tù binh, giao cho quan tăng lục làm gia nô. Quan tăng lục viết sách Ngữ Lục, để ngỏ trên bàn và đi khỏi. Nhà sư Thảo Đường xem trộm, có sửa chữa đi. Quan tăng lục về thấy thế lấy làm kinh ngạc về anh gia nô, bèn tâu lên vua. Vua bái Thảo Đường làm quốc-sư.”(14)

Tinh thần của tài liệu này cho ta thấy gì? Đọc lại lời của giáo sư Hoàng Xuân Hãn ở trên thì triều đại Lí Thánh-tông quả là một triều đại oanh liệt, có tinh thần dân tộc cao sáng nhất. Vua Lí Thánh-tông nuôi mộng xây dựng quốc gia thành một đế quốc hùng cường, xứng danh “Đại-việt”; trong đó bao gồm ý tưởng sáng lập một tông phái Phật giáo Đại-việt đặc thù, hoàn toàn mang màu sắc dân tộc, mặc dù trước đó đã có hai phái thiền Tì Ni Đa Lưu ChiVô Ngôn Thông từ ngoại quốc truyền vào. Và mộng ước ấy đã được thành tựu do một thiện duyên hãn hữu, đó là việc nhà vua đi đánh Chiêm-thành, bắt nhiều tù binh, và trong đám tù binh ấy có thiền sư Thảo Đường.

Thảo Đường là một tù binh được cắt đặt làm thị giả cho vị tăng lục (vị tăng sĩ cao cấp trông coi về tăng sự). Lại do sự khám phá của chính vị tăng lụcThảo Đường được nhà vua tôn làm quốc sư. Ấy là vua đã nhặt được viên ngọc vô giá từ trong bùn lầy! Ý vua đã mong ước thành lập một tông phái đặc biệt Việt-nam, nhưng nhà vua là cư sĩ, không thể đứng làm tổ khai sơn cho một môn phái, lại không muốn chọn các vị thiền sư đã sẵn có môn phái đương thời, nhân cơ hội khám phá được viên ngọc vô giáthiền sư Thảo Đường (dù vốn có nguồn gốc từ Trung-hoa), bèn lập tức tôn lập ngài làm Tổ, lấy tên ngài làm tên môn phái, rồi chính nhà vua làm đồ đệ đầu tiên đời thứ nhất. Thật là một cơ hội nghìn vàng để vua thực hiện giấc mộng. Quan tăng lục là một vị cao tăng, mà viết “ngữ lục” còn bị Thảo Đường sửa chữa, thì Thảo Đường quả xứng đáng với sự trông đợi và kính ngưỡng của vua Lí Thánh-tông.

Vậy thì cái tinh thần đặc biệt của Tổ Thảo Đường là gì? Đó là một tinh thần tổng hợp Thiền và Tịnh. Theo tinh thần bài “Kỉnh Sách” của Tổ thì con đường tu hành không phải chỉ có một, mà phải gồm cả ba phương diện: tham thiền, quán chiếuniệm Phật. Tham thiềnquán chiếu tức là tập trung tinh thần nhắm vào một điểm, ngưng đọng tất cả mọi vọng niệm trong tâm, để cho tâm ý thanh tĩnh, không còn vọng động.

Lúc đó cả năng tri và sở tri đều mất, trí tuệ phát sinh, kiến tánh giác ngộ. Đó là con đường tự lực đốn ngộ, có thể giải thoát ngay ở đời này, được áp dụng chung cho cả tăng lẫn tục. Nhưng đó là con đường trí thức, chỉ thích hợp cho những bậc thượng nhân; còn đối với kẻ độn cănđa sốquần chúng nông dân thì không thích hợp. Do vậy mà Tổ đã đưa ra con đường niệm Phật để dẫn dắt đám quần chúng nông dân đông đảo ấy. Tổ nói: “Thiền vốn không có cửa vào nhất định, nếu không đủ căn bản tâm linh thì phần nhiều rơi vào lầm lạc, trọn đời trôi nổi, khó mà giác ngộ. Pháp quán tâm thì rất tế nhị, tinh vi, nếu khôngtrí tuệ bát nhã thì ít có thể tiến bộ trên đường chứng nghiệm. Chỉ còn có lối niệm Phật là rất mau lẹ, tiện lợi. Từ xưa đến nay, người thông minh hay ngu độn đều tu, đàn ông hay đàn bà đều chuộng, muôn người không một sai lầm như bốn lời dạy của phái Lâm Tế đã tỏ rõ. Chỉ cần tự phân tích lấy tâm mình, chớ nghi ngờ mình làm không được.”(15)

Người nông dân vốn dồi dào tình cảm và giàu tưởng tượng. Hơn nữa, trải qua bao cảnh bạo tàn, đau thương của giặc giã, chiến tranh từ các đời trước, họ chỉ mong được một đời sống thanh bình, an cư lạc nghiệp với sự độ trì của thần linh, cho nên sự tin tưởng vào Phật Bà Quán Âm với lòng từ bi của Mẹ Hiền cứu khổ cứu nạn đã phổ biến mau lẹ và sâu rộng trong quần chúng bình dân. Tín ngưỡng vào Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ độ trì là một lòng tin vào tha lực. Bởi thế, con đường niệm Phật dành cho người bình dân đã được đề cao bên cạnh con đường tham thiềnquán chiếu dành cho bậc đại trí tin tưởng vào tự lực; đó là cái chủ tâm của vua Lí Thánh-tông trong việc thành lập thiền học Thảo Đường, nhằm tổng hợp tín ngưỡng của toàn dân, làm thành một sức mạnh vô địch để thực hiện cái mộng “Đại-việt” trong tinh thần dân tộc cao sáng của mình.

Như vậy, đứng về phương diện lịch sử, chúng ta phải công nhận người sáng lập ra phái thiền Thảo Đường là vua Lí Thánh-tông. Tinh thần Thảo Đường chính là tinh thần Lí Thánh-tông trong ý hướng sáng lập một môn phái đặc biệt dân tộc. Tinh thần Lí Thánh-tông là một tinh thần cởi mở, sẵn sàng thâu hóa nhiều tín ngưỡng khác nhau. Vua rất sùng thượng Phật pháp nên đã xây cất và tu bổ rất nhiều chùa tháp. Tinh thần từ bi của Phật giáo đã ảnh hưởng sâu đậm nên nhà vua có tiếng là một ông vua nhân từ. Vua đã từng ban chăn chiếu cho tù nhân, cho họ ăn cơm đầy đủ vì nghĩ thương cái hoàn cảnh đói lạnh của họ trong ngục xá; và đối với dân chúng thì: “Lòng trẫm yêu dân như yêu con trẫm vậy; hiềm vì trăm họ ngu dại làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm; vậy từ nay về sau, tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi.”(16) Đối với Khổng giáo nhà vua cũng rất chú trọng. Vua là người đầu tiên ở nước ta dựng lập văn miếu, tạc tượng Chu Công, Khổng Tử và tứ-phối để thờ phượng (1070). Vua cũng rất hâm mộ âm nhạc Chiêm-thành và tin Thần đạo, xây chùa Nhị-thiên-vương thờ Nhật Thiên (Civa Deva) và Nguyệt Thiên (Visnu Deva) thuộc tín ngưỡng Ấn-độ giáo.

Vì vậy, khi nhận xét về Lí Thánh-tông, giáo sư Nguyễn Đăng Thục đã viết: “Xem thế thì biết rằng khuynh hướng tín ngưỡng của nhà vua cũng như của toàn quốc thời bấy giờ không có tính cách giáo điều, hết sức cởi mở để thỏa hiệp nhiều tín ngưỡng khác nhau.”(17)

 

3. Quán Âm Nữ

 

Nói đến Lí Thánh-tông, chúng ta còn phải đề cập đến một điểm đặc biệt khác nữa, đó là sự liên quan gần như mật thiết giữa nhà vua với hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm. Sử chép: “Nhà vua 40 tuổi, chưa có con trai, thường đi các đền chùa để cầu tự. Ngự giá đến đâu, người xem chật đường. Khi đến làng Thổ-lỗi, có người con gái hái dâu đứng dựa vào khóm cỏ lau, nhà vua lấy làm lạ, cho vào cung, lập nàng làm Ỷ Lan phu nhân. Đến khi có mang, sinh hoàng tử Càn Đức, nhà vua mừng lắm. Ngày hôm sau lập làm thái tử, đổi niên hiệu, đại xá, phong Ỷ Lan phu nhân làm thần phi, lại gọi là nguyên phi, đổi làng Thổ-lỗi làm làng Siêu-loại, vì là nguyên quán của nguyên phi.”(18) Và: “Vua thân đi đánh Chiêm-thành, lâu không thắng, trở về đến châu Cư-liên, nghe tin nguyên phi điều khiển nội trị được lòng dân hòa hợp, trong nước yên ổn, tôn sùng Phật giáo, tục gọi là Quán Âm Nữ. Vua tự bảo, kẻ kia là một nữ nhi mà còn có thể được thế, ta là trai còn dùng làm chi! Bèn quay lại đánh mới thắng được.”(19)

Trong chế độ quân chủ xưa, việc vua sinh được hoàng nam là một điều vui mừng trọng đại không những cho nhà vua, cho triều đình, mà cho cả nhân dân trong nước. Vua Lí Thánh-tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai, nay gặp được Ỷ Lan phu nhân thì sinh hoàng nam, đó chẳng là điều đại phúc cho triều đình và cho cả thiên hạ ư? Vì vậy, từ một cô thôn nữ, Ỷ Lan đã được bước lên địa vị một nguyên phi, và đối với nhân dân thì được tôn kínhQuán Âm Nữ (con gái của Phật Bà Quán Âm), nàng quả đã được mọi người, mọi tầng lớp trong toàn quốc coi là một cứu tinh của dân tộc. Nàng là cứu tinh của dân tộc không những sinh được vị thái tử anh minh, mà còn vì ở tư cách lãnh đạo nhân dân, làm cho họ được sống thanh bình trong cảnh an cư lạc nghiệp. Người dân vốn đã sẵn lòng sùng bái Phật Bà Quán Âm, nay họ có dịp hiện thực hóa PhậtQuán Âm vào đối tượng Ỷ Lan phu nhân, chứng tỏ đã có một ý thức cảm thông, một sợi dây nối kết giữa tự lựctha lực, giữa trí thức bác họcnông dân quê mùa, giữa giới thống trị và giới bị trị; và sợi dây đó chính là nàng thôn nữ Ỷ Lan. Ỷ Lan đối với nhà vua là hình ảnh Quán Âm Nữ, không những đã đem đến cho nhà vua hiếm hoi một vị thái tử anh minh nối nghiệp, mà còn là một động lực phấn khởi nhiệm mầu khiến cho nhà vua thắng trận khải hoàn; còn đối với nhân dân thì Ỷ Lan cũng là hình ảnh Quán Âm Nữ vì đã đem lại cho họ một xã hội an cư lạc nghiệp. Vì vậy, sau khi thắng giặc Chiêm-thành trở về, vua Lí Thánh-tông đã sáng lập tại kinh đô Thăng-long thiền phái Thảo Đường, cũng với ý chí thống nhất tín ngưỡng sùng bái của bình dân với tín ngưỡng trí thức của bác học để lấy sức mạnh toàn dân mà thực hiện mộng “Đại-việt” nói về phương diện quốc gia, và thực hiện một môn phái Thiền “Đại-việt” nói về phương diện Phật giáo.

 

*

 

Nhìn một cách tổng quát, chúng ta thấy Phật giáo thời Lí quả đã chứng tỏ cái năng lực phi thường trong việc giáo hóa con người về cả hai phương diện, xuất thế cũng như nhập thế. Từ Lí Thái-tổ đến Lí Chiêu Hoàng (1224-1225), trải qua chín đời vua, trị vì suốt một thời gian 215 năm (1010-1225), Phật giáo luôn luôn nắm vai trò chủ động. Mọi phương diện hệ trọng của quốc gia, từ chính trị, quân sự, đến giáo dục, văn học, nghệ thuật v.v... đều mang tinh thần Phật giáo. Ba phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn ThôngThảo Đường cùng nhau hợp tác, truyền bá song hành, và cùng chung qui vào một chí hướng phục vụ quốc gia dân tộc.

Về phương diện xuất thế, các thiền sư cũng như các vua chúa sùng đạo đều căn cứ vào thiền học để khai phóng tâm linh, tự mình phát triển trí tuệngộ đạo. Về phương diện nhập thế, sau khi ngộ đạo, họ đã hòa mình vào đời sống xã hội, từ cung vua, kinh thành, cho đến làng mạc, thôn quê, họ đã mở bao nhiêu đạo tràng, trường học để mở mang văn hóa, giải phóng tâm hồn mông muội cho người đời; ở đâu có người sống là ở đó có ánh sáng đạo lí lan tràn tới. Bao nhiêu tinh hoa của dân tộc được khai triển triệt để, làm cho nền văn minh nước ta vào thời đó thật rực rỡ, sánh ngang hàng với Trung-quốc, khiến cho nước láng giềng to lớn này phải nể sợ.

Tinh thần Phật giáo thời Lí, nhất là từ khi hình ảnh hoa sen với tượng PhậtQuán Âm xuất hiện, không phải là một tinh thần Phật giáo Thiền tông thuần túy, mà là cả một tinh thần dung hóa sáng tạo. Từ thiền sư Vạn Hạnh (tịch năm 1018) với triết lí “dung tam tế” đến các thiền sư Từ Đạo Hạnh (tịch năm 1112), Minh Không (tịch năm 1141) với khuynh hướng tổng hợp Thiền-Mật, sử dụng quyền năng thần thông để giúp đời; rồi các thiền sư Viên Chiếu (tịch năm 1090), Cứu Chỉ (tịch năm 1067), Ngộ Ấn (tịch năm 1088), Thông Biện (tịch năm 1134), Viên Thông (tịch năm 1151) v.v..., đều khai triển cái học TAM GIÁO (Phật - Lão - Nho) để phụng sự quốc gia dân tộc, khiến cho cái tinh thần “Bi, Trí, Dũng” của Phật giáo, hay “Nhân, Trí, Dũng” của Nho giáo được các cấp lãnh đạo thực hành triệt để, xây dựng một nước Đại-việt hùng cường, thịnh vượngnhân ái.

Tinh thần “Bi-Trí-Dũng” ấy lại là một tinh thần toàn dân thống nhất, do công trình nối kết từ tín ngưỡng trí thức quí tộc đến tín ngưỡng sùng bái bình dân qua các hình ảnh chùa Một-cột, Quán Âm Nữ, nhất là sự sáng lập thiền phái Thảo Đường, đã làm cho Phật giáo Việt-nam thời nhà Lí có một tinh thần tín ngưỡng hợp sáng thật đặc biệt. Tất cả những sự kiện trên đã làm cho nước ta dưới thời đại nhà Lí thật xứng đáng với danh xưng “Đại-việt”.

 

CHÚ THÍCH

 

(1) Đại Hành: Tên là Lê Hoàn, người làng Bảo-thái, huyện Thanh-liêm, tỉnh Hà-nam; là một vị tướng tài của vua Đinh Tiên-hoàng. Năm 968 được phong chức Thập-đạo tướng quân; năm 979 làm nhiếp chính cho Vệ vương Đinh Tuệ (con út của vua Đinh Tiên-hoàng, lên ngôi năm 979, lúc đó mới 6 tuổi). Năm 980, quân Tống xâm lăng, Lê Hoàn cử Phạm Cự Lượng làm đại tướng cầm quân nghênh địch. Trước khi ra quân, Phạm Cự Lượng cùng ba quân đều đồng thanh tôn Lê Hoàn lên ngôi vua (lấy cớ vua Đinh Tuệ còn quá nhỏ dại, chư tướng sĩ đánh giặc không thể biết thưởng phạt công minh). Liền đó, Lê Hoàn lên ngôi, xưng là Đại Hành hoàng đế, phế Đinh Tuệ làm Vệ vương, mở ra nhà Tiền-Lê (980-1009), rồi đích thân cầm quân chống giặc, thắng được cả thủy, lục quân Tống, giết chủ tướng Tống là Hầu Nhân Bảo (981), nhà Tống phải cầu hòa. Ông ở ngôi được 25 năm (980-1005), thọ 65 tuổi.

(2) Lê Long Đĩnh: Ông là con út của vua Lê Đại Hành (em của Long Ngân, Long Kính, Long Việt). Vua Lê Đại Hành mất (1005), Long Việt lên ngôi (là vua Lê Trung-tông), nhưng chỉ được 3 ngày thì bị Long Đĩnh cho người ám sát để đoạt ngôi, trở thành vua đời thứ ba của nhà Tiền-Lê. Lê Long Đĩnh là ông vua nổi tiếng về độc ác, bạo ngược, hiếu sát trong lịch sử nước ta. Ông lại là người hoang dâm quá độ, đến nỗi mắc bệnh không ngồi được, phải nằm mà thính triều, cho nên được người đương thời gọi là “Ngọa-triều hoàng đế”. Ông ở ngôi được 4 năm (1005-1009), thọ 20 tuổi. 

(3) Lí Công Uẩn: Vua khai sáng nhà Lí (1010-1225). – Để phân biệt, có người gọi đây là nhà Hậu-Lí, khác với nhà Tiền-Lí (544-602) do Lí Nam-Đế (544-548) sáng lập. – Công Uẩn người làng Cổ-pháp, huyện Đông-ngạn, phủ Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh, không biết cha là ai, được mẹ là bà họ Phạm đem cho thiền sư trú trì chùa Cổ-Pháp là Lí Khánh Vân làm con nuôi, cho nên lấy họ Lí. Tuổi thơ ông đã sống kham khổ trong chốn thiền môn, nhưng lại được sự dạy dỗ tận tình của thiền sư Vạn Hạnh, nên lớn lên ông đã trở thành một người tài đức kiêm toàn, được vào triều phụng sự nhà Tiền-Lê, làm quan đến chức tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Ông được toàn thể đình thần tin yêu và kính trọng, nên sau khi vua Lê Long Đĩnh băng (1009), ông đã được họ tôn lên ngôi vua (tức vua Lí Thái-tổ), khai sáng một triều đại nhà Lí huy hoàng, áp dụng tinh thần BI-TRÍ-DŨNG của Phật giáo trong việc trị dân, chấm dứt một giai đoạn tai ách khổ đau cho dân tộc. Sau khi lên ngôi, nhà vua cho dời kinh đô từ Hoa-lư (Ninh-bình) ra La-thành, đặt tên lại là Thăng-long (tức thành phố Hà-nội ngày nay), vẫn giữ quốc hiệu là Đại-cồ-việt (xin xem chú thích số 13 ở sau). Ông ở ngôi được 18 năm (1010-1028), thọ 55 tuổi.

(4) Vạn Hạnh: Vị cao tăng đời thứ 12 thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi. Thiền sư họ Nguyễn, người làng Cổ-pháp, huyện Đông-ngạn, phủ Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh. Từ thuở nhỏ đã thông minh khác thường, tinh thông cả Nho, Lão, Phật, nghiên cứu hàng trăm bộ kinh luận Phật giáo, không ham danh lợi, không trọng giàu sang. Năm 21 tuổi xuất gia, học với thiền sư Thiền Ông chùa Lục-tổ, chuyên cần tinh tấn, đạo hạnh cao dày, lại rất giỏi về sấm vĩ và phong thủy, được thiên hạ tin tưởng là bậc tiên tri. Thiền sư là thầy dạy học cho cả vua Lê Đại Hành và Lí Thái-tổ, đã giúp đỡ rất nhiều cho vua Lê Đại Hành trong các việc cai trị cũng như quân quốc đại sự. Khi đoán biết vận số nhà Tiền-Lê đã hết, thiền sư đã khéo léo vận động đưa Lí Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, chấm dứt thời kì tối tăm đầy đau khổ của dân tộc dưới triều vua Lê Long Đĩnh tàn ác, dâm loạn, đồng thời ngăn chận được những biến loạn nguy hiểm sau khi vua Lê Long Đĩnh băng. Vua Lí Thái-tổ lên ngôi, mở ra triều đại nhà Lí, phong cho thiền sư làm quốc sư. Nhân cơ hội này, thiền sư đã đem hết khả năng và tinh thần “dung hợp Nho-Lão-Phật” của mình để giúp vua trị quốc an dân, đúng với tư cách của một vị lãnh đạo không những về tâm linh, mà còn về hành động giúp dân an cư lạc nghiệp. Thiền sư tịch vào năm 1018.

(5) Lí Thái-tông: Con trưởng vua Lí Thái-Tổ, tên Phật Mã, nối ngôi năm 1028, là vua đời thứ hai nhà Lí. Ông là một vị quân vương thông minh, giỏi cả về chính trị cũng như quân sự. Ông cũng thấm nhuần đức độ của vua cha, thâm tín Phật pháp, nên rất thương dân và thường quan tâm đến đời sống của dân. Ông ở ngôi được 26 năm (1028-1054), thọ 55 tuổi.

(6) Trong suốt thời gian ở ngôi, vua Lí Thái-tông đã đặt 6 niên hiệu: Thiên-thành (1028-1033); Thông-thụy (1034-1038); Càn-phù-hữu-đạo (1039-1041); Minh-đạo (1042-1043); Thiên-cảm-thánh-vũ (1044-1048); Sùng-hưng-đại-bảo (1049-1054).

(7) Trích từ sách Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập II (Sài-gòn: Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa, 1969) của Nguyễn Đăng Thục.

(8) Trong suốt thời gian trị vì, vua Lí Thánh-tông đã đặt 5 niên hiệu: Long-thụy-thái-bình (1054-1058); Chương-thánh-gia-khánh (1059-1065); Long-chương-thiên-tự (1066-1067); Thiên-huống-bảo-tượng (1068); Thần-võ (1069-1072).

(9) Lí Thánh-tông: Vua Thái-tông băng hà (1054), thái tử Nhật Tông lên nối ngôi làm vua đời thứ ba nhà Lí, tức Lí Thánh-tông, đổi quốc hiệu là Đại-việt. Ông cũng là một vị quân vương tài trí, nhân từđức độ, đã tạo một sự nghiệp hiển hách còn hơn cả các đời trước. Ông ở ngôi được 18 năm (1054-1072), thọ 50 tuổi.

(10) Theo giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Sđd.

(11) Hoàng Xuân Hãn, Lí Thường Kiệt (Sài-gòn: Ban Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh, 1967).

(12) Trần Văn Giáp, Phật Giáo Việt Nam, Tuệ Sĩ dịch (Sài-gòn: Ban Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh, 1968).

(13) Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân, lên ngôi vua, xưng là Tiên-hoàng-đế, đặt quốc hiệu là Đại-cồ-việt (nước Việt lớn), đóng đô tại Hoa-lư (tỉnh Ninh-bình).

(14) Nguyễn Đăng Thục, Sđd.

(15) Nguyễn Đăng Thục, Sđd.

(16) Thượng-tọa Mật-Thể, Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (Nha-trang: Phật Học Viện Trung Phần, 1960).

(17) Nguyễn Đăng Thục, Sđd.

(18) Nguyễn Đăng Thục, Sđd.

(19) Nguyễn Đăng Thục, Sđd.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Hoàng Xuân Hãn. Lí Thường Kiệt. Sài-gòn: Ban Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh, 1967.

- Nguyễn Đăng Thục. Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập I, II. Sài-gòn: Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa, 1969.

- Nguyễn Đăng Thục. Thiền Học Việt Nam. Sài-gòn: Lá Bối, 1967.

- Nguyễn Lang. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận I. Paris: Lá Bối, 1977.

- Thượng tọa Mật Thể. Việt Nam Phật Giáo Sử Lược. Nha-trang: Phật Học Viện Trung Phần, 1960.

- Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. Sài-gòn: Tân Việt, in lần thứ sáu.

- Trần Văn Giáp. Phật Giáo Việt Nam (Tuệ-Sĩ dịch). Sài-gòn: Ban Tu Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1968.

 one_pillar_pagoda_0327one_pillar_pagoda_0326one_pillar_pagodaha_noi_-_chua_mot_cot_5_3_chuamotcot9chua-mot-cotchua_1_cot

Ý kiến bạn đọc
07 Tháng Mười Một 201502:05
Khách
chùa một cột rất đẹp
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5474)
Chùa Phước Hải Charlotte. Địa chỉ cũ: 1818 Little Rock Road, Charlotte, NC 28214. Điện thoại: (704) 394-6869
(Xem: 6271)
Tu viện Đại Bi. Địa chỉ cũ: 3210 West 15th Street, Santa Ana, CA 92703. Điện thoại: (714) 360-5355
(Xem: 5044)
Chùa Thanh Lương. Địa chỉ: 3261 Trentwood Way, Sacramento, CA 95822. Điện thoại: (916) 428-4871
(Xem: 5803)
Chùa Diệu Quang. Địa chỉ: 9229 Elder Creek Road, Sacramento, CA 95829. Điện thoại: (916) 381-4360
(Xem: 6080)
Chùa Liên Hoa - Địa chỉ: 3301 McKee Road, San Jose, CA 95127. Điện thoại: (408) 272-2654
(Xem: 4123)
Trung tâm Phật giáo cho Hòa Bình. Địa chỉ: 2064 Old Piedmont Road, San Jose, CA 95132. Điện thoại: (408) 295-2436
(Xem: 4989)
Chùa Phước Sơn tọa lạc tại số 1623 Saint Francis Avenue, thành phố Modesto, tiểu bang California.
(Xem: 4878)
Tu viện Bồ Đề. Địa chỉ: 2001 S. K Street, Bakersfield, CA 93304. Điện thoại: (661) 397-0470
(Xem: 4448)
Tịnh xá Ngọc Minh 3776 46th Street, San Diego, CA 92105 Tel: (619) 282-1673
(Xem: 5406)
Chùa Thiện Ân tọa lạc tại số 4354 W. Mckinley Avenue, thành phố Fresno, miền Trung tiểu bang California, Hoa Kỳ.
(Xem: 3911)
Chùa Phổ Hiền Địa chỉ: 96 Dewey Street, Worcester, MA 01610 Điện thoại: (508) 755-7817
(Xem: 4587)
Chùa Từ Liên Địa chỉ: 3465 Lenora Church Road, Snellville, GA 30039 Điện thoại: (770) 736-5425
(Xem: 3303)
Chùa Diệu Đế 9603 Nims Lane, Pensacola, FL 32534 Tel: (850) 477-8291
(Xem: 4818)
Chùa Phổ Hiền. Địa chỉ: 10222 Larson Avenue, Garden Grove, CA 92843. Tel: (714) 537-2234
(Xem: 5294)
Chùa Ưu Đàm. Địa chỉ: 7255 W. Meranto Avenue, Las Vegas, NV 89178. Tel: (702) 260-0479
(Xem: 3698)
Thiền Tịnh đạo tràng. Địa chỉ: 11502 Daniel Avenue, Garden Grove, CA 92840. Tel: (714) 638-0989, (714) 266-4171 Email: dieutanhthich@yahoo.com
(Xem: 4846)
Tu viện Pháp Vương. Địa chỉ: 715 Vista Avenue, Escondido, CA 92126. Tel: (760) 739-8063
(Xem: 3789)
Chùa Hương Sen - Địa chỉ: 19865 Seaton Avenue, Perris, CA 92570. Tel: (951) 657-7272; (951) 616-8620
(Xem: 4343)
Chùa An Lạc Địa chỉ: 1647 E. San Fernando Street, San Jose, CA 95116. Điện thoại: (408) 254-1710, (408) 594-8717
(Xem: 4533)
Thiền viện Diệu Nhân 4187 Duncan Hill Road, Rescue, CA 95672. Tel: (530) 676-7108; (916) 222-8784
(Xem: 3715)
Chùa An Lạc 5249 E. 30th Street, Indianapolis, IN 46218 Tel: 317-545-1234, 408-329-3199 Website: www.anlactemple.org
(Xem: 4340)
Chùa Dược Sư 11111 Magnolia Street, Garden Grove, CA 92841. Tel: (714) 638-4128
(Xem: 4338)
Chùa Linh Sơn P.O. & Distt Kushinagar 274403 U.P, India. Tel: +91- 9936- 837-270; +91-9936-178-621
(Xem: 5034)
Chùa Bảo Lâm, Địa chỉ: 6025 St. George Street, Vancouver, BC, Canada V5W-2Y5. Điện thoại: (604) 327-5546
(Xem: 5702)
Chùa Đức Viên, Địa chỉ: 2420 McLaughlin Avenue, San Jose, CA 95121. Điện thoại: (408) 993 - 9158
(Xem: 4008)
Chùa Phật Quang - Địa chỉ: 801 N 15th Street, San Jose, CA 95112 Điện thoại: (408) 295-8391
(Xem: 4763)
Pháp Duyên tịnh xá tọa lạc tại số 1760 W. Jensen Avenue, thành phố Fresno, tiểu bang California, Hoa Kỳ.
(Xem: 4351)
Chùa Hoa Nghiêm tọa lạc tại số 20 rue J.J. Rousseau 94290 Villeneuve Le Roi, Paris, Pháp
(Xem: 4581)
Tự viện Linh Sơn tọa lạc tại số 9 Avenue, Jean Jaurès, 94340 Joinville-le-Pont, France.
(Xem: 4086)
Trúc Lâm thiền viện tọa lạc tại số 9 Rue de Neuchâtel 91140 Villebon-sur-Yvette, ngoại ô thành phố Paris, Pháp. Thiền viện cách trung tâm Paris khoảng 20 km.
(Xem: 4083)
Tổ đình Khánh Anh tọa lạc tại số 14 Avenue Henri Barbusse, Bagneux. Bagneux là một xã trong vùng đô thị Paris, thuộc tỉnh Hauts-de-Seine, vùng hành chánh lle-de-France, Pháp
(Xem: 7906)
Chùa Khánh Anh tọa lạc tại số 8 Rue Francois Mauriac (Parc aux Lièvres) 91000 Evry, Pháp.
(Xem: 5245)
Chùa Thiện Minh tọa lạc tại số 51 Rue de Cuzieu 69110 Sainte-Foy-lès-Lyon, Pháp.
(Xem: 2730)
Như có một cái gì sống lại khi ngồi viết bài này về dòng Thiền Trúc Lâm và núi Bạch Mã. Sự kết hợp giữa tâm linh và thiên nhiên đưa ta vào một khoảnh khoắc tuyệt vời huyền bí khi cảm nhận.
(Xem: 2750)
Nằm trên một cao nguyên nhỏ ngay bên bờ Thái Bình Dương, thuộc quận hạt Sonoma, bang California, Odiyan Buddhist Center - mà người Việt chúng ta đã gọi một cách giản dị là chùa Tây Tạng
(Xem: 6551)
Pháp là quốc gia theo thế tục và đa tôn giáo. Có nhiều Phật tử sống ở Pháp hơn bất kỳ quốc gia nào khác trong khối Liên Âu. Các ngôi chùa do các tín đồ tự tài trợ
(Xem: 6622)
Thành phố Hamburg là thủ đô Phật giáo của nước Đức. Trong một khu công nghiệp, trên mái nhà lấp lánh một bánh xe pháp luân màu vàng, hai con rồng đứng hai bên cạnh, đó là một tu viện. Lúc đầu, các Phật tử gặp nhau trong các căn hộ để thiền tập, sau đó họ bắt đầu xây chùa.
(Xem: 7162)
Trụ Trì: TT Thích Hạnh Tri. Địa chỉ: 564 The Horsley Drive, Smithfield, NSW 2164. Tel: (02) 9726 1030 - Email: hanhtriminhgiac2007@yahoo.com
(Xem: 6172)
Kính mời chư vị thiện tri thức, quý Phật tử, quý đồng hương cùng chúng tôi hành hương viếng chùa, lễ Phật cầu an trong mùa Xuân mới.
(Xem: 7134)
Thuyết trình: HT Thích Bảo Lạc - Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan và HT Thích Như Điển - Đệ Nhị Chủ Tịch PGVNTN Âu Châu
(Xem: 7915)
Thuyết trình: HT Thích Bảo Lạc - Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan và HT Thích Như Điển - Đệ Nhị Chủ Tịch PGVNTN Âu Châu
(Xem: 7627)
Thăm Viếng Thiền Viện Vĩnh Đức, Nước Úc ngày 07/01/2019 do Do TT Thích Hạnh Hiếu làm trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 6932)
Thăm Viếng Chùa Tây Lai, California ngày 11/01/2019 - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 5775)
Thăm Viếng Thiền Viện Minh Quang, Sydney, Nước Úc ngày 07/01/2019 do Do HT Thích Minh Hiếu làm viện chủ - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 5841)
Thăm Viếng Chùa Phước Huệ, Sydney, Nước Úc ngày 07/01/2019 - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 4606)
Thăm Viếng Chùa Long Quang, Sydney, Nước Úc ngày 07/01/2019 do Do TT Thích Phổ Hương trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 5207)
Thăm Viếng Chùa Thiên Ấn, Sydney, Nước Úc ngày 07/01/2019 do Do TT Thích Như Định trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 4825)
Thăm Viếng Chùa Trúc Lâm, Sydney, Nước Úc ngày 07/01/2019 do Do TT Thích Tâm Minh trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 5187)
Thăm Viếng Chùa Huyền Quang, Sydney, Nước Úc ngày 07/01/2019 do Do HT Thích Bổn Điền làm trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 5364)
Thăm Viếng Chùa Minh Giác, Sydney, Nước Úc do TT Thích Hạnh Tri làm trụ trì ngày 07/01/2019 - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 3941)
Thăm Viếng Chùa Lăng Nghiêm Bảo Vương, Nước Úc ngày 02/01/2019 - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 5065)
Thăm Viếng Chùa Linh Sơn, Nước Úc ngày 02/01/2019 do HT Thích Tịnh Đạo trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 4121)
Thăm Viếng Chùa Bảo Minh, Nước Úc ngày 02/01/2019 do TT Thích Viên Tịnh trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 4807)
Thăm Viếng Chùa Từ Ân, Nước Úc ngày 01/01/2019 do TT Thích Hạnh Phẩm trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 4520)
Thăm Viếng Chùa Giác Hoàng, Nước Úc ngày 01/01/2019 do TT Thích Giác Tín trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 5219)
Thăm Viếng Chùa Hoa Nghiêm, Nước Úc do TT Thích Thiện Tâm trụ trì ngày 01/01/2019 - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 4994)
Thăm Viếng Chùa Quang Minh, Nước Úc ngày 01/01/2019 - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 4035)
Thăm Viếng Chùa Bắc Linh, Miền Nam Nước Úc - Do TT Thích Viên Trí trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 4404)
Thăm Viếng Chùa Pháp Hoa, Miền Nam Nước Úc - Do TT Thích Viên Trí trụ trì - Nhiếp ảnh: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 7659)
Thuyết trình: TT Thích Nguyên Tạng. Tổ chức và thực hiện: Thầy Thích Hạnh Tuệ. Kỷ niệm chuyến viếng thăm Úc châu đầu năm 2019
(Xem: 7022)
Ni viện do Ni sư Thích Nữ Tâm Vân cùng một số Phật tử tại địa phương thành lập vào năm 2016 trên diện tích 1 mẫu tây. Ni viện có nhiều cây xanh, không khí trong lành, cảnh quan thanh tịnh.
(Xem: 9339)
Video này do Thầy Thích Hạnh Tuệ thực hiện để Giới thiệu Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc do Sư Bà Thích Nữ Như Tuấn làm viện chủ và Sư Cô Thích Nữ Như Quang làm trụ trì.
(Xem: 5703)
Viếng Thăm Đông Đại Tự - Nhật Bản - Ngày 27/4/2017 - Nhiếp ảnh: Diệu Hạnh
(Xem: 8280)
Viếng Thăm Chùa Địa Tạng Không Đầu - Nhật Bản - Ngày 28/4/2017 - Nhiếp ảnh: Diệu Hạnh
(Xem: 5680)
Thăm Viếng Nam Thiên Tự - Nhật Bản - Nhiếp ảnh: Hạnh Tuệ, Diệu Hạnh
(Xem: 5330)
Thăm Viếng Kim Các Tự - Nhật Bản - Nhiếp ảnh: Hạnh Tuệ, Diệu Hạnh
(Xem: 5184)
Thăm Viếng Thanh Thuỷ Tự - Nhật Bản - Nhiếp ảnh: Hạnh Tuệ, Diệu Hạnh
(Xem: 5117)
Thăm Viếng Đông Bổn Nguyện Tự - Nhật Bản - Nhiếp ảnh: Hạnh Tuệ, Diệu Hạnh
(Xem: 5588)
Thăm Viếng Bình Đẳng Viện - Nhật Bản - Nhiếp ảnh: Hạnh Tuệ, Diệu Hạnh
(Xem: 5234)
Thăm Viếng Trường Cốc Tự - Nhật Bản - Nhiếp ảnh: Hạnh Tuệ, Diệu Hạnh
(Xem: 5121)
Thăm Viếng Quốc Thiên Tự - Nhật Bản - Nhiếp ảnh: Hạnh Tuệ, Diệu Hạnh
(Xem: 6096)
Thăm Viếng Kamakura Đại Phật - Nhật Bản - Nhiếp ảnh: Hạnh Tuệ, Diệu Hạnh
(Xem: 5609)
Chùa Hải Ấn được xây dựng năm 802. Ngôi chùa này có hơn 81,352 mộc bản in 2 mặt của Đại tạng kinh Cao Ly.
(Xem: 6120)
Mỗi năm chùa tổ chức lễ hội lồng đèn trong dịp lễ Phật Đản với hàng triệu cái lồng đèn lung linh.
(Xem: 10747)
Nét đẹp kiến trúc uy nghiêm và hiện đại - Nhiếp ảnh gia: Võ Văn Tường
(Xem: 8067)
Do HT Thích Như Điển Hướng dẫn vào tháng 10 năm 2016
(Xem: 14130)
Chùa Thiện Ân được thầy Thích Trung Tịnh thành lập vào đầu năm 2013 trên mảnh đất có diện tích hơn 2,5 mẫu tây ở Fresno
(Xem: 12808)
Nhân Lễ Vu Lan, Chủ nhật 13/9/2015, Nhiếp ảnh gia Võ Văn Tường đã triển lãm các bộ tranh ảnh Phật giáo
(Xem: 16014)
do TT Thích Hạnh Nguyện tổ chức và HT Phương Trượng Thích Như Điển hướng dẫn
(Xem: 39351)
Tọa lạc trên những dãy núi trùng điệp, lọt thõm trong thung lũng Larung Gar, hàng ngàn ngôi "già lam nhỏ" đã làm nên một trong những tu viện Phật giáo lớn nhất thế giới.
(Xem: 13357)
Được xây dựng vào năm Hằng Linh đời Đông Hán cách đây đã hơn 1.800 năm, được xưng là “Quan Trung Tháp Miếu Thủy Tổ”
(Xem: 21874)
30 năm qua được coi là quá đủ cho một thế hệ tiếp nối. Nếu không được ghi lại, kể lại thì lớp người sau chắc chắn sẽ đi vào quên lãng hay hiểu một cách lờ mờ hoặc qua trung gian một người khác kể...
(Xem: 10989)
Ngôi chùa không lớn lắm, nhưng nhìn từ bên ngoài vào trong, người tham quan mới cảm nhận ra được sức sống nội tâm đang vươn lên một cách mãnh liệt...
(Xem: 17829)
Tọa lạc tại: 715 Vista Ave. Escondido, California, Hoa Kỳ; Do HT Thích Nguyên Siêu làm Viện chủ và TT Thích Tâm Tường làm Trụ trì
(Xem: 15977)
Chùa Phật Đà được Hòa thượng Thích Nguyên Siêu mua lại từ ngôi nhà thờ vào năm 1995...
(Xem: 12269)
Lục tổ điện được xây lại vào năm Minh Hoàng Trì thứ 3, Canh Tuất (1490), Nam Hoa Thiền Tự trùng tu lần cuối vào năm Quý Dậu (1933).
(Xem: 16682)
Nhật Bản nổi tiếng với những công trình kiến trúc chùa cổ bằng gỗ uy nghiêm và cổ kính những tòa bảo tháp bậc nhất của nghệ thuật kiến trúc.
(Xem: 14462)
Nhớ lại ngày tôi mới đến định cư tại thành phố Reutlingen miền Nam nước Đức, một quốc gia rất xa lạ mà tôi chưa từng nghe tên.
(Xem: 13890)
Đảo Jeju, Hàn Quốc; vịnh Hạ Long, Việt Nam; Thác Iguazu (Bra-xin và Ác-hen-ti-na), Đảo Komodo (Indonesia), Rừng mưa Amazon và Sông Amazon
(Xem: 6840)
Đây là lần thứ 9 ngôi chùa Linh tại Berlin, thủ đô của nước Đức, có tên một ngọn núi Thứu, nơi Đức Phật hay thuyết pháp... Hoa Lan Thiện Giới
(Xem: 14936)
Với sự giúp đỡ của vị vua thời bấy giờ của Myanmar là Okkalapa, hai anh em Taphussa và Bhallika đã xây ngôi chùa Shwedagon để lưu giữ những sợi tóc của Đức Phật...
(Xem: 13840)
Theo tính toán của các nhà khảo cổ thì ngôi đền tháp Phật giáo vĩ đại này phải mất 100 năm để xây dựng hoàn thành.
(Xem: 11616)
Một cấu trúc đá cao nhất châu Á mọc lên uy nghi giữa nền trời xanh của Biển Ả Rập... Văn Công Hưng
(Xem: 14604)
Chùa Vô Lượng Thọ, Nhật Bản - The Head Temple of Nenbutsushu Buddhist Sect of Japan
(Xem: 13347)
Cách vùng ngoại ô thành phố Đôn Hoàng khoảng 6km, ốc đảo hồ trăng lưỡi liềm tọa lạc giữa sa mạc Gobi, tựa như một tấm lụa mềm mại xua tan cái nóng cực độ của mảnh đất khắc nghiệt miền Tây xứ Trung Hoa.
(Xem: 13052)
Ngày nay, dấu ấn Phật giáo ở Nagarjunakonda là những gì được khai quật và trưng bày ở viện bảo tàng tọa lạc trên Đồi Long Thọ... Nguyễn Đăng
(Xem: 18008)
Thành phố Nara (Nara-shi) thuộc tỉnh Nara ở vùng Kinki của Nhật Bản. Nara hiện tại nằm trên khu vực của kinh đô Heijo-kyo được thành lập vào năm 710.
(Xem: 12111)
Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán tọa lạc tại số 1425 Clayton Road, San Jose, California, Hoa Kỳ được Tỳ kheo Thích Pháp Chơn và một số Phật tử thành lập tại San Jose vào năm 2000
(Xem: 10833)
Ngắm Bảo Vật Quốc Gia Của Phật Giáo Việt Nam, những tượng Phật, Bồ Tát, trống đồng của thời Lý Trần Lê - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14303)
Hình ảnh Cổng Tam Quan các tự viện theo phong cách và văn hóa Nhật Bản... Thích Tâm Mãn; Thích Minh Thông
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant