Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), PTVN đã gặp sư Phước Nhân, một hành giả giỏi pháp hành của thiền viện Phước Sơn để xin sư nói
rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
Supanna: Xin sư cho biết thiền định là gì ?
Sư Phước Nhân: Thiền định( Samadhi) là phương pháp gom tâm trụ nó vào một đề mục cố định để giữ cho tâm được vắng lặng. Thiền định có 40 đề mục chia thành nhiều nhóm và hành giả có thể chọn bất cứ đối tượng nào trong các nhóm đó để hành tập, nếu nói hết thì rất dài nên sư xin trình bày sơ lược. Muốn tu tập thiền định, hành giả có thể trụ tâm vào một trong những đề mục như màu trắng, xanh, vàng, đỏ, ánh sáng, hư không, đất, nước, gió, lửa… hoặc niệm ân Đức Phật, Pháp và Tăng.Ghi nhận hay biết mọi đối tượng xảy ra trong thân và tâm có nghĩa là hành giả đang sống trong giây phút hiện tại. Sống trong giây phút hiện tại giúp cho hành giả luôn giữ tâm trong thân, không cho tâm phóng ra ngoài thân.
Quan sát tỉ mỉ như vậy sẽ giúp hành giả thấy rõ bản chất của các pháp là luôn sanh khởi và hoại diệt do có điều kiện và như vậy sẽ tạo điều kiện cho trí tuệ Minh sát dễ dàng phát triển. Khi tuệ Minh sát phát triển mạnh, thì phiền não và tham ái sẽ giảm dần.Nguồn: http://phattuvietnam.net/tuhoc/vipassana/7723.html
Một bài viết tiếp theo của Supana đăng trên trang Phật tử Việt Nam:
http://phattuvietnam.net/tuhoc/vipassana/8061.html
Giải đáp thêm một số thắc mắc về thiền Tứ Niệm Xứ
Supanna
Sư Phước Nhân, thiền viện Phước Sơn, giải đáp thêm một số thắc mắc về thiền Tứ Niệm Xứ
Supanna: Để hành thiền Vipassana, bước đầu hành giả phải tu chỉ để đạt tới cận định nhằm gom tâm. Để tu chỉ, hành giả hoặc hành số tức quan, hoặc theo dõi hơi thở ra vào qua cửa mũi và niệm thầm “vào, ra”, hoặc theo dõi bụng phồng, xẹp khi thở vào, thở ra và niệm thầm “phồng, xẹp”. Nhiều hành giả, sau khi thực hành chỉ một thời gian, vẫn không biết khi nào là thời điểm thích hợp để có thể chuyển qua tu quán do “công phu” đã chín muồi. Xin sư giải thích cho đọc giả phattuvietnam rõ khi đạt tới cận định, trạng thái tâm của hành giả sẽ như thế nào.
Sư Phước Nhân: Cận có nghĩa là gần. Tu tập đến cận định có nghĩa là hành giả chưa đạt tới định nhưng đã gần tới định. Khi đạt tới cận định, hành giả sẽ thấy tâm của mình an bình và tĩnh lặng, do đó hành giả có thể an trú tâm trên một đề mục vài phút rồi phóng đi một chút, rồi tâm lại quay trở lại an trụ tiếp trên đề mục một vài phút rồi lại phóng đi một chút, cứ tiếp tục như vậy. Tuy nhiên, khi phóng tâm mà hành giả biết tâm đang phóng có nghĩa là hành giả đã có cận định và sát na định. Đạt tới một trạng thái tâm ổn định như vậy thì coi như hành giả đã đủ điều kiện để chuyển qua tu vipassana hay tu quán.
Muốn chuyển qua tu quán, hành giả phải làm như thế nào?
Nếu người tu tập số tức quan thì bỏ đếm số, bắt đầu để tâm vào một điểm ở cửa mũi và tập quan sát cảm giác khi hơi thở đi ngang qua và xúc chạm vào điểm hành giả mà đặt tâm vào đó để quan sát. Hành giả sẽ cảm thấy sự rung động của hơi thở khi đi ngang qua điểm xúc chạm này, hoặc hơi thở khi thở vào đi ngang qua điểm xúc chạm này thì lạnh nhưng khi thở ra thì ấm hơn.
Tương tự, các hành giả theo dõi hơi thở vào, ra qua cửa lỗ mũi và niệm thầm “vào, ra” để trụ tâm thì bỏ niệm, thầm “ vào, ra” mà tập quan sát cảm giác hơi thở khi đi ngang qua điểm xúc chạm y như hành giả tu số tức quan. Đây là giai đoạn mà hành giả bỏ thế giới của tục đế để tiến vào thế giới của chân đế.
Hãy nhớ là đặt tâm tại một điểm ở cửa mũi và quan sát từ đoạn đầu đến đoạn cuối hơi thở khi đi vào, đi ra tại điểm xúc chạm ở cửa mũi ra chứ không phải theo dõi toàn thân hơi thở đi qua cửa mũi bằng cách tưởng tượng hơi thở bắt đầu từ một điểm ở bên ngoài cơ thể (đoạn đầu) tiến vào đoạn giữa là ở cửa mũi và đoạn cuối là đi vào bên trong cơ thể và do vậy mà theo dõi nó đi từ bên ngoài cơ thể, đi qua mũi rồi đi vào bên trong cơ thể. Việc quan sát hơi thở đi qua điểm xúc chạm ví như người thợ cưa, cưa một khúc gỗ. Trước khi cưa, ông ta dùng phấn vẽ một vòng quanh khúc gỗ để làm dấu; khi cưa, ông ta sẽ lái lưỡi cưa theo vạch phấn để tránh cho lưỡi cưa khỏi bị lệch. Có nghĩa là, khi cưa, người thợ cưa phải chú tâm vào nơi lưỡi cưa tiếp xúc với vạch phấn chứ không phải theo dõi lưỡi cưa chạy tới chạy lui.
Với các hành giả theo dõi bụng phồng xẹp thì bỏ niệm “phồng, xẹp” mà theo dõi cảm giác chuyển động của bụng để qua đó thấy thân được cấu tạo bằng bốn nguyên tố đất, nước, gió, lửa:
- Sự căng cứng của bụng tượng trưng cho nguyên tố đất
- Sự lay động, căng phồng của bụng tượng trưng cho nguyên tố gió
- Nóng và lạnh tượng trưng cho nguyên tố lửa
- Cảm giác trì trì, quến hút tượng trưng cho nguyên tố nước.
Tương tự như vậy, trong khi thiền toạ, thiền hành hoặc sinh hoạt hàng ngày, hành giả sơ cơ khi nghe tiếng động, mới đầu niệm “nghe, nghe”, khi ngửi thấy mùi, niệm “ngửi, ngửi”, khi ngứa niệm “ngứa, ngứa” nhưng khi theo dõi và ghi nhận các đề mục thuần thục rồi, hành giả phải bỏ niệm thầm đi để tập ghi nhận các sinh hoạt trong thân và tâm qua sự cảm nhận trực tiếp (trực giác) . Thí dụ, khi nghe tiếng động, hành giả không niệm “nghe, nghe” mà cảm nhận trực tiếp âm thanh của tiếng động đó (chỉ hay biết đó là tiếng động) đập vào tai. Tương tự như vậy đối với nhìn, cảm giác nóng, lạnh, ngứa v.v… và v.v…
Sư nói sự căng cứng, lay động, cảm giác căng phồng v.v.. của chuyển động của bụng phồng, xẹp, con nghĩ đọc giả còn thể hình dung được, nhưng đọc giả khó có thể khó hình dung được sự trì trì, quến hút của nguyên tố nước. Sư có thể cho một vài thí dụ để làm rõ không ạ?
Việc thấy được bốn đại là tuỳ duyên của mỗi hành giả. Người thuận về đại nào sẽ thấy đại đó nhiều hơn. Thí dụ người thuận về nguyên tố gió sẽ thấy thân mình lay động, căng phồng, rung, lắc…; người thuận về nguyên tố lửa sẽ thấy trong cơ thể có cảm giác khi nóng, khi lạnh; người thuận về nguyên tố đất thì thấy một phần của cơ thể bụng, hai chân, hai mông, cần cổ hoặc thân mình (cột sống)… cứng ngắc, tương tự như một khúc gỗ. Nguyên tố nước rất khó thấy. Hành giả hành thiền tới một giai đoạn nào đó có thể thấy toàn thân của mình như một dạng tinh thể lỏng, một chất lỏng sền sệt hoặc một thứ bột nhão đang vận hành.
Nếu hành giả quan sát bụng phồng xẹp có thể thấy được tứ đại: bốn nguyên tố đất, nước, gió, lửa hợp thành tấm thân ngũ uẩn này, thì người theo dõi cảm giác rung động của hơi thở qua điểm xúc chạm ở cửa mũi sẽ thấy được gì qua sự quan sát hơi thở của họ?
Các hành giả theo dõi cảm giác rung động của hơi thở khi đi qua điểm xúc chạm ở cửa mũi cũng thấy được tứ đại y như vậy. Nói một cách cụ thể thì hành giả sẽ thấy được nguyên tố gió khi theo dõi cảm giác rung động của hơi thở khi ra, vào tiếp xúc vào điểm xúc chạm tại cửa mũi. Thấy hơi thở khi thở vào khi đi qua điểm xúc chạm mát mát, thở ra ấm hơn là nguyên tố lửa, Khi quan sát vùng xung quanh lỗ mũi hoặc vành mũi, hành giả sẽ thấy cảm giác căng cứng, đó chính là nguyên tố đất.
Riêng đối với nguyên tố nước, hành giả theo dõi hơi thở vào, ra qua cửa mũi, sau một thời gian hành thiền cũng có thể thấy được toàn thân của mình như một dạng tinh thể lỏng, một chất lỏng sền sệt, hoặc một thứ bột nhão đang vận hành, y hệt như người theo dõi hơi thở qua bụng phồng, bụng xẹp.
Như vậy, khi hành giả hành thiền Vipassana, hành giả không những thấy được sinh hoạt của bốn nguyên tố đất, nước, lửa, gió qua sự rung động của hơi thở hoặc qua cảm giác chuyển động ở bụng mà còn chứng nghiệm được điều này bằng cách quan sát các pháp sinh hoạt trong thân?
Đúng vậy, khi hành thiền Vipassana, hành giả nhìn vào thế giới nhỏ bên trong thân (sắc) và tâm (danh) nhằm quan sát trong chánh niệm và tỉnh giác để thấy sự sinh hoạt của danh sắc y như ngồi xem một vở kịch hoặc một cuốn phim.
Thưa sư, quan sát trong sự chánh niệm là sao?
Có nghĩa là hành giả phải giữ tâm quân bình để quan sát các pháp đang vận hành y như nó là, nhìn thấy sao biết vậy, không thêm, không bớt, không phê phán, đánh giá, so sánh, không thắc mắc tại sao.
Việc quan sát này tương tự như việc sử dụng ống nhòm để quan sát. Người bình thường dùng ống nhòm để quan sát cảnh vật, khi cảnh đẹp thì họ khen, khi cảnh xấu thì họ chê vì họ quan sát với tâm so sánh, phân tích, phê phán hoặc đánh giá. Hành giả Vipassana thì phải đóng vai trò của cái ống nhòm. Cái ống nhòm nó chỉ làm chức năng quan sát của nó. Cảnh sao ghi nhận đúng y như vậy, không khen, không chê. Nếu hành giả quan sát các pháp đang sinh hoạt mà khởi tâm đánh giá, khen chê, phê phán, chạy theo hoặc xua đuổi đối tượng trong khi hành thiền thì phiền não sẽ sinh khởi ngay trong thời điểm đó. Hành giả phải luôn nhớ rằng đối tượng xấu hay đẹp không quan trọng vì chúng chỉ là các đề mục để cho chúng ta quan sát, cái quan trọng làm thế nào để giữ cho trí nhớ ghi nhận hay biết được liên tục, không bị gián đoạn trong khi quan sát để phát triển trí tuệ minh sát.
Như vậy, hành giả Vipassana chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là hay biết, ghi nhận và quan sát các pháp sinh hoạt trong thân và tâm trong chánh niệm và tỉnh giác?
Đúng vậy, hành giả phải quan sát các pháp đang vận hành trong thân và tâm trong chánh niệm và tỉnh giác để biết rõ bản chất của chúng là sanh khởi và hoại diệt do có điều kiện.
Nếu chỉ đơn thuần quan sát các pháp sanh, diệt làm sao có thể đạt tới Giải thoát – Niết bàn?
Quan sát các pháp vận hành với tâm ghi nhận hay biết liên tục, không gián đoạn, một khi chánh niệm đầy đủ, sắc bén, thì trí tuệ hay biết sẽ bật ra để cho hành giả biết đáp số. Đáp số ở đây có nghĩa là hành giả sẽ thấy những gì hành giả chứng nghiệm được không chút gì sai khác với lời dạy của Đức Phật trong Kinh Đại Niệm Xứ và các chú giải của Kinh. Rất nhiều hành giả hành thiền Tứ Niệm Xứ, khi thấy được các pháp sanh diệt đúng như lời Đức Phật dạy, họ hoan hỉ đến nỗi ngưng hành thiền, thốt lên Sadhu! Sadhu! Sadhu! (Lành thay! Lành thay! Lành thay!) và đảnh lễ Đức Phật nhằm tán thán công ơn cũng như trí tuệ siêu việt của Ngài.
Điều này cũng giúp cho chúng ta hiểu được lời của Đức Phật dạy, “ Ai sống một trăm năm không thấy pháp sanh diệt, không bằng sống một ngày thấy được pháp diệt sanh.”
Một số hành giả khi đi thiền hành theo thiền chỉ, đặt tâm nơi chân trái, khi chân trái bước lên, họ ghi nhận trái bước, sau đó đặt tâm bên chân phải, khi chân phải bước lên thì lại ghi nhận phải bước, cứ thế mà tiếp tục phải bước, trái bước, đi cả tiếng đồng hồ cũng không sao, nhưng khi chuyển qua đi thiền hành theo quán, nghĩa là khi đi ghi nhận sự chuyển động của các bắp thịt ở hai chân, chuyển động của hai cổ chân, và cảm giác nóng, lạnh, cứng, mềm, khô, ướt của sàn nhà khi đặt bàn chân lên trên đó thì chỉ cần đi 15’ là họ cảm thấy rất buồn ngủ, họ ghi nhận buồn ngủ và tiếp tục đi, nhưng chẳng bao lâu sau họ đành phải bỏ cuộc vì quá buồn ngủ, họ đi chân trái đá qua chân phải. Làm sao khắc phục được tình trạng này?
Đây là trường hợp hành giả chú tâm quá sâu vào đối tượng nên định dư làm cho ngũ căn và ngũ lực mất quân bình. Để hết buồn ngủ, hành giả nên thư giãn và nâng tinh tấn lên. Hành giả hãy luôn nhớ rằng đi thiền hành chỉ là đi thiền hành thôi, đi biết đi, khi đi ghi nhận các pháp sinh hoạt trong và ngoài thân (thấy, nghe, ngứa, xúc chạm…) một cách tự nhiên, thấy sao biết vậy, không nên tìm kiếm đối tượng.
Một số nguyên tắc hành giả cần phải nắm rõ khi hành thiền (thiền hành, thiền toạ và sinh hoạt hàng ngày) là:
- Hành giả để cho các pháp đến một cách tự nhiên rồi quan sát chúng, nếu tìm kiếm đối tượng, hành giả đang hành thiền với tâm tham.
- Hành giả cũng không nên sợ hãi trốn chạy hoặc lạnh lùng xua đuổi đối tượng vì như vậy hành giả đang hành thiền với tâm sân.
- Nếu đối tượng đến, hành giả không biết; đối tượng ra đi, hành giả cũng không hay , đó là hành giả đang hành thiền với tâm si.
Khi hành giả thấy rõ, biết rõ những gì đang sanh khởi ngay trong giây phút hiện tại, có nghĩa là hành giả đang hành thiền bằng chánh niệm và trí tuệ.
Đức Phật đưa ra bốn xứ: thân, thọ, tâm, pháp để làm nền tảng quan sát nhằm phát triển trí tuệ minh sát, đưa đến giác ngộ. Hành giả khi tu tập phải quan sát hết bốn xứ, hay có thể, tuỳ theo căn tính của mỗi người, mà chọn một trong bốn xứ để tu?
Hành giả có thể chọn một trong bốn xứ để quan sát, tuỳ theo căn tánh của mình.
- Hành giả có trí tuệ mạnh mẽ, có nhiều tà kiến thì thuận về niệm pháp.
- Hành giả kém trí tuệ kém, có nhiều tà kiến thuận về niệm tâm
- Hành giả có trí tuệ mạnh mẽ, có nhiều tham ái; thuận về niệm thọ
- Hành giả kém trí tuệ, có nhiều tham ái; thuận về niệm thân
Tuy nhiên, bước đầu, các hành giả phải nương vào thân để phát triển tâm.
Một số hành giả hành tập Vipassana, khi mới vừa thấy pháp vận hành thân bị rùng lên, thậm chí rung, lắc lư, co giật, xoay, hoặc vặn vẹo tay chân… mà họ không thể làm chủ được. Đây có phải là một hiện tượng không bình thường không ? – Có nghĩa là hành giả đã hành sai. Nếu gặp trường hợp này, hành giả có nên tiếp tục hành thiền nữa không?
Đây là một hiện tượng khá phổ biến, nhưng không phải hành giả nào cũng gặp phải. Đây là trường hợp các pháp hữu vi trong thân (các hành hoặc sankhara) sanh lên. Do ban đầu, chánh niệm hành giả còn yếu ớt nên các pháp này xuất hiện dưới dạng thô. Nếu hành giả tiếp tục hành tập, phát triển chánh niệm, tỉnh giác mạnh mẽ hơn thì các pháp này sẽ trở nên vi tế hơn và từ từ diệt mất.
Có các sankhara thân, vậy thì có các sankhara tâm không, thưa Sư?
Có. Đó là phiền não tham, sân, si ( đố kỵ, ganh tỵ, bỏn xẻn, keo kiệt, tham, sân, si,ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, vô tàm vô quý (không biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi) hôn trầm và phóng dật)). Các trạng thái tâm này thỉnh thoảng cũng xuất hiện trong quá trình hành giả hành thiền. Tương tự như các sankhara thân, lúc ban đầu, khi hành giả chánh niệm còn yếu ớt, chúng sẽ xuất hiện dưới dạng thô (chẳng hạn trong sinh hoạt hàng ngày các sankhara này biểu lộ qua lời nói, cử chỉ, hành động, ánh mắt. Nếu chúng xuất hiện trong khi hành giả đang toạ thiền, nó sẽ làm cho hành giả có cảm giác sân hận, mệt mõi, chán nãn …và do vậy khó an trụ tâm nên hành giả muốn bỏ hành thiền), hành giả càng phát triển chánh niệm và tỉnh giác càng mạnh, thì các sankhara này cũng trở nên vi tế hơn và từ từ diệt mất.
Khi các sankhara thân và tâm diệt mất, thì phiền não tham, sân, si cũng bị diệt theo. Điều này cho thấy rằng, phương pháp hành tập này (thiền Vipassana) rất cụ thể và thực tế vì thân và tâm của hành giả được thực sự thanh lọc và chuyển hoá qua quá trình hành tập của tự thân nhờ vào phát triển chánh niệm và tỉnh giác chứ không phải qua cầu nguyện, cầu xin Thượng Đế hay bất cứ một vị thần linh nào.
Một số hành giả thực hành Vipassana thắc mắc rằng trong khi hành tập họ cứ đi từ tầng tuệ 4 (tuệ sanh diệt) đến tầng tuệ 11 (tuệ xả), sau đó thay vì tiến tiếp lên tầng tuệ thứ 12 thì họ lại rớt trở lại tầng tuệ thứ 4 rồi từ đây lại đi dần lên tầng tuệ 11, rồi lại bị rớt xuống tầng tuệ thứ 4 trở lại, việc này cứ lập đi lập lại nhiều lần, và họ vẫn chưa thể qua được ranh giới phàm tuệ để tiến vào thánh phạm vi của thánh đạo tuệ. Nếu coi 16 tầng tuệ Minh sát là 16 lớp thì học hết lớp này xong thì lên lớp khác, tại sao họ cứ bị rớt trở lại như vậy?
Trên nguyên tắc khi hành tập đến tuệ 11, hành giả nổ lực tinh tấn cho chánh niệm sắc bén, sít sao thì sẽ vượt qua ranh giới phàm tuệ để tiến vào thánh phạm vi của thánh đạo tuệ.
Trong trường hợp hành giả hành tập đến tuệ thứ 11 và rồi lại thấy bị rớt trở lại đó là do tinh tấn của hành giả bị tuột, hành giả không giữ được chánh niệm sít sao và do vậy chưa đạt được trạng thái chánh niệm tự động (chánh niệm liên tục, không gián đoạn).
Trường hợp này ví như hành giả là một người muốn phóng qua một cái mương khá rộng và sâu, nhưng sợ bị té, vì vậy người ấy phải chạy tới, chạy lui để lấy đà, bắt trớn mà phóng qua. Nếu chạy gần đến mép mương mà vẫn thấy chưa đủ trớn thì người ấy phải chạy lui trở lại để lấy lại đà khác, việc ấy sẽ tiếp diễn lập đi lập lại cho đến khi nào người ấy thấy mình đủ sức phóng qua mương thì lúc đó mới phóng qua. Việc hành giả phóng từ phàm tuệ sang ranh giới thánh đạo tuệ cũng tương tự như vậy.
Thưa sư, việc gì xảy ra khi hành giả đã sang tới bờ bên kia?
Khi hành giả đang phóng qua bờ bên kia có nghĩa là hành giả đang đi vào tuệ 12 và 13. Quá trình này kéo dài từ 10 đến 20 phút, tuỳ theo căn cơ của mỗi người. Khi chánh niệm vừa đủ thì tám chi của Bát Chánh Đạo đồng sanh cùng một lúc, hợp cùng với sát na tâm đạo sanh lên để sát trừ phiền não. Tâm đạo cắt đứt phiền não chỉ trong nháy mắt. Tiếp theo sau đó là tâm quả siêu thế sanh lên, lấy Niết Bàn làm đối tượng. Đây là tiến trình đắc đạo, đắc quả. Chỉ một vài sát na tâm, hành giả đã qua bờ bên kia.
Khi chánh niệm đủ, việc đắc đạo đắc quả có thể đến bất cứ giờ phút nào trên bất cứ một đề mục nào trong bốn đề mục. Một điều quan trọng hành giả cần ghi nhớ là đạo quả Niết bàn sẽ không đến với chúng ta trong khi chúng ta có lòng tham muốn.
Tuy nhiên đây chỉ đơn thuần là một kinh nghiệm. Sau khi kinh nghiệm được đạo quả, hành giả phải đợi trong nhiều năm -từ năm đến mười năm – để xem mình có vượt qua được những thử thách trong đời sống hàng ngày hay không. Có nghĩa là hành giả có giữ được năm giới trong sạch một cách tự nhiên hay không. Nếu hành giả thấy mình vẫn còn phạm giới, có nghĩa là giải thoát mà hành giả chứng đắc là ”giải thoát giả” và như vậy hành giả phải tiếp tục hành thiền để vun bồi thêm Ba la mật cho trí tuệ thật chín muồi.
Trong bài “Giải đáp một số thắc mắc về thiền Tứ Niệm Xứ, Sư có nói tuệ 13 là Gô- trá –phu hay còn gọi là tuệ chuyển tánh hay tuệ chuyển tộc. Điều này có nghĩa là hành giả sẽ thay đổi tánh tình một khi đã đắc đạo quả?
Đúng như vậy, đến tầng tuệ này, hành giả bắt đầu chuyển từ phàm sang thánh. Hành giả sẽ thấy mình là một người có đức tin mạnh mẽ, không thối chuyển về Tam Bảo và đặc biệt là về pháp hành của mình. Tâm tánh hành giả thay đổi vì thân và tâm đã trở nên nhu nhuyến hơn.
Ngài Ajahn Chah nói rằng Niết bàn là không có gì cả. Xin Sư cho biết cảm nhận của cá nhân của Sư về Niết Bàn?
Ngài Ajahn Chah nói đúng, Niết bàn không có gì cả vì Niết bàn không phải là một cảnh giới mà là một trạng thái. Niết bàn là trạng thái vô tham, nó thuộc về chân đế vô vi, trong khi tên đặt “Niết bàn” là một khái niệm thuộc về tục đế.
Nguồn: http://phattuvietnam.net/tuhoc/vipassana/8915.html
Các phật tử luôn luôn thắc mắc muốn biết Niết bàn là gì nhưng không một người chứng đắc nào mô tả nó. Nếu nó là một trạng thái của tâm, vậy tại sao lại không thể mô tả được nó một khi đã có kinh nghiệm với nó?
Không phải! Niết bàn là trạng thái vô tham, chứ không phải là một trạng thái của tâm. Niết bàn là đối tượng của tâm đạo, tâm quả siêu thế, vì vậy không thể diễn tả được trạng thái Niết bàn bằng ngôn ngữ thông thường. Ngay cả Đức Phật, Ngài cũng chỉ nói rằng Niết bàn là điều không thể nghĩ bàn.
Lấy một ví dụ trong pháp hành để bất cứ một hành giả hành thiền Vipassana có thể hình dung được. Đó là trong những lần trình pháp, hành giả thường cảm thấy rất khó hoặc hầu như bất lực trong việc dùng lời để diễn tả những pháp sanh diệt mà mình kinh nghiệm được trong quá trình hành thiền cho thiền sư của mình nghe, mặc dù nhiều lúc phải dùng cả ngôn ngữ cơ thể để phụ trợ. Lý do là dù cố gắng cách mấy đi nữa, hành giả vẫn không tìm được ngôn từ thích hợp để mô tả chính xác những gì mình muốn nói. Tại sao vậy? Vì những gì mà hành giả kinh nghiệm được trong pháp hành thuộc về chân đế hữu vi, do đó không thể dùng các khái niệm tục đế để mà diễn tả được nó. Ngay cả cái nóng, lạnh là cái rất bình thường vì ai cũng biết, nhưng cái nóng, cái lạnh mà hành giả trực nhận trong pháp hành cũng rất khác với cái nóng, cái lạnh trong đời thường. Rất may là các thiền sư đều là những người đã từng trải qua những kinh nghiệm này nên các ngài có thể nắm bắt được ngay những gì thiền sinh muốn trình bày. Điều đó cho chúng ta thấy rằng dùng các khái niệm tục đế để diễn tả các pháp thuộc về chân đế hữu vi còn khó như vậy, huống chi là để diễn tả Niết bàn, một pháp siêu thế thuộc về chân đế vô vi!
Lấy một ví dụ ở ngoài đời để những ai chưa thực hành Vipassana có thể hình dung được. Chẳng hạn có một người nước ngoài chưa hề biết trái sầu riêng và chưa hề ăn loại trái này, chúng ta mô tả làm sao đây để cho ông ta có thể hình dung được trái sầu riêng và mùi vị đặc trưng của nó? Chúng ta có thể nói nó là một loại trái có vỏ cứng và dày, có gai nhọn và dài, hình bầu dục, đường kính chừng khoảng 15- 20 cm, có mùi thơm rất nồng, khi tách ra có cơm màu vàng, có hạt bên trong, cơm của nó ăn rất béo và có vị ngọt dịu. Sau đó một thời gian, chúng ta đem trái sầu riêng thực sự đến để trước mặt ông ta, nhưng không cho ông ta biết đó là trái sầu riêng, liệu ông ta có nhận ra được đó là trái sầu riêng và mùi vị đặc trưng của nó nhờ vào sự mô tả của chúng ta trước đó hay không? Hay là dựa vào mô tả của chúng ta, ông ấy đã hình dung ra trái sầu riêng ở một dạng khác, có một mùi vị khác nên khi chúng ta đem trái sầu riêng thực lại để trước mặt ông ta, ông ấy vẫn không thể nhận ra? Cách tốt nhất để cho ông ta biết trái sầu riêng hình dạng ra sao, mùi vị như thế nào là đưa nguyên trái sầu riêng ra cho ông ta xem tận mắt và mời ông ta nếm mùi vị của nó.
Đó là lý do các thiền sư không cố gắng giải thích Niết bàn, vì sợ rằng việc dùng các khái niệm tục đế để giải thích Niết bàn một cách gượng ép chẳng những không giúp cho những người chưa qua kinh nghiệm hình dung được trạng thái Niết bàn thực sự là như thế nào mà còn tạo ra những định kiến lệch lạc trong trong tâm trí họ, khiến họ có thể bị lầm đường lạc lối khi nghĩ về nó.
Xin Sư nói rõ về các tầng đạo quả.
- Bậc thánh Tu Đà Hườn đắc tầng thánh đầu tiên (sơ đạo, sơ quả). Vị này đoạn trừ được 30% phiền não gồm ba kiết sử đầu tiên là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ.
Thân kiến: Hành giả không còn chấp cái thân này là của ta
- Bậc thánh Tư Đà Hàm đắc tầng thánh thứ hai. Vị này đoạn trừ được 35% phiền não. Tương tự như bậc thánh Tu Đà Hườn, bậc thánh Tư Đà Hàm đoạn trừ hoàn toàn ba kiết sử đầu tiên là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Riêng hai kiết sử tiếp theo dục ái và sân thì chỉ mới giảm nhẹ.
- Bậc thánh A Na Hàm đắc tầng thánh thứ ba đoạn trừ hoàn toàn năm kết sử đầu tiên thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục ái và sân.
Đến đây hành giả tiếp tục phát triển thiền quán để đoạn trừ thêm năm kiết sử sau cùng là ái sắc, ái vô sắc , ngã mạn, phóng dật và vô minh để chứng đắc A La Hán, tầng thánh thứ tư. Đến đây hành giả hoàn toàn giác ngộ.
Nhiều người nói rằng việc tu tập đạt đến Giác ngộ- Niết bàn quá khó khăn, hầu như không thể đạt tới được. Sư nghĩ sao về vấn đề này?
Việc tu tập đạt đến Giác ngộ – Niết bàn, nói khó thì cũng không phải khó, mà dễ cũng không phải dễ, còn tuỳ vào Ba la mật và sự tinh tấn của mỗi người, nhưng nếu kiên trì thì sẽ có ngày đạt được, nếu không thể ngay trong kiếp sống này, thì nhất định sẽ đạt được trong những kiếp sống sau.
Đức Phật có dạy có bốn hạng người: “có người hành nan, đắc nan; hành dị, đắc dị; hành nan, đắc dị; hành dị, đắc nan” tuỳ theo căn cơ của chúng sanh.
Tuy nhiên, nếu cho rằng Giác ngộ – Niết bàn là cái đích quá xa, gần như không thể với tới được thì hành giả có thể tu tập Vipassana cho một mục đích ngắn hơn, có thể đạt được ngay trong kiếp sống này, vì nó nằm trong tầm tay: Đó là hành tập Vipassana cho tới khi thấy được các tuệ sanh diệt của danh sắc vận hành trong thân và tâm (tuệ 4). Theo hoà thượng Kim Triệu, một bậc chứng đắc của Việt Nam, hiện đang trụ trì Thích Ca Thiền Viện tại Hoa Kỳ, thì tu tập đạt tới trình độ này, nếu hành giả tiếp tục đi tới, thì hành giả sẽ đắc đạo quả trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Thích Ca. Nếu vì một lý do nào đó, hành giả không tu nữa, hành giả sẽ đắc đạo quả trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Di Lặc. Điều này có nghĩa là, hành giả đã nắm được chiếc vé cho chuyến tàu giải thoát cuối, vì Đức Phật Di Lặc là vị Phật cuối cùng của quả địa cầu.
Gần đây, con xem cuốn “Từ Chánh niệm đến Giác ngộ” của thiền sư Ajhan Brahm, trong đó ngài có nói rằng tu tập Tứ Niệm Xứ, muốn đạt được giải thoát thì phải nhập định, vì nhập định phát sinh chánh niệm “cực mạnh” mới có thể hạ gục được năm triền cái. Nếu không qua nhập định mà hành tập Vipassana, thì hành giả chỉ đến tuệ xả (tuệ 11) và đến gần với nhập định, nhưng không đưa đến giác ngộ. Là một người hành tập Tứ Niệm Xứ trên nền tảng cận định, con rất hoang mang. Xin sư cho biết ý kiến của sư về vấn đề này?
Tuỳ theo căn cơ của chúng sanh, Đức Phật đã dạy hai đạo lộ. Đạo lộ đầu được gọi là đạo quả có thiền. Theo đạo lộ này, hành giả tu định trước, rồi sau đó xả định để phát triển qua quán. Đạo lộ thứ hai là đạo quả không thiền hay còn gọi là thiền khô. Theo đạo lộ này, hành giả chỉ cần tu đạt tới cận định và sau đó phát triển qua quán trên nền tảng của cận định và sát na định. Đạo lộ nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm của nó. Hành giả chọn đạo lộ nào tu là tuỳ theo căn tánh của mình.
1/ Đạo lộ đạo quả có thiền:
Ưu điểm: Hành giả phải nhập định để chứng đắc các tầng thiền (từ sơ thiền đến tứ thiền) rồi xả thiền định ra để chuyển sang phát triển quán. Do lúc này hành giả đã có một năng lực định rất mạnh mẽ nên hành giả có thể hạ gục năm triền cái một cách dễ dàng bằng cách lấy danh, sắc và ngũ uẩn làm đối tượng để phát triển 16 tầng tuệ Minh Sát. Chính vì vậy, các hành giả đã nhập định khi chuyển qua tu quán đắc đạo đắc quả rất nhanh. Tu định rồi phát triển sang quán ví như phiền não là một cái cây, hành giả là một người có đủ sức mạnh nên nhổ bật được nó, gồm cả rể chính lẫn các rễ phụ.
Nhược điểm:
- Không phải ai cũng có khả năng nhập định. Nhiều hành giả tu tập thiền định rất lâu năm nhưng vẫn dừng lại ở mức giữ cho tâm mình được vắng lặng mà thôi.
- Muốn nhập định phải có môi trường yên tĩnh thích hợp. Thường thì phải vào sâu trong rừng nơi không có tiếng máy bay và cưa máy. Ngay cả thiền viện Phước Sơn rộng như vậy, mỗi người ở một cốc, nhưng cũng không phải là nơi thích hợp để nhập định vì vẫn còn nghe thấy tiếng còi xe, tiếng máy bay và tiếng động chung quanh.
2/ Đạo lộ đạo quả không thiền:
Ưu điểm: Hành giả không cần nhập định. Do đạo lộ này chỉ cần hành giả có cận định và sát na định nên hầu như ai cũng có thể thực hành được và hầu như ở đâu cũng có thể thực hành được.
Nhược điểm: Hành giả phải đối mặt với năm triền cái hàng ngày, hàng giờ trong lúc sinh hoạt khi chánh niệm còn yếu ớt nên thỉnh thoảng hành giả sẽ bị những cú shock về thân và tâm. Để đối phó với năm triền cái, hành giả quán sát chúng theo lời của Đức Phật dạy:
“Nội tâm vị ấy có tham dục cái, vị ấy biết nội tâm có tham dục cái. Nội tâm vị ấy không có tham dục cái, vị ấy biết nội tâm của vị ấy không có tham dục cái;tham dục cái chưa sanh nay đã sanh, vị ấy biết rõ; tham dục cái đã sanh đang được đoạn trừ, vị ấy biết rõ; tham dục cái đã đoạn trừ, tương lai không khởi sanh, vị ấy biết rõ.”
Hành giả quán sát tương tự như vậy với sân độc cái, thuỵ miên cái, trạo hối cái và hoài nghi cái. Đức Phật dạy đây là Pháp Quán Niệm Xứ.
Nhờ quán sát như vậy, chánh niệm dần dần vững mạnh và hành giả sẽ trưởng thành trong giáo pháp; lúc đó hành giả cũng sẽ đủ sức bứng được tận gốc rễ năm triền cái. Tu quán không cần nhập định ví như phiền não là một cái cây, hành giả là người không đủ sức mạnh nên không thể nhổ bật cây lên, mà phải từ từ dùng chánh niệm cắt dần dần các rễ phụ trước cho đến khi cây chỉ còn rễ chính, lúc đó chỉ cần một cái đẩy nhẹ là cây bị đổ.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, chính nhờ Ngài đưa ra hai đạo lộ như vậy, mà có rất nhiều cư sĩ, ngay cả tu sĩ đã hành tập Tứ Niệm Xứ và chứng đắc đạo quả qua đạo lộ thứ hai này.
Nếu cho rằng vấn đề này không thể lý luận suông mà phải đưa ra bằng chứng rõ ràng thì bản thân Sư đây là một người tu quán trên nền tảng cận định, không qua nhập định, nhưng vẫn được kết quả. Ngay tại Việt Nam, sư biết hiện nay có trên dưới 10 cư sĩ cũng hành tập Tứ Niệm Xứ không qua nhập định cũng đạt được kết quả tốt. Tuy nhiên đó chỉ là những người sư biết, con số thực tế chắc chắn phải nhiều hơn…. Nói đây không phải là mục đích khoe pháp, mà cốt để cho hành giả có lòng tin để ngày càng tinh tấn trong pháp hành. Nhìn ra thế giới bên ngoài ta thấy hiện nay ở Thái Lan có ngài Ajahn Suphan, viện trưởng tu viện Rampoen (Tapataram), Ấn Độ có ngài S.N Goenka là một cư sĩ, Việt Nam có hoà thượng Kim Triệu, ở Miến Điện có ngài U Pandita, viện trưởng thiền viện Panditarama, ngài Utejanjya trụ trì thiền viện Shwe Oo Min… đều là những bậc chứng đắc không qua nhập định. Đây là những vị còn hiện tiền và chúng ta có thể dùng các ngài làm niềm tin để tinh tấn tu tập.
Điều này cũng chứng minh rằng Giác ngộ – Niết bàn là con đường có thật và Giáo Pháp của Đức Phật để lại cho chúng ta chưa hề bị mai một, vẫn còn nguyên vẹn như thời còn tinh khôi của nó. Nếu còn có người dựa vào Bát Chánh Đạo để tu tập thì vẫn còn có người đắc đạo đắc quả vì Bát Chánh Đạo không nằm trong Kinh điển mà nằm ngay trong mỗi chúng ta.
Xin Sư nói cho chúng con rõ lộ trình đắc đạo, đắc quả của Đức Phật
Căn cứ vào Kinh điển thì sau khi Đức Phật nhập, xuất đủ bát thiền, Ngài xả định và phát triển qua thiền quán. Đức Phật quán vòng Thập nhị nhân duyên (vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập,lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên cho lão tử, lão tử duyên cho sầu bi, khổ não, sầu bi duyên vòng lại cho vô minh). Đức Phật quán xuôi rồi quán ngược và đắc Lậu tận minh. Bậc Đại Trí Tuệ đã đắc Giác ngộ qua đề mục Pháp Quán Niệm Xứ.
Như vậy nếu chúng ta ngày nay nhập định và muốn kinh nghiệm Niết bàn cũng phải thực hành y như Đức Phật, có nghĩa cũng phải xả định để phát triển qua quán. Mọi hình thức tu tập không qua phát triển các tầng tuệ Minh sát , nếu cho là có kinh nghiệm Niết bàn, thì kinh nghiệm đó không có cơ sở.
Điểm ưu việt của hành giả có năng lực nhập định là khi xả định chuyển qua phát triển quán thì họ có khả năng kinh nghiệm Niết bàn rất nhanh, so với các hành giả tu theo đạo lộ thiền khô. Người đắc đạo, đắc quả qua đạo lộ đạo quả có thiền cũng thù thắng hơn người tu theo đạo lộ thiền khô vì ngoài đạo quả đạt được họ còn có thêm các “sản phẩm phụ” là thần thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông và túc mạng thông.
Một điểm quan trọng cần phải nhấn mạnh trong hành tập Vipassana là tu tập nhằm đạt được một cái tâm thuần tịnh, trong sáng không phải là mục đích chính, đưa đến cứu cánh–vì điều này không đủ; cái quan trọng mà hành giả cần phải đạt được là thấy được sự sanh diệt của danh, sắc và ngũ uẩn nhằm kinh nghiệm tam tướng vô thường, khổ và vô ngã ngõ hầu giác ngộ Tứ Diệu Đế. Bất cứ một pháp một tu tập nào nhằm đạt được một cái tâm thuần tịnh, trong sáng mà không thấy được sự sanh diệt của danh, sắc và thì kinh nghiệm đạt được đó chắc chắn không phải là Niết bàn.
Với những đọc giả PTVN đang hành tập Tứ Niệm Xứ hay những người chưa thực hành nhưng đang quan tâm, nghiên cứu pháp môn này, Sư có muốn nhắn nhủ gì nhân dịp đầu năm mới?
Thiền Vipassana là một phương pháp thanh lọc thân và tâm đặc biệt do Đức Phật khám phá ra. Ngài đã bỏ ra 20 A tăng kỳ và 100 đại kiếp trong vòng sinh tử luân hồi để kiện toàn đầy đủ 30 pháp Ba la mật nhằm có đủ trí tuệ để khám phá pháp môn này. Thực hành thiền Tứ Niệm Xứ, hành giả sẽ thực chứng những lời dạy của Đức Phật là cụ thể, rõ ràng, không hư dối, toàn hảo đoạn đầu (pháp học), toàn hảo đoạn giữa (pháp hành) và toàn hảo đoạn cuối (pháp thành).
Con xin cảm ơn Sư. Nhân dịp năm mới, con xin thay mặt đọc giả PTVN chúc Sư được dồi dào sức khoẻ, có chánh niệm và trí tuệ hiểu biết ngày càng phát triển thâm sâu.
Cám ơn cô. Sư cũng xin chúc cô và quí đọc giả dồi dào sức khoẻ và hưởng một năm mới an lành, luôn luôn có trí nhớ chánh niệm tỉnh giác để luôn luôn thấy rõ thực tướng, thực tánh của sự sanh diệt của các pháp là vô thường, khổ và vô ngã trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi để sớm đắcTứ thánh đạo, Tứ thánh quả và Niết bàn. Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nguồn: http://phattuvietnam.net/tuhoc/vipassana/8916.htm