Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 11: Lý Luận Đúng, Quyết Định Hay

26 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11876)
Chương 11: Lý Luận Đúng, Quyết Định Hay


LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
Về Sự Thành Tựu Trong Gia Đình, Nơi Công Sở, Ngoài Xã Hội

Tỳ Kheo Tiến Sĩ Basnagoda Rahula
Chuyển Ngữ sang tiếng Việt: Diệu Liên Lý Thu Linh & Diệu Ngộ Mỹ Thanh 2010

Chương 11

Lý Luận Đúng, Quyết Định Hay

Nếu biết hành động này là đúng,

Không gây tổn hại, mang niềm vui, ích lợi, đáng khen,

Hãy thực hành và làm theo điều đó.[1]

Tăng Chi Bộ Kinh

 Loại bỏ các lý luận ngụy biện chỉ là bước đầu của việc quyết định dựa trên lý tríĐức Phật dạy rằng sau đó chúng ta phải bắt đầu tiến trình để đạt tới quyết định thích hợp nhất. Để hiểu được tiến trình đó, trước hết chúng ta hãy nhìn vào trạng thái tâm của người đã từ bỏ các hình thức lý luận ngụy biệnChúng ta sẽ thấy những gì được Đức Phật xem là tiến trình đánh giá đúng, chân chính, để đi đến các quyết định chính xác.

 Điều quan trọng là khi giúp chúng ta loại trừ lý luận ngụy biện, Đức Phật cũng trang bị cho ta những gì cần thiết để có các quyết định hợp lý: đó là sự tự do nội tại. Chúng ta đã thấy các hình thức tranh luận sai lạc hạn chế khả năng tiếp thu và nhiễu loạn khả năng lý luận của ta như thế nào. Và khi chúng không còn ảnh hưởng đến việc quyết định thì ta sẽ thấy khả năng tư duy hợp lýtự do tư tưởng của ta không còn bị giới hạn như thế nào.

 Tuy nhiên, khi bàn đến khái niệm tự do nội tại, chúng ta cần phải hết sức cẩn trọng. Theo Đức Phật, loại bỏ lý luận ngụy biện, không có nghĩa là sau đó chúng ta có quyền làm bất cứ điều gì mình thích. Khi giúp chúng ta loại trừ lý luận ngụy biện, Đức Phật đã khai mở cho chúng ta con đường để vượt lên trên những ràng buộc của xã hội, văn hóa, tôn giáo và sách vở. Ngài khuyến khích chúng ta quán xét các yếu tố khác nhau trước khi quyết định và phải biết tại sao chúng ta lại quyết định, hoặc kiềm chế không quyết định một điều gì đó. Ở đây từ “Biết” là then chốtĐức Phật ban cho chúng ta sự tự do vô giới hạn để quán xét và để biết tại sao quyết định này là đúng, quyết định kia là sai.

 Đối với quyết địnhtác ý của chúng ta, Đức Phật nhắc nhở rằng chính cái trí giúp ta có được quyết định đúng đắn. Trong khi các vị thầy cùng thời với Đức Phật trích dẫn tín ngưỡng, tập tục xã hội để biện minh cho quan điểm của họ, Đức Phật thường chất vấn, “Họ có biết quan điểm của họ là đúng và quan điểm của kẻ khác là sai lầm?”[2] Giống như bao lần khác, ngay sau khi phủ nhận các phương thức khác nhau của lý luận ngụy biện, Đức Phật khuyến khích các đệ tử của Ngài hãy quyết định đúng đắn dựa trên trí tuệ.

 “Hãy tự biết mình” là câu thể hiện rõ ràng quan điểm của Đức Phật.[3] Ngài khẳng định rằng việc chúng ta tiếp nhận hay bác bỏ các tư tưởng, nghi thức cần phải dựa trên chánh kiến. Được tự do tìm kiếm trí giải là phước báo lớn nhất mà chúng ta có thể có được sau khi bỏ qua lý luận sai lầm

 Mù quáng bởi lý luận sai lầm, nhiều người có thể coi sự giả định, giả thuyết, trực giác, hoặc ảo giáctri kiếnTuy nhiên, như Đức Phật đã nói một cách rõ ràng, cụ thể, tri kiến có nghĩa là sự cái biết đúng đắn, cụ thể. Cuộc đối thoại sau đây giữa Đức Phật và Bharadvaja chứng tỏ điều mà Đức Phật muốn nói về tri kiến:

Bharadvaja: Đối với thần chú cổ xưa được truyền khẩu và được lưu giữ trong kinh sách, nhiều người khẳng định, “Chỉ đây là chân lý, ngoài ra là sai lầm”. Vậy thưa Tôn giả nghĩ sao về điều [tranh luận] này?

Đức PhậtNày Bharadvaja, ông nghĩ sao về điều [câu hỏi] này? Trong các vị thầy này, có ít nhất một người nào có thể nói, “Tôi biết và tôi thấy các thần chú này là chân lý, ngoài ra là sai lầm”?[4]

 Lại nữa, theo kinh Vasettha, khái niệm về Phạm Thiên (Brahma) tự nó đã chứng minh là sai vì không có ai cảm nghiệm được sự hiện hữu của Phạm Thiên.[5] Nói chung, tri kiến có nghĩa là bằng chứng hiển nhiên và xác thực, đặc biệt là bằng chứng có được từ kinh nghiệm trực tiếp. Để có được quyết định đúng đắn, chúng ta cần có sự hiểu biết về tất cả mọi thứ liên quan đến quyết định đó.

VỀ CHÁNH KIẾN

 Kinh Kalama tóm tắt một trong những giáo lý dễ hiểu nhất của Đức Phật về chánh kiến. Sau khi nhận dạng các sai lầm trong tranh luận, kinh này triển khai về loại hiểu biết cần thiết cho để ta có thể có quyết định thích hợp nhất.

 Như đã nói trong chương 1, các thành viên trong Tăng Đoàn của Đức Phật đã lưu giữ một bộ sưu tập kinh điển đồ sộ chỉ bằng trí nhớ. Trong quá trình này, các vị đã cô đọng lại các bài pháp dài của Đức Phật để dễ dàng lưu giữ. Kinh Kalama dường như là một trong những bài thuyết pháp được cô động xúc tích nhất. Đặc biệt có một phần nói về chánh tri kiến trong sự quyết định hẳn là đã được Đức Phật giải thích tường tận, nhưng giờ chỉ còn được hai đoạn văn. Tuy nhiên, dầu rất cô động, phần này trong kinh Kalama cũng hướng dẫn cho chúng ta rất tường tận việc tiến đến sự hiểu biết đúng đắn cần có cho những quyết định khôn ngoan. Cùng với các bài giảng khác, kinh này trình bày một hình ảnh rõ ràng về điều mà Đức Phật muốn nói đến với “sự hiểu biết đúng đắn” trong quyết định.

BỐN CÁCH ĐÁNH GIÁ CHÍNH XÁC 

 Kinh Kalama trình bày bốn tiêu chuẩn đánh giá chính xác, tất cả đều dựa vào tri thứctri kiến, để đưa ta tiến đến các quyết định đúng đắnChúng ta cần phải áp dụng tất cả bốn tiêu chuẩn này để đi đến duy nhất một quyết định khôn ngoan. Hãy xem xét từng tiêu chuẩn đánh giá để chúng ta có thể thảo luận một cách chi tiết.

Tiêu Chuẩn Đánh Giá Đúng -1 :

ĐỘNG CƠ BẤT THIỆN ĐƯA ĐẾN QUYẾT ĐỊNH SAI LẦM

 Đức Phật dạy rằng khi bị thúc đẩy bởi một động cơ không chính đáng thì ta sẽ có quyết định sai lầm. Theo Đức Phật, ba động cơ không chính đáng này là: tham, sân, và si. Dĩ nhiên, ba động cơ này rất phổ biến với tất cả mọi người, nhưng như Đức Phật đã giải thích, chúng có thể dễ dàng làm sai lệch sự quyết định.

 Trong chương trước, chúng ta đã nói si mê -động cơ thứ ba được nhắc đến ở đây- có khuynh hướng đưa ta đến quyết định sai lầm như thế nào. Chúng ta đã thấy các quan niệm mê muội giới hạn sự tự do nội tại và chế ngự sự suy nghĩ hợp lý của một cá nhân như thế nào. Trong phần này, chúng ta sẽ phân tích tham và sân, hai động cơ có chiều hướng ngăn trở sự quyết định sáng suốt.

 Tham gây ảnh hưởng bất lợi cho sự quyết định như thế nào? Để làm rõ xem tham đưa đến quyết định thiếu sáng suốt như thế nào, trước hết chúng ta cần hiểu rõ ý nghĩa của tham

 Đức Phật đã sử dụng những từ khác nhau như lobha, raga, tanba, mahaiccha để nói về tham, động cơ bất thiện này. Lobha có thể được định nghĩa là “lòng ham muốn vô độ về vật chất hay quyền lực”. Raga căn bản nói về sự ham muốn được thỏa mãn nhục dục. Tanha có nghĩa là “lòng ham muốn sở hữu của cảithỏa mãn dục lạc”. Mahaiccha ám chỉ sự suy nghĩham muốn vượt trên nhu cầu cần thiết. Ở đây chúng ta sử dụng từ tham, để bao gồm tất cả các nghĩa nói trên. Các khía cạnh khác nhau về tham rõ ràng cản trở sự quyết định khôn ngoan.

 Sự ham muốn không kiềm chế để thỏa mãn dục lạc chắc chắn sẽ đưa đến hành vi tai hại, ngông cuồng. Kết quả là những quyết định do lòng tham biểu hiện sự thiếu trí tuệ của người quyết địnhHành vi bất thiện, hay kamesu micchacara, là hành vi kế tiếp của người bị lòng tham chế ngựHành vi này gần như luôn đưa đến những hậu quả tai hạiĐức Phật đã có lần nhận xét, “Ta chẳng thấy gì khác ngoài lòng tham đã tạo ra nhiều hậu quả tai hại. Lòng tham rất tai hại”.[6]

 Đức Phật đã liệt kê một số các hậu quả tiêu cực này, “Tanha tạo ra buồn rầuđau khổ; tanha dung dưỡng sự sợ hãi”.[7] Bị che mờ bởi lòng ham muốn thỏa mãn ái dục do thân tâm nung nấu, người tham có thể cho điều sai là phải, rồi quyết định một cách thiếu trí tuệ. Họ không biết rằng khổ đau sẽ là kết quả tối hậu của việc quyết định bằng lòng tham. Để làm rõ giáo lý của Đức Phật, ngài Ananda, một vị đệ tử của Phật đã nhận xét rằng, do lòng tham, ta không phân biệt được đâu là lợi và đâu là hại.[8] Yếu điểm này của người tham làm cho các quyết định của họ trở nên hồ đồ.

 Những hành động hung bạo, tàn nhẫn, phá hoại, được nhen nhúm bởi lòng khao khát quyền lực cho thấy tham có thể ảnh hưởng nặng nề hơn đến việc quyết định như thế nào. Đức Phật nói, “Tư tưởng tham lam, ‘Tôi sẽ trở nên mạnh mẽ; quyền lực rất quan trọng đối với tôi,’ tạo ra nhiều ảnh hưởng xấu ác. Khi bị lòng tham chế ngự và thiếu sự tự chủ, ta có thể gây đau khổ, bất công cho người khác bằng những hình thức như trừng phạt, giam cầm, hủy hoại tài sản, ám sát, và trục xuất”.[9] Chúng ta chỉ cần nhìn vào một số các nhà lãnh đạo trên thế giới trước đây – những kẻ đã thất bại nhục nhã – để nhận thấy sự thật trong câu nói này. Họ tàn phá các quốc gia, tiêu diệt bao thế hệ, và tạo ra đau khổ vô hạn cho con người vì họ tham lam tìm kiếm quyền lực. Các quyết định của họ được minh chứng là sai lầm không chỉ vì đường lối của họ bao gồm những lỗi lầm lớn mà còn vì họ chẳng bao giờ tìm thấy hạnh phúc mà họ chạy đuổi theo một cách vô vọng.

 Hơn nữa, những hành động bất thiện, vô ích xuất phát từ lòng tham mù quáng càng minh chứng cho lời dạy của Đức Phật rằng một quyết định bị thúc đẩy bởi lòng tham không thể là quyết định khôn ngoan. Ngài Ananda đã nhận xét, “Lòng tham vô hạn khiến tâm mù quáng, che mờ tầm nhìn và làm cạn kiệt trí tuệ”. Do đó, người tham lam “tạo ra các hành động bất thiện qua ý nghĩ, lời nói, và việc làm”. Những hành động này tạo ra “ảnh hưởng tai hại cho bản thân, cho người hay cho cả hai”.[10] Những hậu quả tai hại do quyết định vì lòng tham khẳng định sự vắng mặt của trí tuệ trong khi quyết định.

 Nói chung, Đức Phật đã giải thích rõ ràng lòng tham, khuynh hướng nội tại thiếu kiềm chế, thiếu kiểm soát, để thỏa mãn dục lạcquyền lực, lôi kéo con người vào những quyết định dại dột như thế nào. Mù quáng bởi lòng ham muốn vô độ để thỏa mãn bản thân, và để tìm danh vọng trong xã hội, những người tham lam thường lấy sai làm đúng. Do đó, họ tự khiến bản thân có những quyết định thiếu lý trí. Sự thiếu hiệu quả và những mối đe dọa trong hành động của họ là chứng cứ của sự thiếu khôn ngoan trong quyết định của họ.

 Sân làm cạn kiệt trí tuệ trong quyết định như thế nào?  Đức Phật sử dụng những từ như dosa (căm thù, ác ý), kodha (giận dữ), upanaha (hận thù, ác ý, thù hằn), và aghata (sự gây hại) để nói về trạng thái tinh thần này. Tất cả các từ đều chỉ cho sự biểu hiện đa dạng của một bản tính duy nhất của con người: bản năngnỗ lực để loại bỏ bất cứ điều gì đem lại sự thất vọng, bất như ýĐức Phật đã giải thích việc quyết định dựa trên bản tính tai hại này sẽ không thể phản ảnh trí tuệ của ta như thế nào.

 Đức Phật đã chỉ cho ta thấy sự liên quan chặt chẽ giữa tham và sân – cả hai có chiều hướng làm cho ta quyết định thiếu sáng suốt như nhau. Khi tâm tham khởi lên, thì sân cũng có mặt để làm suy giảm sự phán đoán sáng suốt của ta. Cả hai tham và sân đều khiến tâm trở nên mù quáng để nó không còn biết phân biệt lợi hại. Cả hai đều kích động ta có những hành động đem lại khổ đau. Cả hai cùng ngăn trở sự sáng suốt trong việc quyết định của ta.

 Ngoài việc song hành với tham, sân cũng có những ảnh hưởng tai hại riêng đối với việc quyết định của ta dưới nhiều hình thức. Tư tương sân hận, hay ác ý thường gieo vào đầu ta những ý nghĩ sai lệch, khiến ta nghĩ rằng hành động trả đũa dựa trên lòng thù hận có thể giải quyết vấn đề và giải tỏa xung độtDựa trên nhận định sai lầm này, những người đối nghịch nhau tiếp tục tìm phương cách tốt nhất để gây tổn thương cho đối phương. Những hành động như thế chỉ làm cho chuyện đã xấu, còn xấu thêm.

 Đức Phật dạy, “Hận thù không thể thắng hận thù”.[11] Để làm sáng tỏ chân lý này, Đức Phật đã kể câu chuyện ngụ ngôn, qua đó, Ngài chỉ cho ta thấy những cuộc xung đột thường tích tụgia tăng sự tàn phá khi ta giải quyết mâu thuẫn bằng những quyết định dựa trên lòng hận thù.[12] 

 Quan niệm của Đức Phật đối với chiến tranh đã cũng cố thêm sự khẳng định của Ngài rằng quyết định dựa trên lòng thù hận chỉ mang lại những ảnh hưởng xấu, do đó không chứa đựng bất cứ lý lẽ nào.[13] Các chiến binh thuộc hai vương quốc Sakiya và Koliya quyết định đánh nhau để giải quyết sự tranh cãi về nguồn nước uống. Đức Phật đã khuyên can hai thị tộc ngừng giao tranh. Đức Phật đã nói rõ rằng vấn đề không thể được giải quyết bằng giao tranh mà phải bằng cách chia sẻ nguồn nước để cả hai bên đều được hài lòng. Nói cách khác, Đức Phật cho rằng những ý nghĩ sân hậnthù hằnđộng lực nội tại trực tiếp gây ra giao tranh, sẽ tạo khổ đau cho cả đôi bên, khiến họ mất phương hướng và không thể nào có những quyết định hợp lý.

 Sự diễn tả đầy thi vị của Đức Phật về các phản ứng nơi thân và tâm của một người đang sân, là thí dụ tốt nhất để thấy rằng việc quyết định khi sân hận sẽ tác hại đến trí tuệ của ta như thế nào. 

 Ta nói cho những ai, khi đang sân hận, tạo ra 

 Những hành động bất công gây đau khổ.

 Hãy lắng nghe!

 Người đang sân, luôn khó chịu,

 Sống trong bất hạnh hoàn toàn.

 Được lợi ích, lại cho rằng vô ích;

 Gây khổ đau qua lời nói, việc làm,

 Cuối cùng tài sản cũng tiêu tan.

 Bị nhiễm độc bởi lòng sân hận,

 Hắn đáng hổ thẹn làm sao!

 Thân quyến, bằng hữu, và đối tác

 Tất cả đều xa lánh kẻ cuồng sân.

 Sân làm mất mát; sân đốt tâm tư;

 Người ngoài không biết, sợ hãi riêng mình.

 Do sân, kẻ ấy không biết điều lợi ích;

 Do sân, kẻ ấy tăm tối vô cùng.

 Đắm chìm trong cái xấu, lại tưởng rằng là tốt

 Rồi kẻ ấy sẽ khổ đau tựa chìm trong biển lửa.

 Không biết hổ thẹn, không sợ làm điều ác;

 Thì ai kính phục nữa bao giờ.

 Khi sôi tràn lửa hận,

 Thì còn gì an ổn bên trong.

 Lòng sân hận, tạo tội giết mẹ cha;

 Lòng sân hận, giết cả bậc thánh, kể gì ai khác.

 Kẻ sân hận có thể giết mẹ cha,

 Người ban cuộc sống và dưỡng nuôi kẻ ấy cả đời!

 Bản thân ai cũng yêu mình nhất,

 nhưng khi sân trào

 Ta giết cả thân ta. [14]

 Bài thơ này nhấn mạnh rằng sân hậnthể chế ngự lý trí, đưa ta đến những hành vi ngông cuồng. Do sân hận, ta dùng lời thô lỗ, tỏ ra không biết xấu hổ hoặc sợ hãi khi làm những điều càn quấy. Buồn thay, sân hận khiến ta rơi vào mù quáng, nó xui khiến ta tước đoạt mạng sống của người thân hoặc của tha nhân. Sân còn có thể khiến ta mù quáng đến độ tự kết liễu đời mình, vật sở hữu mà ta yêu quý nhất. Tóm lại, với sân không thể có sự sáng suốt khi quyết định, vì sức mạnh không thể chế ngự được của sân có thể biến một người bình thường trở thành một kẻ cuồng điên.

 Rõ ràng, sân hận, ác ý, thù hằn, oán giận, vân vân, đều đưa ta đến sự quyết định thiếu sáng suốt. Sân đi kèm với tham, càng làm tăng thêm sự suy yếu của các quyết địnhTư tưởng sân hận tạo ra ảo tưởng rằng ta có thể giải quyết các vấn đề bằng bạo lực. Thêm nữa, trạng thái tinh thần mất quân bình này khiến ta hoang mang, lôi kéo ta vào một kết luận hoàn toàn phi lýTrạng thái tinh thần hoang mang, lộn xộn này cho ta thấy rõ rằng sân có thể tiêu diệt sự sáng suốt trong quyết định.

Tiêu Chuẩn Đánh Giá Đúng -2:

KHÔNG CÓ ĐỘNG CƠ BẤT THIỆN THÌ QUYẾT ĐỊNH KHÔNG THỂ SAI LẦM

 Đức Phật dạy rằng khi không có động cơ bất thiện thì ta dễ có quyết định đầy trí tuệ. Quy trình này bao gồm hai giai đoạn. Thứ nhất, trước khi quyết định, chúng ta phải nỗ lực giữ cho tâm không bị tham, sân, si chế ngự. Kế đến, chúng ta cần tự thuyết phục bản thân để thay thế các động cơ bất thiện bằng những ý nghĩ thiện. Trong chương trước, chúng ta đã bàn nhiều về si, nên ở đây chúng ta sẽ làm rõ hơn sự liên hệ giữa các quyết định sáng suốt và sự vắng mặt của tham và sân.

 Làm thế nào vô tham có thể giúp ta quyết định đúng. Chúng ta đã thấy tham khiến ta quyết định sai lầm như thế nào. Với ham muốn thỏa mãn bản thân, tham khiến ta mù quáng và đi đến những kết luận phi lý, bất thiện. Ngược lại, vô tham giúp tâm trí trở nên sáng tỏ, dọn đường cho “vô số ảnh hưởng tốt đẹp”.[15]

 Như ngài Ananda đã dạy, vô tham tạo cho tâm tĩnh lặng, gìn giữ giới đức cho cá nhân, và nâng cao khả năng phân biệt hành động tốt xấu.[16] Trong phạm vi này, tâm vô tham đã thiết lập một nền tảng cho những quyết định hợp lý.

 Nhiều bản kinh đều nhấn mạnh rằng tâm tĩnh lặng là nền tảng cho trí tuệ. Trong khi tham và sân làm phát sinh thêm ham muốn, giống như lòng tham vô độ của một vị vua thích xâm chiếm nhiều lãnh thổ vượt bờ đại dương,[17] thì lòng tham được chế ngự đem lại tâm an bìnhTrạng thái tâm vô tham là biểu hiện không thể nhầm lẫn của khả năng quyết định hợp lý.

 Hai đặc tính của tâm vô tham, góp phần mang lại an lạc cho tâm. Trước hết, sự đau khổ nội tâm hoặc trạng thái tâm sân, bạn đồng hành của tâm tham ham muốn, không còn làm phiền não ta. Kế đến, sự chán nản, thất vọng, dấu hiệu của lòng ham muốn dục lạc một cách vô vọng, không còn tiếp tục làm tổn thương ta. Nhờ đó, an lạc trụ lại nơi tâm, làm cho khả năng quyết định điều gì có ích lợi cho bản thân và cho người khác được dễ dàng hơn.[18]

 Đoạn trích dẫn từ giáo lý của Đức Phật dưới đây cho ta thấy một khía cạnh khác của trí tuệ đã được phát huy trong tâm vô tham. Một tâm thức như thế sẽ giúp ta sử dụng uy lực xã hội và chính trị một cách thích hợp:

 Giải thoát khỏi tham, xa lìa tham, và không phiền não bởi tham, do vậy, kẻ có quyền lực sẽ không còn tạo ra khổ đau phi lý cho người khác bằng hình thức trừng phạt, giam cầm, phá hoại tài sản, cưỡng bức hoặc trục xuất.[19]

 Những lời nói này chủ yếu mang thông điệp của sự giải thoát. Khi tâm tham bị chế ngự, lòng kính ngưỡng giới đức - dấu hiệu của trí tuệ - bắt đầu tỏa sáng trong nội tâm.

 Tâm vô tham có thể mang đến cho ta khả năng phân biệt lợi hại là khả năng dễ nhận biết nhất. Tóm lại, “Với vô tham, ta biết điều gì có lợi cho bản thân, điều gì có lợi cho tha nhân, và điều gì có lợi cho cả đôi bên”.[20]

 Làm thế nào tâm vô sân có thể giúp ta quyết định sáng suốtNhư đã nói trước đây, Đức Phật dạy rằng cả tham và sân liên kết với nhau để tạo ảnh hưởng xấu đến quyết định của ta. Chúng ráo riết đè nén lý trí của ta, do đó ngăn trở chúng ta hành động sáng suốt. Ngược lại, vô thamvô si kết hợp sẽ góp phần mang lại những quyết định sáng suốt.

 Đức Phật đã nhiều lần giải thích về vấn đề này. Giống như tâm vô tham, vô si cũng khiến tâm được sáng suốt và gieo trồng giới đức trong tâm. Tâm thức đó sẽ cải thiện khả năng quyết định hợp lý của ta. Theo định nghĩa của Đức Phật, tham và sân, là hai năng lực tiêu cực mạnh mẽ nhất trong tâm thức con người. Chúng che khuất tầm nhìn và nhiễu loạn sự phán đoán của ta. Khi hai năng lực này không còn chế ngự được tâm, ta sẽ lại có cái nhìn sáng suốt, và có thể suy nghĩ thấu tình đạt lý như xưa.

 Theo Đức Phật, diệt trừ được tâm sân đích thực là một thành tựu to tát nhất của con người. Không bị ô nhiễm bởi sân, quyết định của ta sẽ hợp lý hơn, sáng suốt hơn. Tóm lại, những ý nghĩ tham lamsân hận phác họa ra một hình ảnh lệch lạc về các ảnh hưởng có lợi hoặc có hại của sự quyết định.

 Câu “sự vắng mặt của sân”, dĩ nhiên, không có nghĩa là chúng ta đòi hỏi tâm thức phải “trống rỗng” khi quyết định. Đúng hơn, câu này có nghĩa rằng sự có mặt của từ bitình thương là những điều kiện cần có cho một quyết định hợp lý. Sự vắng mặt của sân (thí dụ, giận dữ, thù hằn, oán hận) không có nghĩa là tâm trống vắng; thay vào đó, tâm để cho tình thương yêu, lòng bi mẫn được tràn đầy, lấp kín chỗ trống. Vì vậy, khi các ý nghĩ sân hận không còn, thì tình thương yêu sẽ thế chỗ để giúp ta đánh giá quyết định trước mắt.

 Tình thương hỗ trợ mạnh mẽ cho những quyết định sáng suốt như thế nào? Không nên nghĩ là vì tình thương yêu mà ta phải quên lợi ích của bản thân và chỉ hết sức chú ý đến phúc lợi của người khác như là tiêu chuẩn để có những quyết định hợp lý.

 Trái lại, Đức Phật khuyên ta không nên bỏ qua phúc lợi của mình: thật ra, thương yêu bản thân và có lòng tự trọng cũng là một phần quan trọng của tình thương yêu. Sự phát khởi của những tình cảm này trong tiến trình quyết định thể hiện một sự đánh giá công bình và hợp lý về những ích lợi mà một quyết định có thể mang đến cho bản thân và cho những người liên quan.

Tiêu Chuẩn Đánh Giá Đúng -3:

HẬU QUẢ CỦA QUYẾT ĐỊNH SẼ CHỨNG TỎ LÀ NÓ SAI HAY ĐÚNG

 Đức Phật luôn nhấn mạnh rằng, trước khi xác định một quyết định là đúng hay sai, quyết định ấy cần phải được đánh giá trong giới hạn của những hậu quả có thể xảy ra. Điều quan trọng mà chúng ta cần lưu tâm ở đây là nếu chỉ có động cơ chính đáng thì chưa đủ để đảm bảo một quyết định hoàn toàn đúng. Ngoài việc đảm bảo ta có một động cơ trong sạch, ta còn phải cân nhắc đến những hậu quả có thể xảy ra của một quyết định.

 Dĩ nhiên, việc làm giảm tham sân, và vung trồng tình thương sẽ là nền tảng cho sự phán đoán sáng suốtTuy nhiên, Đức Phật vẫn nhắc nhở rằng chúng ta cần phải tập thiết lập sự tranh luận có lý lẽ dựa trên nền tảng đó, để có thể đạt đến một kết luận hợp lý.

 Một số kinh đã giải thích ý của Đức Phật khi nói, “đánh giá hành động dựa theo hậu quả của nó”. Để hoàn tất trọn vẹn sự đánh giá này, trước hết chúng ta cần trả lời ba câu hỏi sau đây một cách cẩn thận:

Quyết định này có mang lợi ích đến cho bản thân không (atta samhita)?

Quyết định này có mang lợi ích đến cho những người có liên quan không (parattha samhita)?

Quyết định này có mang lợi ích đến cho bản thân và cho những người có liên quan không (ubhayattha samhita)?[21] 

 Trước đây chúng ta đã nói đến sự khẳng định của Đức Phật rằng ta không nên coi nhẹ lợi ích của bản thân. Khi khuyến khích các đệ tử của Ngài có những quyết định mang lại lợi ích cho bản thân, Đức Phật ngụ ý rằng ta cần phải quan tâm đến hạnh phúc và sự thành công của bản thânTuy nhiên, quyết định chỉ để mang lại lợi ích cho một bên thì không thể chấp nhận được. Theo Đức Phật, một quyết định không chỉ cần mang lại lợi ích cho người quyết định mà cả những người liên quan.

 Chúng ta cũng thấy rằng một quyết định mang lại lợi ích không phải lúc nào cũng mang lại hạnh phúcTương tự, một quyết định mang lại hạnh phúc nhất thờithể không lợi ích chút nào cả. Bởi thế, điều quan trọng là nên có sự cân nhắc, đánh giá giữa lợi íchhạnh phúc mà một quyết định có thể mang lại. Vì dù Đức Phật xem lợi ích cá nhân như là một ảnh hưởng tích cực trong việc quyết định, Ngài không bao giờ chấp nhận nó là tiêu chuẩn duy nhất.

 Những hình thức cực đoan của tính ích kỷ hay tính vị tha đều cản trở sự đánh giá sáng suốtTrái lại, sự điều độ, cân bằng sẽ dọn đường cho trí tuệ.

Tiêu Chuẩn Đánh Giá Đúng -4:

HỌC HỎI CÁC QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI TRÍ GIÚP TA CÓ QUYẾT ĐỊNH CHÍNH XÁC

 Đức Phật cũng giải thích rằng sự khích lệ từ các vị thiện tri thức (vinnu-pasattha) và sự bác bỏ hoặc khiển trách từ các vị thánh thiện (vinnugarahita) là những công cụ quan trọng để ta đánh giá sự sáng suốt của một quyết định.[22] Đức Phật khẳng định rằng chúng ta cần áp dụng tiêu chuẩn này khi quyết định buông bỏ điều gì hoặc “chấp nhận và lãnh hậu quả.”

 Câu hỏi quan trọng là, “Ai là người được coi là thiện tri thức?” Nói ngắn gọn là bất cứ ai có khả năng lý luận sáng suốtchế ngự được tham và sân là các bậc thiện tri thức. Những người có tri thức chuyên ngành là những học giảTuy nhiên, điều quan trọng là nếu những người có học thức nhưng thiếu trí tuệ, thì việc nghe theo ý kiến của người ấy có thể khiến ta có những quyết định thiếu sáng suốt. Người xứng đáng để ta dựa vào khi quyết định, phải là người sở hữu kiến thứctrí tuệ.

 

TÓM TẮT

 

 Nói chung, Đức Phật – sau khi bác bỏ sự tranh luận ngụy biện – đã hướng ta đến sự tự do để đánh giá một cách hợp lý khi quyết định. Việc đánh giá đúng về mục đíchhậu quả có thể xảy ra từ một quyết định, lót đường cho chúng ta tiến đến những quyết định có lý lẽ nhất. Quan tâm đến ý kiến của các bậc thiện tri thức cũng giúp ta dễ có quyết định chính xác.

 Câu “chủ nghĩa nhân bản thực dụng”, nhắm đến sự lợi ích thiết thực của một quyết định đối với mọi ngườiliên quan, đã tổng két các quan điểm của Đức Phật trong việc quyết định. Khi đánh giá hiệu quả của một quyết định, chúng ta cần phải cân nhắc về lợi ích cá nhân cũng như lợi ích của những người liên quan. Suy cho cùng, ta (hay bất cứ ai) đều có quyền quyết định tối hậu; nhưng ta cũng phải lãnh trách nhiệm về hậu quả của quyết định đó.



[1] Câu trích từ: Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Maha: Kinh Kalama

[2] Trường Bộ Kinh I: 13: Kinh Tevijja, 187-195

[3] Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Maha: Kinh Kalama

[4] Trường Bộ Kinh I: 13: Kinh Tevijja, 187-195

[5] Trung Bộ Kinh II: 98: Kinh Vasettha, 798-808

[6] Tương Ưng Bộ Kinh I: Phẩm Pamada : 5; 677-691

[7] Kinh Pháp Cú: Kệ 216

[8] Tương Ưng Bộ Kinh III: Phẩm Ananda : Kinh Ananda

[9] Tương Ưng Bộ Kinh III: Phẩm Maha : Kinh Akusalamula

[10] Tương Ưng Bộ Kinh III: Phẩm Ananda: Kinh Ananda

[11] Kinh Pháp Cú: Kệ 5

[12] Kinh Pháp Cú Chú Giải: 1.4: Kaliyakkhiniya Uppatti Vatthu

[13] Kinh Pháp Cú Chú Giải: 15.1: Kalahavupasamana Vatthu

[14] Tăng Chi Bộ Kinh VII: Phẩm Abyakata: Kinh Kodhana

[15] Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Maha : Kinh Akusalamula

[16] Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Ananda : Kinh Ananda

[17] Trung Bộ Kinh II: 82: Kinh Ratthapala, 677-691

[18] Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Ananda : Kinh Ananda

[19] Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Maha : Kinh Akusalamula

[20] Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Ananda : Kinh Ananda

[21] Trung Bộ Kinh II: 61: Kinh Ambalatthikarahulovada; 523-526

[22] Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Maha: Kinh Kalama


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 623)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 640)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 687)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 545)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 589)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 704)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 914)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1070)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1521)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1290)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant