Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyền Lực Tâm Linh

16 Tháng Tư 201400:00(Xem: 9509)
Quyền Lực Tâm Linh


Quyền Lực Tâm Linh

mahatma-gandhi


Nhân loại tôn vinh Mahatma Gandhi (1869- 1948) là một trong mười thiên tài sáng tạo nhất trong lịch sử. Mahatma Gandhi là bậc thiên tài tâm linh, hòa hợp tâm hồn và thể xác. Một con người mạnh mẽ, rắn chắc luôn hoạt động cả trong suy nghĩ và hành động. “Chính chúng ta phải là sự thay đổi mà chúng ta muốn thấy trên thế giới”. Với tư tưởng đột phá ấy Mahatma Gandhi đã trở thành một thiên tài cách mạng tinh thần

Người có thể cho chúng ta nhiều lựa chọn. Gandhi - người đầu tiên tiến hành cuộc cách mạng chính trị thành công mà không cần tới vũ lực, đã thay đổi thế giới bằng sức mạnh mà ông gọi là “Quyền lực tâm linh”. Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu. Từ đó chúng ta học được nhiều điều.


Bằng quyền lực tâm linh Gandhi giành được độc lập cho Ấn Độ từ tay thực dân Anh năm 1947. Chiến lược đối kháng thụ động hay phòng thủ không vũ lực chưa từng có trước đây của ông tôn vinh lý tưởng chân lý và bất bạo lực, thậm chí bao gồm cả khả năng yêu thương kẻ thù. Triết lý thiết thực và những cuộc biểu tình khôn khéo của Gandhi đã gây ảnh hưởng tới các nhà lãnh đạo vĩ đại như Martin Luther King, Nelson Mandela, Dalai Lama và nhiều người khác.

Là một nhà lãnh đạo phong trào bất bạo động, Martin Luther King (1929-1968) nhấn mạnh: “Gandhi có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử nâng lòng kính Chúa lên trên sự tương tác giữa các cá nhân quyền lực và lực lượng xã hội trên một phạm vi rộng lớn.” Về con người cá nhân, Gandhi là một tấm gương cho tất cả những người đang tìm kiếm Tự Do trong tâm thứcSức Mạnh Tâm Linh trong cuộc sống thường ngày.

Gandhi sinh năm 1869 trong một gia đình thương nhân có tiếng nói chính trị lớn tại Porbandar - Ấn Độ. Gia đình theo Ấn Độ giáo nên Gandhi được học đạo từ nhỏ, thấm đẫm phẩm hạnh cao đẹp. Cậu bé Gandhi được ghi nhận là “Thần đồng đức hạnh”. Cậu vô cùng nhạy cảm về lòng tốt, biết tự mình chuyển biến hành động xấu thành tốt. 
Trong cuốn tự truyện “Trải nghiệm chân lý” Gandhi viết: “Một thứ ăn sâu trong tôi, đó là niềm tin vững chắc rằng đạo đức là nền tảng của vạn vậtchân lýcốt lõi của đạo đức. Chân lý trở thành mục tiêu duy nhất của tôi. Tầm quan trọng của nó ngày càng lớn và định nghĩa mà tôi đưa ra cũng trở nên rộng lớn chưa từng có”.


Trong một lần chống lại phương pháp ăn chay của bố mẹ, chàng Gandhi bí mật ăn thịt dê cùng một người bạn theo đạo Hồi. Đêm đó, anh gặp ác mộng, mơ thấy một chú dê đang kêu “be, be” trong bụng. Mặc dù vẫn cố chấpăn thịt vài lần trong năm tiếp theo, nhưng cuối cùng chàng tự nhận ra việc lừa dối bố mẹ còn tồi tệ hơn việc không ăn thịt. Gandhi viết:“Nói dối là không tốt” và nhận ra “Chính điều này đã cứu tôi thoát khỏi nhiều cạm bẫy”.

Năm 1883, Gandhi cưới Kasturbai khi cả hai mới mười ba tuổi. Đó là cuộc tảo hôn, mai mối, nhưng Gandhi rất yêu vợ. Bà sinh cho ông bốn người con trai và luôn ủng hộ ông trong suốt cuộc đấu tranh giành độc lập và phát triển năng khiếu bản thân. Tuy nhiên sau đó ông phản đối công khai việc hôn nhân theo sắp đặt. Ông viết: “Tôi không hề thấy đạo đức nào ủng hộ việc tảo hôn phi lý này”.

Năm 1887, gia đình miễn cưỡng để Gandhi rời Ấn Độ sang London học luật. Mẹ ông bắt ông phải thề không đụng tới thịt, rượu và đàn bà ở đó. Ông gia nhập Hội người ăn chay London. Trở về Ấn Độ, Gandhi hành nghề luật sư. Năm 1893, ông bỏ nghề luật sư giàu có ở Bombay, đến Nam Phi sống với một bảng một tuần. Ông đi du lịch từ Pretoria, người ta yêu cầu ông phải rời khỏi toa hạng nhất chỉ vì ông không phải người da trắng. Ông không chịu chuyển sang toa dưới, bị người ta đẩy xuống tàu. Ông đã sống ở Nam Phi trong 21 năm sau đó để chống chính sách kỳ thị chủng tộc.

Tuổi thơ Gandhi là cậu bé nhút nhát. Học trung học, cậu luôn sợ những học sinh nhỏ bé hơn mình. Người vú nuôi Rambha đã đưa ra một lời khuyên làm thay đổi cuộc đời Gandhi. Bà nói: “Việc con sợ là không sai, nhưng khi con sợ một cái gì đó, thay vì bỏ chạy, con hãy đứng yên, và đọc đi đọc lại câu thần chú “Rama, Rama”. Khi đó, nỗi sợ hãi sẽ tan biến.”

Hãy giữ chặt tâm trí và trái tim tôi.

Cách tiếp cận tôn giáo của Gandhi âm vang đến ngày nay. Việc theo đuổi ngành luật không cản trở sự phát triển tinh thần của Gandhi. Ông nghiên cứu các tôn giáo hàng đầu trên thế giới và những điều luật của chúng để tìm ra mối liên hệ và điểm chung trong các tôn giáo khác nhau. Khả năng kết hợp các tôn giáo hoàn toàn khác biệt nhau như: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, đạo Do Thái, đạo Hồi, và Ấn Độ giáo, đã góp phần tạo nên Gandhi - Một thiên tài tâm linh.

Ông dành cả cuộc đời để theo đuổi, áp dụng sự uyên thâm, và những tư tưởng đầy tính thuyết phục của các tôn giáo này vào chính trị và xã hội. Gandhi viết: “Điều mà tôi mong muốn đạt được là phát triển năng khiếu bẩm sinh để được gặp Chúa. Toàn bộ các bài viết, bài diễn thuyết và tất cả những việc tôi làm trong lĩnh vực chính trị, đều nhằm đến kết quả cuối cùng này.” Gandhi nhận ra rằng tình yêu, lòng khoan dunglòng trắc ẩn đều hiện diện trong trái tim của mỗi con người, bất kể tín ngưỡng nào. Ông thấy điều này thể hiện trong đoạn kinh của đạo Hindu:

Một bát nước mang lại một bữa ăn thịnh soạn
Một lời chào tạo nên lòng nhiệt huyết
Một mẩu bút chì đơn giản có thể đem lại thỏi vàng thoi
Do đó, từng lời nói, từng hành động quan tâm
Từng cử chỉ giúp đỡ nhỏ cũng có giá trị gấp mười lần
Nhưng một người quý tộc
Thật sự hiểu rằng tất cả mọi người đều như nhau
Sẽ đem lại niềm vui sau những tai ương đã xảy ra.

Đức tin của Gandhi chặt chẽ, thuyết phục. Lương tâm trong sáng của ông luôn song hành với một ý chí không thể bị khuất phục. Một phụ tá thân cận của ông nói: “Hầu hết mọi người đều nghĩ một đằng, nói một nẻo và làm một kiểu khác. Nhưng Gandhi thì không như vậy. Ông nói những gì mình tin và thực hiện những gì mình nói, nên tâm hồn, trí tuệ và thân xác của ông hòa làm một”. Ông là một khối sức mạnh nội tâm vững vàng “Hãy giữ chặt tâm hồn và trái tim tôi”.

Tâm hồn vĩ đại
Rabindranath Tagore (1861- 1941) nhà thơ Ấn Độ đoạt giải Nobel gọi Gandhi là “Mahatma” với ý nghĩaTâm hồn vĩ đại. Một tâm hồn cao đẹp và khả năng kết hợp chân lý của mọi tôn giáo trên thế giới. Sự tận tâm giúp đỡ, lòng vị thacầu nguyện của Gandhi được rèn luyện từ gia đình theo văn hóa Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo coi giúp đỡ người khác là niềm hạnh phúc và được khai sáng. Tagore nói: “Tôi tỉnh dậynhận ra sống là để giúp đỡ người khác. Tôi đã hành động và coi đó là niềm hạnh phúc”.

Gandhi nhận ra rằng tình yêu, lòng khoan dunglòng trắc ẩn, đều hiện diện trong trái tim của mỗi người, bất kể tín ngưỡng nào. Bằng cách gỡ bỏ nguyên tắc đạo đức hàng đầu của mình ra khỏi những hạn chế của bất cứ tôn giáo nào, cuộc khảo sát của ông trở thành một sứ mệnh tinh thần thực sự, vượt qua mọi biên giới tôn giáoTrung tâm tư tưởng không bạo lực, không sát sinh của Gandhi có nguồn gốc từ quan niệm cho rằng toàn bộ cuộc sống của chúng ta được đan dệt trong tấm thảm tình yêu. Ông viết: “Không bạo lực thì không có bệnh tật trong cuộc sống. Do đó không bạo lực là thể thức đem lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống. Đó là tình yêu tinh khiết. Tôi đã đọc được điều đó trong Kinh thánh Ấn Độ giáo, Kinh Phúc Âm, Kinh Koran”.

Với mong muốn dành Tự do cho Ấn Độ, Gandhi trở lại Ấn Độ vào năm 1914, nhanh chóng giữ vai trò lãnh đạo Liên hiệp tự trị toàn Ấn Độ, trở thành lãnh tụ Quốc dân đại hội Ấn Độ. Ông tổ chức các chiến dịch bất phục tùng trong nước dựa trên phương thức bất bạo động. Ông nhiều lần bị thực dân Anh bắt tù. Thảm kịch xảy ra khi Gandhi bị ám sát tại Delhi ngày 30 tháng 1 năm 1948, do một môn đồ Hồi giáo cực đoan. Trước khi nhắm mắt, Gandhi đã gọi tên Thượng đế. Sau cái chết của Gandhi, Tổng thống Ấn Độ Jawaharlal Nerhu đến Princeton thăm Albert Einstein. Hai người thảo luận về sự tồn tại song song nghịch lý giữa sự phát triển bom nguyên tử và sự phát triển tư tưởng Gandhi.

Einstein bình luận: “Gandhi đã chứng minh việc tập hợp thành công sức mạnh quần chúng không thể bằng cách sử dụng các thủ đoạn chính trị xảo trá, khéo léo, thông thường mà phải bằng tấm gương đạo đức cao đẹp giàu tính thuyết phục. Trong thời đại đạo đức suy đồi ngày nay, ông là một chính khách chân chính, bảo vệ cho quan hệ nhân văn giữa người với người trong lĩnh vực chính trị… Cho đến nhiều thế hệ sau, người ta không thể tin rằng một con người bằng da bằng thịt như vậy đã bước đi trên trái đất này”.

Gandhi đã sống với một hình mẫu khắt khe của “đại số học đạo đức”. Sự tận tâm giúp đỡ, lòng vị thacầu nguyện của Gandhi được rèn luyện trong môi trường gia đình. Ấn Độ giáo coi việc giúp đỡ người khác là niềm hạnh phúc và được khai sáng. Trong triết lý của Gandhi, sự giúp đỡ xuất phát từ đáy lòng, là niềm vui sướng tột đỉnh và là bí mật của sự phát triển năng khiếu bản thân. Ông viết: “Nếu tôi bị cuốn hút vào sự giúp đỡ cộng đồng thì lý do ẩn sau chính là sự khát khao được thấu hiểu. Tôi tạo ra tôn giáo của sự giúp đỡ vì tôi cảm thấy người ta chỉ nhận thấy Chúa thông qua sự giúp đỡ”. Với ông, lòng vị thasức mạnh “Tha thứ là đức tính của người mạnh mẽ”.

Gandhi học được tính vị tha từ cha mình. Ông kể: “Tôi đã lấy trộm một thứ đồ của cha và phải chịu day dứt, ân hận đau đớn. Tôi quyết định viết lời thú tội nộp cha để xin ông tha thứ. Tôi hứa từ nay sẽ không bao giờ ăn trộm nữa. Tôi tự tay đưa tờ giấy cho cha. Cha tôi đọc, những giọt nước mắt lăn trên má, rơi xuống làm ướt tờ giấy. Ông nhắm mắt lại trong giây lát và suy nghĩ. Ông ngồi xuống và đọc. Tôi thấy sự đau đớn tột cùng của cha. Tôi khóc. Hai cha con cùng khóc. Những giọt nước mắt của tình yêu đã thanh lọc trái tim tôi và xua tan bóng mây tội lỗi. Chỉ có ông, người có tình yêu ấy, mới biết nó là cái gì”.

“Những kẻ yếu đuối không biết tha thứ
Tha thứ là đức tính của người mạnh mẽ”
(Mahatma Gandhi)

Gandhi tôn thờ sức mạnh của cầu nguyện.
Ông nói: “Việc cầu nguyện đã cứu vớt cuộc sống của tôi… Tôi đã chia sẻ trải nghiệm cay đắng nhất của bản thân và của cộng đồng. Họ ném tôi vào tận cùng tuyệt vọng. Tôi thoát ra được nỗi tuyệt vọng đó là nhờ cầu nguyện. Khi tôi đau khổ, chỉ có cầu nguyện mang lại niềm vui cho tôi”. Với ông, cầu nguyện là chất xúc tác của “quyền lực tâm linh” và là công cụ quan trọng nhất của hành động. Ông viết: “Sự thỉnh cầu, sùng báicầu nguyện không phải là mê tín dị đoan. Đó là những hành động thực tế hơn cả hành động ăn, uống, ngồi hoặc đi. Cầu nguyện thành tâm có thể gặt hái được những thứ mà không điều gì khác trên thế giới này có thể làm được.”

Bất bạo lực
Lòng vị tha, sự giúp đỡ và cầu nguyện của Gandhi được thể hiện ra trong triết lý chính trị về đối kháng thụ động hay đấu tranh hòa bình của ông. Cuộc đụng độ định mệnh trên chuyến tàu tới Pretoria mà sau đó ông đã quyết lưu lại hai mươi năm ở Nam Phi. Sau này ông viết về ngày hôm đó: “Tôi bắt đầu suy nghĩ về nhiệm vụ của mình. Thật là hèn nhát khi trở lại Ấn Độ mà chưa làm tròn bổn phận của mình. Thử thách thật sự nằm trong căn bệnh phân biệt sắc tộc ăn sâu, bào mòn trong suy nghĩ của con người. Tôi phải cố gắng triệt tận gốc căn bệnh này.”

Trung tâm của học thuyết Gandhi là khái niệm không sát sinh hay không bạo lực. Nó có nguồn gốc từ quan niệm cho rằng toàn bộ cuộc sống của chúng ta được đan dệt trong tấm thảm tình yêu. Ông viết: “Không bạo lực thì không còn bệnh tật trong cuộc sống. Do đó không bạo lực là thể thức đem lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống. Đó là một tình yêu tinh khiết. Tôi đã học được điều đó trong Kinh thánh Ấn Độ giáo, Kinh Phúc Âm, Kinh Koran”.

Trong cuộc đấu tranh giành Quyền và Lợi cho người dân, với thực dân Anh ở Ấn Độ, Gandhi hướng dẫn nhân dân Ấn Độ tự lực. Ông chủ trương phát cho mỗi người một guồng xe sợi (charkha), để họ tự dệt áo, tự trồng cấy chăn nuôi, tự cứu sống mình bằng lao động. Sự kiện này gây chấn động chính trị, vì Gandhi dùng biện pháp này để phản đối chính sách bài trừ ngành công nghiệp may Ấn Độ của thực dân Anh. Ông đứng đầu cuộc biểu tình đốt quần áo do người Anh sản xuất. Charkha trở thành biểu tượng tượng trưng cho lối sống truyền thống của người Ấn Độ. Biểu tượng này được đưa vào lá cờ của Quốc dân Đại hội Ấn Độ. Nó có sức mạnh tập hợp nhân dân Ấn Độ đứng lên chống lại thực dân Anh.

Nhưng Charkha ông chỉ đơn giảnbiểu tượng chính trị. Nó thể hiện tinh thần thực tiễn của Gandhi. Ông cho rằng việc ngồi xe sợi là một cơ hội để suy ngẫm. Người ta thường thấy hình ảnh ông ngồi bên guồng xe sợi. Ý nghĩa của việc mặc áo tự dệt là đạo đức nguyên thủy của con người với tinh thần độc lập tự chủ trong cuộc sinh tồn. Năm 1945, trong thư gửi Nerhu, Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ độc lập, Gandhi nhấn mạnh biểu tượng Charkha mà mình chọn: “Tôi thấu hiểu rằng nó không nằm ngoài chân lýbất bạo động. Chúng ta có thể nhận ra chân lýbất bạo động trong sự giản dị của cuộc sống. Sự giản dị này được thể hiện đậm nét qua hình ảnh guồng xe sợi và tất cả những hàm ý khác. Con người nên tự tạo ra những gì mà mình thật sự cần hay nói cách khác là tự cung cấp”. (Sách Khám phá Thiên Tài… của Michael J. Gelb- NXB Lao động- Xã hội- 2008)

Sự khai sáng mà Gandhi theo đuổi buộc ông phải luyện tập một chế độ ăn kiêng ngặt nghèo, nhằm kiểm soát cơ thể, biến đổi năng lượng của ham muốn, thông qua việc tự thanh lọc và phát triển năng khiếu bản thân. Điều này bao gồm cả lời thề sống độc thân, bởi vì “không thể trong sạch khi vẫn còn nhục dục” và ông nghiêm khắc thực hiện chế độ ăn kiêng.

Cách tiếp cận thế giới tâm linh của Gandhi vẫn âm vang tới tận ngày nay: “Có rất nhiều cách định nghĩa Thượng đế bởi vì Ngài có rất nhiều cách thể hiện. Những định nghĩa ấy làm tôi liên tục ngạc nhiên, sợ hãi và choáng váng. Nhưng tôi chỉ tôn kính Ngài như một chân lý. Tôi chưa từng thấy Ngài, nhưng tôi đang tìm Ngài. Tôi sẵn sàng cống hiến những gì quí báu nhất để đi tìm. Ngay cả sự cống hiến đòi hỏi sinh mệnh của tôi thì tôi cũng sẵn lòng dâng hiến”.

Với mong muốn giành tự do cho Ấn Độ như đã công bố trước công chúng năm 1908, Gandhi trở lại Ấn Độ năm 1914 và nhanh chóng giữ vai trò lãnh đạo Liên hiệp tự trị toàn Ấn Độ, trở thành lãnh tụ Quốc dân Đại hội Ấn Độ. Từ năm 1920 trở đi ông tổ chức các chiến dịch bất phục tùng trong nước dựa trên phương thức bất bạo động. Triết lý của Gandhi có ảnh hưởng sâu sắc tới các phong trào chính trị hiện đại, đặc biệtphong trào vận động quyền công dân của Mỹ do Tiến sĩ Martin Luther King lãnh đạo. Ông nói: “Trong đời mình, Gandhi có thể huy động và kích động một lực lượng mạnh hơn bất kỳ ai trong lịch sử. Và chỉ với tình yêu, sự hiểu biết, thiện chí và sự khước từ những luật lệ tàn ác, ông có thể bẻ gãy sức mạnh của đế chế Anh. Đây là một trong những điều ý nghĩa nhất từng xảy ra trong lịch sử thế giới. Hơn ba trăm triệu người đã giành được tự do mà không phải đổ máu”.

Mai Thục.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 131)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 191)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 281)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 193)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 241)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 243)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 257)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 290)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 367)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 602)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 459)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 478)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 569)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 821)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 851)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 836)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 729)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 708)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 711)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 832)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 935)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 609)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 705)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 822)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 707)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 706)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 821)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 847)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 823)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 884)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 951)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1652)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1065)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 954)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1210)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1122)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1276)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1545)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2024)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1093)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1095)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 944)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1062)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1092)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1524)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1277)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1287)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant