BAR DO’I DAM PA GYUN KY’ER T’AR LAM SAL DRON SHUG SO
‘NGỌN ĐÈN SOI SÁNG CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT’
Kinh Nhật Tụng Dựa Trên Hướng Dẫn Về Cõi Trung-GiớI
Nguyên Tác: Đại Sư Tsele Nats’og Rangdrol, Mike Dickman chuyển từ Tạng-ngữ qua Anh-ngữ
Tâm Bảo Đàn chuyển từ Anh-ngữ qua Việt-ngữ, viết lời giới thiệu và chú thích
Lời Giới Thiệu Trong một cuộc
phỏng vấn được ghi lại trong tập sách ‘Một Vị Tu-sĩ Giản Dị’ (‘A Simple Monk’, nxb New World Library, 2001, tr. 51), đức
Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 có nói:
‘Tôi có
cảm giác nao nức với
ý nghĩ rằng [một ngày kia], cái chết thật sự sẽ đến với tôi và tôi sẽ đuợc sống qua
kinh nghiệm đó.’
Chúng ta có thể nghĩ rằng đó là lời lẽ tự tin của một bậc đại
cao tăng đã
giác ngộ, của một bậc
hóa thân có thể
kiểm soát và làm chủ được cái sống, cái chết của mình.
Ý nghĩ lạc quan cuả đức
Đạt Lai Lạt Ma cho
chúng ta cảm giác rằng cái chết, đối với Ngài, nhẹ nhàng và có phần nào... tươi vui! Tựa hồ một người biết rằng mình có đôi cánh nhiệm mầu đựng sau cái túi nải vẫn thường đeo sau lưng, khi ngày giờ đến, sẽ hớn hở leo lên một chiếc cầu vồng rồi từ đó mà vút cánh bay vào bầu
không gian vô tận.
Nhưng
sự thật thì không phải như vậy vì để có đuợc một
tâm thức an nhiên và
lạc quan khi nghĩ về cái chết, ngay từ lúc bé, đức
Đạt Lai Lạt Ma đã được học để hiểu về cái chết, và từ đó
đến nay, vẫn
thường xuyên thực tập hằng ngày để chuẩn bị cho sự ra đi của mình. Để có được sự chuẩn bị chu đáo và
cảm giác nao nức kia, đức
Đạt Lai Lạt Ma cho
chúng ta biết thêm rằng:
‘Trong nhiều năm qua, qua sự
thực tập hằng ngày của tôi, tôi đã chuẩn bị cho một cái chết
tự nhiên. Rất nhiều
công phu thiền định của tôi [trong
hiện tại] là những tập dợt cho
kinh nghiệm [kinh qua cái chết] này.’
Nói cho cùng, không phải chỉ riêng đức
Đạt Lai Lạt Ma,
mà cả một
truyền thống Phật Giáo Tây-Tạng cũng
thường xuyên ‘tập dợt’ như thế. Không những chỉ tập dợt mà
Phật Giáo Tây-Tạng còn bỏ công
nghiên cứu tỉ mỉ về cái chết và tiến trình của cái chết với một cặp mắt
hết sức khách quan và khoa học,
bao gồm những
tìm hiểu chính xác về sự
hoại diệt của thân vật-lý trên một nền tảng y-lý.
Gần 80 năm nay, sau khi tập ‘The Tibetan Book of the Dead’ tức ‘Tử Thư Tây-Tạng’ (Tạng-ngữ: Bardo Thodol) được ông W.Ỵ Evans-Wentz
phiên dịch qua Anh-ngữ lần đầu vào năm 1927, từ đó
đến nay, những lời giảng dạy về ‘Bardo’ tức ‘Cõi Trung-Giới’ [1] đã được khai triển và
quảng bá ở nhiều nơi trên
thế giới. Nhiều
tài liệu khác viết về ‘Bardo’ của các
đại sư Tây-Tạng cũng được
chuyển ngữ và
hiệu đính. Trong
cộng đồng Phật-Giáo
Việt Nam của
chúng ta cũng thế,
chúng ta bắt đầu có đuợc một sự
hiểu biết trung thực hơn về cái chết và về Thân-trung-Ấm qua những kinh sách được
phiên dịch qua tiếng Việt viết về tiến trình của cái chết dưạ trên kinh bản gốc ‘Bardo-Thodol’ [2].
Một điều mà trong
chúng ta ít người chú ý đến, là
xuất xứ lịch sử của kinh văn ‘Bardo-Thodol.’ Trên
thực tế, nguyên tác ‘Bardo Thodol’ mang một cái tên gốc rất dài nhưng tựu chung có nghĩa là ‘Đại
Giải Thoát Qua Sự Lắng Nghe Trong Cõi Trung-Giới (‘The Great Liberation Through the Hearing in the Bardo’).
Vậy thì ai là người đầu tiên đã giảng dạy về ‘Bardo’, về Cõi Trung-Giới hay Thân-trung-Ấm và được
truyền thừa cho tới tận ngày nay?
Người đó không ai khác hơn là Padmasambhava, một vị
đại hành giả
xuất thân từ xứ Uddiyana, vùng Tây-Bắc nước Ấn thời Cổ, ngày nay nằm giữa
ranh giới lãnh thổ hai nước A-Phú-Hãn và Pakistan.
Tục truyền rằng đức Padmasambhava đã đản sanh ra từ một bông
hoa sen trên hồ Dhanakosha ở xứ Uddiyana. Người Việt
chúng ta gọi Ngài là đức
Liên Hoa Sanh và sự
hiểu biết của
chúng ta về đức Liên-Hoa-Sanh quả có rất sơ sài. Nhưng với người Tây-Tạng thì không như thế. Phật-Giáo Tây-Tạng
tôn sùng ngài không khác gì
tôn sùng đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ xem ngài như là ‘đức Phật Thứ Hai’. Họ có rất nhiều tên gọi cho ngài, trong đó
Liên Hoa Sanh là một. Nhưng một cái tên
phổ thông mà người Phật-tử Tây-Tạng
yêu chuộng nhất lại là một cái tên rất
đơn giản và
trìu mến. Họ gọi ngài là ‘Guru Rinpoche.’ Guru Rinpoche có nghĩa giản dị là ‘Đạo
Sư Tôn Quý.’ Cả
truyền thống Phật-Giáo Tây-Tạng coi đức
Liên Hoa Sanh Padmasambhava là
vị đạo sư, hay ‘bổn sư ‘ tôn quý, không khác gì
chúng ta vẫn thường gọi
đức Phật Cồ-Đàm là Bổn
Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật, và coi ngài như vị Thầy ‘gốc’ của
chúng ta.
Lý do rất
dễ hiểu bởi vì đức
Liên Hoa Sanh là người đã
thành công trong công cuộc
truyền bá Phật-Giáo ở xứ Tây-Tạng
vào khoảng cuối thế kỷ thứ 8 - đầu thế kỷ thứ 9 [3], và đã có
công khai ngộ cả dân tộc Tây-Tạng khi đó còn đang
chìm đắm trong bóng tối của bạo lực và tà thuật. Đức
Liên Hoa Sanh cũng là người đã có công
xây dựng tu viện Phật-Giáo đầu tiên tại Tây-Tạng -
tu viện Samgye, và là người đầu tiên đã truyền dạy về Cõi Trung-Giới. Dưới sự hướng dẫn của đức
Liên Hoa Sanh,
đại đa số những lời truyền dạy của ngài đã được thánh nữ Yeshe Tsogyal
cẩn thận ghi chép lại trên những cuộn giấy mỏng màu vàng, và sau khi được chính đức
Liên Hoa Sanh niêm phong và ấn ký
cẩn mật, đã được cất dấu tại nhiều nơi ở Tây-Tạng [4]. Trước khi
trở thành vị phối ngẫu
tâm linh và cũng là người đã
chứng đắc được hết những
giáo pháp thâm cao của đức
Liên Hoa Sanh, Yeshe Tsogyal đã từng là một nàng
công chúa Tây-Tạng thiếu
may mắn và đã phải
trải qua không biết bao nhiêu là bể dâu nhục nhằn. Những
tài liệu mà thánh nữ Yeshe Tsogyal ghi chép lại được gọi là những ‘kho tàng ẩn mật’ (Tạng-ngữ: terma).
Chúng ta có thể gọi những gì Yeshe Tsogyal ghi chép lại là những ‘địa tàng kinh’ (earth terma) vì đây là những tàng kinh được cất dấu trên vách đá, trong khe núi, nơi hang động hoặc dưới hồ nước, ngược lại với ‘tâm tàng kinh’ (mind terma) là những tàng kinh đã được đức
Liên Hoa Sanh ấn ký lại trong
tâm thức của những vị
đại đệ tử của ngài [5].
Vào thế kỷ thứ 14, ‘địa tàng kinh’ hướng dẫn về ‘Bardo’ hay Cõi Trung-Giới đã được Karma Lingpa, là
hoá thân của một trong 25 vị
đại đệ tử của đức
Liên Hoa Sanh, phát hiện lần đầu trên đỉnh đồi Gampo thuộc miền trung Tây-Tạng. Nơi đây, vị
đại tăng lừng lẫy tên Gampopa[6] đã dựng lên một
tu viện lớn và khai mở giòng truyền thưà Kagyu của Phật-Giáo Tây-Tạng. Điều đáng chú ý là Karma Lingpa là một
hành giả thuộc giòng ‘Cổ-Mật’ Nyingma nhưng hầu như tất cả các
đệ tử của ngài lại đều
xuất thân từ giòng ‘Khẩu-Truyền’ Kagyu và
tu tập theo
truyền thống Kagyu[7] . Do đó, cả hai giòng Nyingma và Kagyu đều rất
chú tâm vào việc khai triển những hướng dẫn về Cõi Trung-Giới và giữ cho giòng
truyền thừa của Cõi Trung-Giới không bị
gián đoạn.
Nhờ vào những hướng dẫn của đức
Liên Hoa Sanh và
xuyên qua những
chứng nghiệm tâm linh của các
đại hành giả đã
chứng đắc, bắt đầu từ thế kỷ 14
đến nay, cái chết và Cõi Trung-Giới đã trở nên rất gần gũi,
quen thuộc trong đời sống
tâm linh cũng như
đời sống văn hoá của
toàn thể dân tộc Tây-Tạng. Người Phật-tử Tây-Tạng được nghe giảng về sự
liên hệ mật thiết giữa
một đời sống
tỉnh thức và cái chết, được học về những
chi tiết liên quan đến cái chết ngay khi họ còn đang yêu đời, trẻ trung và khỏe mạnh, chứ không phải đợi đến lúc già yếu, đau ốm bệnh tật với cái chết cận kề rồi thì họ mới bắt đầu chú ý
tìm hiểu về Cõi Trung-Giới.
Trong ‘Sáu
Pháp Tập Yoga của Naropa’ [8] có riêng một pháp yoga
đặc biệt để hướng dẫn
hành giả thực tập tỉnh thức và tận diệt
sợ hãi trong giai đoạn trung-giới gọi là ‘Bardo Yoga’. Để bổ túc, họ còn
thường xuyên thực tập thêm
đại pháp ‘chuyển-di thần-thức’ gọi là ‘Phowa’ để đến khi chết, họ có thể tự phóng
thần thức của họ lên
cõi tịnh độ của
đức Phật A Di Đà hoặc một
cõi tịnh độ nào khác mà họ nguyện được sinh vào. Trong những
gia đình Tây-Tạng, khi có người
quá vãng,
gia đình thường tổ chức
thỉnh mời một vị Lạt-ma đến tận nhà để tụng đọc
toàn bộ kinh bản ‘Bardo Thodol’ hay ‘Đại
Giải Thoát Qua Sự Lắng Nghe Trong Cõi Trung-Giới’ để hướng dẫn
thần thức người chết
trong suốt 49 chín ngày liền. Mỗi ngày, phần kinh
liên hệ đến ngày đó trong
toàn bộ kinh ‘Bardo Thodol’ được xướng lên bên tai người chết, cả
gia đình quây quần lắng nghe. Kinh bản này hướng dẫn
cặn kẽ người đã chết về những
biến chuyển đang xảy ra trong
tâm thức họ qua từng ngày một, nhắc nhở cho họ biết họ đang ở trong
trạng thái nào, ngày thứ nhất chuyện gì xảy ra, ngày thứ hai chuyện gì xảy ra, phải buông xã như thế nào, phải trực diện tâm họ như thế nào, phải
tỉnh thức và không
sợ hãi trước những
hình tướng,
âm thanh và màu sắc do tâm họ phóng ra như thế nào...
Nói
tóm lại, nguời chết được hướng dẫn để
nhận biết ra được (1) khi nào ánh tịnh- quang của
Chân Tánh xuất hiện để có thể hoà nhập vào đó và
đạt được giải thoát, (2) làm thế nào để sinh được vào
cõi tịnh độ nếu đã để lỡ cơ hội không nhận được ra ánh tịnh quang, (3) làm thế nào để đóng hết mọi cửa
luân hồi nếu đã để lỡ cơ hội
tái sinh vào
cõi tịnh độ, và (4)
nếu không đóng được cửa
luân hồi thì làm sao để có thể
tái sinh vào một khung cảnh
an bình, trong một môi trường sống
thấm nhuần đạo pháp,
lợi lạc cho việc
tiếp tục tu học.
Kinh bản ‘Bardo Thodol’ không chỉ là một kho tàng
tôn giáo. Nếu nhìn một cách
toàn diện hơn thì đó còn là một kho tàng văn hoá đặc trưng. Kinh bản đó đã đi sâu vào
đời sống của người dân Tây-Tạng và
gắn liền với tâm-thức chung của
toàn thể dân tộc Tây-Tạng. Giống như Truyện Kiều của
thi hào Nguyễn Du đã
cưu mang cái
tâm thức ‘truân chuyên’ của cả dân tộc
Việt Nam qua suốt bao
thăng trầm lịch sử, thì ‘Bardo Thodol’
cũng thế, đã chuyên chở tâm ‘cầu được giác ngộ’ của người Tây-Tạng trong hơn 8 thế kỷ nay.
Ngoài ra, điều quan trọng hơn nữa là kinh bản ‘Bardo Thodol’ vừa được coi là kinh của người chết, vừa là kinh của người sống, vì sự
liên hệ giữa sống và chết quả rất
mật thiết, không thể tách rời. Nếu khi còn sống,
chúng ta không để cho tâm mình dễ bị
tán loạn,
chạy theo vọng tưởng điên đảo thì khi ra đi,
chúng ta hoặc có thể
nhận biết ra đuợc ánh tịnh-quang và
đạt được giải thoát vào giây phút đó, hoặc có thể sẽ
an nhiên tự tại, không
sợ hãi nao núng trước bao
âm thanh, ánh sáng và
hình tướng xuất hiện dồn dập truớc mắt ta.
Chúng ta sẽ có đủ
tỉnh thức để trực diện tâm mình, đủ
tỉnh thức để
lựa chọn, và an trụ trong sự
lựa chọn của Giác-Tánh
do bởi khi
chúng ta còn sống,
chúng ta cũng đã chuẩn bị và ‘tập dợt’ kỹ lưỡng cho màn
cuối cùng của vở kịch này rồi. Truớc sau như một,
chúng ta lúc nào cũng thủ vai chính, và có
trách nhiệm với những
lựa chọn của mình.
Kinh sách đã có ghi và, qua
công phu tu tập chứng đắc, nhiều bậc
đại sư cũng đã
giảng giải rằng, giai đoạn trung-giới
ngay sau khi hơi thở vi tế cuối cùng bên trong[9] của ta vừa
chấm dứt và ánh tịnh-quang của Chân-Tánh bắt đầu ló dạng (bardo of Dharmata), đó chính là ‘thời gian’ dễ dàng và
thuận lợi nhất để
chúng ta có
thể đạt được giải thoát, phá tung được màn lưới
sinh tử luân hồi!
Thời gian này có thể kéo dài
trong vòng 2 đến 3 ngày rưỡi sau khi
hơi thở cuối cùng chấm dứt, nhưng đối với những ai không
tu tập để
tỉnh thức trong lúc sống, không ‘tập dợt’ nhuần nhuyễn để có thể
nhận ra được ánh tịnh quang vào lúc chết và an trụ trong đó, thì
thời gian thuận lợi nhất để
được giải thoát này sẽ chỉ vèo qua trong một thoáng ngắn ngủi, rồi
chúng ta lại sẽ bị rơi vào
trạng thái mê muội rối rắm lập đi lập lại nhiều lần trong Cõi Trung-Giới,
cho đến khi
chúng ta tìm ra đuợc nẻo
tái sinh.
Toàn bộ kinh bản ‘Bardo Thodol’ rất dài và rất tỉ mỉ,
chỉ dẫn và khai triển từng li từng tí về cái chết và về Cõi Trung-Giới. Người ta có thể tụng từng phần một mỗi ngày, mỗi ngày một đoạn, nhưng không thể mỗi ngày mỗi tụng từ đầu chí cuối. Do đó, với
ý nguyện giúp cho
chúng ta có thể làm quen và
thấm nhuần những chỉ dạy về cái chết và Cõi Trung-Giới
trong đời sống
hằng ngày, nhiều bậc
đạo sư đã bỏ công soạn ra những
bản kinh tương đối ngắn gọn và cô đọng để mỗi ngày
chúng ta có thể tụng đọc từ đầu đến cuối.
‘Ngọn Đèn
Soi Sáng Con Đường Giải Thoát: Kinh
Nhật Tụng Dựa Trên Hướng Dẫn Về Cõi Trung-Giới’ mà
đại sư Tsele Nats’og Rangdrol soạn ra và được
chuyển ngữ dưới đây chỉ là một trong
vô số những lời kinh hoặc
lời nguyện về ‘bardo’ và cái chết mà các
đạo sư Tây-Tạng đã trước tác trong nhiều thế kỷ qua để hướng dẫn học trò của mình.
Tác giả của ‘Ngọn Đèn
Soi Sáng Con Đường Giải Thoát’,
đại sư Tsele Nats’og Rangdrol, sinh vào năm 1608 và là một vị
hoá thân với một
kiến thức về
đạo pháp lẫy lừng. Ngài
nổi tiếng đức độ và đã đắc được hết tất cả các pháp của
thế gian và
siêu thế gian. Người ta nói, ngài có thể nắm gọn được hết những
giáo pháp của tất cả các giòng
truyền thừa,
đặc biệt là giòng Kagyu và giòng Nyingma, dễ dàng như trong lòng bàn tay. Ngài đã
bỏ ra rất nhiều năm ẩn tu và
ngồi thiền trong cùng những hang động và núi đá mà trước đây
đại sư Gotsang Gonpo Dorje--
tiền thân của ngài -- một
đại hành giả thuộc giòng Drukpa Kagyu, đã từng ngồi. Ở tại những hang động và núi đá này, ngài đã
đắc quả. Ngoài một
số luận giải rất
nổi tiếng về ‘bardo’ [10], những trước tác của
đại sư Tsele Nats’og Rangdrol về hai pháp
Đại Thủ Ấn (Mahamudra) và Đại
Viên Mãn (Dzogchen) của hai giòng Kagyu và Nyingma còn là những kinh liệu
vô cùng sâu sắc đã được ngài khai triển bằng một lối viết
hết sức sáng sủa, mạch lạc.
Theo
truyền thống Kim-Cang-thừa của Mật-tông Tây-Tậng,
liên hệ thầy trò trong việc
tu học của mỗi
hành giả là một
liên hệ tối ư
mật thiết. Vị thầy được xem là
hiện thân toàn vẹn của Tam-Bảo. Khi đứng
trước mặt thầy, ta phải nghĩ rằng ta đang đứng trước một
Ứng Thân Phật. Tâm thầy đồng với
tâm Phật, và khi tâm ta đồng với tâm thầy thì tâm ta cũng là
tâm Phật. Mật-tông Tây-Tạng có
pháp tập ‘Guru Yoga’ [11] mà từ đức
Đạt Lai Lạt Ma trở xuống
cho đến các vị
đại sư,
tăng ni và
hành giả cỡ trung, ai ai cũng đều phải tập. Theo pháp ‘Guru Yoga,’
hành giả quán tưởng vị thầy ‘gốc’ hay ‘bổn sư’ [12] của mình chính là
hiện thân của đức
Liên Hoa Sanh Padmasambhava, và đức
Liên Hoa Sanh chính là
hiện thân của
Tam Bảo, của chư
Như Lai đã tựu thành. Sau đó,
hành giả thiền quán để thấy tâm mình hoà vào với tâm thầy,
tức tâm Phật. Chư Phật thì xa, nhưng vị thầy gốc của ta thì gần.
Giải thích một cách nôm na, khi tâm ta đồng với tâm thầy, thầy
trở thành ‘trụ điện’ để giúp giòng điện hiện còn đang
thấp kém của ta bắt được vào giòng điện ‘cao thế’ của chư Phật.
Do đó, hầu hết các lời kinh tụng,
lời nguyện của Phật-Giáo
Tây Tạng đều nhắc đến vị thầy ‘gốc’ hoặc đức
Liên Hoa Sanh trước tiên, kèm theo phần
quán tưởng và khẩn cầu ngài.
Bản kinh nhật tụng ‘Ngọn Đèn
Soi Sáng Con Đường Giải Thoát’ do
đại sư Tsele Nats’og Rangdrol soạn ra cũng không nằm ngoài
thông lệ này.
Tuy nhiên, đối với Phật-tử người Việt không
quen thuộc hay
thoải mái với
truyền thống kể trên, ngưới viết xin đề nghị một thay đổi nhỏ
dựa trên hướng dẫn của
đại sư Garchen Rinpoche. Khi
đọc tụng ‘Ngọn Đèn
Soi Sáng Con Đường Giải Thoát’, ở bất kỳ nơi nào trong kinh tụng có nhắc đến ‘thầy’ hay ‘đức
Liên Hoa Sanh’ thì
chúng ta có thể thay thế bằng
hồng danh của
đức Phật A Di Đà hay đức
Quán thế Âm Bồ-tát, là hai vị Phật và Bồ-tát mà phần lớn người Việt
chúng ta cảm thấy gần gũi nhất.
Ví dụ, thay vì tụng:
Bạch Thầy, bậc
đạo sư hướng dẫn
tâm linh,
Thầy chính là
hiện thân toàn vẹn của Phật, Pháp, Tăng
vô cùng hiếm hoi tôn quý,
Nơi con
quay về nương tựa.
Con xin khẩn nguyện với tâm tha thiết
chí thành.
Với
tâm từ bi rộng mở, xin Thầy hãy
đoái tưởng đến con,
Và
che chở cho con
thoát khỏi những
hãi hùng trên ngõ thoát chật hẹp
xuyên qua Thân-trung-Ấm.
Chúng ta có thể tụng:
Nam mô A Di Đà Phật,
Nam mô Phật Pháp Tăng vô cùng hiếm hoi tôn quý,
Nơi con
quay về nương tựa,
Con xin khẩn nguyện với tâm tha thiết
chí thành.
Với
tâm từ bi rộng mở, xin
đức Phật A Di Đà hãy
đoái tưởng đến con,
Và
che chở cho con
thoát khỏi những
hãi hùng trên ngõ thoát chật hẹp
xuyên qua Thân-trung-Ấm.
Ví dụ, thay vì tụng:
Khi nhận rõ ra được khuôn mặt của
tử thần, con khẩn gọi Thầy từ đáy tim con,
Hết lòng tin tưởng vào
ý nghĩa trọng yếu của những lời Thầy dạy,
Xin cho con không đi
tìm kiếm một
bào thai tanh hôi của cõi ta-bà
Mà sẽ chuyển-di
thần thức của con đến
cảnh giới Liên Hoa trang nghiêm tịnh độ..
Chúng ta có thể tụng:
Khi nhận rõ ra được khuôn mặt của
tử thần, con khẩn gọi
đức Phật A Di Đà từ đáy tim con,
Hết lòng tin tưởng vào
ý nghĩa trọng yếu của những
lời Phật dạy,
Xin cho con không đi
tìm kiếm một
bào thai tanh hôi của cõi ta-bà
Mà sẽ chuyển-di
thần thức của con đến
cảnh giới trang nghiêm tịnh độ nơi
Tây Phương Cực Lạc.
Khi
chuyển ngữ bản kinh nhật tụng dựa trên hướng dẫn về Cõi Trung-Giới này qua Việt-ngữ, người viết có
tâm nguyện cầu cho tất cả những ai đọc được hoặc nghe thấy được kinh này, sẽ không còn chút
sợ hãi khi nghĩ đến cái chết, không
sợ hãi khi phải
một mình kinh qua
kinh nghiệm chết, không
sợ hãi khi trực diện tâm mình, và đủ
tỉnh thức để có được những
lựa chọn sáng suốt không
mê muội trong Cõi Trung-Giới.
Nguyện cho tất cả
chúng sinh đem được cái chết vào
con đường Đạo.
Tâm Bảo Đàn Ngày 5 tháng 11 năm 2003
Maryland, Hoa Kỳ
Chú Thích:
[1]‘Bardo’ có nghĩa giản dị là ‘gian đoạn ở giữa’ hay ‘trung-giới’ -- giai đoạn ở giữa khi bắt đầu
chấm dứt cái này và khởi đầu cái kia. Theo
truyền thống Phật-giáo Tây-Tạng thì có tất cả 6 giai đoạn trung-giới hay bardo: bardo của
Đời Sống hiện tại , bardo của Thiền-định, bardo của
Giấc Mộng, bardo của Cái Chết, bardo của Tịnh-quang hay Chân-tánh (Dharmata) và bardo của Hình-thành hay Hiện-hữu.
[2] Khoảng 40 năm trước, có 1 tập sách
nghiên cứu viết về cái chết được dịch từ Hán-văn qua Việt-ngữ và khá
phổ thông trong
cộng đồng Phật giáo Việt Nam, đó là quyển ‘Liễu Sanh Thoát Tử’ hoặc ‘Thoát Vòng
Sống Chết.’ Tập sách này khai triển
trọn vẹn những
chi tiết và hướng dẫn trong ‘Bardo Thodol’ nhưng rất tiếc, lại không hề ghi
xuất xứ.
[3] Có sách ghi là thế kỷ thứ 8, có sách ghi là thế kỷ thứ 9 nhưng khi so ánh tuổi thọ và
thời gian đức
Liên Hoa Sanh lưu lại ở Tây-Tạng,
chúng ta có thể cho rằng ngài đã đến Tây-Tạng vào cuối thế kỷ thứ 8,
liên tục truyền bá đạo pháp trong hơn 55 năm và
cuối cùng, đã
viên tịch vào khoảng giữa thế kỷ thứ 9. Hiện nay tại Ấn-Độ và Tây-Tạng còn lưu lại rất nhiều
dấu tích của ngài.
[4]Trong
đại lễ cung nghinh
xá lợi của
đức Phật Thích Ca Mâu Ni và của chư vị
thánh tăng do Matreiya Project tổ chức tại Hoa Thịnh Đốn vào tháng 10 năm 2003, Phật-tử khắp nơi cũng đã được dịp
chiêm bái một trong những pháp-tích còn để lại của Yeshe Tsogyal. Đó là một mẫu giấy rất nhỏ và mỏng màu vàng đục, trên có bút tích của Yeshe Tsogyal.
[5] Đức
Liên Hoa Sanh ấn ký những
giáo pháp của ngài vào
tâm thức của các
đại đệ tử để trong tương lai, khi đủ
nhân duyên,
hoá thân của các vị này sẽ khắc nhớ lại được những
giáo pháp đó trong
trạng thái thiền định viên mãn.
[6] Gampopa chỉ có nghĩa là ‘người ở Gampo,’ còn có tên là Dakpo Rinpoche có nghĩa là ‘vị tôn quý
xuất thân từ Dakpo.’
[7] Phật-Giáo Tây-Tạng
gồm có 4
tông phái lớn: Nyingma, Kagyu, Sakya và Gelup. Bốn
tông phái này là bốn giòng
truyền thừa riêng biệt với những
sở trường khác nhau. Mỗi tông lớn lại chia ra làm nhiều chi phái nhỏ, chẳng hạn như Kagyu thì có Karma Kagyu, Drikung Kagyu, Dakpo Kagyu, v.v... Tựu chung, giòng Nyingma
nổi tiếng vể pháp Đại
Viên Mãn (Dzogchen), giòng Kagyu
nổi tiếng vể pháp
Đại Thủ Ấn (Mahamudra), giòng Gelup của đức
Đạt Lai Lạt Ma nổi tiếng về kinh văn và
luận giải, v.v... Bốn
tông phái này
sinh hoạt song song và bổ túc cho nhau. Nhiều vị
lãnh đạo và
đệ tử của
tông phái này vẫn
thường xuyên thọ giáo pháp tu của những
tông phái khác.
Tuy nhiên, Mật-Tông Tây-Tạng rất coi trọng cái ‘gốc’ của sự
tu học của mình (điển hình qua
tông phái gốc và vị thầy gốc). Ví dụ, họ có turyền thống nhắc đến
xuất xứ của những điều họ học được là từ
tông phái nào ra và ai là người thầy đã hướng dẫn cho họ về pháp tu đó. Điều này để
chứng tỏ sự
tôn kính của họ đối với Phật-pháp, và giúp họ trở nên khiêm cung hơn với
ý nghĩ rằng đây là điều tôi học được từ thầy tôi, hoặc từ một
truyền thống tu học có gốc gác
lâu đời chứ không phải là những điều do
cá nhân tôi tự
thu nhặt gom góp lại nhờ vào
trí thông minh hay
tài năng của riêng tôi.
[8] Sáu
Pháp Tập Yoga của Naropa: Yoga Nội Hỏa (Inner Heat), Yoga Thân
Huyễn Ảo (Illusory Body), Yoga Mộng (Dream), Yoga Tịnh Quang (Clear Light), Yoga Cõi Trung-Giới (Bardo) và Yoga Chuyển-Di Thần-Thức (Transference of Consciousness). Nhiều vị
đại hành giả Kim-Cang-Thừa đã
đắc đạo nhờ vào
công phu tu tập những pháp này cuả Naropa; khi chết, nhiều vị để lại
xá lợi hoặc đạt đuợc ‘thân cầu vồng’ (rainbow body) nghĩa là thân xác
vật lý của họ tự
tiêu tán đi không để lại dấu vết gì, không khác chi ánh sáng
huyễn ảo của cầu vồng.
[9] Xin xem chú thích #15 ở phần nguyên tác kinh
nhật tụng để
hiểu rõ hơn sự
khác biệt giữa
hơi thở bên ngoài và hơi thỡ
vi tế cuối cùng bên trong.
[10]
Luận giải viết về Cõi Trung-Giới
nổi tiếng nhất của
đại sư Tsele Nats’og Rangdrol đã được dịch qua Anh-ngữ mang tựa đề ‘The Mirror of Mindfulness’ (Rangjung Yeshe Publications Editìon, 1987; Shambala Edition, 1989 & 1993).
[11] Guru Yoga (Bổn Sư
Du Già) nếu dịch ý sẽ có nghĩa là
pháp tập ‘Bổn Sư
Tâm Đồng.’
[12] Vị thầy ‘gốc’ hoặc ‘bổn sư’ không
nhất thiết phải là vị thầy đã làm lễ
quy y hay ban pháp-danh cho ta mà phải là vị thầy đã khai mở được tâm ta bằng cách này hay cách khác, là vị thầy mà ta
cảm thấy gần gũi,
tôn kính nhất. Tiếng ‘bổn sư’ ở đây
hoàn toàn không
ám chỉ đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật.
Bạch Thầy, bậc
đạo sư hướng dẫn
tâm linh [1],
Thầy chính là
hiện thân toàn vẹn của Phật, Pháp, Tăng
vô cùng hiếm hoi tôn quý,
Nơi con
quay về nương tựa.
Con xin khẩn nguyện với tâm tha thiết
chí thành.
Với
tâm từ bi rộng mở, xin Thầy hãy
đoái tưởng đến con,
Và
che chở cho con
thoát khỏi những
hãi hùng trên ngõ thoát chật hẹp
xuyên qua Thân-trung-Ấm [2].
Tự tánh của tất cả mọi hội tụ đều là
vô thường, điều này đã quá rõ.
Và cũng như thế,
chắc chắn rằng mọi sự sinh ra cũng sẽ
kết thúc bằng sự
hoại diệt.
Nếu nhìn bằng
trí tuệ thì sẽ thấy thân xác
huyễn ảo này không thể
vĩnh viễn thường hằng.
Bạch Thầy, xin hãy
đoái tưởng đến con với tất cả
tâm từ ái.
Khi
đời sống đến lúc phải
kết thúc,
năng lực của thân tứ-đại sẽ lụi tàn,
Thuốc men không còn
công hiệu nữa và con sẽ không còn
cảm thấy ngon miệng khi
ăn uống.
Khi thân và tâm đến lúc phải tách rời,
Xin Thầy hãy độ cho con để con không còn
quyến luyến cuộc đời này nữa.
Cái chết mỗi lúc mỗi cận kề, điều này con
hoàn toàn không chút
ngờ vực.
Nếu con còn nuôi
hy vọng trong
ảo tưởng rằng con sẽ
tiếp tục sống mãi sống hoài,
Nếu con còn sống với tâm
mê muội như thế thì đó thực là một tai hoạ
vô cùng to lớn!
Xin Thầy hãy độ cho con để con có thể đem cái chết vào
con đường Đạo.
Trong cơn xoáy lốc của những trận
gió nghiệp,
Xin cho tất cả mọi
lo âu và
đau đớn gây ra bởi sự
kết thúc của
đời sống, của thân xác này,
Và bởi sự tan rã
tán loạn của năm luân xa kinh mạch nơi đỉnh đầu, cổ họng, tâm điểm[3],
đan điền[4] và
trung tâm kín,
Xin cho những
lo âu và
đau đớn đó được
an nhiên xoa dịu ở mỗi nơi sự tan rã đang xảy ra.
Khi
năng lực tiêu hoá đến lúc tàn tạ, con không còn có thể
hấp thụ thức ăn được nữa;
Khi nguồn
sinh lực tan biến mất thì
phản ứng và sự
chú tâm của con sẽ trở nên
lu mờ;
Khi giòng khí lực chảy xuôi xuống để thanh lọc
thân thể con bị
suy tàn, con sẽ không
kiểm soát được đường tiêu tiểu nữa.
Xin cho con
nhận biết ra được những dấu hiệu của sự
hoại diệt của
luồng sinh khí trong con.
Khi giòng khí lực chảy ngược lên của cơ thể đến lúc phải
suy sụp, con sẽ không còn có thể nuốt trôi
thức ăn và
thức uống,
Ngay cả truyện trò cũng sẽ trở nên rất khó khăn, và
hơi thở con sẽ đứt quãng.
Khi nguồn
sinh lực thường khi chan hoà trở nên
suy nhược thì mọI
di chuyển đi đứng nằm ngồi sẽ thành ra khó nhọc.
Vào giây phút ấy, biết chắc rằng cái chết đang thật sự xảy đến, xin cho con không còn chút gì tiếc nuối.
Thân xác này, từ khởi thủy, vốn đã sinh ra từ bốn
yếu tố đất, nước, gió, lửa [5],
Thì
chung cuộc rồi cũng sẽ quay
trở về mà tự
hoại diệt trong từng
yếu tố kia.
Nhận thức ra được những dấu hiệu bên ngoài, bên trong và những dấu hiệu
ẩn mật của sự
hoại diệt này,
Xin cho tâm con chan chưá
hình ảnh của Thầy, bậc
đạo sư tâm linh.
Khi
yếu tố đất tan vào
yếu tố nước,
năng lực của cơ thể cũng tan biến,
Dấu hiệu bên trong là một
tâm trí lu mờ và rối rắm [6],
Dấu hiệu
ẩn mật là mọi
hình tướng con nhìn thấy
trước mắt sẽ lấp lánh như kim tuyến,
Vào giây khắc đó, xin cho tâm con không
xao lãng nghĩ đến ai khác ngoài Thầy.
Khi
yếu tố nước tan vào
yếu tố lửa, miệng và mũi con sẽ trở nên ráo khô không còn chất ẩm, tiếng nói con sẽ tắt,
Tâm trí con sẽ bị xáo động và những luồng khói mờ
hiện ra như là dấu hiệu
ẩn mật,
Xin cho con
nhận biết ra được sự
xuất hiện của
trạng thái sương khói mịt mờ này,
Và hiểu rằng chẳng có gì trong
trạng thái này để con có thể
bám víu vào được.
Khi
yếu tố lửa tan vào
yếu tố gió,
cảm giác trong
thân thể con sẽ là một sức nóng thiêu đốt
kinh hồn,
Dấu hiệu bên trong sẽ là sự
xuất hiện của
trạng thái bất giác và
giác quan rối loạn,
Và dấu hiệu
ẩn mật sẽ tựa hồ những con đom đóm lập loè.
Xin cho con
nhận diện được
kinh nghiệm luân chuyển giữa hai
trạng thái sáng suốt và
mê muội này.[7]
Khi
yếu tố gió tan vào thức,
Dấu hiệu bên trong sẽ là sự
hiện diện của
vô số ảo giác [8],
Và dâú hiệu
ẩn mật là
tâm thức thuần khiết của con sẽ cháy bùng lên như một
ngọn đèn.
Vào giây khắc đó, xin cho con một lòng nhớ đến
đại pháp chuyển-di-thần-thức [9]
vô cùng thâm thúy.
Khi thức tan vào
không gian, tất cả
sáu giác quan của con sẽ tuyệt dứt.
Xin cho con
nhận biết ra được rằng
Giác Tánh của con hiện đang trú ẩn ở giữa
Tinh chất trắng chảy xuôi xuống từ đỉnh đầu, [10]
Và
tinh chất đỏ chảy ngược lên từ
đan điền.[11]
Với hai
tinh chất chảy xuôi và chảy ngược này như những
yếu tố thành tựu nhân duyên,
Tâm con sẽ phóng ra ba
kinh nghiệm mang màu sắc trắng, đỏ, và đen cực đen.[12]
Và tám mươi thức --
bản chất của
vô minh và tâm
sân si trong con -- sẽ
hoàn toàn chấm dứt [13].
Xin cho con
nhận biết đuợc đó chính là sự rạng ngời của ba giai đọan Sinh, Khởi và
Thành Tựu [14].
Sự hội tụ của hai
tinh chất trắng, đỏ và
tâm thức con ngay tại đường kinh trung-đạo,
Chính là
tinh túy thuần khiết của đại Giác-Ngộ
viên mãn,
Là
cảnh giới của
Chân Đế, là sự
trong sáng rạng ngời và
bất biến của Chân-Như.
Xin cho con
nhận biết ra được điều này khi
trạng thái ấy
hiển lộ trong con.
Nhưng nếu vì những
thói quen lôi kéo của
quá khứ mà con không
đạt được đến
giải thoát khi
trạng thái ấy xảy ra,
Thì khi
hơi thở cuối cùng của con
chấm dứt, [15] vào lúc giai đoạn
Chân Tánh ló dạng, [16]
Xin cho con
nhận biết ra được rằng tất cả những
âm thanh cuồng nộ và ánh sáng chói chan
xuất phát ra từ thân và tâm con đó,
Không là gì khác hơn ngoài chính
kinh nghiệm từ tâm con phóng ra.
Xin cho con không
sợ hãi một chuỗi
cuồn cuộn những khối cầu ánh sáng
rực rỡ và những chiếc dĩa tròn nhỏ bé mang sắc cầu vồng chói lòa,
Không
sợ hãi trước sự
xuất hiện nườm nượp của những vị thần
an bình và hung nộ,[17]
Không
sợ hãi những
âm thanh vang rền
phát khởi tự Chân Như.
Xin cho con
nhận biết ra được rằng tất cả những
hình tướng, màu sắc và
âm thanh đó chính là sự
hiện diện linhh động và
thuần khiết của tâm con, là
Tuệ Giác Chân Như viên mãn.
Tuy nhiên, nếu con vẫn chưa
đạt được giải thoát vào giây phút này vì tâm con còn nhiều
tham sân si và còn
nặng nghiệp,
Thì xin cho con
nhận biết ra được bốn
âm thanh khủng khiếp [18] vang lên trong giai đoạn trung-giới của sự Hình Thành,[19]
Cũng như sáu dấu hiệu hoang mang [20] và ba
vực thẳm hãi hùng [21] kia,
Tất cả chỉ là
ảo giác chứ không hề có thật.
Nhận rõ ra được khuôn mặt của
tử thần, con khẩn gọi Thầy từ đáy tim con,
Hết lòng tin tưởng vào những
ý nghĩa trọng yếu của lời Thầy dạy.
Xin cho con không đi
tìm kiếm một
bào thai tanh hôi của cõi ta-bà
Mà sẽ
chuyển di thần thức của con đến
cảnh giới Liên Hoa trang nghiêm tịnh độ. [22]
Nói
tóm lại,
xuyên qua tất cả mọi giai đoạn,
Xin cho con không một giây khắc nào quên đi rằng
Vô vàn
trạng thái tâm thức chuyển hoá liên tục của con
Không chút gì khác biệt với
trí tuệ viên mãn của đức
Liên Hoa Sanh. [23]
Tâm thức của con và
tâm thức của bậc
đạo sư tâm linh [24] đã chan hoà thành một.
Con nay đã về an trụ trong
Giác Tánh Chân Như chính tự nơi
sắc thân này.
Nhờ vào những hoá-thân sinh ra do
tâm nguyện từ bi của con, nhiều vô vàn
như không gian
vô biên,[25]
Xin cho con dẫn dắt hết tất cả mọi
chúng sinh đến được bờ
Giác Ngộ.
Vì cần có một
bài kinh ngắn gọn, cô đọng nhưng đủ
thâm sâu để hướng dẫn
chúng sinh về giai đoạn trung-giới trong tiến trình của cái chết, và cũng do lời
thỉnh cầu của hai vị Tamdrin Dorje và Mindrol Nyingpo, những giòng kinh nguyên bản này đã đuợc soạn ra bởi Nats’og Rangdrol thuộc giòng Drikung [Kagyu].
Thật ra, người ta sẽ không thể hưởng được quả gì
nếu không thường xuyên để cho những lời kinh hướng dẫn về cái chết
thấm nhuần trong tâm mình, tựa hồ như những lời lẽ ấy
trở thành chính những tế bào của thân và tâm. Bởi thế, để giúp các con có thể
đọc tụng hằng ngày, ta [Nats’og Rangdrol] đã soạn ra
bài kinh nhật tụng này.
Dù sao đi nữa,
nếu không tinh tấn mà chỉ
đọc tụng sơ sài thì các con cũng sẽ không thực sự thấu hiểu và
thấm nhuần được gì cả. Với tâm cầu tìm nghiêm túc, các con hãy tìm đọc thêm những lời
chỉ dẫn và kinh tụng trong kinh bản ‘Đại
Giải Thoát Qua Sự Lắng Nghe Trong Cõi Trung-Giới’ [26] và nhất là, hãy tìm đọc
luận giải do ta soạn, tập ‘Nguyên Tắc
Căn Bản Của Cõi Trung-Giới: Tấm Gương Soi Của Sự
Tỉnh Thức.’ [27] Đọc và hiểu được như thế rồi, hãy đem ra
thực hành.
Mike Dickman chuyển từ Tạng-ngữ sang Anh-ngữ
Drikung Dzogchen Translation Project
Tâm Bảo Đàn chuyển từ Anh-ngữ sang Việt-ngữ, viết lời
giới thiệu và chú thích
Drikung Mahayana Center
2003
Lời
giới thiệu và chú thích của bản Việt-ngữ
dựa trên lời giảng dạy của các
đại sư Garchen Rinpoche, Traga Rinpoche, và Ontul Rinpoche (thuộc giòng Drikung Kagyu Mật-tông Tây-Tạng ) cũng như trên các
tài liệu tham khảo đã được dịch qua Anh-ngữ dưới đây:
- The Tibetan Book of the Dead (W.Ỵ Evans-Wentz, Oxford University Press, 1960)
- The Tibetan Book of the Dead (Fremantle and Chogyam Trungpa, Shambhala, 1975)
- The Mirror of Mindfulness (Tsele Natsok Rangdrol, Rangjung Yeshe Pub.,1987)
- Bardo Teachings (Lama Lodo, Snow Lion Pub., 1987)
- The Bardo Guidebook (Chokyi Nyima Rinpoche, Rangjung Yeshe Pub.,1991)
- The Tibetan Book of Living and Dying (Sogyal Rinpoche, Harper San Francisco, 1993)
- The Tibetan Book of the Dead (Robert ẠF. Thurman, Bantam Books, 1994)
- The Hidden Teachings of Tibet (Tulku Thondup Rinpoche, Wisdom Pub., 1997)
- The Tibetan Book of the Dead for Reading Aloud (Jean-Claude Van Itallie, North Atlantic Books, 1998)
- A Brief Overview of the Bardo (Thrangu Rinpoche, Namo Buddha Pub., 1999)
- The Illustrated Tibetan Book of the Dead (Stephen Hodge/Martin Boord, Sterling Pub., 1999)
- Luminous Emptiness: Understanding the Tibetan Book of the Dead (Francesca Fremantle, Shambala, 2001)
Chú Thích:
[1]‘Thầy’ hay ‘bậc
đạo sư tâm linh’ dùng để chỉ đức
Liên Hoa Sanh. Theo
truyền thống Mật-tông,
hành giả phải hướng tâm đến vị thầy gốc hay bổn sư của
cá nhân hành giả trong
trạng thái tâm đồng tâm với đức
Liên Hoa Sanh và với
chư Phật mười phương. Phật-tử người Việt có thể hướng tâm đến
đức Phật A Di Đà hoặc đức
Quán Thế Âm Bồ Tát trong khi
đọc tụng kinh này, hoặc nếu theo một
tôn giáo khác thì có thể hướng tâm đến bất cứ vị thầy hay
thánh tăng nào mà mình thấy
tôn kính, gần gũi nhất.
[2] Thân-trung-Ấm là danh từ để chỉ Cõi Trung-Giới. Ở đây, ‘ngõ thoát chật hẹp’
ám chỉ một cơ hội đầy rẫy khó khăn,
cần phải khéo léo và
tỉnh thức thì mới đạt đuợc
giác ngộ.
[3] Tâm điểm: giữa ngực ngang tầm với trái tim
[4]
Đan điền: khoảng cách 3-4 ngón tay ngay dưới rốn
[5] Bốn
yếu tố đất nước gió lửa: (1)
da thịt, xương, tóc, móng tay, (2) chất lỏng, (3) khí
vi tế và (4) nhiệt của cơ thể.
[6] Khi
yếu tố đất tan vào
yếu tố nước, ngoài một
tâm trí lu mờ,
thân thể ta cũng sẽ không giữ nhiệt được nữa và ta sẽ
cảm thấy lạnh thấu xương từ trong ra đến ngoài.
[7]
Kinh nghiệm luân chuyển giữa hai
trạng thái sáng suốt và
mê muội có nghĩa là ta sẽ chập chờn lúc mê lúc tỉnh.
[8]
Ảo giác cho ta thấy những người thân đã
quá cố bây giờ lại hiện về; ai đã từng
tu học có thể sẽ thấy các vị thầy, hay
thánh tăng hiện ra, cón nếu ai mang
nghiệp ác thì sẽ thấy hung thần,
ác quỷ, v.v
[9]
Đại pháp chuyển-di-thần-thức là pháp tu Mật-tông có tên là ‘Phowa.’ Trong
trạng thái thiền định,
hành giả tự phóng
thần thức của mình qua luân xa trên đỉnh đầu đến
cảnh giới tịnh độ của
đức Phật A Di Đà. Những vị
tu chứng đắc cũng có thể giúp người chết bằng cách
hộ trì và giúp chuyển
thần thức của người ấy lên
cõi tịnh độ;
tuy nhiên, việc này
tùy thuộc vào rất nhiều
yếu tố khác nhau, chẳng hạn như
quả vị chứng đắc của vị thầy, cộng với
công phu tu tập và phước báu của người chết.
[10]
Tinh chất trắng là
nhân lực dương ta nhận đuợc từ cha;
tinh chất này thường khi tụ tại đỉnh đầu, nay sẽ chảy xuôi xuống dưới cơ thể để tụ lại ở tâm điểm của đường kinh
trung đạo vi tế.
[11]
Tinh chất đỏ là
nhân lực âm ta nhận được từ mẹ;
tinh chất này thường khi tụ tại
đan điền, nay sẽ chảy ngược lên cơ thể để tụ lại ở tâm điểm của đường kinh
trung đạo vi tế.
[12]
Kinh nghiệm mang màu trắng xảy ra khi
tinh chất trắng từ đỉnh đầu chảy xuôi xuống;
kinh nghiệm màu đỏ xày ra khi
tinh chất đỏ từ
đan điền chảy ngược lên; và
kinh nghiệm màu đen xảy ra khi hai
tinh chất này tụ hội
tại tâm điểm của
trung đạo.
[13] Ba
kinh nghiệm giải thích trên đây đưa đến sự tuyệt dứt của 80 thức, tức
bản chất của
vô minh và tâm
tham sân si trong ta. Vào giây khắc hai
tinh chất trắng và đỏ hội tụ lại,
tâm thức ta
hoàn toàn tách rời khỏi thân xác
vật lý, và ta sẽ rơi vào
trạng thái ‘bất giác’ (unconscious).
Tuy nhiên, theo nhiều kinh sách và hướng dẫn của các
đại sư chứng đắc, đó lại chính là lúc
thuận lợi nhất để an trụ trong Giác-Tánh và đạt đuợc
giải thoát vì
tâm thức ta khi ấy trở nên sáng rỡ gấp 9 l ần khi ta còn sống vì khi ấy, ta không bị vô mình và tâm
tham sân si che lấp.
[14] Ba giai đoạn Sinh, Khởi và
Thành Tựu xảy ra lần đầu trong giai đoạn Hình Thành, khi
tinh chất của trắng của cha và đỏ của mẹ hội tụ lại để tạo ra
sắc thân ta.
Tâm thức ta cũng từ đó mà thành. Ba giai đọan này xảy ra lần nữa khi ta chết,
tinh chất trắng và đỏ chảy xuôi và chảy ngược lên để hội tụ
tại tâm điểm trong ta;
tâm thức ta cũng về tụ lại tại đó.
[15] Khi
hơi thở cuối cùng chấm dứt ám chỉ hơi thở vi tế bên trong. Theo Mật-tông Tây-Tạng, khi
hơi thở cuối cùng bên ngoài (outer breath)
chấm dứt, người chết vẫn chưa chết hẳn.
Cho đến khi nào
hơi thở vi tế cuối cùng bên trong (inner breath)
chấm dứt thì đó mới thực là chết.
Hơi thở bên ngoài là do sự
hô hấp của hai buồng phổi.
Hơi thở bên trong là một tiến trình
vi tế có
trọng tâm nằm ngay giữa trái tim. Khoảng
thời gian giữa hai
hơi thở bên ngoài và bên trong có thể chỉ rất ngắn trong một vài phút, có thể kéo dài trong nhiều tiếng đồng hồ, nhưng không bao giờ kéo dài quá một ngày.
[16] Chân-Tánh ló dạng
ám chỉ thời điểm khi ánh ‘tịnh quang’ (Dharmata)
xuất hiện, có thể kéo dài từ 2-3 ngày rưỡi sau
hơi thở vi tế cuối cùng bên trong (inner breath)
chấm dứt. Đây là
thời gian thuận lợi nhất để có
thể đạt đuợc
giải thoát nếu
chúng ta biết an trụ trong
thiền định và hoà nhập vào ánh ‘tịnh quang’ của Chân-Như.
[17 Những vị thần
an bình và hung nộ trong Cõi Trung-Giới đều do tâm sinh ra
dựa trên 5 trí. Theo kinh sách Mật-tông, có 42 vị thần
an bình và 58 vị thần hung nộ. Khi ta còn sống, những vị thần này trú ẩn trong luân xa và các đường kinh mạch
vi tế của ta, và sẽ
hiện ra sau khi ta chết tuỳ vào
duyên nghiệp,
căn cơ của từng người. Những
hành giả Mật-tông Tây-Tạng thường
quán tưởng và
an trú trong linh ảnh của những vị thần này, nhất là những vị thần hung nộ với
hình tướng vô cùng ghê rợn để tận diệt tâm
đối đãi,
sợ hãi, và bám chấp. Đối với nguời
bình thường thì vào lúc đó, ta sẽ không
nhận diện ra đuợc linh ảnh của những vị thần này mà sẽ chỉ thấy vô vàn ánh sáng, mầu sắc cực kỳ chói chan,
cộng thêm với những
âm thanh đinh tai nhức óc, làm cho ta
vô cùng hoang mang,
sợ hãi. Nhưng nếu ta biết hoà nhập,
an trú trong linh ảnh và ánh sáng đó,
nhận thức được đó chính là do tâm tạo thì ta sẽ tức khắc đạt đuợc
giải thoát.
[18] Bốn
âm thanh khủng khiếp là động đất, núi lở,
sấm sét và lửa cháy phừng phừng.
[19] Giai đoạn Hình Thành (bardo of Becoming)
ám chỉ giai đoạn
tìm ra nẻo
đầu thai để
trở lại cõi
luân hồi.
[20] Sáu dấu hiệu hoang mang vì ta nay không còn thân xác,
lui tới vất vưởng không nơi trú ẩn, tâm ta
rối loạn,
cảm giác quanh co lạc lối, ta chỉ hưởng được mùi hương của
thức ăn, ta không còn nương tựa vào nguời thân được,
kinh nghiệm rối bời và ta bị cuốn bay đi như một chiếc lá trong cơn gió lớn.
[21] Ba
vực thẳm hãi hùng là
cảm giác té xuống 3
vực thẳm đen tối;
kinh nghiệm này
liên hệ tới
vô minh và tâm
sân si.
[22]
Cảnh giới Liên Hoa trang nghiêm tịnh độ theo Mật-tông Tây-Tạng là một
cõi giới do đức
Liên Hoa Sanh tạo thành
do bởi tâm nguyện muốn
hoá độ chúng sinh của ngài, không khác với cõi
Cực Lạc của
đức Phật A Di Đà. Ở đây, Phật-tử người Việt nên thay vào bằng
hình ảnh của cõi
Tây Phương Cực Lạc.
[23] Ý nói tâm đồng tâm với đức
Liên Hoa Sanh; một cách khác, tâm của
hành giả nay đã đồng
tâm Phật, tức đã
đạt được giác ngộ viên mãn.
[24] Bậc
đạo sư tâm linh ở đây ý nói đức
Liên Hoa Sanh. Ta có thể thay thế bằng
đức Phật A Di Đà.
[25] Những
hoá thân sinh ra do
tâm nguyện từ bi của con có nghĩa là sau khi đã
thành tựu Phật quả, ta sẽ không an trụ trong
Niết Bàn mà sẽ
tiếp tục hoá thân trở lại trong cõi ta-bà dưới nhiều hình dạng khác nhau để
hoá độ chúng sinh.
[26] Kinh bản này có tên Tạng-ngữ là ‘Bardo Thodol’ đã đuợc dịch qua Anh-ngữ dưới tên ‘The Tibetan Book of the Dead’ (xem phần dẫn sách) và qua Việt-ngữ dưới tên ‘Tử Thư Tây-Tạng’.
[27]Kinh bản này đã được dịch qua Anh-ngữ dưới tên ‘The Mirror of Mindfulness’ (xem phần dẫn sách).