PHÁP MÔN TRÌ DANH NIỆM PHẬT,
VÃNG SANH CỰC LẠC
Tác giả: Huỳnh Lão cư sĩ
Thích Viên Giáo dịch
LỜI NÓI ĐẦU
Niệm Phật tu hành bằng chơn tâm là biết được tánh trọng yếu của vấn đề niệm Phật, không quản ngại công tác nhiều, sự tình bề bộn, tuy thân bận rộn mà tâm không bận rộn, không để việc đời vướng mắc mà bị chuyển đổi. Như gương chiếu hình, hình hiện lên không chỗ nương cậy, hình mất đi không lưu dấu; cả ngày công việc đoanh vây, mà vẫn thong dong ngoài vật. Bởi vậy, hàng ngày lợi dụng những lúc: ngủ dậy, trước khi ngủ, trước và sau khi ăn, trước khi làm việc, sau khi làm việc, lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi... Tùy thời tùy chỗ mà niệm Phật. Lúc công tác dụng tâm suy nghĩ, tạm thời gác câu niệm Phật, công việc xong rồi lại tiếp tục câu Phật hiệu. Niệm Phật nhiều để thành thói quen niệm Phật, trong tâm có Phật thì sẽ được nhất tâm bất loạn; hiện đời này chứng được “niệm Phật tam muội” càng hay. Đó là: không làm các việc ác, vưng làm các pháp lành, tự thanh tịnh nơi ý, ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh thì lúc mệnh chung mới có thể biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ, thần trí trong sáng thì chánh niệm hiện tiền, tâm không điên đảo, ngồi hoặc nằm niệm Phật mà vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Cuộc sống hiện đời yên ổn, tốt đẹp, tự tại, vui vẻ.
Niệm Phật tu hành không chơn là không niệm Phật nhiều, hoặc cho rằng lúc mạng mất tâm còn mời người đến trợ niệm là được; lòng ham muốn phần nhiều chỉ là thành gia, lập nghiệp, mua xe, mua nhà... các điều bận rộn. Bận rộn mãi với miếng ăn, thức uống, chơi bời, dục lạc hưởng thụ bèn nói rằng không có thời gian niệm Phật. Lúc bình thường thì không biết niệm Phật, trong tâm không có Phật. Ba nghiệp thân, miệng, ý lại không thanh tịnh, lúc mệnh chung bệnh khổ rất nhiều, thần trí hôn mê, ác nghiệp hiện ra trước mặt, bàng hoàng lo sợ, sáu thần không chủ, tình ái lại không bỏ được, tà nghiệp hiện tiền, tâm sanh điên đảo, không biết niệm Phật, càng không thể nói là chuyên nhất niệm Phật được, có người trợ niệm cũng uổng vậy. Bởi vì sao? Vì thần trí của người hôn mê, tà niệm hiện tiền, tâm sanh điên đảo, không biết niệm Phật. Người không dựa vào chính mình được, dựa vào người khác cũng dựa không được. Người nhà cũng không biết thời gian người mệnh chung, người nhà chỉ trông nom bệnh tình của người, đến lúc mời đoàn trợ niệm (ban hộ niệm) đến để trợ niệm, có người trợ niệm chẳng vãng sanh, lúc không có người trợ niệm thì đã chết rồi! Người không như lời dạy, không như pháp thì nhân như thế, quả như thế đó!
Cho là việc đời bận rộn ư! Vì lúc hưởng thọ dục lạc, há có thể chẳng e dè thấy nhân sâu xa; chợt vì cái vui khoảnh khắc, chuốc lấy họa ương nhiều đời.
Cần phải biết rằng, giả như giàu có, vàng ngọc đầy nhà, gia thế rạng rỡ, cũng khó tránh khỏi lúc suy tàn già bệnh; có đủ ngàn điều khoái lạc,vô thường đến lúc kề bên, một khi mất thân người rồi, khổ ơi là khổ! Hãy xem người xưa mấy ai có được tốt đẹp trọn đời? Chỉ có niệm Phật tu hành - vãng sanh thế giới Cực Lạc. Lìa khổ được vui - chơn lạc - mới là đường chánh.
Tác giả.
TỰA
Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện nơi đời, dạy ngay cho chúng ta con đường ra khỏi sanh tử. Song pháp của Phật thì mênh mông như biển cả, rộng lớn sâu xa, các pháp môn, hạnh môn rất nhiều. Cần phải xét ngay chỗ cứu cánh, nghiền ngẫm thấu triệt, đối với kẻ phàm phu hời hợt thật chẳng dễ vậy. Đức Như Lai thương xót chúng sanh thời mạt pháp, nghiệp dày phước mỏng, khó thành đạo nghiệp, không vì sự thưa thỉnh mà tự nói “pháp môn niệm Phật”, các kinh đều rộng khen, chư Phật đều tôn vinh công đức bất khả tư nghì này. Đức Phật chỉ thẳng cho chúng sanh cửa ngõ giải thoát, phương tiện tối thắng nương vào: tự lực, Phật lực và tha lực mà thành tựu. Song pháp môn này tuy dễ thực hành được, nhưng kẻ phàm phu ngay trong khi thực hành chỉ cầu phước báo thế gian: tiêu tai, cầu phuớc... mà không biết việc thành Phật, tác Tổ của pháp xuất thế, không biết Phật là thế nào? Đức Phật A Di Đà là như thế nào mà thành tựu được trang nghiêm thanh tịnh, mà phát tâm học tập nơi Phật, thành Phật độ chúng sanh, càng không biết niệm Phật như thế nào để đạt đến “nhất tâm bất loạn”, “niệm Phật tam muội” hiện đời này thành Phật, lìa khổ được vui.
Quyển sách này tác giả là Huỳnh Lão Cư Sĩ vì từ bi, thương cảm đối với việc: khó được thân người, khó nghe Phật pháp, khó gặp thiện tri thức, nên đặc biệt soạn ra quyển: “Trì danh niệm Phật vãng sanh Cực Lạc pháp” chỉ thẳng vào tâm con người, vào chơn tâm niệm Phật tu hành. Như thế nào là niệm? Như thế nào là tu chứng? Để cùng lúc phá trừ một hạng người học Phật tu hành muốn cắt xén tâm tốt, có người ngã mạn cầu thần thông cảm ứng, có người cầu khai ngộ, có người đem tâm vọng tưởng làm chỗ tôn thờ, “dục tốc bất đạt”, cho đến nỗi tạo thành tập khí tồi tệ, tẩu hỏa nhập ma so ra đều là như thế. Quyển sách này mở bày việc cần biết để tu hành, phân đoạn giản dị, rõ ràng, dễ hiểu, trực tiếp ngay một mũi kim mà thấy máu, nương nơi pháp Phật mà tuần tự lần tiến tới, đi vào quy củ, chánh tri, chánh kiến, loại trừ tâm bệnh của chúng sanh, đoạn dứt phiền não. Như thế là học tập tu hành và diệt khổ ngay trong sinh hoạt thuờng ngày. Không đi vào cực đoan, sạch trừ sự hấp tấp trong tâm, Phật tánh mới có thể hiển hiện ra lần hồi cái tâm thanh tịnh của tự tánh. Tâm thanh tịnh tức là Phật, là tâm là Phật. Đây là một quyển sách hay để làm gương soi, nên lưu truyền rộng khắp, mong những người có tâm cùng nhau hoằng dương, đồng nguyện, đồng thực hành, đồng về tịnh độ của Phật A Di Đà.
Ngày 16 - tháng Giêng năm Dân quốc thứ 87
Nhà tịnh ở Phật đường Bảo Quang
DUY NHẤT đề.
Phật tử là người Quảng Đông, sinh năm Dân quốc thứ 18, lúc nhỏ thì không tin Phật, không bái thần, có thể nói trong rối rắm càng mơ hồ rối rắm lộn xộn, hơn nửa đời người, đến lúc sắp đậy nắp quan tài luận tội, mới tin Phật, học Phật tu hành, đáng tiếc muộn một chút, nhưng hãy còn chưa chậm. Trong bảy mươi hai năm, cơ duyên chín muồi, ngẫu nhiên gặp trên báo liên hợp xuất bản có in giúp “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa linh dị lục”, theo đó được mấy bản in giúp, sau đó nhận được quyển “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa linh dị lục”. Lại nhận được mấy tờ tạp chí của “Phật giáo tạp chí xã” từng kỳ gởøi đến, và thỉnh được mấy quyển sách Phật, được nghe Phật pháp, mới để tâm với việc lớn sanh tử, nhân quả (thiện có báo thiện, ác có báo ác). Con người từ đâu sanh ra? Chết đi về đâu? Thế giới ta bà là biển khổ! Người nghèo khổ, người giàu cũng khổ! Khổ nhiều vui ít, ra khỏi ba cõi sáu đường, lìa khổ được vui - gọi là Chơn lạc. Khái lược có nhận thức, chỉ hơi tin Phật mà không học Phật tu hành thì không ra khỏi vòng luân hồi của ba cõi sáu đường, chính như vậy mà bắt đầu học Phật tu hành.
Nhân vì cảm thấy: khó được thân người, khó sinh nơi trung tâm quốc gia, khó nghe được Phật pháp, khó gặp được thiện tri thức, khó sanh được tín tâm, lên một tầng khó hơn một tầng.
Khó được thân người: Con người đời đời kiếp kiếp đều ở trong lục đạo luân hồi, may mắùn có thể được thân người, thật chẳng phải dễ!
Khó sinh nơi quốc gia trung tâm: không phải sanh nơi có Phật giáo thôi, mà Phật giáo lại phải thịnh hành. Trên thế giới, địa phương có Phật giáo không nhiều, mà chỗ Phật giáo thịnh hành càng ít. Như ở Đại Lục ngày trước thì có Phật giáo mà lại thịnh hành, nay chỉ có Phật giáo mà không thịnh hành. Mỹ quốc ngày trước không có Phật giáo, ngày nay có mà không thịnh hành. Đài Loan là nơi có Phật giáo lại thịnh hành...
Khó nghe Phật pháp: pháp môn tịnh độ trì danh, niệm Phật lại càng khó nghe. Kinh Phật là kinh dùng văn nói, văn tả, hiện đại kinh người ta đọc là văn bạch thoại, nếu người không đọc qua văn nói, xem kinh Phật thì không hiểu, lại không thể nói được Phật pháp thông đạt, hiểu rõ nghĩa kinh. Xem kinh Phật không giống như xem sách tham khảo hay phương tiện nào đó, ưa xem thì đến thư viện để xem, nếu muốn xem lại phải mất công sức đi tìm. Người thường được nghe pháp sư giảng kinh thuyết pháp cũng chẳng có nhiều, người có thể nghe pháp sư giảng về phương pháp tu hành trì danh niệm Phật lại càng ít... Nhơn ở nơi chúng tại gia chỉ tin Phật cầu phước báo nhân thiên: ăn no, mặc đẹp, ở nhà tốt, ăn uống vui chơi tận tình, không tu hành!Vì vậy pháp sư giảng kinh thuyết pháp cho chúng tại gia, viết ra chú trọng trên vấn đề học giáo lý ở nơi Phật học, ít đề cập đến phương pháp tu hành học Phật.
Khó gặp thiện tri thức: có thể gặp được người thông đạt Phật pháp, hiểu biết lý nghĩa, lại là bậc thiện tri thức tu pháp môn tịnh dộ trì danh niệm Phật, dạy cho phương pháp tu hành, trì danh niệm Phật, rất khó rất khó!
Khó sanh tín tâm: không tin Phật! Không có gặp ma quỷ thần, chẳng tin có Phật, Bồ tát, hoặc nói Phật giáo là dạy mê tín, thậm chí hủy báng tam bảo. Tin Phật mà không chịu học Phật tu hành, sợ tu hành thì phú quý, vinh hoa, ham muốn vui, hưởng vui không thành được. Muốn tu hành mà ở trong thế giới muôn màu, một khi nghe tu hành cần phải giữ gìn tịnh giới, ăn trường chay, cuộc sống đạm bạc giản dị thô sơ, thì sợ co lại không dám tiến về trước, quay đầu ra sau mà chạy. Hoặc gấp rút ra công cho mau gần tới cái lợi, học Phật tu hành chỉ tu tự lực, tu pháp môn: khai ngộ. Khó tin tịnh độ, chẳng chịu niệm Phật.
Nay đây thân người đã được, lại sanh ở Đài Loan có Phật pháp thịnh hành, có may mắn được nghe Phật pháp, lại biết học Phật: Phương pháp trì danh niệm Phật. Sợ khó ư! Không học Phật niệm Phật tu hành, một khi mất thân người, không biết đời nào kiếp nào lại có thể được nghe Phật pháp! Đèn trước gió - ngày cuối năm sắp hết, bóng dương quang đâu còn được là bao, một khi dụ dự lầm lỗi, chỉ hơi tin Phật mà mê đắm những dục lạc hưởng thụ ở thế giới này, đến lúc mất thân nguời thì khổ thay khổ thay!
Phật tử là chúng tại gia hạ căn, chỉ lược hiểu về Phật pháp, duy có lòng cung kính chí thành, một lòng nguyện sanh thế giới Cực Lạc, y cứ nơi sự dạy dỗ như pháp tín thọ phụng hành, tin sâu thiết tha nguyện trì danh niệm Phật.
Bảy mươi tám năm đơn thân bước vào cửa sen (hạ thủ công phu tu hành), tự che nhà nhỏ, đóng cửa lại, tạ từ dứt mọi ngoại duyên, không có việc không ra khỏi cửa, không xem ti vi báo chí, chẳng nghe âm nhạc, chỉ nghe chơi tân văn rộng rãi, quá ngọ không ăn, chuyên tu trì danh niệm Phật, thời gian từng ngày qua đi được vui vẻ lắm!
Cảm nhận sâu xa kinh điển Phật giáo, sách quyển rất nhiều (ước gần vạn tập). Lúc kinh Phật từ Phạn văn dịch ra Trung văn, người lúc đó dùng văn nói văn viết, nghĩa giáo rộng rãi, lý nghĩa nói ra lúc đó từ ý rất là sâu, danh tướng rất là nhiều, khó đọc khó hiểu - Văn người đời nay đọc là văn bạch thoại, nếu chưa từng đọc qua văn nói, văn rất khó xem, hiểu được Phật pháp, càng không thể nói rõ nghĩa được. Chỗ nói rằng hiểu rõ về Phật pháp, cũng là phần nhiều nương nơi kinh mà giải nghĩa thôi, cũng có nhiều người nghiên cứu đọc tám năm, mười năm cao lắm chỉ hiểu phân nửa. Người đời nay nếu chẳng tu trì trong sạch, qua loa không dễ gì hiểu sâu được nghĩa. Tuy phát tâm nghiên cứu đọc tụng, thường khó nhập môn. Được tinh thông nghĩa, nhiều đời Tổ sư đại đức viết ra cũng chẳng phải là ít. Hiện tại trong hoàn cảnh này, người đời vì viết để làm kế sinh sống, cuộc sống càng thêm bận rộn, từ đó làm sao tìm ra thời gian để nghiên cứu đọc tụng ư? Nói gì đến hiểu rõ Phật pháp. Cũng nhân nơi cái biết không sâu, tín lại không kiên cố, nguyện càng không thiết tha, tu hành bất lực, tâm địa thô tháo, trong quá trình tu hành gặp hoàn cảnh bất lợi, hoặc là bị sự công kích của ma oán nghiệp xưa, không thể hiểu được duyên cớ.
Cảm một cách sâu xa rất nhiều đối với những bạn học Phật, chỉ biết làm thiện, cầu tài, cầu thọ, cầu bình yên... Không biết học Phật để tu hành, ra khỏi ba cõi, lìa khổ được vui, cho đến thành Phật!
Người có chí học Phật tu hành, chẳng biết Phật pháp trong đó tối trọng yếu là bộ kinh điển nào để mà đọc đây? Pháp môn tu hành lại nhiều như thế, tu pháp môn nào được? Chỉ thích tin tin Phật, tụng tụng kinh, lạy một vài lạy Phật, niệm một vài tiếng Phật qua loa. Hoặc người học về thiền tông, ngồi ngồi rồi đi, được chút ít hiểu biết lạ, linh cảm giống giống hoặc thấy ánh sáng, thấy hình ảnh... các cảnh giới biểu hiện thì cho là khai ngộ rồi. Hoặc là người học Tịnh dộ cho là niệm một vài tiếng Phật là niệm Phật, thì có thể mệnh chung về thế giới Cực Lạc rồi. Chẳng cố gắng thật sự niệm Phật, chẳng chịu niệm Phật nhiều, không có tập quán niệm Phật, trong tâm không có Phật không thể cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Đông đảo chúng sinh, người có thể niệm Phật, có được bao nhiêu người ư? Rất ít. Người có khả năng biết phương pháp trì danh niệm Phật tu hành, lại có được bao nhiêu người ư? Càng ít!Người giàu có lại bị mê muội ở nơi giàu có, người thông minh bị mê muội ở thông minh, người ngu si bị mê muội ở ngu si.
Nếu có một quyển sách hệ thống lược đủ cho người tại gia học Phật trì danh niệm Phật tu hành, mọi người sẽ thấy được rõ ràng. Vả lại, một quyển sách dễ học dễ hành, khiến cho người có chí trì danh niệm Phật tu hành, thì cũng có khả năng vãng sanh thế giới Cực Lạc rất nhiều!
Vì cảm nhận đối với vấn đề này, đem chỗ biết viết thành: “Trì danh niệm Phật vãng sanh Cực Lạc pháp” mà đơn giản giới thiệu, để cung cấp cho người có chí học Phật niệm Phật tu hành, để giúp tham khảo và gắng kết thiện duyên.
ĐỜI NGƯỜI MONG CẦU
Giàu có, sống lâu, khỏe mạnh, vui vẻ... người người đều muốn có để hưởng, nhưng người đạt như nguyện ít lại càng ít. Có người nghèo khổ, có người nhiều bệnh hoặc tàn phế, có người đoản mạng chết sớm. Chỉ có sự vui vẻ, người người đều có thể hưởng thụ được, nhưng thật đáng tiếc, có một số người tóm lại không nhìn rõ, lệch lạc tự tìm khổ não, từ bỏ vui vẻ, lui trốn trong ba nhà, trốn lánh vui tươi thường sống lỗi lầm trong khổ não.
Vui vẻ không chỉ là sản phẩm có lợi chỉ chuyên của những người giàu có còn người nghèo khổ thì không có phần. Vui vẻ, việc đó không phân là người giàu có hay nghèo hèn, già trẻ nam nữ đều được bình đẳng, mọi người đều có thể hưởng thụ vui vẻ. Hằng ngày sự vui vẻ thường có, xem ra vì sao chỉ đối với chính mình thôi. Nhận thức chân thật mà nói thì việc tìm cầu của một đời người chính là: vui vẻ!
Vui vẻ, mà phải “thiểu dục tri túc” thì mới đầy đủ. Tiếp nhận tất cả, trong tâm tự được, tự đầy, tự đủ, ở địa ngục cũng như thiên đường, có bệnh ở nơi thân hoặc tàn phế, biết nhân quả, không oán trời trách người, có bệnh mà hay lấy vô bệänh quán sát, lại bất giác khổ, đoản mạng chết sớm cũng có thể mỉm cười mà đi.
Một người trọn đời mong cầu là cái gì? Vàng bạc, danh vị, quyền thế hoặc học vị đều là thứ yếu, vì những cái này chỉ là cái bề mặt, cái mà thấy được, chỉ là một loại cảm thọ đầy đủ tạm thời ngắn ngủi, mà chẳng phải là cái vui vẻ lâu dài; có thể lâu dài vui vẻ mới là nhân chính. Vui vẻ là một loại tâm cảnh, một loại cảm giác nội tại thần túy, cũng chẳng phải hoàn toàn nương gá vật bên ngoài có hình thể, cũng chẳng phải là hoàn toàn xa lìa ra ngoài vật bên ngoài có hình thể. Vui vẻ là một sự cảm thọ vô hình của tâm linh sâu xa, nó được chứa nhóm từ chỗ sâu thẳm của tâm linh, ngay lúc chúng ta muốn dùng nó, tâm chúng ta lại có thể cảm giác sâu sắc, vượt lên trên cái tâm, mai một đi cái chẳng vui sở hữu, cái đó chúng ta gọi là vui vẻ, một vài lúc lại biến khắp toàn thân chúng ta, thậm chí không khí chung quanh sung mãn lâng lâng cảm giác vui sướng.
Người giàu nếu không biết đủ (tri túc) thì không đầy đủ, có rồi càng muốn càng nhiều, tốt rồi càng muốùn càng tốt, được rồi lại sợ mất đi, lại sợ tai họa tới mình, lại sợ sanh bệnh, lại sợ chết mất, cả ngày tổn thương gân não, bàng hoàng không an, buồn bực lo sầu sợ sệt lúc nào mới hết? Ở thiên đường cũng như là ở địa ngục.
Chỉ cần có một khoảnh khắc vui vẻ thì những việc tham, sân, si, nghi, mạn, đấu tranh, tư riêng, sợ sệt, khẩn trương, giận, buồn phiền, lo nghĩ, tính toán... sẽ mất thôi, tâm tình có thể mở mang thoải mái trở lại! Đâu phải có tiền, có danh, có thế lực, ăn ngon, mặc đẹp, ở cao sang, mà không có tâm tình thoải mái để hưởng thụ, thì đâu phải là vui vẻ!
Người nghèo mà biết thiểu dục tri túc thì là đầy đủ, biết nhân quảø, rõ thị phi, không bạo ngược, không tự ti, không thèm muốn của người, không tham, không sân, không oán, không tranh, không ghét, không sợ thẹn, không so sánh nhà người, tự mình buôn bán bao nhiêu ăn bấy nhiêu, không tủi hổ hình vóc xấu, lại không vì không có tiền mà buồn rầu làm tổn thương gân não, mặc áo vải, ăn cơm hẩm, ở nhà tranh, đầy đủ với hiện thực, không kêu ca khuất phục, lại còn mừng vui hạnh phúc, không có lạnh lẽo đói rét thì tự mình được cái vui.
Đời người lạc quan, biết sống vui, tâm não rộng rãi, quán xem các pháp, ít ham muốn và biết đủ thì sẽ đầy đủ. Giàu từ người khác mà giàu, nghèo từ người khác mà nghèo, là vật ngoài thân, thuận với tự nhiên, không cưỡng cầu, tốt hoại, đắc thất, khổ vui, chê khen, vinh nhục, không so tính, phàm việc gì chỉ hỏi tâm không hổ thẹn, tùy gặp cảnh mà an, tâm an thì lý được, không bị hai cảnh thuận nghịch chi phối. Bình thường đời sống bất hạnh bị nghèo thiếu vây quanh, cũng có thể an bần lạc đạo, không oán trời trách người, chẳng vì nghèo khổ mà tự ti, thản nhiên mà tiếp nhận những ngằn mé bất hạnh, quên đi cái khổ nghèo thiếu, mạnh khỏe, mẻ sứt hoặc tàn phế, cũng có thể vui sống hằng ngày, chẳng thể nhân nơi bệnh khổ mà lẩn quẩn rên la, trên tâm linh là: an tường, tự tại và vui sướng.
Thật sự mà nói, vui vẻ do sự kích thích của vật bên ngoài sản sinh phần nhiều thuộc về khoái lạc cảm quan; sự vui vẻ xuất phát từ nội tâm thì là khoái lạc của tâm linh. Nguồn gốc của hai sự khoái lạc ấy không đồng, thứ lớp cũng có sai khác. Đứng một phía mà nói, sự vui vẻ của cảm quan - đến vui đi cũng vui, như ngày mùa hạ mây tụ, lại vẹt tan ngay mà qua đi; sự vui vẻ của tâm linh thì sanh lần hồi rồi chậm chạp đầy lên, giống như nước suối của núi mùa xuân nhởn nhơ chẳng khô. Ngài Trí Giả nói: “ Biết đủ có thể đem niềm vui chất chồng thành núi, càng chứa càng dày; không biết đủ, thì sẽ đem niềm vui đục khoét thành vực, càng khoét càng sâu”.
Con người, cuối cùng một đời, tìm tìm kiếm kiếm, tranh tranh nghiệp nghiệp, tóm lại chỗ truy cầu thoát ly không được sự hào hoa nơi vật chất và sự rõ ràng nơi danh lợi, chỉ tất cả cần thấu rõ lương tâm, đạo đức, nhân nghĩa, tâm mới an, tâm an! Để được vui vẻ, nếu chỉ vì thỏa mãn đầy đủ lòng ham muốn của mình, tha hồ làm điều trái lẽ, thì có cái gì mà chẳng thể làm; chẳng phải chờ đợi báo ứng đời sau mà thọ khổ, đời này cũng có thể hiển hiện tai họa trùng trùng, như thế có thể vui vẻ được chăng!
Rất nhiều người không được vui vẻ là bởi do từ lòng ham muốn ngóc ngách sâu xa. Nếu hay xem phú quý như mây nổi, danh lợi như khói sương, được mất không vinh ở nơi tâm, tự nhiên, gió mưa buồn rầu cũng chẳng xâm phạm ở trong lòng, huống gì, tiếng buồn khí thảm không giúp được đối với công việc. Sao chẳng lấy riêng một món tâm tình xem cho tất cả.
Người học Phật tu hành chuyên nhất chí thành ở nơi chân tâm, tin thọ vưng làm, chẳng cầu điều kiện hư vinh trước mắt, mà cầu ở nơi chỗ sâu xa của nội tâm, dứt bỏ dục vọng chính mình và chấp trước, giữ gìn tâm thanh tịnh. Từ việc hành trì không gián đoạn, tự nhiên được an ninh, đầy đủ và vui vẻ trong tâm linh. Nhân người tu hành có chánh kiến, chánh tư duy, tâm từ bi, làm việc thiện, không làm ác, thiểu dục tri túc, ít phiền não, có sự ký thác trên tinh thần là: Tin Phật. Có lý tưởng: Thành Phật, tự nhiên cuộc sống được vui vẻ nhiều.
Đương nhiên chẳng phải ngay khi mới bắt đầu tu thì có thể được sự vui vẻ trên tâm linh, quyết cần phải thanh trừ tập khí vô minh chính mình: tham, sân, si... Cải chánh hành vi hư hoại, sự vui vẻ mới có thể hưởng thọ được.
ĐỜI NGƯỜI VUI VẺ
Vui vẻ là hạnh phúc có thể đánh giá là vô giá.
Cuộc sống của đời người là tìm cầu sự vui vẻ.
Con người có quyền tìm cầu sự vui vẻ, nhưng vị tất có may mắn tìm được nó.
Cuộc sống của con người có hai việc: Một là cuộc sống vật chất, hai là cuộc sống tinh thần. Cuộc sống vật chất càng tìm cầu thì càng đau khổ, vĩnh viễn không thể đầy đủ. Nhưng nếu hướng về phương diện cuộc sống tinh thần để tìm cầu, thì tâm tình có thể thoải mái, tâm lý an ổn, thì sẽ được cuộc sống vui vẻ.
Vui vẻ là thứ cảm thọ vô hình, sâu sắc của tâm linh. Nó là một món cảm thọ kì diệu sâu sắc trong lòng của nhân loại. Nó là một đồ vật mà ta nhìn không thấy, nghe không được, sờ không đụng. Nó là một món tâm cảnh bất định tùy theo thời gian ảnh hưởng chúng ta mà hiện khởi hay ẩn mất. Kỳ thật, sự vui vẻ không chỉ đầy đủ ở trên cảm quan, nó là sự vui sướng không dứt đến từ nguồn nội tâm, đầy đủ có thật và yên bình; Song có một vài người trên xã hội, ý đồ của họ đem những cuồng vui gợi tình làm tê mê, đem những sự huyên náo xướng lên những điều trái lẽ để làm cho trống vắng nội tâm. Con người, duy có lúc thanh bần, muốn cầu giàu có, cho là sau khi giàu đủ nhất định vui vẻ; Lúc thấp hèn, muốn cầu vinh hiển quyền quý, cho là sau khi được quyền quý vinh hiển thì nhất định vui vẻ. Chỉ ngay sau khi có đủ tiền bạc, giàu co,ù danh lợi, địa vị thì ban đầu sẽ có cảm giác cuồng vui hưng phấn, nhưng không lâu cái đầy đủ tốt đẹp này cũng rất tiêu mau mất không hình không dấu.
Có một câu chuyện Nhi Đồøng kể rằng: “Có một người giàu có sau khi có đủ tất cả những gì anh ta muốn, ngược lại phát hiện chính mình chẳng có sự vui vẻ; mà một người dân bình thường không giàu có, ngược lại hay bình thản đạm bạc vui vẻ một đời. Người dân đó so với người giàu có vui vẻ hơn, đó là vì anh ta hiểu được tìm kiếm sự vui vẻ như thế nào, như thế nào khiến cho đời người chính mình giữ gìn được sự thoải mái; Người giàu có thì ngược lại cho là sự vui vẻ quyết cần phải tiêu hao tinh thần và sức lực mới có thể được, do đó phung phí hết tâm tư nhào vào danh lợi, vật chất mà hưởng thụ cho là sự vui vẻ, nên là như vậy!
Người hiện tại mỗi việc lấy nhẹ - nặng của lợi ích làm việc đong đo tiêu chuẩn nguyên tắc trong sinh hoạt, do đó, tuy là hưởng dụng không thiếu, trong tâm cũng khó khỏi sự mất mát. Đây cũng chính là chỗ khổ thân chẳng do mình.
Cái hoạn của con người, cho là tất cả đều là cái lý đương nhiên như vậy, mà không yêu tiếc tất cả đã có. Có rồi lại muốn thêm nhiều, tốt rồi lại muốn càng tốt, lại cố trèo lên, cố nhiên là tốt, nhưng nếu không thể lãnh hội được cảnh giới bình ổn chắc thật, có lẽ toàn thế giới vẫn vậy, không thể vui vẻ!
Bản chất của cuộc sống, kỳ thật rất đơn giản. Con người, sở dĩ không vui vẻ là do dục vọng, tham niệm quá nhiều. Con người ở trong cuộc sống vật chất càng tốt càng nhiều cũng chẳng đủ cho lòng dục vọng, dục vọng không đủ tâm sẽ không yên tịnh, tâm không yên tịnh thì không tự tại, dẫu rằng danh lợi đã được, vật chất không thiếu, cũng chưa chắc có tâm cảnh vui vẻ.
Con người cần phải đơn thuần trong cuộc sống vật chất, cần phải giản dị, mộc mạc, càng đơn thuần giản dị càng tốt, sự vui vẻ tự nhiên đến. Sự vui vẻ là tự mình tìm lấy, không thể nói trong hoàn cảnh ác liệt chịu đựng như thế nào, chỉ cần nhìn trên phương diện tốt, nghĩ rằng, có thể tri túc, thỏa mãn với hiện thực, tùy cảnh ngộ mà an, vui vẻ sẽ đến ngay. Như thế nào cuộc sống được vui vẻ? Đó hoàn toàn nắm trong tay chính mình.
Cuộc sống con người thoải mái đều chẳng khó, song anh phải cần: thiểu dục tri túc thì sẽ đầy đủ. Cuộc sống đạm bạc giản đơn, có tấm lòng bao dung rộng lớn, thái độ thành ý khiêm nhường, lại cần giả điếc làm câm, không tham, không sân, hay nhẫn nhượng, hay ăn thiếu, vô ngã, không riêng tư, đối việc không ngã chấp, đối người không so tính, phàm sự việc nghịch đến thì thuận chịu, việc không ở nơi ý vả phải coi cho rõ, hết lòng giảng giải giáo hóa phương pháp thấy được đối với vật, việc, người gặp xung quanh, gánh vác giảm nhẹ đi áp lực tâm lý, có thể yên ổn đối với tình trạng hiện tại, tiếp nạp tất cả, nội tâm tự được đầy đủ. Duy có như vậy, cuộc sống mới có thể đầy đủ thật sự, cuộc sống dạt dào, lý do: cảnh từ tâm sanh. Con người vui vẻ hay không ở nơi cảnh chẳng phải là chỉ một điều kiện, gặp cảnh tâm cảnh phản ứng, mới là mấu chốt quyết định vui vẻ hay không. Tiếp nạp tất cả một cách đầy đủ: ăn cho khỏe mạnh, mặc cho thỏa mãn, ở cho thoải mái. Người tri túc nằm ở địa ngục cũng như ở thiên đàng; người không tri túc, ở thiên đàng cũng như ở địa ngục. Đồ đạc đồng dạng với nhau, do con người không giống nhau ăn vào sẽ có mùi vị không đồng, nhà thì giống nhau, do tâm tình của con người không đồng, ở vào thì sẽ có sự khác nhau thiên đường và địa ngục. Người tri túc, một bữa một hai món đồ ăn, thì bữa bữa đều có đồ để ăn; Người không tri túc, mỗi bữa đồ ăn bày đầy bàn, mà không phải là những món kiểu này thì sẽ thấy không ngon, tóm lại là những món đó không thích thì cho là không có đồ ăn. Con người có thể yên ổn ở nơi tình trạng hiện tại, tiếp nạp tất cả, nội tâm tự đầy đủ, chỉ có như vậy cuộc sống mới có thể sung túc thật sự, cuộc đời mới dạt dào niềm vui.
Giàu và nghèo, vui vẻ hay thống khổ cũng chẳng qua là trong một niệm, tư tưởng thông rồi, rất là tự nhiên đều đem làm cái sở hữu của ta, vật ở ngoài thân, lại tranh chấp có được gì! Sanh mệnh như hoa Đàm một lần hiện ở trong vũ trụ, bực bội có được gì!
Đời người ở thế gian nên tự cầu phước nhiều; Phần nhiều hay muốn tự mình hưởng có tất cả những điều không buồn lo, không ai oán.
VÌ SAO CẦN HỌC PHẬT?
Mục đích học Phật là như thế nào? Nói một cách đơn giản: tức là “chuyển mê thành ngộ”. Nhưng MÊ là mê cái gì? NGỘ là ngộ cái gì?
Mê, tức là mờ mịt đối với chân lí nhân sinh vũ trụ, không rõ được chân tướng bản nhiên của nhân sinh, cũng không rõ được sự tướng duyên khởi của vũ trụ. Chân tướng của nhân sinh vũ trụ là:Thế gian vô thường, cõi nước nguy hiểm (nguy hiểm mỏng manh, dễ vỡ), bốn đại khổ - không, năm uẩn không tướng.
Mà chúng ta ngược lại có thói quen đối với vọng tưởng chấp trước trên chủ quan, mờ mắt liều mạng tìm theo tất cả những sự vật huyễn diệt, lầm nhận muôn pháp hư huyễn là thường trụ bất hại, và thân tâm do năm uẩn hòa hợp làm chân ngã, cho đến chấp ngã, chấp pháp, khởi hoặc, tạo nghiệp, rốt cuộc trôi chảy trong sinh tử, chìm đắm nơi biển khổ.
Ngộ, tức là đối với chân như lí tánh của nhân sinh, sự tướng duyên khởi của vũ trụ, có sự lí giải thấu triệt, biết là duyên sinh tánh không, duyên khởi vô ngã (duyên sinh, là do các duyên hòa hợp mà sinh - duyên khởi, là nói các pháp do các duyên hợp thành, tánh đó vốn không, không có tự tánh chân thật). Do đó không thể chấp trước, tự tìm phiền não, lại tạo nghiệp, để chuốc lấy quả khổ.
Nói một cách khác: Mê, tức là không rõ chân tướng của nhân sinh, một người ở trong cuộc sống vài mươi năm, nói gần, không hiểu được chính mình sinh ra như thế nào, mỗi khi lộn xộn rối rắm, giống như bịt mắt đi đường; đến già, lại không hiểu rõ lúc chết; Chết rồi, đến chỗ nào? Cho đến tất cả vạn vật bên ngoài con người là làm sao mà đến, chỗ có tất cả đây, đều là chẳng rõ sự kì diệu. Nói xa hơn, tất cả vạn hữu trong vũ trụ tại sao lại tồn tại? Phàm là không rõ được những đạo lí này, gọi là mê.
Ngộ, là rõ ràng chơn tướng sự thật, hiểu được thân thể của nó chỉ là giả tướng hòa hiệp của bốn đại: đất, nước, lửa, gió (tức là tám đại hệ thống của thân thể con người giải phẫu ra, nhục thể tổ hợp mà thành). Nhục thể giả tướng này, trải qua: trẻ nhỏ, thiếu niên, trung niên, già, có một ngày bốn đại không đều hòa thì bệnh, bệnh nặng mà chết, sau khi chết từ từ dần về tiêu diệt. Chỉ có còn trong nơi nhục thể, thật tướng con mắt kia nhìn không thấy, lại gọi là chân như (tục gọi là linh hồn) hoặc gọi là Phật tánh là vĩnh viễn tồn tại, là không sinh, không diệt. Một người như thế này, vạn vật cũng là thế này, người nếu hiểu được đạo lí này gọi là Ngộ. Học Phật tức là đem cảnh Mê của ngươi chuyển đổi đi, mà mở ra một con đường khiến ngươi đi vào cảnh Ngộ.
Nhưng mục đích của học Phật còn chưa sáng sủa là vì chưa giải thoát đau khổ cho chính mình. Càng phải vì tất cả chúng sinh mà bài trừ khổ nạn, được vui vẻ mà nỗ lực.
VÌ SAO CẦN TU HÀNH?
Vì sao cần phải tu hành? Tu hành là thế nào? Rõ được đạo lí này thì tốt rồi, tu được rồi.
Vì sao cần tu hành ư? Là vì cần: Lìa khổ được vui. Thế giới ta bà là biển khổ, người đời là kẻ khổ, khổ nhiều vui ít, người nghèo khổ, người giàu cũng khổ, lúc bận rộn khổ, lúc nhàn rỗi cũng khổ. Khổ mỗi dạng mỗi việc, mỗi loại rất nhiều rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày thường thường gặp đến, tóm lại: không hợp với lòng không yên, không tự tại, không vui thì là khổ! Anh cho là sinh hoạt hiện tại được rất xứng tâm như ý, rất vui; Vậy anh có thể giữ đời này kiếp này đều xứng tâm như ý và vui vẻ không? Muốn lìa khổ được vui, chỉ một niềm tin là tin Phật, một việc làm là làm thiện, mà chẳng chịu học Phật tu hành thì không ra khỏi luân hồi sáu đường, lìa không được khổ, chẳng được chơn lạc.
Tu hành là thế nào? Là phải ra khỏi ba cõi luân hồi sáu đường, lìa khổ được vui thành Phật. Thành Phật, đầu tiên cần phải biết TIN nhân quả, dứt ác tu thiện, tu thân dưỡng tánh, rõ sanh tử, chuyển mê khai ngộ. Thế gian là cuộc vô thường, không có sự vật hằng thường bất biến, đại địa và thân tâm chúng ta, mỗi một phút, mỗi một giây đều ở nơi biến thiên, ở trong thân tâm bất định biến thiên ảo huyễn này, anh có thể tìm được một cái CHƠN NGÃ bất biến hằng thường không? Thế giới ta bà là các hành (pháp) vô thường, tất cả hiện tượng đều là dời đổi biến hóa, sinh diệt từng sát na, mọi sự mọi vật thiên biến vạn hóa, dơ nhuốc khổ đau, khổ não lớp lớp, gọi là: uế độ (cõi dơ nhớp).
Đời người là khổ, khổ của sinh, lão, bệnh, tử trên nhục thể, trên tinh thần từng loại từng món, khổ nhiều vui ít; lấy khổ làm vui thành thói quen, cho là bình thường. Người đời phần nhiều lấy dục lạc của năm căn làm vui, khổ vui do nơi cái nhìn về nhân sinh không đồng ở mỗi người, đối với sự nhận biết và thứ lớp của bản chất khổ vui, mỗi việc cũng khác nhau, khổ vui vốn là do sự hỗ tương đối đãi mà an lập. Người đời nhân đó mà truy cầu sự vui vẻ, nhân vui vẻ mà duyên đến khổ đau; người đời, tóm lại là một cái vòng trong dòng chảy sinh tử, khổ đau và vui vẻ xen nhau mà thành. Khổ, là chỗ nhàm bỏ của người đời, nhưng người đời rốt cuộc không khỏi khổ đau rất nhiều; Vui, là chỗ tìm cầu của người đời, nhưng cái vui mà mọi người tìm cầu, ngược lại là ít ỏi mà ngắn ngủi tạm bợ như thế, ai chẳng muốn lìa khổ được vui! Hầu hết con người trên đời cái khổ thì muốn rời xa, cái vui thì muốn được, Phật dạy chúng ta, rốt ráo có gì chẳng đồng ư? Đây là nguyên ở cái nhìn của nhân sinh có chỗ không đồng, là cạn cợt và sâu sắc. Người đời cảm thọ khổ và vui chẳng qua là y cứ trên sự thuận và nghịch của thân tâm, tổn hại hay ích lợi mà nói thôi. Y cứ theo Phật Đà mà nhìn, khổ mà người đời nói, đổi lại là cái khổ chân chánh; Nói là vui, ngược lại chưa chắc là thật vui. Thường nghe mọi người nói “Tôi muốn tìm vui”. Rồi tìm cầu cả một đời, được chăng cũng chỉ bất quá là dục lạc của năm căn, nhưng ngược lại chút ít ở trong chút ít. Đức Phật đã khẳng định rằng đời người là khổ, có khổ đương nhiên cần phải xuất ly, lìa khổ thế gian, cầu vui giải thoát, xa lìa luân hồi ở ba cõi sáu đường, đây là sự nỗ lực và nhận thức nên có của nhân sinh, cũng là mục đích của Đức Phật xuất hiện ở thế gian, ở đây lấy việc lìa khổ được vui làm tiền đề của Phật pháp. Chúng ta chỉ hiểu rằng: Khổ – chơn thật là khổ, Vui – chơn thật là vui, mới có thể sanh khởi yêu thích và qui hướng chân chánh đối với Phật pháp. Phật pháp là phương pháp đứng trên căn bản khiến chúng ta có thể dẹp trừ khổ đau, mà thu được khoái lạc chân thật. Chỉ có tu trì Phật pháp, tin thọ phụng hành, hành trì không gián đoạn, tự nhiên sẽ đạt được sự đầy đủ và vui vẻ của tâm cảnh.
Đời người không có sự nhẹ nhàng và thoải mái tuyệt đối, cũng không có sự thống khổ và phiền não vĩnh hằng, có lúc “lạc cực sanh bi, khổ tận cam lai”; người đời nhân nơi khổ mà tìm cầu vui, ngược lại nhân nơi vui mà duyên đến khổ đau. Đời người gặp gỡ thường xuyên là vui vẻ ít mà buồn đau thì nhiều, lý do khổ não của đời người cũng vô cùng, vô tận.
Đời người có mấy cái khổ ư? Bao gồm có: Khổ của việc sanh ra (sanh khổ), khổ của già suy (lão khổ), khổ lúc gặp chết mất (tử khổ), khổ lúc gặp người mình oán hận (oán tắng hội khổ), khổ lúc cùng người yêu thương chia rời (ái biệt ly khổ), khổ vì sự vật muốn được ngược lại không thể đến tay (cầu bất đắc khổ)... Tóm lại, khổ về các loại, các dạng rất nhiều, chẳng an, chẳng vui vẻ cũng là khổ!
Người đời ở trên con đường đời người thoạt muôn biến đổi này, khổ bị gặp thật là khó mà tính toán hết. Đây giống như ăn một con gà kim loại lăn áo đường ở bên ngoài, bên ngoài thì ngọt, bên trong thì đắng chẳng giống sao? Mà Phật pháp chỉ ra mấy cái khổ này, đều chẳng phải ai đó đem đến cho chúng ta, mà là tự mình không rõ thị phi, mờ mắt tìm cầu, gom lấy tham ái thì quả khổ đến.
Người có trí tuệ, trước khi làm một việc, tóm lại, phải hiểu rõ trước, vì sao nên làm thế này? Sau khi hiểu rõ, mới khẳng định sự việc nên làm, tự nhiên ý nghĩ sẽ không ngược lại, bắt tay vào việc mà không có một chút e dè lo sợ. Đối với mọi người, công việc cứ y trên đạo đức mà làm, y cứ trên trí tuệ mà xử lý tất cả công việc, tức là HỌC PHẬT.
Thái độ này cũng là chỗ chú trọng củaPhật giáo. Phật giáo yêu cầu tín đồ là: TRÍ TÍN, tức là tín ngưỡng trên lý trí, không phải là mờ mắt dùng cảm tình mà tín ngưỡng. Lý do, trước khi giảng nói đạo ly ùcần phải tu hành, cần phải hiểu rõ trước: Vì sao cần phải tu hành?
Con người, vì sao cần phải tu hành? Phật giáo lấy “đời người là khổ” ra nói rõ, ắt cần phải tu hành. Vì sao nhân sinh là khổ ư? Trong “bốn thánh đế” Phật dạy có sự giải thoát khái lược cần thiết, tức là đời người có: sanh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ, cầu bất đắc khổ... Tóm lại, trong một đời người đầy đủ các loại dạng khổ!
Hoặc có người sẽ phản đối, hiện tại ta đang cảm thọ được rất vui vẻ, sự vui vẻ này vì sao có thể là khổ ư? Kỳ thật kiến giải của người đời phần nhiều có sai lệch, thậm chí điên đảo; đối với chúng ta cho là vui, nhưng trong con mắt người có trí tuệ nhìn, tức chính là khổ! Sau khi vui vẻ qua đi, khổ sẽ đến. Vì vui và khổ nối nhau mà đến, cũng như ban ngày và ban đêm, sau khi ngày qua đi đêm tối sẽ đến, do dó, đời người là khổ, xác thật là không thể phủ nhận. Vậy thì như thế nào mà thoát ly được khổ, đó chính là việc gấp rút trước tiên con người phải làm.
Khổ cần phải như thế nào mới thoát ly ư? Đức Phật ở trong bốn thánh đế, dạy rằng KHỔ do TẬP mà có. Tập chính là ý tứ các món phiền não, hoặc và nghiệp; do nơi nghiệp con người mới có khổ. Nghiệp tuy là vô hình, nhìn không thấy, rờ không được, ngược lại là chủ tể của nhân sinh. Sở dĩ cần lìa khổ, quyết cần phải đoạn TẬP. Muốn đoạn tập lại cần phải không tạo nghiệp, không có nghiệp bèn không có tập.
Như thế Nghiệp là thế nào? Nghiệp là hành vi của chúng ta, làm nên một cá nhân, thân tâm không thể không có hoạt động, có hoạt động rồi thì có hành vi, có hành vi rồi thì có nghiệp. Sở dĩ không tạo nghiệp là không làm ác nghiệp, và chẳng liên quan đến thiện nghiệp thì không làm. Vì không tạo ác nghiệp, hành thiện là điều tất yếu. Chúng ta hy vọng hành vi chính mình là hành vi thiện. Tiến đến có thể làm được điều không tạo ác nghiệp, đối với thiện nghiệp cũng không chấp trước. Như vậy thì có thể lần lượt thoát ly khổ. Y cứ Phật pháp mà nói: Giải thoát phiền não, trong tâm thanh tịnh, an tường, tự tại, tinh thần thoải mái, tương lai khả năng thoát khỏi sinh tử.
Phật pháp dạy con người cần phải dùng nhãn quan đạm bạc mà xem tình đời, thì phú quý như khói mây qua nơi mắt, dùng tâm tri túc để lấy và bỏ muôn vật, tâm thanh tịnh này không bị sự trói buộc của vật bên ngoài. Đây là dùng tâm tuỳ duyên hành xử với nghịch cảnh. Tâm địa tự bình ổn thì không bị lụy đối với vật bên ngoài. Lại tiến một bước chí thành tu hành, thì có thể đạt được niềm vui lớn Niết bàn.
Vậy quyết cần phải tu hành! Chỉ cần nương nơi Phật pháp tu hành, sửa đổi hành vi không tốt đẹp của chúng ta. Trong hành vi của chúng ta không tạo nhân khổ (ác nghiệp), mà đối với việc thiện lại không chấp trước, hơn nữa thịên - ác không lập, trong tâm không có nghiệp, tự tánh hiện tiền, khổ tức thì tiêu mất. Như vậy mới là cứu cánh. Tu hành là mỗi một người quyết cần theo sự việc mà khởi tưởng lìa khổ được vui. Đây cũng là chỗ Phật pháp khác thế pháp. Tín ngưỡng Phật giáo, như chẳng tu hành, chỉ trồng nhân thiện, không phải là pháp được lợi ích cho Phật pháp.
Lời Phật dạy và sự tu hành là không phân chia ra được, tu hành là cơ sở của tín ngưỡng, có tín ngưỡng cơ sở mới giữ gìn được lâu, nếu bỏ đi vấn đề tu hành thì Phật pháp trở thành là bàn suông thôi.
TU HÀNH LÀ THẾ NÀO?
Xác định tính trọng yếu của vấn đề tu hành, tiếp theo, thì cần phải xét nét ý nghĩa tu hành, cũng tức là nói: Tu hành là thế nào?
Trước khi xét nét tu hành, trước tiên đối với mặt trái của tu hành, đời người là khổ, làm một phen giải thoát, tin tưởng đối với ý nghĩa của tu hành sẽ có sự hiểu rõ càng lớn, liên đới, cũng sẽ dễ hiểu rõ thế nào là tu hành rồi.
Khổ ở nơi nhân sinh, đều chẳng phải hoàn toàn do trời sinh mới có, mà là sau khi tạo nghiệp mà thành, rồi lớn lên, do nghiệp cảm báo mà có. Đã vậy, khổ là do chính mình tạo nghiệp bị cảm báo mà có. Vì sao loài người lệch lạc cần thiết đi tạo các nhân ác, nhóm các nghiệp ác đến nỗi cảm thọ quả khổ ư? Mỗi cá nhân đều không thích khổ, đã không thích vì sao lại lệch lạc đi tìm? Mười hai nhân duyên phần lớn dùng để nói nguyên rõ do và hình thành sinh mệnh của loài người, nhưng cũng có thể dùng để mà giải thích làm sao biết nguyên nhân tạo nghiệp của con người.
Mười hai nhân duyên là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Trong mười hai chi này lấy “vô minh” làm đầu, nhân vô minh mà vọng có: sanh mạng của chúng sanh và thế giới vũ trụ, nhân tạo các nghiệp ác, theo nghiệp trôi chảy mà chịu báo, mới có sáu nẻo luân hồi _ sanh tử tử sanh, trôi nổi nơi ba cõi, vĩnh viễn không có kỳ hạn.
Vô minh, tức là ý nghĩ không hiểu rõ, ngằn mé chân chánh của đời người cũng không hiểu rõ, không biết tin nhân quả, không biết rằng tạo nghiệp ác nhóm gom lại có thể sanh khổ... Nhân nơi vô minh mà sinh vọng động, cái vọng động này tức là “hành”, kết quả, sau một bước đi sai, theo nơi tập quán tánh (cũng gọi là “tập khí”) thì từng bước sai lầm. Cho nên từ “hành”, “thức” cho đến “lão tử”, không món nào chẳng sai lầm. Xưa nay ở nơi chân tánh, trong đó có “hành”, “thức” vốn không có “sinh”, trong đó có “lão tử” không?
Nhân đây, trong mười hai chi không có món nào chẳng phải là vọng, hành vọng, thức vọng, cho đến lão tử là những món hư vọng không thật; nhưng con người ngược lại chấp lấy những cái hư vọng lưu chuyển làm NGÃ, quên mất “chơn ngã”, thật tướng, bất sinh, bất diệt, thường tự như; Do đây mà có khổ: trong khổ tạo nhân khổ, lấy khổ làm vui, giữ chặt khổ không bỏ. Đây là nguyên nhân khổ đầy đủ của đời người.
Truy cứu nguồn cội của khổ là “vô minh”; vô minh là đầu của họa, cho nên cần phải dứt khổ, thoát khổ, quyết cần phải đem vô minh mà chặt đứt hoàn toàn, chuyển vô minh làm “linh minh” mới được.
Như thế phải như thế nào chuyển “vô minh” làm “linh minh” được? Kỳ thật, vô minh cũng là món hư vọng. Đứng trên bản thể mà nhìn, cội gốc của vô minh không tồn tại, nhưng đối với chúng sinh mới hiểu và chưa hiểu mà nói, do ở chỗ chưa lìa khỏi hư vọng, cũng sẽ có sự tồn tại của vô minh; cũng như trong hư không vốn không có bông hoa, mà cái hoạn do có người bệnh nhãn hoa, ngược lại, thấy trong hư không đầy tràn bông hoa; ở trước mắt anh ta, bệnh hoạn hoa chưa tiêu trừ, nói với anh ta trong hư không không có bông hoa, thì không thể khiến anh ta tin được. Trước tiên cần phải trị bệnh cho con mắt của anh ta, nhiên hậu bệnh tiêu thì tướng huyễn mới được trừ. Cũng giống vậy, tất cần phải có phương pháp có khả năng khiến chúng sinh thoát ly hư vọng, trong tâm không có vọng niệm làm chướng ngại, lại như mây tiêu sương tan, ánh sáng mặt trời sẽ hiện ra. Linh minh là chơn tâm, từ trước về sau, mới có thể thấy được gốc của vô minh không tồn tại. Như đây chính là chuyển “vô minh” làm “linh minh”, hoàn toàn thoát ly khổ.
Vậy thì chúng sinh cần phải như thế nào mới có thể thoát ly hư vọng?
Hư vọng từ tâm sinh, tâm vì sao phải hư vọng? Do ở nơi tâm vô chủ, mất đi sự khống chế, cho nên vọng tưởng lăng xăng. Xưa nay sản sinh ra vọng tưởng là tác dụng của tâm thể, thì chẳng phải là việc xấu, vấn đề ở nơi trong tâm vô chủ, không có khả năng tác dụng khống chế, làm được việc đáng nên dùng thì dùng, đáng nên dừng thì dừng. Ở nơi vọng tưởng hỗn loạn không thể đình chỉ được, không những chướng ngại mà chúng ta nhận thức đối với chính mình, mà còn khiến cho tâm mất đi công năng chánh thường. Cũng như một món đồ chơi điện tử, nó từ trước đến nay lúc đáng nên động thì động, lúc đáng phát sinh sóng điện từ thì phát sinh sóng điện từ, để chỉ huy thao tác máy móc của nó; bỗng nhiên khoảng thời gian bị thất thường, chuyển động không dừng, luôn luôn phát sinh ra sóng điện, không những ảnh hưởng thao tác bình thường máy móc của anh ta, mà còn khiến cho người làm không hiểu nó là cái gì. Do đó chẳng thể làm cho nó hoàn toàn đình chỉ được. Ngay lúc hư vọng tiêu trừ, tác dụng của tâm sau khi đình chỉ, tâm thể lại không bị chướng ngại, lúc đó chúng ta mới có thể nhận biết nơi tâm.
Tâm, là chủ của con người cho đến tất cả, nhận thức rõ tâm là đời người có chủ. Từ sự nhận thức về tâm, cũng biết được nguyên nhân tâm mất đi sự mẫu mực ở chỗ nào, ở đó, sau khi đem chỗ mất mẫu mực điều chỉnh sửa đổi, tâm vẫn vậy, ắt cần phải hồi phục hoạt động và công tác từ trước. Chỉ là tâm lúc này và từ trước tuy là đồng một cái tâm, ngược lại cùng với từ trước không đồng; Thiền tông nói: Người khai ngộ không khác người ngày cũ, nhưng khác hành vi ngày cũ. Tâm lúc này là tâm chánh thường, việc đáng nên dùng thì dùng, đáng nên dừng thì dừng, hoàn toàn có thể làm chủ. Đối ở việc tiếp xúc được tất cả, nó đều rõ ràng trong sáng, tuyệt không thể bị dối lừa; nó biết thế nào nên làm, làm việc đáng làm, hành việc đáng hành, không thể làm sai lầm, cho nên có thể không khổ, biết sâu xa qua các hoạt động tự chủ.
Do đó tiêu trừ tưởng niệm hư vọng trong tâm, bèn là chuyển “vô minh” làm “linh minh”, giai đoạn lìa khổ được vui chắc chắc trải qua.
Như thế, vọng niệm trong tâm có phương pháp gì tiêu trừ? Thế này cần phải dùng phương pháp tu trì rồi, tức là trì tụng một pháp ở trong tâm không gián đoạn, thí như: kinh giáo, tham thiền, chỉ quán, quán tưởng, trì chú, niệm Phật,... Lấy nhất niệm thống suất vạn niệm, khiến cho số đông vọng niệm quy về ở nơi “nhất vọng niệm”, nhiên hậu, đem một vọng niệm này cũng xả đi, như vậy, trong tâm lại hoàn toàn thoát ly hư vọng. Chỉ là ý nghĩ và việc làm thuần lương, thiện căn sâu dày, ý chí kiên cường có thể không khó; nhưng đối với con người đại đa số mà nói thì không phải là dễ như thế đâu.
Xưa nay hư vọng tức là chẳng thật có, vì sao sẽ trừ không được? Đây lại là vấn đề của tập khí. Nhiều năm cho đến nhiều đời trở lại, đều là tập quán đối với tâm mà sinh ra niệm tưởng hư vọng; chính như một con chó hoang lưu lạc, một lúc nào đó bắt về nuôi dưỡng ở trong nhà, nó làm sao có được thói quen? Trừ phi chủ nhân là người có năng lực thuần phục cực lớn, có thể chế phục tánh hoang của con chó. Tu hành cũng là như vậy, đầu mối ở tại phách lực của hành giả, có thể nhất thời khắc phục được tập khí, lại có thể đốn ngộ thành tựu, chẳng vậy thì duy có tu lần hồi (tiệm tu) thôi. Tất cần phải biết phối hợp giữa sinh hoạt thường ngày và công tác tu hành, hết một thời gian dài, từng bước từng bước bỏ đi tập khí cải chánh lỗi lầm, đợi gồm các hành vi được thuần nhất, tu trì mới dễ thành tựu. Đem tính toán nhất thời không thể thành tựu; nhưng đối với việc không tái tạo nghiệp, lại không tái cảm thọ quả khổ, đời người cũng sẽ an lạc rất nhiều rồi.
Như thế tu hành là thế nào? Tu thế nào? Đem hai chữ tu hành chẻ ra mà nói: Tu tức là ý nghĩ sửa đổi. Hành tức là hành vi của chúng ta. Hành vi này bao quát có: hữu hình và vô hình; cũng tức là ba nghiệp: thân, khẩu, ý. Tu hành lại là tu chánh lại hành vi hư hoại của thân, khẩu, ý chúng ta.
Hành vi của thân, khẩu, ý sao cần cải chánh? Vì hành vi của con người, có vài lúc làm tổn thương và hại người khác hoặc sinh linh khác, trong vô hình cũng tổn hại chính mình, khiến tự mình và người khác đều cảm thọ thống khổ. Những hành vi này tức là ác nghiệp.
Ngay trong hành vi của thân, khẩu, ý con người, những cái đó thuộc ở nơi ác ư?
Phương diện thân nghiệp có: giết, đánh, tịch thu, ăn cắp và tà dâm.
Phương diện khẩu nghiệp có: nói láo, nói hai chiều, nói ác, nói chiều uốn...
Phương diện ý nghiệp: tóm lại nhiều rồi. Duy thức học phân tích tâm niệm của chúng ta đem ra đại để chính yếu quy nạp làm ba mươi bảy món, trong khi đó THIỆN chỉ có mười một món; ngược lại ÁC có tới hai mươi sáu món, cũng tức là đem: tham, sân, si làm đầu; sau đó là mạn, nghi, ác kiến, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri, vô tàm, vô quý, phẫn nộ, oán hận, phú tàng, ác nghiệp, não loạn, tật đố, gian lận, hư cuống, siểm mị, hại, kiêu. Như nếu lại đem chẻ chiết nhỏ nhặt ra nữa, thì lại càng nhiều. Tóm lại nói đó, phàm là hành vi làm tổn thương hại đến chúng sinh thì là ác, quyết cần phải hơn thế nữa để tu chánh.
Có thể tu được thân, khẩu, ý nghiệp đều không ác, tự nhiên thân tâm thanh tiïnh an lạc, tình huống ở thân tâm yên ổn rồi, vọng niệm lại ít hơn. Nếu như có thể tiến đến mà niệm niệm ở nơi thiện, thân hành ở nơi thiện, miệng nói ở nơi thiện, ý tưởng ở nơi thiện, thì là từ “tu hành” tiến đến “tu trì” rồi. Do đã đem các món tập khí bất lương cải chánh lỗi lầm rồi, tâm đã thuần nhất, chướng ngại cũng đã giảm thiểu hoặc tiêu trừ, lại thêm niệm chẳng gián đoạn danh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật”, vọng tưởng tạp niệm giảm thiểu hoặc tiêu trừ, tình đời xem đã rõ, muôn duyên thế tục buông đi, việc vãng sanh thế giơÙi Cực lạc ở Tây Phương thì nắm chắc.
CHỖ TỐT ĐẸP CỦA PHÁP MÔN TRÌ DANH NIỆM PHẬT
Thứ nhất, rõ được sanh tử, ra khỏi luân hồi sáu nẻo, vãng sinh Cực Lạc thế giới, lìa khổ được vui - chơn lạc - thành Phật.
Thứ hai, lúc người đời chết, chết bị đau đớn khổ sở, hay chết không đau đớn khổ sở, muôn nghìn người khó được một người, càng không thể nói đứng hoặc ngồi chết được, có thể đến lúc mệnh chung biết trước giờ chết càng không thể được.
Niệm Phật tu hành đến lúc mệnh chung, thân không bệnh khổ, biết trước giờ chết, chánh niệm hiện tiền, tâm không điên đảo, đang đứng hoặc đang ngồi mà niệm Phật vãng sinh về thế giới Cực lạc; nếu công phu niệm Phật sâu, thì ở hiện đời được nhất tâm bất lọan, căn lành sâu dày, lại có thể thân chứng niệm Phật tam muội (chứng ngộ).
Thứ ba, trên sinh hoạt tinh thần có chỗ ký thác: “tin Phật”; có lý tuởng: “thành Phật”. Sống đuơc vui vẻ, tự tại.
Thứ tư, biết tin nhân quả (thiện có thiện báo, ác có ác báo), rõ thị phi, dừng ác tu thiện, thiểu dục tri túc, cuộc sống yên ổn đạm bạc giản dị, tâm cảnh khai mở, nhìn rõ tình đời, muôn duyên thế tục buông đi, công tác hiểu rõ nợ nần mà dốt hết bổn phận, không ưa cao chạy xa, công việc được thì thoải mái, trân trọng nghề, vui với tập thể, giữ bổn phận, giao tế với người quan hệ hài hòa, ngước lên không thẹn với trời, cuối xuống không tủi với đất, phần lớn giảm nhẹ đi những việc nhọc sức trên xã hội, gia đình và công việc, tự nhiên được yên ổn, tốt đẹp, tự tại, vui sướng, nhìn các việc đều thoải mái thích hợp thuận mắt.
Thứ năm, nương giáo lý của Đức Phật mà chiếu xét tư tưởng và hành vi của chính mình, như có cái gì bất chánh thì đưa vào chỗ chánh, không nề nếp thì đưa vào nề nếp, tu dưỡng ở nơi thân tâm chính mình, rất có bổ ích, là triết học nhu yếu của xử thế; đối với chân tướng của nhân sinh có chỗ nhận thức, có nhận thức ắt có chỗ chứa nuôi, có chứa nuôi ắt không gấp rút ồn ào, không biến động giận dữ, tâm tình tốt; khi gặp vấn đề khó khăn ngay trước mặt, như không mỹ mãn về cuộc sống, khổ rầu về hoàn cảnh, thiếu sót hạn chế của xã hội hiện thực, việc con người phiền não xấu xa, các việc đều có thể mở dắt từ “thánh trí”, điều chỉnh tâm cảnh bất bình chính mình, trong tâm bình hòa, bình thuận, bình tĩnh, bình đạm. Tình tự không thể theo sự vui giận mà chìm nổi, xem phú quý như khói mây qua mắt, lấy tâm tri túc để thủ xả muôn vật. Không vọng cầu, không vọng lấy, không vọng dùng, không bị sự trói buộc của vật bên ngoài, tâm an lý được, tùy duyên qua ngày, cuộc sống sẽ được hạnh phúc vui vẻ.
GIẢI THÍCH NGHI NGỜ
A. PHẬT GIÁO KHÔNG PHẢI LÀ MÊ TÍN
Nói “mê tín” là tự mình chưa xét qua hiểu rõ ràng thì đã chạy theo và nói pháp cho người khác, tin một cách mù quáng. Bất kỳ giáo pháp nào, không có chỗ gọi là mê tín hay chẳng mê tín. Mê tín hay không là thái độ tín ngưỡng của anh. Nếu như anh đã thâm nhập và hiểu rõ, trải qua sự quan sát và suy nghĩ, cho là giáo pháp đó không có sai lầm và quan niệm của anh ăn khớp nhau, mà sản sinh tín ngưỡng, đó lại là tín ngưỡng của lý trí. Nếu như chưa rõ hiểu, chỉ nghe người khác nói là rất tốt, hoặc giả nương nơi truyền thống của gia tộc mà tín ngưỡng theo, sau khi tín ngưỡng còn chưa thâm nhập hiểu rõ, chỉ thuần túy ngay trên việc làm là “tín ngưỡng”, như thế tức là giáo pháp bị tín ngưỡng khiến anh có nhiều tốt đẹp, bản thân của anh cũng là mê tín. Nếu như anh không hiểu rõ Phật giáo, chỉ nghe người khác nói Phật giáo là mê tín, hoặc nhìn thấy một vài nghi thức biểu tượng của Phật giáo, mà chưa trải qua sự thâm nhập rõ hiểu ở nghĩa lý, thì đã bình đoán Phật giáo là mê tín, như thế thật anh mới là mê tín, rồi nói pháp mê tín cho người khác, thành kiến chấp mê tín chính mình.
Phật giáo từ chỗ không thể đồng với người mê tín, trái lại, khuyến khích con người hoài nghi, đều đem việc hoài nghi đề xuất ra để mà thảo luận. Duy có biết hoài nghi, mới có thể nhận chân để bàn xét mà có được đáp án, như đây mới có thể sản sinh ra tín tâm chân chính. Trên sự thật, không có bất kỳ tôn giáo nào như là Phật giáo chịu cho con người hoài nghi kiểu này, khai phóng kiểu này và không mê tín kiểu này.
B. PHẬT GIÁO KHÔNG ĐỒNG VỚI SỰ THẦN KỲ CỦA TRỜI ĐẤT
Kẻ sĩ trong xã hội đối với Phật giáo hiểu lầm rất là sâu nặng, chẳng qua ở nơi hai chữ “mê tín”, phần nhiều con người chịu ảnh hưởng qua “tân giáo dục” mà đối với Phật giáo không có chỗ hiểu rõ; lúc bàn đến vấn đề tín ngưỡng, quan niệm thứ nhất nhận xét là: “đây là cử động mê tín”. Trên sự thật, đều chẳng phải là Phật giáo mê tín, mà là bị kẻ sĩ có ý và người truyền đạo ngoại đạo, vì sự tiến bộ và khoa học của tôn giáo mình, vì là tự thân đánh giá, chẳng tiếc lời cố ý vu báng miệt thị, điên đảo trắng đen, đối với Phật giáo thêm lên cái mũ: lạc bầy, tiêu cực, mê tín... và một bộ phận tín đồ ngoại giáo, cho rằng “mặt trăng là vòng tròn của nước ngoài”, đã vậy, Mục sư và Thần phụ đều nói Phật giáo lạc bầy mê tín, nghĩ rằng Phật giáo đại khái là tôn giáo lạc bầy mê tín, rồi đem bao nhiêu là sự tình mê tín thêm vào ở mặt trong của Phật giáo, mới khiến cho Phật giáo bị trùm lên một lớp sắc thái mê tín. Riêng Phật giáo là một tôn giáo lấy từ bi làm gốc, nhẫn nhục làm hành động, mặc dù giới bên ngoài nói như thế nào, tín đồ Phật giáo đã không biện bác, cũng không giải thích. Đây cũng khiến cho trên xã hội hiểu lầm đối với Phật giáo càng lúc càng sâu.
Vấn đề rất dễ cùng với Phật giáo lộn xộn không trong sáng đó là “thần kỳ”. Thần kỳ trong dân tộc ở các nước trên thế giới đều có lịch sử sâu xa, nước chúng ta cũng không ngoại lệ. Nguyên lai nhân loại cổ đại, hiểu biết chưa mở mang, đối với các món hiện tượng của cõi tự nhiên, cảm được thần kỳ chẳng trắc trở. Cho là ắt phải có một loại Thần oai lực không thể so sánh hiện đang thao túng khống chế, nhơn đó thì do sợ sệt mà cầu đảo lạy lục. Họ cho là sự sống, chết, thọ, yểu của con người, họa phước tai hoạn, chẳng việc gì chẳng do Thần kỳ nắm lấy. Những Thần kỳ này, cung kính cầu đảo đó thì được phước, nghịch lại hay xúc phạm đó thì bị họa; người đời vì cầu phước diệt họa, do đó lấy lễ “tam sanh” mà cúng tế Thần kỳ, hiến thì dùng giấy tiền vàng bạc, để rộng lấy được tâm vui của Thần kỳ. Xuống đến đời sau, thần càng lúc càng nhiều. Một nhà trong nông dân Thần kỳ được kính phụng có: hoàng thiên, thổ địa, môn thần, táo thần,... đều ở trên nhà chiếm chỗ một ghế. Kiểu này trở xuống khiến trong đời người bao nhiêu trong thiên hạ thành Thần kỳ.
Mục đích của việc kính phụng Thần kỳ, mặt tiêu cực là cầu khỏi họa, mặt tích cực là cầu ban phước... trở xuống, người mê của thì cầu bằng chứng khen ngợi trong sự bảo hộ giúp đỡ của thần, như phát hoạnh tài, không nhọc sức mà được; người mê quan chức cầu giúp đỡ của thần được thăng liền ba cấp, lại có phần tử chẳng có phép tắc cầu sự giúp đỡ của thần để được bình an không xảy ra sự cố. Những người này chẳng trồng nhân thiện, mà vọng cầu quả thiện, thần nếu có linh, lại có thể nào theo chỗ ham muốn của con người cho lấy cho cầu ư?
Cần biết muôn hình tượng trong vũ trụ, mỗi cái đều có nhân quả của nó. Muốn cầu ngũ cốc được mùa, cần phải ra công canh tác. Muốn cầu nhân khẩu bình an không bệnh hoạn, cần phải cẩn thận ăn uống vệ sinh. Trong những bằng chứng khen ngợi của thần linh thì “hoặc nhiên” có thể trúng, mà chẳng phải “quyết nhiên” phải trúng; cầu thăng quan cần phải lấy trung. Cầu làm nhân, để đợi duyên cơ gặp gỡ; kẻ chẳng có phép tắc, hễ làm là việc phạm pháp, thì làm sao chẳng có việc phát ra ở cửa đông. Chẳng phải cầu thần là có thể đạt được mục đích.
Luận ngữ nói rằng: “Thông minh chánh trực chi vị thần”. Người thông minh chánh trực hãy còn không chấp nhận đối với kẻ tiểu nhân dối trá siểm mị giả dùng sắc thái, huống đâu có thần nào có thể tham đồ tam sanh tế phẩm mà làm cho nhân gian điên đảo thị phi ư? Người đời không rõ lý nhân quả mà vọng cầu không nhân mà được quả, thật là ngu si tột cùng. hành động ngu si này tức là mê tín. Bất hạnh cho kẻ sĩ trên xã hội lầm đem ngòi bút này đoán tính đến Phật giáo, thậm chí có người đem đồng cốt, tướng sao, xem phong thủy, lựa ngày tốt, những việc làm này hoàn toàn cùng với Phật giáo phải được kéo rời ra; Đây chính là giải thích sự gặp gỡ lầm lạc không trong sáng.
Phật giáo không đồng với thần đạo, chỗ tin và phụng thờ của Phật giáo là: PHẬT. Phật nghĩa là người giác ngộ; người mà tự mình giác ngộ và giác ngộ cho người khác, giác hạnh tròn đầy gọi là Phật. Thứ đến quả vị của Phật là Bồ tát; Bồ tát nghĩa là “giác hữu tình”, là giác ngộ cho tất cả chúng sinh hữu tình. Bồ tát là trên cầu pháp Đại giác, dưới độ tất cả hữu tình. Bồ tát tu thành công đức tròn đầy, cũng tức là Phật. Trong chùa viện hoặc ở gia đình ở nước ta chỗ kính thờ là Phật, có: Đức Phật là giáo chủ Thích Ca Mâu Ni, có Đức Phật là Đức A Di Đà ở tây phương Cực Lạc thế giới... Bồ tát kính thờ có: Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Đại Thế Chí, Bồ tát Địa tạng... Ngoài ra đây, cung nào, cảnh nào mà chỗ kính thờ là: thiên đế, đại đế, thiên hậu, nương nương cho đến tiên cô, chân nhân... có thể nói cùng với Phật giáo hoàn toàn tách rời không có quan hệ.
Hơn hai ngàn rưỡi năm trước, Đức thế tôn Thích Ca đã bảo rằng đệ tử không được mê tín. Trong kinh Bát Nhã tam muội nói rằng: “không được làm việc các đạo khác, không được lạy trời, không được cúng tế quỷ thần, không đuợc xem ngày tốt”. Lại nói rằng: “không được bói hỏi thỉnh thờ, phù chú yểm quái, tế tự giải tấu”.
Người đời cúng tế thần kỳ, tuy thuộc về mê tín, nhưng trong mắt trong tâm của họ rốt cuộc còn có quan niệm thần quỷ và nhân quả báo ứng. Sở dĩ người mê tín, là không gặp được thiện tri thức cửa Phật để khai mở chánh tín cho họ. Kẻ mà rất đáng thương xót, là những người căn bản họ không có quan niệm thần quỷ, họ không tin nhân quả, không sợ quỷ thần, làm việc hồ đồ vọng tưởng, chẳng sợ báo ứng. Bọn người này sau khi chết đọa lạc, không biết kiếp nào mới ra khỏi ba đường!
C. PHẬT GIÁO CHẲNG PHẢI LÀ TIÊU CỰC - TRỐN ĐỜI
Tín đồ Phật giáo lấy từ bi làm gốc, nhẫn nhục làm hành động. Đối với sắc - thanh món lợi, năm dục sáu trần, rất xa tránh. Không giống như tâm người đời không có nhàm đủ, càng nhiều càng tốt. Đây là một hạng người tự cho là tích cực tiền tiến, cho thêm lên cái mũ tiêu cực, nhận xét rằng Phật giáo không thích hợp đối với hiện tại loại cạnh tranh xã hội, trời thì lựa chọn, vật thì giành giựt này. Nhưng Phật giáo là tôn giáo tiêu cực trốn đời thật không? Không, chỉ cần con người đối với Phật pháp có chút ít hiểu rõ thì có thể biết được tinh thần tích cực nhập thế của Phật giáo. So sánh phương diện đồng nhất cách nhìn đối với sinh lão bệnh tử, bèn có sự “thanh tịnh vô vi” của Huỳnh lão ở Trung Quốc, sự “buông trôi hình hài” của các danh sĩ đời Ngụy Tấn; Mà ở nơi Phật giáo, ngược lại từ bi dũng mãnh, tinh tấn không giãi đãi. Đây là chỗ vĩ đại của Phật giáo, cũng biểu thị tánh tích cực của Phật giáo.
Cũng cho rằng có người sẽ hỏi: “tôi thường nhìn thấy hòa thượng hoặc người tin Phật, chỉ ở trong núi thẳm hoặc trong tự viện tụng kinh niệm Phật, cuộc sống này sao có thể nói là tích cực ư?”. Đây cũng là chỉ biết một mà không biết hai. Tinh thần của đại thừa Phật pháp là khắp độ chúng sinh, nếu độ chúng sinh thì cần phải học tập phương pháp độ sinh. Thí dụ như có người bị chìm trong nước, anh dẫu có lòng cứu người, nhưng do không biết bơi lội, chỉ đứng yên trên bờ hô hoán. Có người ngoài khác tuy biết bơi lội, nhưng ngược lại không muốn quản ngại nhiều đến việc nhàn nhã, anh ta chỉ đứng khoanh tay, bàng quan. Lúc này nếu có một người đã có tâm cứu người lại biết kỹ thuật bơi lội, nhảy vào trong nước thì có thể cứu được người chìm trong nước lên. Đệ tử của Phật, không câu nệ là tỳ kheo xuất gia hoặc tín chúng tại gia, những người tụng kinh niệm Phật đó, đều là người phát nguyện rộng cứu người, đang luyện tập kỹ thuật bơi lội. Không có kỹ thuật làm sao cứu người? Rất không phải là đem những lời này ra làm lời biện hộ cho đệ tử cửa Phật, trên sự thật, tinh thần của Phật giáo xưa nay như vậy.
Phật giáo không phải là chủ nghĩa chán mặt tự càn, pháp lục độ của đại thừa tuy trọng về nhẫn nhục, nhưng xả thân vì pháp, cũng là giáo nghĩa Phật giáo. Vì khiến bạo lực xâm lăng, chánh pháp có cái lo sắp diệt, lúc giáo lý ví như cảm hóa không hiệu quả, Phật tử cũng sẽ phấn khởi đại lực dõng mãnh, đứng dậy chống đối với bạo lực. Như trong kinh “Nhân duyên tăng hộ” chép rằng: “Vì hộ sinh mệnh của Phật pháp, thà bỏ tiền tài; vì cứu hộ một nhà, thà bỏ một người; vì cứu hộ một thôn thà bỏ một nhà; vì cứu hộ một nước thà bỏ một thôn”. Rắn độc cắn tay thì tráng sĩ chặt đứt cổ tay. Đoạn kinh văn ở trên, là những gì mạnh mẽ và quả cảm.
Tích cực tiến thủ của người đời nói, chẳng ngoài sự tranh đuổi trên danh lợi, say đắm trên thinh sắc. Ai đã từng nghĩ đến hy sinh chính ta, phổ độ chúng sinh, trên thì cầu Đại giác, tinh tấn không biếng nhác mới gọi là tích cực đó vậy!
D. PHẬT GIÁO LÀ TRÍ TÍN KHÔNG PHẢI MÊ TÍN
Phật pháp là pháp lớn cần con người chuyển mê khai ngộ, chuyển si sanh huệ, chuyển phàm thành thánh; nếu có người đối với Phật pháp một điều cũng không biết, hoặc chỉ hạn chế ở nơi nghe đạo nói lại, hiểu biết phân nửa, tức nhận định Phật giáo là mê tín, đây không khác nào như người mù rờ voi, ngồi dưới giếng dòm trời.
Trên sự thật, thế gian cũng có tôn giáo mê tín _ là những tín ngưỡng ngoại lực đó, đem tất cả chính mình giao phó cho tôn giáo, cho thần ở bên ngoài. Mà chẳng tín ngưỡng tự lực _ Phật giáo tin tưởng tất cả chúng sinh đều đủ Phật tánh, chúng sinh đều có thể tu trì thành Phật. Tôn giáo tín ngưỡng ngoại lực là tin thần ở ngoài loài người, đang là chủ tể tất cả nhân loại. Các việc cát, hung, họa, phước của người có thể xin cầu sức lực của thần, cầu bảo hộ cải tạo. Loại tôn giáo này có thể phân làm hai loại nguyên thỉ và tiến bộ.
Nhân loại nguyên thỉ, trí thức chưa mở mang, đối với hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ như: trời lấy gì lập, đất lấy gì chở, oai lực của điển chớp, lúc tai hại của nước lửa, đều cảm thấy sợ sệt. Ở trong sự khốn đốn mê mờ sợ sệt, huyễn tưởng đến chắc có một loại thần đủ có oai lực không thể so sánh, kẻ thao túng đang khống chế tất cả vũ trụ. Những thần này đụng đến hay nghịch đến thì chịu tai hại họa ương, thuận đó theo đó thì được tha thứ giúp đỡ. Đối với việc cúng tế thần kỳ thì thành một việc đại sự trong cuộc sống loài người, mà đa thần giáo cũng sản sinh việc này.
Nhất thần tôn giáo tiến bộ hơn so với tôn giáo đa thần. Do ở nơi kết quả sự tăng tiến trí huệ của loài người khiến cho bộ phận kẻ sĩ cảm thấy tôn giáo đa thần với sự bất hợp lý của nó. Những bí mật sâu xa của vũ trụ như: sự sanh diệt của muôn vật, đầu mối thời gian dời trôi và chân đế của nhân sinh; như sinh già bệnh chết; cùng tột sự yểu và thọ, xem ra giống biến huyễn chẳng so tính, trên thực tế lại giống như lần lượt phép tắc vận hành nhất định. Ở đó khiến người cho là trên vũ trụ, trong cái mờ mịt ấy có một cái chủ tể vạn năng là “thượng đế”. Kẻ chi phối là chủ tể của tất cả thế gian; gồm lại thì vũ trụ vạn hữu, đều là chỗ sáng tạo của thượng đế. Đây cũng là do nơi đa thần mà biến đến nhất thần. Bà la môn giáo cuả Ấn Độ, cũng như thiên chúa giáo của người Do Thái, Gia tô giáo cho đến Hồi giáo của Ả Rập đều thuộc một loại này. Xem hết giáo nghĩa của những tôn giáo này, hình thái và nghi thức có chỗ không đồng, chỉ lấy một món đối tượng làm việc sùng bái thì là một. Chẳng qua do ở nơi nhân loại tư tưởng tiến bộ, khoa học xương minh, vạn vật là chẳng phải do thượng đế tạo, thế giới là chẳng phải do thượng đế chủ tể; ở trong tâm mục của những người có lý trí có tư tưởng này đã chẳng có bất cứ giá trị nào có thể nói được.
Trừ ngoài tôn giáo tín ngưỡng về tha lực, hãy còn có tôn giáo tín ngưỡng về tự lực, đó chính là Phật giáo. Phật giáo chẳng cho là vũ trụ là do thần sáng tạo hoặc chủ tể. Đối với vũ trụ vạn hữu, hiện tượng sanh diệt đổi khác, Đức Thế tôn Thích Ca thường nói: “Pháp nhĩ như thị”; ý nghĩa là những hiện tượng này, ở nơi phép tắc tự nhiên thì xưa nay cũng đều là như đây. Phép tắc tự nhiên là cái gì? Tức là luật nhân quả của vạn hữu. Muôn pháp từ nhân duyên mà sinh, muôn pháp cũng từ nhân duyên mà diệt. Đây sinh, đây diệt, đều là quả của nhân duyên sinh. Tinh thể vận hành, đầu mối thời gian dời trôi trong đó có nhân quả; sinh lão bệnh tử, cùng tột được yểu _ thọ, trong đó cũng có nhân quả. Nhân như vậy, quả như vậy, mảy tơ sợi lông chẳng chịu mượn nhờ. Nhân đây, hiện tượng tự nhiên chắc chắn không có đủ Thần chưởng quản, nhân sinh gặp gỡ cũng chẳng phải do Thượng đế chủ tể. Tục ngữ xưa nói rằng: “họa phước không cửa, chỉ người tự chuốc”. Tự mình cũng là chủ tể chính mình, không có thần nào, có thể lấy làm chủ tể con người, cũng không có thần nào có thể đối với con người mà ban phước giáng họa.
Hơn hai nghìn năm trăm năm trước, lúc Đức Thế tôn Thích Ca ở dưới cội bồ đề mắt thấy sao sáng ngộ đạo, câu nói thứ nhất mà ngài mở miệng để nói: “Kỳ thay kỳ thay, tất cả chúng sinh đều đủ đức tướng Như Lai trí huệ, nhưng nhân vì vọng tưởng chấp trước, không thể chứng được, nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trí, tự nhiên trí tức được hiện tiền”. Đức tướng Như Lai trí huệ là cái gì? Tức là Phật tánh, là người người đều có; tánh này ở nơi thánh không tăng, ở nơi phàm không giảm. Người người nương nơi pháp tu trì, chuyển mê khai ngộ, đều có thể thành Phật. Nhưng nương nơi pháp tu trì chuyển mê khai ngộ hoàn toàn cần dựa vào lực hành thật tiễn chính mình, không phải là dựa vào sự ban phát của Thần. Phật tánh _ người người đều đủ, do vì vọng tưởng chấp trước mà chẳng thể chứng được. Đây được so sánh trên cái guơng phủ bụi, quyết cần tự mình nương phương pháp tu trì, lau chùi đi bụi bặm, khôi phục lại tánh gốc _ ánh sáng nguyên có. Đây hoàn toàn dựa vào sự tu trì của chính mình, chẳng đồng với Gia tô mong nhờ tha lực nói là: “tin chúa được cứu rỗi”. Người đời không hiểu lý này, lấy tôn giáo mong nhờ thần lực giúp cứu, cho là khoa học; đem tôn giáo nhờ dựa vào sự tu trì chính mình cho là mê tín; đây há chẳng phải là điên đảo đen trắng, không rõ thị phi sao? Cái nào là trí tín? Cái nào là mê tín? Người mắt sáng đủ có chỗ lựa chọn rồi.
E. PHẬT PHÁP VÀ KHOA HỌC
Khoa học hiện đại rất là thích hợp với nhân loại; vì nó có thể đem cái học vấn trên sách vở, thực dụng vào việc hưởng thụ vật chất được cải tiến trên cuộc sống nhân loại. Trong quan niệm ở nơi con người, cho rằng khoa học là một điều mới mẻ, tiến bộ, thiết thực. Cho nên lời nói về khoa học của các nhà khoa học, và những lời khác ở trong các sách là không có giống nhau. Điểm cần yếu của nhà khoa học có ba:
Một là luật NHÂN QUẢ, là kết luận từ lý luận đến thực tại, sự tương truyền cùng giống nòi – trồng đậu được đậu.
Hai là KINH NGHIỆM THỰC TẾ, là sau khi thu nhập tài liệu, nghiên cứu chín chắn, mới viết ra lý luận để giải thích, chẳng thêm bất kỳ “không tưởng” nào.
Ba là PHÂN TÍCH, là dùng thực tế kinh nghiệm qua nhiều ngày tháng để phân tích và quan sát sự biến hóa từng cái cá thể; hoặc mổ xẻ từng cái cá thể mà xem xét cái tổ hợp đó.
Khoa học dùng ba phương pháp này để nghiên cứu vạn vật, nhiên hậu biết được sự tồn tại của vật, vì hai món: sự liên tục của thời gian và sự hòa hợp của không gian, giả tướng cấu thành, đây cùng với Phật học rất giống nhau.
Sự tổ chức của Kinh Phật chia làm ba phần lớn: Phần tựa - phần chánh tông - phần lưu thông; mỗi đại đoạn lại phân ra làm bao nhiêu tiểu đoạn, thứ lớp, sự phân chia nghiêm cẩn này cũng hợp với tinh thần khoa học.
Mỗi một bộ Kinh Phật bắt đầu đều có sáu món chứng tín đầu mối: TÍN, VĂN, THỜI, CHỦ, XỨ, CHÚNG, lại nói rõ điểm trọng yếu về thời gian, địa điểm, thính chúng... mà Phật nói kinh đó, đây họp với “lục hà” (sáu việc được hỏi) trên tân văn học ngày nay: - hà nhơn (người nào?) - hà sự (việc gì?) - hà thời (lúc nào?) - hà địa (chỗ nào?) - vi hà (làm gì?) - như hà tương tự (giống cái gì?). Lại tương đồng với người làm công tác khoa học viết về báo cáo thực nghiệm. Báo cáo thực nghiệm bắt đầu cần phải viết: Người chủ trì, những người cộng đồng thực nghiệm, thời gian, điạ điểm, mục tiêu thực nghiệm, phương tiện sử dụng (đồ vật sử dụng).
Quá trình của con người học Phật, có bốn phương pháp hợp với khoa học: 1. - tin, 2. - hiểu, 3. - thực hành, 4. - chứng.
TIN, là tin phương pháp Đức Phật dạy cho con người là CHƠN CHÁNH. Đức Phật nói con người có Phật tánh, nhưng bị phiền não ngăn che, cho nên ở nơi cảnh mê. Con người nếu dọn trừ mê vọng, thì sanh khởi giác ngộ, tương lai cũng được thành Phật. Nếu anh đối với những lời nói của Đức Phật mà không hoài nghi, thì anh tức là có chánh tín đối với Phật giáo rồi.
HIỂU, là anh tuy tin những lời nói của Đức Phật đúng, nhưng anh cần xác định thực tế có thể hiểu rõ ý nghĩa bao hàm trong một câu nói đó hay không. Không có được hồ đồ không có chỗ rõ ràng, không có thể hiểu một nửa hoặc không hiểu, hoặc là có chỗ hiểu lầm.
THỰC HÀNH, là đối với câu nói của Phật “ngươi sẽ thành Phật” này, anh đã tin sâu sắc rồi; anh lại hiểu được làm thế nào mới có thể thành Phật; như thế hiện tại là anh cần phải đem phương pháp thành Phật của Đức Phật dạy, từng bước từng bước luyện tập một cách thiết tha và chắc thật. Nhưng có nhiều đệ tử là tri thức cửa Phật, tin pháp của Phật giảng, lại có thể hiểu rõ chân nghĩa của nó, song vì Phật pháp không dễ không theo việc làm thế tục hoặc gấp rút công sức để mau gần cái lợi, thực hành được một thời gian thấy không công hiệu thì chẳng làm nữa; kiểu này tuy là có tin có hiểu, nhưng rốt cục là ngang bằng với sự chẳng tin chẳng hiểu; bởi vì học Phật đối với TIN và HIỂU, thì HÀNH càng trọng yếu hơn.
CHỨNG, là phương pháp lúc Đức Phật còn tại thế dạy người thành Phật có tám vạn bốn nghìn pháp môn, bất kỳ một pháp nào, hễ có hằng tâm mà chí thành tu trì, có như vậy tức thân có thể thành A La Hán, thành Bồ tát, thành Phật. Chỉ riêng đem nước Trung Quốc ra nói, caÙc bậc cao tăng, đại đức, nhiều đời thành đạo (đắc đạo thành Bồ tát hoặc thành Phật), như ở trong “Cao tăng truyện” hay “Hiền thánh lục” đã nói đến, trải qua rất nhiều trong đây không nói lại.
Nói một điểm thực tế hơn, ngày nay bao nhiêu sự phát hiện trên khoa học, kinh Phật hơn hai nghìn năm trăm năm trước đã sớm có ghi chép rồi.
Quá khứ, thế giới trong quan niệm của người đời, chẳng ra khỏi phạm vi địa cầu, như bình thường được gọi là “đi vòng quanh thế giới”, chẳng qua là nhiễu một vòng xung quanh địa cầu; gọi là “đại chiến của thế giới”, cũng chẳng qua là chiến tranh quốc tế đại quy mô trên địa cầu. Mà Đức Phật đã từng nói trong kinh: “tam thiên đại thiên thế giới”. Tam thiên đại thiên thế giới, thật chẳng phải là ba nghìn cái thế giới, mà là tập hợp một nghìn thế giới làm một tiểu thế giới, tập hợp một nghìn tiểu thế giới làm một trung thế giới, tập hợp một nghìn trung thế giới làm một đại thế giới. Do trong đó bao hàm bội số có ba cái nghìn, cho nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới”. Trong kinh nói rằng: “Hư không vô tận, thế giới vô lượng, quốc độ chúng sanh vô lượng”, cho nên tam thiên đại thiên thế giới cũng rất vô lượng. Địa cầu chỗ ở của chúng ta, chẳng qua là một hạt bụi trong không gian to lớn. Lời nói của pháp này ở lúc trước khi khoa học chưa phát đạt, thật khó được con người tiếp nhận. Nhưng do nơi sự phát triển của thiên văn học, đã chứng minh tinh cầu trong hệ ngân hà nhiều đến nỗi không thể đếm hết, cự ly rộng của khoảng cách tinh cầu cũng tính không hết. Ví dụ như địa cầu khoảng cách với thái dương là tám phút rưỡi năm ánh sáng (cự ly của một năm ánh sáng, mỗi giây là ba mươi vạn dặm, nhân lên số giây của một năm). Mà cự ly giữa sao Ngưu Lang và Chức nữ đến mười hai ngàn năm ánh sáng. Lại có những tinh cầu cách địa cầu tới khoảng vài chục năm ánh sáng... Do đây có thể biết so với khoa học, Phật pháp càng khoa học.
ĐƠN GIẢN NÓI VỀ PHÁP NGHĨA GIÁC NGỘ
GIẢI THÍCH SƠ LƯỢC VỀ PHẬT HỌC
A - Ý NGHĨA VÀ LƯỢC SỬ ĐỨC PHẬT
Phật, chữ này là tiếng Phạn, là tiếng gọi tắt của hai chữ “Phật Đà” mà Hán văn đã dịch âm ra (lại gọi là Như Lai, Thế Tôn...), ý nghĩa đó là bậc Giác ngộ. Giác ngộ nhân sinh và tất cả vạn vật khác, xa cho đến thật tướng và chân lý của cái thể vũ trụ và chư thiên. Nhiên hậu đem chân lý này nói cho những ngïười không hiểu được nghe, khiến người không hiểu cũng hiểu. Mọi người hiểu rồi, mọi người sẽ nương theo phương pháp dạy ở trong Phật học mà tiến đến thực hành, lấy việc liễu thoát tất cả khổ đau mà hưởng thọ vui vẻ.
Người noi theo lời dạy trong Phật học mà tu trì thành Phật rất nhiều. Đức Phật mà chúng ta đang nói là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài đản sinh ở nước Ca Tì La Vệ, thuộc bắc Ấn Độ (ngày nay là Nêpan), niên đại ngài đản sinh đến nay chưa có thuyết nhất định, nhân vì Ấn độ xưa không chú trọng về việc lịch sử, đại khái suy định là sáu thế kỷ rưởi trước kỷ nguyên. Lúc nhỏ tên là Tất Đạt Đa, là thái tử của vua Tịnh Phạn, mẹ Ngài là Ma Gia phu nhân, khi Ngài sinh ra không lâu thì bà qua đời, nhờ di mẫu thay thế nuôi Ngài thành người. Khoảng mười sáu tuổi, Ngài cùng với Da Du Đà La kết hôn và sinh được một con trai là La Hầu La. Theo quá khứ thời gian, Ngài thấy được những hình ảnh sanh, lão, bệnh, tử... các điều đau khổ và chúng sinh tàn sát lẫn nhau của loài người, Ngài quyết ý cần phải tìm ra một phương pháp để giải quyết các việc khổ đau của thế gian. Năm mười chín tuổi quyết chí xuất gia, tìm kiếm đáp án, hỏi đạo sáu năm, tu trì sáu năm, dưới cây bồ đề của thành Già Da, tinh tấn nhập thiền định khai sáng chính mình, cuối cùng được đại giác ngộ chánh giác, bắt đầu giảng dạy. Một đời nói pháp bốn mươi chín năm, lúc viên tịch là tám mươi tuổi. Hầu như Ngài đi khắp cả xứ bắc Ấn Độ, dạy dẫn dắt tất cả nam - phụ - lão - ấu các giai tầng, ngài đều xem bình đẳng không khởi tâm phân biệt, đả phá thành phần giai cấp của xã hội đương thời, đề xướng chúng sanh bình đẳng.
B - PHẬT CHẲNG PHẢI LÀ THẦN
Đức Phật THÍCH CA MÂU NI là nhân vật chánh trên lịch sử, chẳng phải là vị thần mượn gá hoặc hóa thân của thần. Mười phương ba đời tất cả chư Phật đều là từ con người ở tại nhân gian thành Phật, mà không phải là ở trên trời hoặc chỗ nào khác mà thành Đẳng Chánh Giác, có thể thấy địa vị của con người là tôn quý vô thượng. Do đó có thể nói rằng con người có đầy đủ một cách hoàn toàn nhân cách tức là Phật đà, tức là Phật giáo lấy sự “hoàn thành nhân cách” làm mục tiêu, nên nói rằng “nhân thành tức Phật thành”; người người đều có thể thành Phật, tức là ý tứ của đạo lý này vậy. Thành Phật hoàn toàn quy cả nơi trí tuệ và sự nỗ lực ở con người, mà không phải là chịu nơi bất cứ thần linh nào hoặc sự cảm ứng của lực bên ngoài. Hoàn toàn nương nơi tự lực và chân lý (chánh pháp) mà không nương gá ở nơi tha lực; chỉ cần chịu phát nguyện, tinh tấn, cuối cùng đều có thể thành Phật; cho nên nói rằng Phật giáo là nơi mọi người đều có thể dựa vào. Người người thành Phật rồi giáo hóa, không phải là chỗ chuyên chỉ lợi phẩm của Đức Thích Ca Mâu Ni, cũng chẳng phải là như thần tự xưng: “chỉ có ta là cao tột vô thượng, con người tuyệt đối không thể đạt đến địa vị của ta”, nói pháp như thế cũng là phủ định quan niệm bình đẳng “Người người đều có thể thành Phật”. Ấn Độ trong thời đại của Đức Phật, ngài thấy được giai cấp của xã hội (Bà La Môn, quý tộc, bình dân, nô lệ), phân chia um tùm không hợp lý; Ngài mạnh mẽ chủ trương đối lập phế trừ giai cấp, đề xướng chúng sinh bình đẳng, trồng lên cái cây mà về sau này là sự tồn tại của tinh thần Phật giáo, thẳng tắp lưu truyền về sau.
C - PHẬT HỌC
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, với tâm đại bi thiết tha, một đời Ngài cố gắng thuyết pháp độ sinh; xưa nay trong ngoài chỉ có một Khổng Tử răn dạy người chẳng biết mỏi mệt giống như Ngài. Cái học của Phật giảng đương thời chỉ dùng lời nói, không có viết thành văn chương. Sau khi Phật diệt độ, chúng đệ tử sợ rằng thời gian trải qua lâu, học lý của Đức Phật dạy sẽ từ từ bị loài người bỏ mất; cho nên chúng đệ tử, do Đại Ca Diếp lãnh đạo, nhóm họp năm trăm người tại một nơi tên gọi là “Diệp thọ nghiêm”, khai ra hội nghị kết tập. Trong hội do một người đệ tử của Phật có sức nhớ rất mạnh mẽ và số lần nghe pháp cũng rất là nhiều, đó là: A Nan, tụng lại chân lý thật tướng của nhân sinh và vũ trụ mà Đức Phật đã giảng, đó gọi là “Kinh tạng”. Tụng ra phép tắc, quy củ hành trì của chúng đệ tử, Phật đặc biệt lập ra, gọi là “ Luật tạng”. Ngoài ra do Phú Lầu Na dùng phương thức vấn đáp, tụng ra giải thích và phát huy chân lý của Phật, gọi là “Luận tạng”. Kinh, Luật, Luận này hợp lại chung gọi là “Tam tạng”. Nhưng người học nhiều thời đó hãy còn có giới hạn, chưa từng tham gia; bên ngoài hội (ở ngoài hang) do Bà Sư Bà lãnh tụ riêng kết tập năm tạng: Kinh, Luật, Luận, Tạp và Chú cấm. Ngoài ra, hãy còn có các vị Bồ tát như: Văn Thù, Di Lặc... và A Nan tôn giả kết tập Thánh điển “đại thừa tam tạng”, tổng quát những sự kết tập ở trên gọi là “Đại tạng kinh”. Phật giáo với sự viên mãn của giáo lý, sự tinh mật của luận bàn, trên thế giới bất luận kinh điển của một tôn giáo nào không thể cùng với đó so sánh được.
D - MỤC ĐÍCH HỌC PHẬT
Tam tạng kinh điển, không luận là nói về lý, nói về hành, hoặc nói như thế nào đi nữa, mục đíchø ở chỗ là khiến chúng sinh chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui - khiến chúng sinh đồng thành Phật đạo. Mà chúng sinh chúng ta, nghiên cứu kinh điển giáo lý, tụng kinh niệm Phật, giữ năm giới mười thiện nghiệp, thực tiễn sáu pháp Ba La Mật, mục đích đó cũng là mong cầu chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui, - cứu cánh sau cùng cũng là mong cầu đồng thành Phật đạo.
E - CHUYỂN MÊ KHAI NGỘ
Một con người ở trong cuộc sống vài mươi năm, nói gần, không hiểu được đời mình như thế nào, cứ lộn xộn hồ đồ qua đi, giống như người bịt mắt đi đường, đến lúc già rồi lại không rõ không hiểu rồi chết đi, chết rồi đi đến chỗ nào? Cho đến tất cả vạn vật ở bên ngoài cá nhân là thế nào mà đến, chỗ có tất cả này, đều thì chẳng rõ được sự kỳ diệu. Nói xa, tất cả vũ trụ vạn hữu lại là thế nào mà tồn tại? Phàm không hiểu được đạo lý này gọi là MÊ. Ngược lại, hiểu được thân thể của nó chỉ là giả tướng của bốn đại hòa hợp: địa, thủy, hỏa, phong mà thành (tức là hệ thống tám đại của thân người giải phẫu, nhục thể tổ hợp mà thành), nhục thể giả tướng này, trải qua các giai đoạn: trẻ nhỏ, thiếu niên, trung niên, lão niên; rồi có một ngày bốn đại không điều hòa mà bệnh, bệnh nặng mà chết, sau khi chết tạm quy về tiêu diệt dần dần. Chỉ còn ở lại nơi nhục thể cái “thật tướng” con mắt nhìn không thấy đó, lại gọi là chân như (tục gọi là linh hồn), hoặc gọi là Phật tánh là vĩnh viễn tồn tại, là không sinh không diệt, một con người như thế này, vạn vật cũng là như thế này, người nếu hiểu được đạo lý này, tức là trụ ở nơi cảnh Ngộ. Phật học tức là đem cảnh Mê của anh, chuyển cho qua đi mà mở ra một con đường khiến anh đi vào cảnh Ngộ làm mục đích thứ nhất.
F - LÌA KHỔ ĐƯỢC VUI
Người đời nghèo cùng khổ, giàu có cũng khổ, lấy khổ làm vui, quen rồi cho là thường! Một con người ở trong cuộc sống vài mươi năm, sự tình lãnh thọ các loại, các dạng rất nhiều rất nhiều, trong mười phần thì tám chín phần là không như ý. Việc bất như ý này khiến cho thân thể và tinh thần của con người chịu lấy nhiều điều đau khổ, như: sanh, lão, bệnh, tử, cầu không được, khốn đốn kinh tế, bất hòa nhân sự khó tìm kiếm... Cái khổ của các kiểu các dạng rất là nhiều. Cần đối phó với những đau khổ phải chịu trên tinh thần và thể xác, Phật học dạy con người nên dùng nhãn quang trí tuệ xem thế tình, thì phú quý cũng như khói mây qua trước mắt, dùng tâm tri túc để giữ và bỏ vạn vật, tâm thanh tịnh này sẽ không bị ngoại vật trói buộc. Đây là dùng tâm tùy duyên ở nơi cảnh nghịch, tâm địa tự bình, chẳng bị ngoại vật làm lụy, lại tiến đến một bước tu trì thì có thể đạt đến niềm vui lớn của Niết bàn.
G - HỌC LÝ CỦA PHẬT HỌC
1. TAM PHÁP ẤN
Tam pháp ấn, là Đức Phật từ vấn đề: sanh, lão, bệnh, tử, hiện thực đời người, nghiên cứu ra kết quả, xét nét ra chân lý, chân lý hiện thực từ quan sát mà có; chân lý này tức là: chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tịnh. Đây là nhân “tất cả hành khổ” có thể được bao quát ở trong “chư hành vô thường”; nhưng vì chư hành vô thường rốt cuộc sẽ phát sinh lý do đau khổ.
Pháp ấn tức là: “ấn chứng chân lý” cũng tức là “tiêu chí của Phật pháp”
CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG; “Hành” của chư hành là ý chỉ “hiện tượng” sanh diệt biến hóa. Chư hành vô thường là nói tất cả pháp thế gian sanh, trụ, dị, diệt, sát na không trụ. Việc mà quá khứ có, hiện tại khởi lên rồi biến khác; hiện tại có thì tương lai chung quy huyễn diệt. Tất cả việc này đều thuộc vô thường. Chỗ có tất cả hiện tượng đều là đổi dời không dứt, không có hằng hữu bất biến, xét cho cùng phải sinh diệt, hưng suy thôi! Việc này ở trong sinh hoạt thường ngày, chư vị đều có thể kinh nghiệm được, cho nên bất tất phải chứng minh mà tự rõ, Phật pháp tức là từ sự thật “tự rõ” này mà xuất phát ra.
Do nơi vô thường, con người sẽ sanh, lão, bệnh, tử hoặc dẫn đến sự biến động sự vật mà hóa xấu; nhưng cũng nhân nơi vô thường, sự vật cũng có hiện tượng chuyển tốt, ví dụ như người nghèo biến thành kẻ giàu, người yếu biến thành kẻ mạnh mẽ, người ngu biến thành người hiền, người mê khổ đạt được niềm vui tịnh ngộ, đây đều là vô thường của thế gian. Nhưng vô thường trong Phật pháp chỉ là biến diệt, mà không phải là đoạn diệt. Món biến diệt này là trước diệt sau sinh, nối nhau không dứt. Mà tình huống sinh diệt thay thế, tương tục không dừng, tức là chân lý trong nhân sinh và trong vũ trụ, tất cả hiện tượng.
CHƯ PHÁP VÔ NGÃ, chữ “pháp” ở trong chư pháp là ý chỉ sự vật tồn tại. Mà “ngã” của vô ngã là ý “thật thể vĩnh viễn bất biến”. Chư pháp vô ngã là nói tất cả sự vật tồn tại đều không có thật thể vĩnh cửu bất biến, sự vật thế gian có hiện tượng tồn tại, đều là nhân duyên hòa hợp mà có, rồi đến lúc nhân duyên ly tán, thì lại tiêu mất không sót lại, cũng không có thật thể thường trụ bất hoại.
Muôn pháp thế gian, trên thời gian mà xét, thì sanh, trụ, dị, diệt, sát na chẳng thấy được, tìm không ra vĩnh hằng và thường trụ; nơi không gian mà nhìn, pháp nhân duyên được sinh, nhờ các duyên hòa hợp mà thành, muôn vật không chân thật, cũng không có “ngã” chân thật.
Đứng trên Phật pháp mà nói, chỗ gọi là NGÃ, chỉ là cái thể hòa hợp của: địa, thủy, hỏa, phong – Năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đại thể mà nói, chỗ gọi là Ngã, chẳng ra ngoài hai phần là tinh thần và nhục thể. Mà ngã con người chấp trước đó, cũng tức là lấy cái giả tướng tinh thần và nhục thể này làm Ngã. Nhưng chín chắn mà phân tích, ở trong giả tướng này, rốt cuộc thì tinh thần là Ngã ư, hay nhục thể là Ngã?
Ngã chơn chánh, chỉ là chơn như Phật tánh của chúng ta, nhưng chơn như Phật tánh này bị vọng tưởng chấp trước ngăn che, rồi chấp trước cái tướng giả hợp của năm uẩn này làm Ngã. Mà tướng giả hợp của năm uẩn này, không thể thường trụ, không có tự thể, cho nên đối với bốn đại, năm uẩn mà cầu Ngã ở trong đó, rốt cuộc chẳng thể có được.
Vô ngã cùng với không, không tánh, vô, là đồng nghĩa ngữ, chư vị lúc đọc tụng kinh điển Phật giáo, nghìn vạn chẳng nên đem “không” cùng với “vô” mà giải thích là hư vô, mà nên lấy quan niệm của “vô ngã” để mà tư duy về nó.
Chư hành vô thường, mọi người đều rất dễ tiếp thọ; nhưng chư pháp vô ngã thì là mọi người không thừa nhận, mà là học thuyết riêng có của Phật pháp. Mọi người cho là tất cả sự vật, đều có bản thể vĩnh cửu tồn tại, đây tức là “bản thể luận”; Phật pháp không bàn về bản thể luận, nhân vì vô ích đối với tu hành giải thoát, cho nên đối với loại vấn đề này nói là “vô ký” (không nhân duyên có thể nói).
NIẾT BÀN TỊCH TỊNH, Niết bàn ý chỉ “sự suy diệt” hoặc là “trạng thái suy diệt” tức là thổi tan diệt đi lửa phiền não. Chỗ gọi là Niết bàn tịch tịnh, tức là đạt đến cảnh địa lý tưởng không khổ, an ổn và tự tại.
Chúng sanh vì lý do ngã chấp, khởi hoặc tạo nghiệp, nhân nơi nghiệp mà thọ báo, cho nên ngã chấp là cái gốc của sinh tử lưu chuyển. Nếu không có ngã chấp thì hoặc nghiệp không khởi, ngay sau đó có thể hiểu chân chánh thật tướng các pháp, tất cả tức là Niết bàn tịch tịnh.
“Chư hành vô thường”, “chư pháp vô ngã”, hai pháp ấn đó là ấn chứng tất cả pháp hữu vi của thế gian đều là pháp sinh diệt. Pháp ấn “Niết bàn tịch tịnh” là ấn chứng pháp vô vi của xuất thế gian, đó là pháp bất sinh bất diệt.
2. MƯỜI HAI DUYÊN KHỞI (Mười hai hữu chi)
Đem ba ấn tổng hợp lại tức là thuyết duyên khởi. Duyên khởi (còn gọi là nhân duyên) tức là nương nơi duyên mà khởi; nương duyên là chỉ sự chứa nhóm điều kiện. Khởi, là ý chỉ cho năng lực phát sinh. Do đây, duyên khởi tức là chứa đựng các món điều kiện mà sản sinh ra nguyên lý của hiện tượng. Hiện tượng là vô thường, thường hay sinh diệt biến hóa, nhưng sự biến hóa của nó là sự biến hóa nhất định ở một điều kiện nhất định, pháp biến hóa này thì cũng tức là duyên khởi.
Trung tâm của Phật pháp tức là duyên khởi cũng gọi là nhân duyên, cũng là chỗ không đồng về triết học giữa Phật pháp và các tôn giáo khác, đó là cái đặc sắc riêng có của Phật pháp.
Có thể đem duyên khởi (nhân duyên) nói một cách rất cụ thể đó là thuyết mười hai duyên khởi; thế nào gọi là mười hai duyên khởi, tức là: vô minh - hành - thức - danh sắc - lục nhập - xúc - thọ - ái - thủ - hữu - sanh - lão tử, mười hai chi phần. Mỗi chi phần đều có sự quan hệ hỗ tương ràng buộc thành vòng, tức là nói vô minh duyên với hành... sanh duyên với lão tử, đây cũng tức là “lưu chuyển duyên khởi”, đau khổ tạo thành phiền não mà sản sinh ra. Lại nói do vô minh diệt, thì hành diệt... cho đến sanh diệt thì lão tử diệt, đây cũng tức là “hoàn diệt duyên khởi”, diệt hết phiền não thì là cảnh giải thoát.
Mười hai duyên khởi (nhân duyên) là giáo lý của người học Phật rất phải nên xem
trọng, chín chắn mà xem xét mười hai duyên khởi, mới có thể ngộ được sự lưu
chuyển ba đời của sinh vật, chỉ là sự nhào lộn ở trong một cái lưới nghiệp lực.
Nay đem mười hai duyên khởi phân chia đơn giản ranh giới như sau:
2.1. Vô minh: tức là không hay biết. Chỉ trong tâm con người không rõ phiền não, mờ mịt nơi cảnh không, không chỗ rõ hiểu, mê chấp chấp tướng, bởi vì một niệm ban đầu của tâm tánh gọi là “sanh tướng vô minh”; vô minh làm nguồn gốc của phiền não thô và tế mê hoặc vọng tâm, là nguồn gốc của “phần đoạn sinh tử” và “biến dịch sinh tử”; đồng thời cũng là căn bản của Niết bàn giải thoát và Bồ đề tịch tịnh.
2.2. Hành: tức là ba hành: thân – ngữ – ý, cũng gọi là ba nghiệp. Nhân vì có vô minh mê hoặc vọng tâm, vô ngã vọng chấp có ngã, bèn khởi hoặc tạo nghiệp, bèn có hành động của nghiệp, sản sinh ba nghiệp thân - ngữ - ý sai lệch. Hành này không những là chỉ hành vi sai lầm, cũng là bao quát tập quán lực của hành vi, nhân vì bất kỳ hành vi, kinh nghiệm nào của chúng ta, rõ chẳng phải là sau hành vi thì sẽ tiêu diệt, mà là nhất định sẽ có lực lưu giữ, tác động làm trí năng, tánh cách... Các tố chất mà bảo tồn, chứa nhóm.
2.3. Thức: là ý chỉ “chủ thể nhận thức” tức là tâm nhận thức chủ quan. Nhân do ở sự lưu chuyển của nghiệp lực mà hình thành chủ thể sinh mệnh.
2.4. Danh sắc: tức là năm uẩn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn là chỉ phương diện tinh thần danh; sắc uẩn gọi là sắc, là chỉ phương diện nhục thể hoặc vật chất. Tất cả hữu tình đều là do “danh - sắc” hòa hợp mà thành, do sự phát triển và tích tụ của thức mà có sự tác dụng của sinh lý và tác dụng của tinh thần.
2.5. Lục nhập: chỉ sáu căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; ý tức là cảm giác, năng lực biết. Danh sắc tiếp tục phát đạt mà hoàn thành nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, cảm thọ được cơ quan kích thích từ bên ngoài đến.
2.6. Xúc: tức là sự hòa hợp của ba món: sáu căn, sáu cảnh, sáu thức; cũng tức là do: căn, cảnh, thức mà có tác dụng nhận thức cảm giác. Nhân vì có sáu căn, nó sẽ có thể cảm thọ và xúc đối cảnh giới sáu trần; xúc là một chi trọng yếu mười phần trong mười hai duyên khởi. “Năng xúc” là căn, “sở xúc” là cảnh, hoàn cảnh tốt xấu, thì sẽ liên hệ cảm thọ nơi căn của chúng ta.
2.7. Thoï: Căn và trần xúc đối với nhau, nhất định sẽ tiếp thọ cảnh trần bị xúc đối (sở xúc). Thí như “nhĩ căn” của chúng ta đối với “thinh trần” thì sẽ tiếp thọ các thứ âm thinh, thân căn tiếp xúc lạnh nóng (trần) thì biết cảm thọ lạnh nóng. Trở lên, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ là năm chi quả khổ của đời hiện tại.
2.8. Ái: Ái là tham ái, sáu căn lãnh thọ sáu trần như vậy, đối với cảnh bị tiếp nhận, vọng sanh suy tính phân biệt, đối với việc vui thích nơi tâm lại sinh tâm tham ái, không thích nơi tâm thì khởi tâm nhàm ghét. Tâm tham ái và nhàm ghét này, nó là cội nguồn sanh tử luân hồi của sáu đường chúng sinh. Phát tâm Phật học tu hành, tức là cần phải tu cái tâm vọng tưởng. Tác dụng của ái rất là lớn, ái có bảy món tình niệm: hỉ (mừng), nộ (giận), ai (buồn), lạc (vui), ái (yêu), ố (ghét), dục (ham muốn).
HỈ: thành tựu được việc ta yêu thích, trong tâm sẽ hoan hỉ.
NỘ: bị tước đoạt việc ta yêu thích, trong tâm sinh giận.
AI: bị mất đi cái ta yêu thích, trong tâm sinh buồn rầu.
LẠC: được cái ta yêu thích, trong tâm vui vẻ.
ÁI: tất cả hoàn cảnh hễ có lợi đối với ta, thì trong tâm khởi sinh tham ái, vọng niệm tham đến mức không nhàm chán.
Ố: việc trái với sự yêu thích của ta, trong tâm sinh nhàm ghét.
DỤC: Thuận theo sự yêu thích của ta, trong tâm sẽ sinh ham muốn.
Nương đây mà xem, thì Ái đích xác là căn bản của sinh tử, món ác hàng đầu của phiền não.
2.9. Thuû: Đã Ái rồi cảnh giới năm dục bị tham, thì nghĩ cho hết cách thu lấy nó về mình, theo sự ham muốn của tâm làm cho ta được hưởng thụ, càng nhiều càng tốt, chẳng nghi vấn một chút nào, rồi sẽ làm ra món món nghiệp ác, nếu như cảm thấy hoàn cảnh trái lại sự yêu thích của ta, thì phát sanh phẫn hận, không kể gì cả, mặc ý vọng làm ra rất nhiều nghiệp tội lỗi; cho nên nói rằng Thủ là đứng đầu của tội và là đầu mối của họa, chúng ta nên từng giờ từng khắc nắm chặt lấy cái miệng cột của Thủ, có thể đoạn trừ được cái nhân phiền não, khả dĩ khỏi thọ khổ sinh tử, Thủ này và Ái, cho đến Vô minh, ba chi này gọi là “nhân mê hoặc của phiền não”.
2.10. Hữu: tức là cái hữu “bất muội của nhân quả”, đối với cảnh bị ái, đem nó mà giữ gìn, đối với cảnh chẳng ái xả trừ nó đi, nhân đó bèn làm ra các món nghiệp, thật là biển nghiệp mênh mông, khổ não vô lượng, có nhân nghiệp nhất định báo cảm lấy quả nghiệp.
2.11. Sinh: Chỉ là do tình sanh đối với một bộ loại hữu tình nào đó, hoặc chỉ cho luật sống ngày thường, có kinh nghiệm sinh ý. Trước ấy là cậy các lực (tri năng, tính cách thể chất) toàn bộ kinh nghiệm trong quá khứ của hữu tình mà sinh, cho nên mỗi con người đều đủ có tố chất nhất định. Sau ấy là chỉ cái tố chất (hữu) của con người làm cơ sở, mà có kinh nghiệm mới sẽ được phát sinh. Tóm lại, cả hai việc ấy đều là từ nơi Hữu mà sản sinh ra sự sống mới.
2.12. Lão tưû: Từ Sinh về sau phát sinh ra lão, bệnh, tử, buồn rầu khổ não,... cuối cùng bước lên con đường tử vong. Lão và tử là đại biểu cho cái khổ não của tất cả.
Lợi dụng nguyên lý của 12 duyên khởi, có thể giải dịch ra hiện tượng luân hồi của ba đời. Nói một cách tổng quát, tức là HOẶC (duyên), NGHIỆP (báo), KHỔ (báo); tức là nhân nơi Hoặc (phiền não) ắt tạo Nghiệp, do nơi tạo Nghiệp nhất định thọ báo mà sinh Khổ, nhân nơi Khổ mà sinh ra phiền não mới. Như vậy ba món này xoay vần xen nhau làm nhân duyên, mãi luân hồi trọn không dừng dứt. Cũng tức là nói, do nơi Vô minh, Ái, Thủ duyên với các món phiền não, bèn có cái nhân đó mà tạo thành Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, lão và tử v.v... các khổ báo.
Mười hai duyên khởi (nhân duyên) là đạo lý dùng để giải thích con người vì sao ở trong biển khổ sinh tử vần xoay luân hồi. Mười hai duyên khởi xem ra là từ vô minh... cho đến lão tử, nương nơi thứ loại mà tìm chọn. Nhưng nó chẳng phải là một đường thẳng mà là một hình vòng tròn mắc xích với nhau. Mạng sống tức là như thế này, đầu mà cuối, cuối mà lại đầu, lưu chuyển luân hồi không dừng, giống như gà... trứng..., trứng... gà...
Sự suy lão, tử vong của chúng sinh tức là nhân vì chúng ta có sinh, có sinh mới có chết. Mà chúng ta sở dĩ đầu thai đến nhân gian, đây là chúng ta đã vì ngu xuẩn và vô tri, không rõ thị phi, vọng loạn làm ác. Do đó chúng ta đời này cần nỗ lực làm thiện, đoạn tuyệt tất cả nhân ác, học Phật tu hành, thường thường trì niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, về sau khỏi phải thọ lấy luân hồi khổ báo.
Mười hai duyên khởi chỉ bảo chúng ta cái nguyên nhân sinh tử, đánh thức chúng ta cần phải tiến một bước nghiên cứu như thế nào liễu thoát khỏi sự uy hiếp của sinh tử, chẳng vậy thì sống say chết mộng, khổ nạn vĩnh viễn, không có ngày ngừng nghỉ.
3. BỐN THÁNH ĐẾ:
* Bốn thánh đế - nói chung:
Thuyết mười hai duyên khởi (nhân duyên) là viết ra chú trọng ở việc nói rõ khổ trên “duyên khởi lưu chuyển” sản sinh như thế nào, mà đối với diệt khổ “duyên khởi hoàn diệt” cho đến khi đạt đến giải thoát, chỉ có thuyết minh tiêu cực mà không cụ thể. Liên quan với duyên khởi hoàn diệt là đạo đế ở trong bốn thánh đế, tức là tám món chánh đạo (bát chánh đạo), có thuyết minh cụ thể rõ ràng. Do đó, vì muốn khảo sát toàn diện thuyết duyên khởi để thấy, không chỉ cần nói rõ duyên khởi, đồng thời cũng cần nghiên cứu đạo lý thực tiễn của bốn thánh đế.
Thuyết mười hai duyên khởi là pháp môn “tự nội chứng”, cũng tức là “tự hành pháp môn”. Căn cứ thuyết Đức Phật Đà quán sát sở đắc từ thiền định tư duy lúc thành Phật đạo dưới cội Bồ Đề, chỗ đối nhau, thuyết bốn thánh đế là “tha hóa pháp môn” nêu bày làm người khác hiểu rõ thuyết duyên khởi. Tức là lời dạy bốn thánh đế của Đức Phật ở tại vườn Lộc dã thuyết pháp cho năm vị tỳ kheo, đây là bắt đầu Đức Phật độ chúng sinh.
Bốn thánh đế thật sự là cơ sở của Phật giáo, cũng là tư tưởng trung tâm của phật pháp.
Bốn thánh đế là bốn pháp: khổ, tập, diệt, đạo. Đế ý là “chân thật bất hư”; đế này là chỗ biết của bậc thánh, cho nên gọi là “thánh đế”.
THÁNH, cùng với “Phàm” đối nhau, chỉ cho người ngộ được xuất thế gian vô lậu vượt khỏi sinh tử luân hồi. ĐẾ, tức là chân lý. “Khổ đế” là chỉ cho hiện tượng của sinh mạng, đều là quả khổ. “Tập đế” là nói rõ nguyên nhân tạo thành quả khổ. “Diệt đế” là nói rõ trạng thái lý tưởng diệt hết tất cả phiền não mà vào Niết bàn. “Đạo đế” là nói rõ phương pháp dẫn dắt diệt hết tất cả phiền não đau khổ.
Bốn thánh đế bao gồm hết hai lớp nhân quả của thế gian và xuất thế gian: Tập là nhân, khổ là quả, đó là nhân quả của cõi mê. Đạo là nhơn, diệt là quả, đó là nhân quả của cảnh ngộ. Đức Phật nói pháp, trước tiên nói “khổ”, sau đó nói “tập”, bèn là muốn khiến cho chúng sinh trước tiên phải nhàm chán ở sự bức bách đuổi rượt của các khổ và các nguyên do của các khổ, bèn liên hệ chỗ chiêu cảm của tập, khiến chúng sinh biết khổ mà đoạn tập, trước nói “diệt”, sau nói “đạo” là muốn chúng sinh, trước mừng ở nơi diệt, của sự an lạc thanh tịnh, truy tìm nguyên nhân của diệt, bèn phát ra sự tu tập của đạo, khiến chúng sinh tu đạo mà chứng diệt. Chỗ nói rằng khổ phải biết, tập phải đoạn, diệt cần chứng, đạo phải tu là vậy.
* Bốn thánh đế – chia ra nói:
3.1 KHỔ ĐẾ:
Khổ, là chỉ sự bức bách. Chỗ tạo ra vô số ác nghiệp của chúng sinh từ vô thỉ trở lại đây, ắt chiêu lấy khổ báo, như có ba khổ, tám khổ, vô lượng các khổ. Trạng huống thực tế tất cả sinh mạng ở trong cõi mê, đều chẳng có điều gì không là đầy dẫy những nhiễm ô và khổ não, tuy trong đời người cũng có lạc thú, nhưng cảnh vui này rốt cục sẽ ở nơi vô thường thay đổidẫn đến tạo ra đau khổ, không có ai có thể trốn được, liên hệ đối với chủng loại và hiện tượng của khổ sẽ thuật nói ở sau.
Bức bách thân tâm gọi là khổ, tức là phạm vi của khổ đế. Một hạng người đối với Phật giáo cực lực cường điệu thuyết pháp: “tất cả hiện tượng thế gian đều là khổ”, hiểu được mà không thể tiếp nhận, nhân vì ở trong hiện tượng giới, không những có khổ, cũng có vui và không khổ không vui, đây là sự thật trước mắt, vả lại khổ vui là thuộc ở nơi tình cảm, tuy nhiên phương diện đối với sự vật, hoàn cảnh đồng dạng. Nhưng do sự không đồng của nhân con người và nhân thời gian, cảm thọ chủ quan của cá nhân cũng thường có chỗ không đồng, cho nên không thể nhận chung hiện tượng giới là tất cả khổ. Thậm chí cho hiện tượng này là điểm cơ bản, quở trách Phật giáo là tôn giáo yếm thế bi quan. Những việc này đều là chẳng hiểu rõ giáo lý Phật giáo mà hiểu lầm lạc rồi dẫn nêu ra. Đức Phật nói thế gian có khổ nạn, nhưng đều chẳng phải là phủ nhận đời người cũng có lạc thú, như cái vui của loài trời, cái vui của năm căn và cái vui của thiền định... Nhưng những cái vui này là vô thường, biến dời không ở, rốt rồi vui quá sanh buồn, do đó mà đều bao trùm trong khổ. Cho nên chư vị về sau, lúc xem đọc tụng kinh điển Phật giáo thấy nói khổ đều là chỉ “vô thường tức là khổ”, mà không phải là khổ nạn chỗ gọi thông thường.
Bản thân của đời người tức là khổ, là giáo thuyết cơ bản của Phật giáo, gọi là “khổ thánh đế”, gọi tắt là “khổ đế”, là cụ thể thuyết minh hiện tượng của khổ. Liên quan đến chủng loại của khổ rất là nhiều, trong sinh hoạt hằng ngày thường gặp đến, chẳng làm sao kể xiết, nhân đó đưa ra “tất cả hành khổ” trong một pháp ấn “chư hành vô thường” của ba pháp ấn, thì đã bao hàm. Như từ kinh văn của “kinh chuyển pháp luân” thuộc kinh điển nguyên thủy mà nói, có thể đem khổ nói làm tám khổ, tức là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Nay lần lượt giải thích ở sau.
3.1.1. Sanh khổ: Sanh không phải là chỉ cuộc sống (sinh hoạt) mà là sinh ra đời (đản sinh). Nhưng ra đời chẳng phải là chỉ cho sát na ban đầu (kết sinh) lúc mang thai từ thai mẹ, mà do nơi việc tái sinh, nhất định chịu khổ luân hồi.
3.1.2. Lão khoå: Lão, trong thơ của người đời Đường nói: “Công đạo nhân gian duy bạch phát, quý nhơn đầu thượng bất tằng nhiêu” nghĩa là (chỉ việc bạc tóc cũng là công đạo của nhân gian, trên đầu của kẻ cao quý cũng chẳng thể dung cho được), thì bất kỳ người nào cũng không thể tránh khỏi cái già. Con người sau khi lao khổ, bôn ba mấy mươi năm, ngoài ra, các cơ quan sinh lý khả năng suy thoái, nhân thể lực và sức đề kháng suy nhược thì các món tật bệnh xâm lấn hoành hành, đều khiến cho con người khó mà nhẫn chịu được đau khổ, dắt theo cái khổ trên tinh thần, da gà tóc hạt, trạng thái già nua lẩm cẩm, ai có thể trốn ra khỏi “công lệ già” này.
3.1.3. Bệnh khổ: Con người từ lúc cất tiếng khóc chào đời, thì đã cùng với bệnh kết duyên không giải được. Bệnh lúc nhỏ thì đậu mùa, bệnh sởi. Bệnh lúc trung niên như loét dạ dày, nhọt phổi, kết hạch... Bệnh lúc già như cao huyết áp, tim tạng bệnh... không thể kể xiết, tóm lại, sinh bệnh thì là khổ.
3.1.4. Tử khoå: Các cơ của thân thể hoàn toàn không có năng lực hoạt động, tiêu tan mất tác dụng mà trước khi chết đã có. Bốn đại: Đất như: xương, thịt, lông, tóc... Nước như: máu, nước dịch, nước tiểu... Lửa: như nhiệt năng ở trong thân, Gió như là: sự hô hấp, chia cắt ra khiến cho trên nhục thể và tinh thần gặp đau khổ tột cùng.
3.1.5. Ái biệt ly khổ: Thanh xuân chia lìa đôi lứa, trung niên con bị chết non, hoặc vì cầu y thực, hoặc nhân sự bức xúc hình thế, cùng với người thân yêu chia lià, khổ về sanh ly, tử biệt.
3.1.6. Oán tắng hội khổ: Cùng với những kẻ đáng ghét gặp mặt, lời nói thiếu vị. Xung đột lợi hại, cả hai người chẳng bao dung nhau, lại còn gặp việc: cùng sống cộng đồng hoặc cùng công tác, nên dẫn đến cái khổ.
3.1.7. Cầu bất đắc khổ: Đồ gì muốn thu được, lực lượng kinh tế đạt không được, muốn mưu cầu một vị trí, “người nhiều mà cháo ít”, mưu không được, công việc chỉ muốn cho chính mình không được, vì là ăn không được cơm thì chẳng làm việc, dục vọng chẳng thể đủ đầy, tức là có sở cầu mà cầu không được, há chẳng khổ não ư?
3.1.8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: Năm ấm tức là năm uẩn, năm uẩn nhóm tụ thành thân, như lửa cháy mạnh, bảy món khổ trước đều do đây mà sinh; “Sắc ấm” xí thạnh (hừng hẫy) bốn đại không điều hòa mà có khổ về tật bệnh; “Thọ ấm” xí thạnh, lãnh nạp phân chia, khiến cho các gốc chuyển thêm mạnh; “tưởng ấm” xí thạnh, tưởng tướng tìm cầu, mà có ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, các điều khổ; “Hành ấm” xí thạnh, khởi tạo các nghiệp, lại là các nhân về sau chịu báo, vả lại nhân nơi hành mà dời đổi không dừng, nên có khổ về lão suy; “Thức ấm” xí thạnh thì khởi hoặc tạo nghiệp ba đời lưu chuyển mà có khổ sinh tử.
Ngoài 8 món khổ trên ra còn riêng có 3 khổ: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
- Khổ khoå: Thân thể này của chúng ta là thân nghiệp báo, xưa nay trải qua rất là khổ rồi, lại thêm sự kích động từ bên ngoài đến, như: đói, khát, lạnh, nóng, đánh, hại... càng tăng thêm nỗi đau khổ, tức là trên khổ lại thêm khổ, đây là chuyên chỉ cho sự đau khổ trên nhục thể.
- Hoại khoå: Chỉ cho lúc hiện tượng vui vẻ phát sinh biến đổi, tạo thành đau khổ. Nhân đó mà gọi là khổ biến đổi (biến dịch khổ), đây là món đau khổ cảm thọ trên tinh thần.
- Hành khoå: Tức là tất cả hành khổ, chữ “Hành” của hành này là chỉ cho tất cả hiện tượng không thể có hiện tượng trốn khỏi, dời đổi, biến hóa, mà tất cả các hiện tượng lưu chuyển đều là khổ. Món khổ này cùng với “ngũ ấm xí thạnh khổ” (của 8 khổ) là ý nghĩa giống nhau.
Ở trên thuật lại các hiện tượng khổ, chỉ là đối với phàm phu mê hoặc, mới phát sinh tác dụng. Đối với bậc thánh giả đã giải thoát mà nói, là không cảm thọ khổ đó. Song phàm phu chúng sinh thẳng đến hưởng chịu các món khổ, nhưng chỉ cần có thể kịp thời tỉnh giác, tiến tới tu hành, do ở nơi khả năng chân chánh thấy được khổ - KHỔ ĐẾ - lại có thể quán sát ra nguyên nhân của khổ - TẬP ĐẾ - tiến tới muốn đem khổ tiêu diệt - DIỆT ĐẾ - dẫn đến tìm được phương pháp tiêu diệt khổ - ĐẠO ĐẾ. Như vậy cũng có thể khổ giảm thiểu tác dụng cho đến không còn.
3.2 TẬP ĐẾ:
Tập, là chỉ cho sự chiêu tập. Phiền não và đau khổ, chúng sinh thọ lãnh, là từ hoặc nghiệp tham, sân, si của ngã tướng nương nơi nghiệp thọ báo chiêu gom lại. Chiêu tập cái nhân tất cả pháp khổ, cũng chính là căn nguyên của biển khổ sinh tử ba cõi. Tập lấy nghiệp làm nhân, lấy phiền não làm duyên; nghiệp có ba nghiệp: thân, ngữ, ý. Phiền não có: tham, sân, si lại khiến cho thân, ngữ, ý làm việc bất thiện. Cho nên có cái khổ luân hồi ba cõi, tạo thành nguyên nhân sanh tử luân hồi không dứt và tất cả thống khổ tức là “khát ái”. Ý nghĩa một từ “khát ái” này không chỉ là đối với tham cầu và chấp trước của dục vọng; cũng là bao quát đối với sự tham cầu và chấp trước của ý niệm, lý tưởng, quan điểm, ý kiến, lý luận, khái niệm, tín ngưỡng...
3.3 DIỆT ĐẾ:
Diệt là không khác nào chỉ cho khổ được diệt. Diệt trừ phiền não sinh tử. Cắt hết nhân TẬP, diệt trừ đau khổ. Đem cái “khát ái” sở hữu mà diệt đi toàn bộ. Khát ái có thể là đại biểu cho tất cả phiền não, do đó diệt là diệt hết tất cả phiền não, không có nhiễm trước, vắng lặng ẩn mất, cũng tức là Niết bàn. Niết bàn chẳng phải là “diệt không”, mà là xả ly món món chứa nhóm, diệt bỏ tất cả đau khổ, giải thoát khổ não sanh tử của ba cõi.
3.4 ĐẠO ĐẾ:
Đạo là chỉ chung cho Hành. Cần diệt đau khổ, dứt hết nhân tập, chứng được Niết
bàn. Đạo là tu hành dẫn đến Niết bàn, có thể lìa luân hồi sinh tử mà vào ở nơi
Niết bàn. Đạo này lấy trung dung mà cầu giải thoát, cũng gọi là chánh đạo. Như
thế ở trên cuộc sống tu hành cần làm thế nào mới phù hợp với trung đạo ư? Thế
thì ắt cần nương lần theo “bát chánh đạo” mà tu trì.
4. TÁM CHÁNH ĐẠO
Người cầu đạo, vì đạt đến giác ngộ thật rốt ráo, nên phải tu học tám món chánh đạo.
Không tà gọi là chánh, thông đạt không trở ngại gọi là đạo. Chánh đạo âý có thể khiến chúng sinh trọn dứt khổ và tập, đạt đến cảnh giới của thánh hiền niết bàn tịch tịnh, cho nên tám món chánh đạo ấy cũng được gọi là tám món “thánh đạo”
Trong tám chánh đạo lấy “chánh kiến” làm cần thiết đầu tiên, đối với thế giới mới có thể nhận thức chính xác, cũng mới có thể phá trừ được cái biết cái thấy của thế tục một cách lầm vọng sai lệnh, mà ngộ nhập chánh đạo. Trừ chánh kiến ra, bảy món chánh đạo kia được phân chia là: chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
4.1. Chánh kiến (thấy chân chánh): là thấy hiểu chính xác, phá trừ vô minh. Đối với đạo lý duyên khởi và bốn thánh đế cũng như thế giới quan và nhân sinh quan của Phật pháp đã giảng khả năng chính xác gia dĩ lý giải và tín thọ phụng hành, chẳng phải là chỗ mê lầm (hoặc) thấy biết của thế tục.
4.2. Chánh tư duy (suy nghĩ chân chánh): Một khi suy nghĩ được phát ra, phần nhiều do vọng tưởng mà khởi. Nếu người tu hành đã thấy bốn thánh đế, dùng chánh kiến tương ứng, phá trừ tưởng pháp tà ác, mà khiến cho chơn trí tăng trưởng, đoạn trừ mê hoặc, xa lìa tất cả niệm ác.
4.3. Chánh ngữ (nói lời chân chánh): lấy lời nói chánh đáng mà tu khẩu nghiệp, lìa các món nói láo, nói ác, nói luồn lách, nói hai chiều. Chỉ nói lời khả ái (ái ngữ) thì khẩu nghiệp tự tịnh.
4.4. Chánh nghiệp (nghiệp chân chánh): Người ta khởi tâm động niệm, không gì chẳng tạo nghiệp. Tu thân, cần phải không tạo sát sinh, trộm cắp, tà dâm, không làm hành nghiệp hại chúng sinh dù trực tiếp hay là gián tiếp; như nghiệp sát sinh, nghiệp dâm, nghiệp đánh bạc, buôn lậu... các hành nghiệp xấu ác.
4.5.Chánh mạng (cuộc sống chân chánh): mạng gọi là nhờ lấy sinh kế của cuộc sống, thanh tịnh những việc cuộc sống hổ thẹn, mà đem công việc chính đáng mưu lấy cuộc sống.
4.6. Chánh tinh tấn (siêng năng chân chánh): Hướng đến phương trời xuất thế, đạo niết bàn, nỗ lực tiến tới, đưa ba nghiệp được thanh tịnh. Chẳng từ việc đối nơi thân miệng khổ nhọc mà khổ hạnh, hoặc mê tín của thế tục và pháp không rốt ráo (cứu cánh) của ngoại đạo.
4.7. Chánh niệm (niệm chân chánh): Niệm từ tâm khởi, tâm chẳng lìa đạo, xa lìa tà niệm, chỉ niệm chân như thật tướng, vả lại từng lúc từng lúc không quên lời giảng của Đức Phật: vô thường, khổ, vô ngã... Không luận làm việc gì, đều cùng với chánh pháp tương ưng, tâm không có động mất.
4.8. Chánh định (định một cách chân chánh): Chánh định là xa lìa bất định, tà định, lấy chánh niệm vô thượng giữ gìn tâm, an việc thiền định ở trong trí vô phân biệt mà được.
Đạo diệt khổ gọi là “bát chánh đạo”. Tu bát chánh đạo (tám món chánh đạo), làm nhân cho “Diệt đế”, đó gọi là kim chỉ nam của người tu tập đạo pháp, khiến tâm tham ái và chấp trước không xả đó sẽ bị diệt yếu đi và diệt hết, để lợi ích cho việc tu hành.
5. BA QUY Y
Phật, Pháp, Tăng là tam bảo (ba ngôi báu) trong cửa Phật. Quy y tam bảo tức là quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Quy là ý quay về, y là ý nương nhờ.
Phật, là nói tắt của chữ “Phật đà” của Ấn Độ ngữ, Trung Quốc dịch thành là Giác, tức là người chứng ngộ chân lý. Hàm chứa ý tự mình giác ngộ và lợi ích cho người khác, cả hai việc ấy viên mãn đầy đủ.
Pháp, Ấn độ gọi là “Đạt ma”, nói theo nghĩa hẹp, tức là ý chân lý, nghĩa rộng là ý tất cả sự vật tồn tại. Tổng quát là Đức Phật nói bày giáo pháp chơn nghĩa của toàn thể vũ trụ.
Tăng, là tiếng nói tắt chữ “Tăng già” của Ấn Độ, là đoàn thể có hành vi đạo đức đầy đủ.
Nương Phật làm thầy, nhân vì Ngài hay dạy rõ cho chúng ta chân lý tuyệt đối chính xác không lầm, mà dẫn dắt chúng ta tiến vào cõi cảnh không có phiền não. Cho nên quy y Phật, có thể khiến chúng ta giác mà không mê, nên người học Phật lấy Phật làm bổn sư quy y, mà bỏ ngoại đạo.
Nương Pháp làm thuốc, nhân vì Pháp (chân lý) có công dụng hiệu quả bỏ trừ được phiền não, khiến chúng ta Chánh mà chẳng Tà, đều gọi là chúng sinh chuyển mê khai ngộ, lìa khổ được vui, không nương nơi tà pháp của ngoại đạo.
Nương Tăng làm bạn, nhân vị họ có thể đem chánh pháp sắp truyền bá mà truyền trao cho chúng ta, khiến chúng ta lìa khổ được vui, nên người học Phật quy y Tăng, có thể khiến cho chúng ta tịnh mà không nhiễm. Đây chính là chánh tín mà vào chánh giác, không nương nơi đồ chúng ngoại đạo.
Bao quát mà nói, tức là tam bảo Phật, Pháp, Tăng hay khiến cho chúng sinh xa lìa biển khổ sinh tử, được Niết bàn (giải thoát), cho nên nói là chỗ của chúng sinh rốt cuộc phải quy y.
Người ban đầu học Phật, tín tâm chưa kiên cố, lực lượng chưa sung túc, nên cần phải quy y tam bảo, được sự giúp đỡ, mới thành tựu đạo nghiệp, song thì sau cùng đệ tử ắt cần phải nương nơi sức chính mình, mới có thể thành Phật; đây là chỗ không đồng nhất giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Phật Đà (Thích Ca Mâu Ni) trong lúc nói pháp, đều dạy răn thẳng cho đệ tử cần phải “tự y”, “pháp y” và “bất dị y”; tức là nương cậy tự lực, nương chánh pháp để tu học và không nương nhờ ở các lực lượng khác. Cho nên nghĩa sâu xa sau cùng của quy y tam bảo tức là quay về chính mình, tự tâm vốn có Phật, tự mình có thể thành Phật, tâm mình ngay nơi thể, tức là đầy đủ chánh pháp (chân lý); tự mình nương nơi pháp tu học, tự thân và Tăng già “nhất thể”. Như thế tam bảo Phật, Pháp, Tăng đều là không lìa tự thân, tức là chính thân tâm mình tam bảo có thể hiển hiện. Nhìn từ bên ngoài, quy y là sự dẫn dắt tha lực “tín nguyện”. Nhưng nhìn sâu, đây chỉ là “tăng thượng duyên” (điều kiện giúp đỡ tiến bộ). Trên thực tế, dốc sức chính mình, thực hiện lý tưởng, đây mới là ý nghĩa chân thật của vấn đề quy y tam bảo.
Cửa Phật giáo đều hướng đến chỗ có nhân loại mà mở bày. Phàm là người đối với Phật Pháp có hứng thú vả muốn học tập, không luận: sang, hèn, già, trẻ, nam, nữ, đều biểu hiện sự chào đón, vả lại nhất luật bình đẳng, không có phân biệt giai cấp, nhưng có chỗ trước sau thứ lớp tôn kính. Đây là đứng trên nguyên tắc tu hành thềm bậc thứ lớp mà nói, tức là người tu hành chứng ngộ quả vị thấp cần phải tôn kính người có quả vị cao, vả có nghĩa vụ tiếp thu sự chỉ dẫn, chỉ có thứ tự trước sau như đây, hoàn toàn không có bất kỳ sự phân chia đẳng cấp trên dưới nào, hoàn toàn phát huy cái nhìn bình đẳng của nhân tính.
Mục đích của học Phật, tuy nhiên là ở chỗ siêu phàm nhập thánh giống nhau, nhưng nhân vì phương pháp nghiên cứu và tu hành không đồng mà phân thành rất nhiều phương pháp tu hành. Tịnh độ tông (pháp môn trì danh niệm Phật) là một phương pháp trong đó.
Tam quy y tổng kết mà nói: quy y Phật tức là “giác ngộ không mê”, quy y Pháp tức là “chánh mà không tà”, quy y Tăng tức là “tịnh mà không nhiễm”.
Đức Phật dạy chúng ta cần phải từng thời khắc quán tưởng đến: Giác - Chánh - Tịnh; cần dùng Giác - Chánh - Tịnh mà tu tư tưởng, kiến giải, lời nói, việc làm của chính chúng ta, đây gọi là “tam quy y”, là quy y chân chính, Giác - Chánh - Tịnh, ba nguyên tắc này tức là quy y “Tam bảo”.
6. BỒ ĐỀ TÂM
Hai chữ “Bồ đề” là tiếng Phạn của Ấn Độ, dịch là Giác, ý là “chánh giác”, giác chính mình, giác người khác và giác ngộ viên mãn. Giác ngộ Phật đạo cũng tức là ý nói thành Phật. Bồ đề tâm tức là tâm giác ngộ, tức là tâm học tập Phật pháp, là thường ở trên hiện tượng mà rõ ràng và thông đạt, cũng tức là tâm thành Phật.
PHÁT TÂM BỒ ĐỀ, phát ấy là phát tâm, cho nên phát tâm bồ đề, lại là phát khởi tâm thành Phật. Vì sao cần thành Phật ư? Là vì lợi ích tất cả chúng sinh.
Phát tâm bồ đề tức là phát tâm thành Phật, “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”, rộng tu tất cả thiện hạnh, ngộ triệt để pháp tánh bình đẳng, quyết không kiến chấp ta và chúng sinh có sai biệt gì, như thế mới cùng tâm bồ đề tương ứng.
Như thế nào mới có thể rộng tu các thiện hạnh ư? Lấy “bốn vô lượng tâm” làm cơ sở căn bản, lấy “bốn nhiếp tâm” mà hành trì.
Phát tâm bồ đề, đức Phật muốn chúng ta bồi dưỡng tâm bồ đề, chủ yếu thành trách nhiệm của một cá nhân, cho nên mới có lời cảm là: “Nhân thành Phật thành”, đây là quy củ mô phạm làm người xử thế.
Không phát tâm bồ đề thì không có tâm thành Phật.
Tâm bồ đề tức là tâm giác ngộ, tâm từ bi, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm đại nguyện.
Phát tâm bồ đề, nói một cách đơn giản, tức là anh xem chúng sinh chỗ có, đều cùng với tự mình giống nhau, không có ta lớn anh nhỏ, ta mạnh anh yếu, chỉ một mực bình đẳng. Cần tận khả năng của mình giải thoát đau khổ của chúng sinh tức là lợi tha.
Tâm bồ đề không phải lấy Ngã làm trọng tâm xuất phát, mà là kiến lập ở trên một tướng bình đẳng của tất cả chúng sinh cho nên không có bỉ thử, phân biệt bạn thù, cũng không sát hại, không làm việc si mê tham ái, cần ở lúc làm bất kỳ việc gì, hay thức tỉnh chính mình, việc này rốt ráo đối với việc giải trừ mọi người hoặc chúng sinh trầm mê có giúp ích thế nào?
Tâm bồ đề thật chẳng phải là ngay khi gieo hạt giống thì có thể mọc lên liền, chỉ đuợc tăng tiến từ từ.
Bước thứ nhất, không nên còn tâm hại chúng sinh. Bước thứ hai, thường thường tỉnh thức chính mình, ta làm việc này cùng với chúng sinh có ích hay không có. Bước thứ ba, nghĩ muốn là chẳng có thể giúp đỡ người khác thoát ly các nỗi khổ đau của nhân sinh. Đối tượng lúc bắt đầu, qua loa là rất hẹp hòi, chậm chậm mới phổ cập được một nhóm người, nhận thức của anh, lại lần hồi đem tâm từ bi tìm mở rộng ra, siêu vượt ranh giới và giới hạn quốc gia phổ cập mọi chúng sinh.
Tâm Bồ đề sản sinh có hai món: Một là xưa nay đầy đủ; một là huân tập mà có. Chúng ta mỗi người đều có tâm giác ngộ, vì sao chẳng giác ngộ ư? Nhân vì không có sự khởi phát. Khởi phát về sau, cái tâm này tức là tâm giác ngộ. Đối với tất cả vũ trụ đều là giác ngộ, đây cũng là căn bản tâm Bồ đề, tâm xưa nay đầy đủ. Cho nên chúng ta cần do từ sự dẫn dắt của thầy và kinh điển, chầm chậm học tập và huân tu, dùng tâm “như minh” này khởi phát sau khi tăng trưởng trí tuệ, mới có thể giác ngộ xưa nay. Trước kia chưa nhận thức bản tâm, thường thường hiểu rằng có giá trị thế nào mà tu, mà biết? Nhưng phát tâm Bồ đề tức là muốn chúng ta triệt để giác ngộ pháp của tất cả chẳng lìa tự tánh, tất cả tánh tức là tự tâm, điều này chẳng người khác bảo với anh mà có, mà là tự mình xưa nay đầy đủ, không có bất kỳ mê hoặc nào. Cho nên nói mọi người đều có trí huệ và đức tướng của Phật tánh, chỉ nhân nơi vọng tưởng và chấp trước mà mê hoặc.
Hóa độ chúng sinh, trước phải độ chính mình, “kỷ sở bất dục, vật ư chúng sinh” (việc mình không muốn chớ đem cho chúng sinh), bất luận là thân, miệng, ý đều chẳng thể được, lại chẳng thể có tư tưởng và hành vi làm tổn hại chúng sinh, nghìn vạn việc khác chớ làm tùy tiện, phóng túng, buông lung, mượn cớ lót miệng mà làm, trong tâm thường còn lòng từ ái và sự bao dung, khiêm tốn hiền hòa, nghĩ đến chúng sinh. Chờ có lúc trí huệ sinh khởi, lời của anh nói sẽ có ích cho chúng sinh, nói được chúng sinh miệng tâm đều phục, chúng sinh tự nhiên sẽ tự động gần gũi anh, chẳng cần anh nhọc sức quảng cáo tuyên truyền; cung kính anh, lúc đó chúng sinh sẽ nghe lời dạy răn của anh; Anh không có trí tuệ, lời nói không viên dung, làm sao dẫn khởi sự hứng thú cho chúng sinh? Dẫn pháp cần phải khế cơ, lời nói không gieo vào căn cơ, nói rách da miệng cũng không tác dụng.
Khắp độ chúng sinh có hai việc: 1. Cứu huệ mạng cho người, trừ si mê cho người, khiến cho họ được minh giác, tự mở mang ra, chuyển thức thành trí,triệt ngộ rốt ráo, tự tại không ngại, giải thoát luân hồi sinh tử, an trụ cảnh tịnh cực lạc, vĩnh hằng thọ dụng. 2. Cứu thân mạng con người, làm chút việc tốt, cho người ít tiền bạc hoặc y thực, hoặc lên núi xuống biển để cúng một chút công sức nhọc nhằn mà phục vụ, cứu nhân mạng, chẳng qua là trăm năm, rốt cuộc cũng chết, công hiệu ngắn tạm.
Phát tâm Bồ đề phổ độ chúng sinh chẳng phải cần là anh hiện tại độ bao nhiêu chúng sinh mà là cần có thành tâm độ chúng sinh, chẳng phải làm cho mình rồi than thở.
Độ chúng sinh rất là khó! Nhân vì Phật pháp không theo nơi thế tục (không theo cái tâm tục của người đời, theo tâm tham muốn), không giống như kiểu của ngoại đạo theo thế tục mà dụ người. Không có trí tuệ mà khuyên người tin Phật đã chẳng phải dễ, còn có thể nói được cho người đời miệng tâm đều phục mà học Phật tu hành, phát khởi sức lực tu hành sao? Trước mắt chỉ có đủ thật chính mình, chờ có một ngày trí tuệ phát ra mới độ chúng sinh, trước mắt chỉ có miệng nói ái ngữ, lượng sức tùy duyên mà làm việc thiện; giữ gìn thiện tâm, tùy duyên tùy sức mà làm việc thiện.
Luận đại trí độ nói rằng: “Bồ tát chưa được sinh pháp nhẫn, chẳng thể độ chúng sinh; dụ như phá bỏ thuyền mà cứu người chết đuối, mình và người đều bị chìm”.
Bồ Tát đất qua sông, tự thân khó bảo tồn! Làm sao độ được người!
7. LUẬT NHÂN QUẢ (Nhân duyên quả báo)
Phật pháp giảng: vô thường, khổ, không, vô ngã, ý tứ là tất cả muôn việc muôn vật trên thế gian đều là vô định tánh, nhân duyên hòa hợp thì sanh, nhân duyên ly tán thì diệt, tất cả tùy duyên mà tận lực, không nên cưỡng cầu.
Duyên khởi, tức là nói rõ tất cả các pháp đều là nơi nhân duyên mà sinh khởi. Nói một cách đơn giản, tức là sự sinh khởi tất cả sự vật trên thế giới hoặc tất cả hiện tượng, đều là tương đối, quan hệ và điều kiện nhất định của nó xen nhau tồn tại. Nếu như không có quan hệ và điều kiện này, bất kỳ sự vật và hiện tượng nào, đều không có pháp sinh khởi. Tại sao gọi là nhân duyên?
Nhân duyên cũng là điều kiện quan hệ. Trên kinh Phật đã từng nói: “Nếu đây có thì kia có, nếu đây sinh thì kia sinh, nếu đây không thì kia không, nếu đây diệt thì kia diệt”; đây là định nghĩa về duyên khởi. Nói rõ “quan hệ đồng thời” nương nhau tồn tại của sự vật, đạo lý “khác thời” xen nhau tồn tại.
Thế nào là đạo lý “khác thời” xen nhau tồn tại? Thí dụ sự quan hệ của hạt giống và mầm. Nhân vì quá khứ có hạt giống cho nên hiện tại mới có sự nảy mầm, chính nhân vì hiện tại có nảy mầm, hạt giống của quá khứ mới gọi là hạt giống, đây tức là đạo lý của quan hệ “khác thời” xen nhau tồn tại. Nhìn riêng một phương diện, lúc hạt giống diệt cũng chính là lúc mầm sinh, lúc mầm sinh cũng chính là lúc hạt giống diệt, đây là chứng minh hiện tượng sinh diệt của mầm và hạt giống, lại là một loại quan hệ “đồng thời” xen nhau tồn tại.
Loại quan hệ cùng thời xen nhau tồn tại và khác thời xen nhau tồn tại này kỳ thật cũng tức là chỗ gọi của Phật giáo: “quan hệ nhân quả”; ví dụ như hạt giống là “nhân”, mầm tức là “quả”, vì trước có hạt giống nên sau mới có sự phát triển của mầm, đây là quan hệ nhân quả khác thời xen nhau tồn tại. Cũng như lấy thầy giáo đó làm chính, thầy giáo đó tức là nhân, học sinh tức là quả; ngược lại lấy học sinh làm nhân, thầy giáo là quả, đây là quan hệ cùng thời xen nhau tồn tại. Quan hệ nhân quả này rất là lẫn lộn phức tạp. Cho nên muôn sự muôn vật trên thế giới, đứng trên thời gian mà nói, do ở sự quan hệ liên tục nhân quả khác thời vô số; đứng trên không gian mà nói, quan hệ xen nương nhau tồn tại vô số, tổ chức thành một cái mạng lưới lầm lạc cùng nhau rất là lộn xộn, phức tạp. Đây tức là nhân nhân quả quả tương tục không dứt, tức là quy luật nhân quả. Cũng tức là giống như quay vòng lửa lưu chuyển không dừng, cuối mà lại đầu.
Phật pháp nói rõ pháp nhân duyên quả báo (nhân quả) chỗ sinh có hai lực lượng: 1. Lực có thể nghĩ bàn. 2. Lực không thể nghĩ bàn. Như nương nơi nhân nào thì được quả đó, tạo nghiệp nào thì thành báo đó, có cảnh nào thì khởi tâm đó, có tâm nào thì rõ cảnh đó, do hiện tượng nào thì khởi quán đó; đây là phép tắc thông thường của nhân quả.
Trên Phật pháp, sự sinh thành và hoàn diệt của vũ trụ vạn hữu, phải đều do hai chữ nhân duyên. Nhân và duyên, trên Phật pháp chưa từng có ranh giới nghiêm cách mà nói, nhưng từ sai biệt tương đối mà nói, nhân ước chỉ đặc tính mà nói, duyên ước chỉ lực tác dụng mà nói. Nhân là chỉ một điều kiện chủ yếu sanh diệt của sự vật, duyên thì là trợ giúp điều kiện, hai chữ “nhân duyên”, nếu dùng ngôn ngữ hiện đại để nói thì ước chừng tương đương với hai danh từ “điều kiện” hoặc “quan hệ”. Nói như thế, sự sinh diệt của mỗi sự vật trong vũ trụ ắt cần phải đầy đủ những điều kiện nào đó; sự tồn tại của mỗi sự vật, cũng quyết cần quan hệ xen nhau cùng với sự vật khác mà có. Cho nên phàm khiến cho điều kiện hoặc quan hệ của một sự vật sinh diệt, hoặc một sự vật tồn tại, tức gọi là “nhân duyên” của sự vật này.
Sinh thành của vũ trụ không phải là thần sáng tạo. Sự thay đổi của vạn vật cũng không phải là do Thượng đế chi phối; chỉ là sự nhờ gá các duyên (tức là đầy đủ các mức điều kiện sinh thành đổi khác của vật đó) hòa hiệp mà sanh. Việc này sanh khởi từ không đến có, tức nhân lời nói giới hạn, gọi là “duyên khởi”, tức nói trên quả gọi là “duyên sinh”. Cho nên trên Phật pháp gọi sự sự vật vật tồn tại ở trong vũ trụ là “pháp nhân duyên được sinh” mà gọi sự sinh khởi của sự sự vật vật “muôn pháp nhân duyên sinh”.
Vạn hữu trong vũ trụ, đã nhờ các duyên được sinh, tự nó chẳng khỏi sự biến hóa bại hoại. Cho nên từ tình thế gian đến khí thế gian, từ hiện tượng tinh thần đến hiện tượng vật chất đều là ở nơi sự vận động lưu chuyển, sự sinh diệt biến hóa, sát na không dừng. Nhưng ở trong khoảng lưu chuyển sinh diệt này là chẳng có một quy luật tuân theo ư? Có, đứng trên Phật pháp mà nói, phép tắc cơ bản có hạng mục chi phối muôn hình tượng của vũ trụ sinh diệt biến đổi, tức là luật nhân quả của vạn hữu.
Gọi là luật nhân quả, tức là phép tắc nghiên cứu nguyên nhân kết quả của sự vật. Hiện tại trong khoa học cũng có luật nhân quả, duy luật nhân quả của khoa học chỉ thích hợp dùng ở sự biến hóa của vật lý. Mà luật nhân quả của Phật pháp, ngược lại, thích nghi dụng ở sự biến hóa của tâm, sự biến hóa của sự vật, và sự biến hóa của tâm – vật hỗn hợp. Phật pháp đem phép tắc này gia dĩ phân tích rõ ràng chín chắn và chi tiết; căn cứ phép tắc này sáng lập ra nhân sinh quan ba đời; lại gom đem nghiệp báo luân hồi... các vấn đề liên quan lại, mà sáng lập ra nhân quả thiện ác chung với tư tưởng luân lý ba đời.
Nhân quả, nên nói một cách đầy đủ “nhân duyên quả báo”. NHÂN là nguyên nhân, DUYÊN là trợ duyên, sự vật do nhân duyên hòa hợp được sản sinh gọi là QUẢ, quả này đối với việc tạo nhân gọi là BÁO.
Thế, xuất thế gian, từ chúng sinh cho đến thành Phật, từ “căn thân” cho đến “khí giới” (tức là từ thân và căn cho đến đồ vật và nơi cõi), tất cả những việc sinh diệt đổi dời... chẳng có việc gì là chẳng chịu lấy sự chi phối của phép tắc này.
Chỗ gọi là ba đời, là chỉ cho đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Phạm vi đời quá khứ bao quát là từ trước hiện tại một đời cho đến quá khứ vô cùng lâu xa, đoạn thời gian này đều thuộc ở nơi đời quá khứ. Đời hiện tại là chỉ cho đời hiện tại này. Phạm vi đời vị lai bao quát là từ sau đời hiện tại cho đến tương lai vô cùng xa vời, đoạn thời gian này đều thuộc đời vị lai.
Chỗ gọi là nhân quả thông ở “ba đời”, ý nghĩa có hai: 1. Quả báo phát sinh từ việc làm thiện hoặc làm ác, thời gian cần phải có mau hay chậm; nói mau, ngay đời này được quả báo, nói chậm có thể nhân từ đời quá khứ tạo đời này mới thọ báo hoặc nhân đời này tạo đời vị lai mới thọ báo; nói càng chậm, thì từ nhân đến quả, vượt qua đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, trải qua thời gian vô cùng lâu xa mới phát sinh quả báo. 2. Sau khi phát sinh quả báo, thời gian thọ báo cũng có ngắn dài; nói ngắn chỉ có mấy ngày, mấy tháng, mấy năm; nói dài từ bắt đầu thọ báo cho đến lúc báo hết dừng lại, vượt qua đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, thời gian vô cùng lâu xa.
Bất kỳ sự vật nào, quyết không thể không nhân mà sinh; nhưng có nhân mà không duyên cũng không thể sinh. Thí như một hạt giống (nhân) nếu không trải qua sự gieo hạt đem nó chôn vào trong đất, lại thêm các duyên trợ giúp của ánh sáng mặt trời, mưa, sương... thì không thể nảy mầm sinh trưởng, mà nhân duyên hòa hợp hình thành quả báo. Chẳng những sự sinh trưởng của sự vật như đây, tức sự biến đổi và hoại diệt của sự vật cũng chẳng như vậy.
Trên luật nhân quả cũng có vài điểm đánh giá được chú ý:
7.1. Trong luật nhân quả không có nhân thứ nhất, cũng không có quả cuối cùng. Trước nhân lại có nhân, cho đến vô thủy. Sau quả lại có quả dẫn đến vô chung. Thí như cha là nhân của con, cha lại có cha, cha... cha... vô thủy; con là quả của cha, con lại có con, con... con... vô chung.
7.2. Nhân và quả trong luật nhân quả là tương đối, mà chẳng phải là tuyệt đối. Thí như sợi vải là nhân của tấm vải, ngược lại là quả của bông vải. Do nhân Giáp mà sinh quả Ất, đương nhiên Ất là quả của Giáp. Nếu từ Ất lại phát sinh ra quả Bính thì Ất lại là nhân của Bính.
7.3. Là chỉ cho quá khứ, hiện tại, vị lai, trên thời gian; cho nên không tự diệt, không luận là sự lâu – tạm thời gian, hễ gặp duyên tức khởi hiện hành.
7.4. Bản chất nhân quả là một. Nhân có thể sinh, ắt là quả sinh. Quả có thể sinh ắt là cái nhân được sinh. Đứng trên sắc pháp mà nói, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậâu, hạt đậu lớn chẳng phát sinh từ dưa ươm, hạt dưa lớn cũng chẳng phát ra từ mầm đậu. Đứng trên tâm pháp mà nói, tự làm nhân, tự thọ quả.
Nhân thiện không sinh quả ác, quả ác không từ nhân thiện, dù mảy mún nhỏ nhặt cũng chẳng thể cậy nhờ.
Luật nhân quả là quy luật tự nhiên của vũ trụ nhân sinh; Phật giáo chủ trương nhân quả ba đời, tức là chỉ cho quá khứ, hiện tại, vị lai của con người đều là trực tiếp chịu sự chi phối của của “luật nhân quả”, đây cũng gọi là nhân duyên quả báo. Thành Thánh thành Phật, lên thiên đường hay xuống địa ngục, hoặc thành công hoặc thất bại của một sự nghiệp, hạnh phúc hay bất hạnh của một cá nhân đều lìa không khỏi luật nhân quả. Tại sao gọi là nhân quả? Nhân ấy là so như hạt giống, gieo vào trong ruộng, tương lai có thể trưởng thành làm quả thật. Quả như là quả thật, từ hạt giống nảy mầm, lần lần thay hoa đậu trái. Như tôi đánh anh là nhân, anh lại dùng tay đánh trả tôi là quả. Như người làm công vụ tham ô là nhân, bị phát hiện rồi pháp quan kêu án ngồi tù là quả...
“Giả sử trăm ngàn kiếp, chỗ tạo nghiệp không mất, lúc nhân duyên gặp gỡ lại tự thọ quả báo”. Từ đoạn văn tự này, chúng ta có thể hiểu được chúng ta đời trước tự mình hành vi các món nghiệp thiện ác chỗ tạo tác là một món NHÂN nghiệp, mà tạo các nhân nghiệp này tuy nói thời gian quá khứ rất lâu, rất lâu, ở trước lúc không thọ quả báo, vĩnh viễn đều tồn tại, không thể tự động tiêu mất hoặc tiêu diệt. Những cái nhân các món nghiệp thiện ác quá khứ hoặc đời trước chỗ tạo ra chỉ cần gặp được điều kiện sinh trưởng thích hợp, thì sẽ thành và sinh trưởng tích cực làm quả, cho nên thiện ác phước họa của tất cả thế gian, hạnh phúc hay không hạnh phúc, không có việc gì chẳng phải là “tự tác hoàn tự thọ” (tức là tự mình làm, tự mình chịu), chẳng thể có đạo lý do anh làm, người khác lại chịu, hay do người khác làm mà anh lại chịu.
Luật nhân quả đặc biệt chú trong về “DUYÊN”, nhân vì phép tắc nhân quả trực tiếp thông ở nơi đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai của con người. Điều chỉnh tất cả sự sự vật vật của nhân sinh vũ trụ đều là do ở nơi duyên mà khiến tất cả sự vật thành là sự tồn tại tánh cách tạm thời. Thí như nói anh trồng một cây dưa, đây tức là “nhân” của hành vi, nhiên hậu anh lại mỗi ngày tưới nước cho dưa, bón dinh dưỡng, đây là “trợ duyên”. Sau đó cây dưa này trồng một cách thuận lợi sẽ lớn lên kết thành quả, chắc chắn là quả “dưa”. Tuyệt đối không là một chủng loại nào khác, cho nên nói rằng: “trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”.
Cho nên lý luận của nhân quả cho là: “quả báo” ắt cần phải có NHÂN DUYÊN hòa hợp mới kết quả. Nên nói mình tạo nhân gì chắc chắn được quả đó, trừ phi mình không tạo tác thì không thể phát sinh ra quả.
Câu nói: “nhân duyên sanh vạn pháp” là một điều trung tâm học lý trong Phật học cũng gọi là “luật nhân quả”. Vạn pháp là chỉ tất cả sinh vật và không sinh vật, chúng đều là nhân duyên hòa hợp mà sinh. Nhân là phát sinh ra động lực gốc của một vật nào đó. Duyên là nhiều yếu tố giúp trợ một vật nào đó sinh thành. Chúng ta lấy việc trồng hạt đậu làm ví dụ, có thể dễ hiểu. Một hạt đậu là một hạt giống thực vật họ đậu, hạt này tức là tương lai phát sinh cái nhân của thực vật thuộc loại cây đậu đó, hạt giống gieo vào trong đất màu lại thêm ánh sáng mặt trời, không khí, nước... tức là trợ giúp hạt giống đó sinh trưởng là có duyên lớn lên (tăng thượng duyên) của thực vật. Thời gian nhân duyên hội họp, tức sự sinh khởi thực vật này là hiện tượng phổ thông vạn vật sinh khởi. Nhưng đây còn một vấn đề cũng là trọng yếu; thế thì người nông phu nương theo thời gian thích đáng mà gia công, tưới nước, nhổ cỏ, bón dinh dưỡng, như thế hạt giống đó tức sẽ kết thành “quả” chắc tốt. Trái lại hạt giống gieo vào trong đất mà những duyên đó thiếu ít rồi, hoặc nông phu không thi công, như thế cây thực vật kia, không những không thể phát triển, thậm chí sẽ chết mất. Thực vật là kiểu này, nhân loại chúng ta cũng như vậy. Sự vật sở hữu cũng là như vậy.
Nghiệp có: thiện nghiệp, ác nghiệp và chuyển nghiệp. Vạn vật là do nhân, duyên hội họp được sinh, nhân giống như hạt giống của thực vật, như thế chúng ta lại tiến thêm một bước thử hỏi: “hạt giống của thực vật từ đâu mà có? Chúng ta biết rằng: Một đóa hoa hoàn toàn có nhụy cái và nhụy đực, ở trong bầu nhụy có một cái phôi tròn, mặt trong có một cái tế bào cái gọi là noãn, thuốc hoa của nhụy đực có bốn cái túi, bên trong mỗi cái túi chứa tế bào đực rất nhiều, gọi là phấn hoa. Nếu hoa phấn có cơ hội được gió thổi đi hoặc côn trùng mang đến trên hoa cái thì phát triển thành ống phấn hoa, tế bào đực với ống phấn hoa phối hợp, về sau thì phát triển thành hạt giống của quả chắc.
Chúng ta đã hiểu rồi, muôn pháp là do nhân duyên hội họp mà sinh khởi. Nhân là tại sao tạo thành? Phật học nói: nhân là do quả tạo thành. Như vậy thế nào là nghiệp? Nghiệp tức là nơi thân người có chỗ tạo tác hành vi. Lời cửa miệng nói; ý có tư tưởng cảm phát; đây tức là nghiệp. Ở trong một đời người, phổ thông có mười món thiện nghiệp. Như thân không tạo ra: sát - đạo - dâm. Miệng không tạo ra: nói láo - nói ác - nói chiều uốn - nói hai chiều. Ý không tạo ra: tham - sân - si. Một cá nhân như có thể hằng ngày tạo ra thiện nghiệp nhiều như thế thì trong một đời của họ, chân - thiện - mỹ đầy đủ tất cả, huống chi đời trước của họ, xưa nay thiện nghiệp chứa nhóm rất nhiều, lại thêm một đời này thiện nghiệp được tạo, hết đời này về sau, thiện nghiệp của họ và duyên hòa hợp, đời sau thì có thể chuyển làm trời người hoặc Tiên hoặc Thần, hoặc người giàu có... Đây là luật nhân quả “tự tác tự thọ”, là một cái hiện tượng của vạn vật, nhưng người hiểu được thì rất ít, cho nên người tốt cũng sẽ ít.
Về mặt tương phản, nếu như một người thân hàng ngày tạo ra: sát - đạo - dâm; miệng tạo ra: nói láo - nói ác - nói chiều uốn - nói hai chiều. Ý tạo ra: tham - sân - si, các món ác nghiệp. Họ sẽ cấu thành nhân ác, ở đời này, hoặc đời sau, lúc cùng duyên hòa hợp y theo luật nhân quả mà nói, người này chậm mau gì cũng sẽ thọ lấy các món ác báo đau khổ. Tục ngữ nói rằng: “thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì” (Thện và ác cuối cùng cũng có báo ứng, chỉ là sớm hay muộn mà thôi!). Câu nói này là không sai vậy. Nhưng chư vị nhớ rằng một hạt giống được ánh sáng mặt trời, không khí, nước, sẽ nuôi lớn lên, nhưng người nông phu nhổ cỏ, bón phân... các việc là sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển và thu hoạch của thực vật đó. Nghiệp lực cũng như thế này. Chúng ta có thể dùng sức lực chính mình để chuyển biến sự gặp gỡ đời này của chúng ta như: giàu, nghèo, vinh, nhục... Tuy nhiên là đời trước nghiệp lực được tạo phát triển đến, nhưng chúng ta không ngộ được đạo lý “chuyển nghiệp”, một mặt sám hối cái ác nghiệp đã tạo từ quá khứ không hiểu biết, riêng một phương diện hằng ngày suy nghĩ, nói năng, hành vi đều phản tĩnh chính mình, nỗ lực hướng con đường thiện mà đi. Như thế cá nhân này lớp ác nghiệp đã tạo trong quá khứ gọi là định nghiệp, xưa nay là phải thọ quả báo ác, lúc này chuyển thành nghiệp nhẹ, hay nghiệp bất định. Lại thêm sự trì giới, học định, tu huệ, như vậy thân này có thể vào hàng Thánh, là rất có khả năng. Cho nên một cá nhân phần lớn có thể bất tất vì ác nghiệp đã tạo từ quá khứ không biết mà lo phiền lòng, chỉ cần hiện tại nỗ lực tạo thiện nghiệp để chuyển biến nó, “nhân lực thắng thiên”, thì có thể lấy câu nói này “thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”, biến đổi nhiều nhiều hơn.
Chúng ta sở dĩ đến thế gian làm người không có cái gì chẳng phải là do các món nghiệp thiện ác đời trước hoặc quá khứ của tự chúng ta luân hồi mà đến, (chúng sinh vì các loại nghiệp tạo tác khác nhau, thế nên luân hồi sinh tử trong sáu đường: trời, người, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục). Đó là quá khứ của mỗi cá nhân ở trong thời gian và không gian chẳng giống nhau, nhân nghiệp tạo tác đều không đồng. Cho nên mỗi người ở đời này các món cảnh ngộ phải chịu lấy cũng sẽ tự nhiên có chỗ không đồng, chính mình ở ngày nay chỗ thọ lãnh, điều là chính mình thọ lấy nhân nghiệp của quá khứ bị chiêu cảm, chắc chắn như vậy.
Thí như có người ngược lại có thể có đời sống được thông minh trí tuệ, gia đạo lại giàu sang, một đời như ý, bước tiến thong dong cho đến năm phước đến cửa hoặc giả một chút cũng không phí sức, ngồi hưởng vinh hoa. Mà có người thì đời sống kém hèn, linh đinh cô khổ, một thân cùng khổ, còn lại gặp gỡ tai biến hoặc bệnh tật, khổ không kể xiết.
Có người một đời huy hoàng thắng đạt, có người một đời cùng đường chao đảo, đời người có lúc đắc ý nhưng cũng có lúc thời khắc thất ý. Có những người sinh ra là con nhà giàu, từ lúc sinh ra hưởng thụ thẳng đến già, không buồn không rầu. Có người sinh ra ở gia đình nghèo khó, từ sớm bận rộn cho đến chiều, vả một đời nhọc nhằn khổ sở. Có người lớn lên có tướng đoan chính, có tài hoa có học vấn, một đời không tai không họa. Có người ngược lại tai họa trùng trùng, có người làm kiến trúc sư, giáo thọ, có người buôn bán, có người làm công việc tốt xấu giàu sang... các món sai biệt và cảnh ngộ đều mỗi cái có chỗ không đồng. Thậm chí anh chị em cùng sinh ra từ một gia đình cùng cha mẹ, không luận là phương diện thân thể, phương diện tiền đồ, phương diện sự nghiệp, thậm chí một người con gái sinh ra từ gia đình nghèo khó, gả đến một gia đình giàu hoặc ngược lại.Chúng sinh hàng trăm trạng thái, thiên sai vạn biệt, đây là đạo lý gì? Những vấn đề này đều là từ quá khứ hoặc đời trước chính mình mỗi người nhân nghiệp đã tạo ra mà cấu thành; bởi nhân nghiệp không đồng, nên nhân duyên đời này gặp gỡ, cho nên bất cứ một cá nhân nào tình cảnh đời này thọ lấy, cũng đều riêng khác không đồng. Cảnh ngộ đời này không tốt, đều là do ở nơi quả báo của ác niệm và ác hạnh dẫn đến từ quá khứ bao quát cả đời trước chúng ta đã tạo ra.
Người mà đời này nhiều bệnh tật cũng là cùng với nghiệp chính mình đã gieo trồng từ quá khứ đến chỗ liên hệ; Nguyên nhân của tất cả bệnh tật cũng là tâm chúng ta kéo vin ngoại cảnh tạp niệm phát sinh. Xét một cách tột cùng mà nói, con người ở các ngằn mé gặp gỡ trong đời người, tất cả chỗ thọ chịu, đều là do ở nơi “vọng niệm” chính mình từ quá khứ tạo thành, nhân vì mỗi người có tạp niệm: tham ái - oán giận - ngu si, cho nên tập trung cả ở trên thân thể, trên lời nói, trên ý niệm chính mình; rất nhiều nghiệp nhân tạo tác chẳng đồng, mà món nghiệp nhân này thì sẽ có thế lực tiềm ẩn rất lớn, đó là vì sự quan hệ với chúng ta lúc tạo tác các món nghiệp có “tâm niệm rất lớn”, do đó đời này gặp được “duyên” tự nhiên khai hoa kết quả; cho nên nói rằng “dục tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị, dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị” - (Muốn biết nhân đời trước, nhìn nơi sự thọ chịu đời này, muốn biết sự thọ chịu quả đời sau, nhìn việc làm đời này).
Cho nên chúng ta cần phải biết rõ các điều khổ nạn cảnh ngộ phải chịu, thì không nên oán trời trách người, ở trong đời này chúng ta càng cần phải từng giờ làm được các điều: “các việc ác chớ làm” (chư ác mạc tác), chẳng nên tái lại làm bất cứ nhân ác nào; Tiến tới thì phải làm được: “nên làm các việc thiện” (chúng thiện phụng hành), tuy nhiên chính mình đối với cảnh ngộ trước mắt vẫn khổ, nếu như thiện duyên kết nhiều, ác duyên tức chẳng thể tăng trưởng.
Một con người muốn sự nghiệp thuận lợi hoặc đạt được hạnh phúc, hành vi bản thân quyết cần phải lấy quan niệm “nhân quả” làm điểm xuất phát, người mà có được cái nhìn “nhân quả” thì từng lúc đều có thể cảnh giác chính mình, kìm chế chính mình, phân biệt thị phi, rõ biết nhân qủa báo ứng biến hoá, cho nên có thể theo từng con đường chánh mà đi, trọn có thể đạt đến lý tưởng chính mình. Một con người có quan niệm nhân quả, thì họ sẽ thật tế, quan niệm tư duy chính xác đời người vô thường, chỗ thọ chịu tất cả khổ, mà tất cả những cái đời này thọ chịu đều do chính mình từ quá khứ các món nghiệp nhân được tạo tác mà cấu thành; cho nên họ có thể đoạn trừ tất cả ác, tích cực hành thiện, kết thiện duyên, tiến đến mà thể ngộ được ý nghĩa và mục đích chân thật của vấn đề tu hành học Phật, cho nên nói là người có quan niệm nhân quả (nhân quả quan) có thể theo con đường chánh mà đi.
Người không có quan niệm nhân quả, thông thường chẳng dễ tuân thủ quy củ phạm vi xã hội, pháp luật quốc gia, xã hội bốn phương tám hướng ngay trước mặt, mỗi ngày chỗ thấy các việc như giết người, buộc tội, cướp giật,... hoặc phạm tội vì danh lợi, những người này có thể nói là những hạng người không quan niệm nhân quả, hoặc nói là nhận thức về nhân quả chưa sâu.
Người không có quan niệm về nhân quả hoặc đối với nhân quả nhận thức chưa sâu, tuy cũng thọ nghiệp lực chiêu cảm, nhưng xét cho cùng hãy còn tự mình ở trong cuộc sống ngày thường không có quan niệm chính xác, hoặc chánh tri (hiểu biết chân chánh) chánh kiến (cái nhìn chân chánh); lại thêm một phương diện khác có những người là người xấu, suốt ngày không làm các nghiệp chánh, thậm chí không ác gì là không làm, mà ngược lại cuộc sống hưởng thụ rất nhiều... nào là: thăng quan, phát tài, thành đạt, huy hoàng, khiến người thèm muốn; do đó chính mình sẽ hoài nghi phép tắc nhân quả. LaÏi có những người thường nói: “Thiên hạ làm gì có việc nhân quả báo ứng, nếu có việc nhân quả báo ứng thì thế gian sẽ không có người xấu”. Nhân đó tham tâm càng trỗi dậy, không biết hậu quả đáng sợ, cho nên lời nói này đều là tà tri, tà kiến tạo thành. Trong kinh Phật nói rất rõ ràng, chỉ vì người đời phần nhiều không có xem đọc, nghe hiểu thâm nhập kinh Phật để lý giải, để thâm tín mà thôi.
Kinh Phật nói rằng: “Nghiệp ác chưa chín mùi, người ác cho là vui, nghiệp ác lúc chín mùi, người ác mới thấy ác. Nghiệp thiện chưa chín mùi, người thiện cho là khổ, nghiệp thiện lúc chín mùi, người thiện mới thấy vui”. Đoạn kinh văn này là nói duyên cớ những người không có ác nào chẳng làm đó, không thọ đến báo ứng đời hiện tại, mà vả lại còn hưởng thụ lấy cái vui; đó là vì lý do nhân thiện đời trước hoặc quá khứ của họ, đến đời này gặp được duyên đã chín mùi từ trước; cũng tức là nói họ tất cả những gì hưởng thụ ở hiện tại, chính là nhân thiện của quá khứ, hoặc đời trước họ đã gieo trồng, tất cả quả báo đó là từ trước chín mùi mà được; nếu đời này họ tạo tác các món nghiệp ác (nhân nghiệp ác), nhân đó vì trồng chưa được lâu, chưa chín mùi, đợi đến lúc nhân duyên nghiệp ác chín mùi, chắc chắn thọ báo; cũng tức là nói đợi nhân thiện đã trồng ở đời quá khứ của họ - phước báo chỗ được ở đời này sau khi đã hưởng thọ xong, tự nhiên phải thọ báo, mà nhận lấy thọ báo các món nhân ác đã tạo ở đời này, do đây khổ đau liên tiếp, khổ nạn triền miên, tai nạn dẫy đầy, đến lúc đó, tự nhiên người làm ác sẽ thấy được kết thúc của việc làm ác. Trên sự thật, một con người làm việc ác chẳng có thể trốn chạy hết đời, trải qua khoảng giữa đường thì đã khổ nạn trùng trùng, chẳng sanh bệnh thì cũng chẳng được chết tốt.. Có thể thấy việc “quả báo hiện đời” này xác thực rất là đáng sợ, nếu đời này không thọ báo thì ở đời vị lai, giống như vậy, phải thọ báo, “ác nghiệp chín mùi ở đời sau” tức là cái đạo lý này vậy.
Người mà mỗi ngày thường hay giúp đỡ người khác, làm việc thiện, đời này ngược lại vẫn vậy thọ chịu khổ nạn trùng trùng, tự cho là việc thiện làm hết, hoặc thường thường làm việc thiện, vẫn vậy lại còn thọ chịu quả báo khổ. Trên sự thật, những người làm việc thiện đó, nguyên nhân đời này vẫn vậy mà còn phải chịu các điều khổ nạn, chính là vì nhân ác họ đã trồng từ quá khứ hoặc đời trước, duyên do nhân nợ rất nhiều rất nặng, mà những nhân nợ, nhân nghiệp này, ở đời này gặp trước được “duyên”, do đó tự nhiên chín mùi trước, cho nên có tình huống tự nhiên phải trả, còn phải khổ nạn trùng trùng. Mà đời này nhân thiện được trồng, mà vì trồng chẳng lâu, cho nên chưa được chín mùi, đợi đến lúc nhân thiện chín mùi, cũng tức là nói, đợi đến lúc nợ đời quá khứ trả hết, tự nhiên được phước báo, hoặc đợi đời sau chín mùi, do sự nhẹ nặng của nhân nghiệp ở mỗi người, hoặc các điều kiện chưa phối hợp mà định. Chỗ gọi là các điều kiện chưa có thể phối hợp là chỉ: sự thiếu sót chân thành phát ra của tâm từ bi, tâm khoan dung, tâm sám hối, tâm hành thiện từ nội tâm, hoặc làm thiện mà thiện hạnh tích chứa chẳng đủ. Cho nên người làm việc thiện đến một lúc nào đó sẽ bắt đầu biết được làm việc thiện sẽ được cái vui chân chánh.
Chỗ gọi là: “có nhân như vậy, được quả như vậy” là đạo lý tuyệt đối; cho nên có câu: “Thiện có báo thiện, ác có báo ác, như nếu chẳng có báo tức là chưa tới lúc, lúc đến rồi, nhất định thọ báo”.
Cho nên nói chính mình trong quá khứ trồng nhân nghiệp gì, hiện tại sẽ phải thọ lấy quả báo ấy; hiện tại tạo nhân nghiệp gì, vị lai sẽ phải gặt lấy quả báo ấy. Tóm lại, có nhân nhất định sẽ dẫn đến quả nhất định, cho nên nói “nhân quả” là một loại chân lý “bất định tánh”, luật nhân quả là một định luật bất biến vĩnh cửu của nhân sinh vũ trụ.
Tóm lại, tâm còn thiện lương tức được báo tốt, tâm mà bất lương tức mắc báo ác. Đức Phật nói: “Tất cả thiện ác đều xuất phát từ tâm, tự tâm tu thiện khiến tâm an lạc, tự tâm tạo ác khiến tâm chịu khổ”, “Phước do tâm tác, họa do tâm sinh”. Do đây có thể thấy, con người tất cả những việc được phước hoặc mắc hoạ, đều là chính mình ở trong cuộc sống thường ngày ở chỗ thi vi tạo tác mà quyết định, cho nên muốn được phước thì cần phải trước đem nội tâm của mình tất cả những vọng tâm, ác tâm mà trừ bỏ, trừ bỏ tất cả các ác của nhân loại; các ác của nhân loại là những gì? Đó là mười ác nghiệp (tức là mặt trái của mười thiện nghiệp), mười thiện nghiệp phạm rồi thì là mười ác nghiệp.
Sở dĩ nhân loại có mười ác nghiệp này đều là do tham - sân - tà kiến của ý nghiệp tạo khởi, mới có thể tay tạo tội nghiệp, hoặc ý nghiệp biểu hiện ở nơi miệng, thì sẽ tạo tác khẩu nghiệp, hoặc ý nghiệp biểu hiện ở nơi thân thì sẽ tạo tác thân nghiệp, cho nên ý nghiệp lại gọi là “tâm nghiệp”; cho đến ngay trong xã hội phạm tội án kiện mà nói, cũng đều rời không khỏi mười món nghiệp này.
Tóm lại, cần trừ các ác của nhân loại, thì quyết cần phải trừ bỏ tâm riêng tư, tâm tham, tâm sân và tà kiến của chính mình. Một con người nếu có thể trước nhất trừ bỏ tâm riêng tư chính mình, thì có khả năng “chẳng làm các việc ác”, do đây có thể giảm thiểu các việc khổ phải chịu, vì ở nơi tình huống mà chẳng làm các việc ác, thì ở trong ruộng tám thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mạt na và a lại da thức) của mình không thể tăng thêm ác duyên, tiến đến thì có thể “Vưng làm các việc thiện”, do ở nơi làm nhiều các việc thiện, lại có thể chận đứng tất cả các việc làm ác, thiện duyên tự sẽ tăng thêm nhiều, ở nơi tình huống này, các món nhân ác từ quá khứ - duyên ác, tự nhiên sẽ thối lui.
Cho nên Phật giáo tuy nói: “nhân quả ba đời” nhưng lại chú trọng “nhân quả hiện đời này”. Vì quả báo đời hiện tại là chỗ đặt để của đời trước chiêu cảm, mà cần phải giảm nhẹ các vấn đề khổ báo, chỉ cần ở đời này tu thiện, tích đức tích cực, thì có thể giảm chuyển nghiệp báo (báo thì nặng mà thọ thì nhẹ); Cũng tức là nói các món nhân nghiệp đã tạo tác ở thời quá khứ của chính mình, hoặc nhân ác từ xưa tới nay phải chịu lấy khổ nạn trùng trùng, chỉ nhân nơi đời này không tạo lại các nghiệp ác, đồng thời làm thiện tích cực, tu thiện, báo nặng đáng lẽ phải chịu, tự nhiên chuyển thành việc nhẹ.
Cho nên con người chỉ có nhận thức triệt để quan hệ “nhân quả”, và chỗ chỗ đều lấy “nhân quả” làm điều kiện cần thiết cơ bản của đời người, tiến đến “chẳng làm các việc ác, nên làm các việc lành”, mới có thể cuộc sống tinh thần của nhân loại vươn lên, khôi phục được quan niệm đạo đức, tiến đến kiến lập thế giới tâm lý trang nghiêm của đạo đức, mới đi đến con đường khang trang sáng lạng. Vì lý tưởng và mục tiêu của con người bao gồm là: giải trừ phiền não và khổ đau, vượt thoát luân hồi sanh tử. Cho nên con người chỉ có thấu suốt được thực tiễn Phật pháp, thâm nhập kinh Phật, tiến đến nhập vào thế giới lý tưởng giải thoát của tâm linh, mới có thể đến được cuộc sống vĩnh viễn hạnh phúc, khoái lạc, tự do tự tại.
Học Phật là giúp chúng ta hiểu rõ cội nguồn của khổ, sau khi đã hiểu thì không sợ sệt; học Phật có khả năng an bình được ma phiền trên cuộc sống. Tất cả niệm đều được tạo ra từ không tánh, quả báo phát ra đều được chính mình thừa nhận không phải là người khác, cho nên bất cứ cái gì đối với niệm đầu bất lợi cho người khác, cũng tức là bất lợi chính mình. Niệm đầu tốt mới có chỗ tốt với chính mình, niệm đầu xấu thì đối với chính mình có chỗ xấu, niệm đầu không thì đối với chính mình vô quái ngại. Cần phải rõ lớp đạo lý này mới có thể nắm được nhân quả trong bàn tay, biết nhân quả tức là biết tiến thối. Duyên tất cả sẽ không có quái ngại, tốt nhất tâm khởi động niệm liên miên đều phải đình chỉ (không suy tưởng), trong tâm không cả cái không, “nhân” cũng không có.
Pháp môn tuy là bước đầu vào cửa Phật pháp, nhưng rất là trọng yếu, không luận người nào, cũng đều cần phải tin sâu xa. Không nên không thấy qua quỷ thì không tin có quỷ thần; chưa từng thấy qua con người làm ác mà thân hiện tại chịu lấy ác báo thì không tin tưởng “nhân quả báo ứng”, rồi vọng làm hành vi hồ đồ (vọng tác hồ vi). Người ác trên xã hội hiện tại chịu lấy xử lý về pháp luật, tức là báo ác, tức là cái báo của thân hiện tại.
Học Phật tu hành thì phải hiểu rõ “nhân quả”, tin sâu nơi “nhân quả”. Không tin nhân quả, thì phàm sự việc theo tâm ham muốn, vọng làm hồ đồ, như thế thì chẳng cần phải học Phật, chẳng cần phải tu hành làm gì! Như vậy là duyên cớ gì ư? Vì “lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt”, chúng sinh ở cõi ta bà, dù ai có bản lãnh thông thiên, đều không thể trốn khỏi phán xét của nhân quả. Cho nên nói: “Nhân quả dù đường tơ kẽ tóc không sai”. Phải, trái, cong, ngay.. tất cả đều ở dưới sự phán xét của nhân quả, sẽ khiến mọi người tâm phục, khẩu phục.
Sự tạo tác thi vi của chúng ta trong một đời có thiện có ác, báo ứng tương lai không ra khỏi việc:
- Trồng cây đào, cây lý, trưởng thành là cây đào, cây lý (làm thiện được báo thiện)
- Trồng cây gai trưởng thành là cây gai (làm ác chịu báo ác)
Cho nên chúng ta muốn tránh hung được cát, tiêu tai được phước, thì quyết cần phải trồng sâu nhân lành (thiện nhân), nỗ lực sửa lỗi thành thiện, tương lai mới có thể được quả tốt phước đức cát tường. Như thường làm nhân ác mà muốn miễn trừ được hung họa tai nạn, như thế có thể được đâu.
Cho nên khuyên mọi người phải tin sâu nhân quả, hiểu rõ báo ứng thiện ác, một đường tơ một kẽ tóc không thể sai lệch. Không nên làm một người mang danh “Phật giáo đồ” mà không tin nhân quả, không hiểu rõ nhân quả.
Phật Đà có Phật nhãn có thể thấy vạn tượng vũ trụ, dạy chúng sinh nên biết tin nhân quả, “làm thiện được báo thiện, làm ác chịu báo ác”, khuyên người đời phải dừng ác làm thiện, mới được quả báo tốt. Người đời chỉ có nhục nhãn nhìn không thấy vạn tượng vũ trụ, như không thấy qua quỷ thần thì cho rằng không có quỷ thần, người đời nếu học Phật tu hành công phu tới mức được thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn thì có thể thấy được vạn tượng vũ trụ, được thiên nhãn rồi thì thấy được quỷ thần. Người đời phần nhiều không học Phật tu hành, hoặc học Phật tu hành mà công phu chưa sâu, chỉ có nhục nhãn, đương nhiên nhìn không thấy vạn tượng vũ trụ, lại huống hồ gì nói đến biết vạn tượng vũ trụ.
Luật nhân quả, là sự chứng ngộ đặc biệt của Đức Phật, là phép tắc sinh diệt vạn tượng thế gian. Nói một cách khác, đây mới là chân lý vĩnh viễn bất biến, bất luận tin Phật cũng tốt, không tin Phật cũng tốt, nói chung không có người nào có thể chạy thoát khỏi phép tắc phạm trù nhân quả. Đói cần phải ăn, buồn ngủ cần phải ngủ, nhất cử nhất động của chúng ta, không có một kiểu nào không là sự hiển bày của nhân quả; riêng khác chỉ ở người tin Phật, hiểu rõ nhân quả, tin tưởng nhân quả, không dám vọng làm hành vi hồ đồ, sợ gặp khổ báo; người không tin Phật, không tin hiểu nhân quả, càng không thể nói hiểu rõ nhân quả được, kém cỏi thì nên nghĩ lại một chút mới được.
Theo lý mà nói, làm một người đệ tử của Phật, nên phải tất nhiên quan hệ của nhân quả đều phải hiểu rõ, nhân là cái gì, lại thêm duyên là cái gì, tất nhiên sẽ chiêu đến quả là cái gì, khoảng giữa này, tuyệt đối không có mảy mún khả năng cầu may, không có một chút sai lầm, tuyệt đối công bình. Cho nên ở trong pháp nhân quả căn bản không có các từ vựng kỳ tích, xảo họp, ngẫu nhiên, ngoại lệ... Phàm sự việc có nhân trước, chắc chắn có nhân trước mới có quả sau.
“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”, “Nhược hữu bất báo, thời thần vị đáo”... những câu nói này, không những là bốn chúng đệ tử trong cửa Phật, không người nào chẳng hiểu, ai ai cũng có thể biết, tức là tất cả những nhân sĩ trong xã hội, không được nghe nói, sợ rằng cũng không tìm ra mấy người, thật là đáng tiếc; Người thật có thể tin sâu xa không nghi, ngược lại không gặp nhiều; đệ tử của Phật nếu không thể tin sâu, cũng nói là chưa được.
Kinh Phật nói rằng: “Nhược vấn tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị; nhược vấn lai thế quả, kim sanh tác giả thị” (Nếu muốn biết nhân đời trước, thì hãy nhìn kết quả lãnh thọ đời này; nếu muốn biết kết quả đời sau, hãy nhìn nhân đời nầy làm ra). Nếu như chí thành học Phật tu hành, tin sâu báo ứng nhân quả, đích xác là chút mảy không sai. Như vậy chịu ở trên cái nhân mà dụng công, nếu chỉ ở trên cái quả mà so tính được mất, không biết cầu quả vui thì chắc chắn trước tiên phải trồng nhân lành, nhân ác chắc chắn chiêu lấy quả ác, đây là nhân quả vững chắc. Đời sống này nghèo cùng nhiều tai nạn là khổ báo của đời trước đã làm ác, báo ứng qua rồi mới được báo lành; Người ta giàu có vinh hoa, hồ đồ làm hành vi sai trái, nhưng ngược lại trăm việc hanh thông, đó là người ta đời trước làm thiện, đời này hưởng phước, đợi phước hết rồi thì phải chịu khổ báo. Nếu nhơn theo sự sai khiến của tham tâm và tư tâm, rốt cuộc quên mất đạo lý này, cưỡng cầu vọng làm, nhân ác từng niệm, việc làm cũng là nhân ác, ngược lại hy vọng kết quả tốt đẹp, khác nào ngược đường mà chạy. Không tin! Nếu ở dưới tòa sen của đức Phật, mắt lạnh bàng quan, chỉ là lợi dụng Phật pháp dối đời trộm danh, rộng thu lấy tiếng tăm lợi dưỡng một mình, ham muốn vui say hưởng dụng, tàn cuộc mấy người tốt đẹp, vả lại phần nhiều là hoa Đàm một khi xuất hiện, theo đó thân bại danh liệt, khổ nạn thật sự, sợ sệt mà còn chẳng chịu dừng lại từ đây ư?
Chúng ta quy y tam bảo, học pháp xuất thế, xưa nay là vì việc lớn sanh tử, vì sao vẫn vậy ở trên danh, lợi, sắc, miếng ăn của thế tục làm kế sống? Phóng túng tham, sân, si mà tạo các ác nghiệp? Như chân chánh quy y tam bảo, thành tâm học Phật, có chí nơi đạo nghiệp, tin sâu nhân quả, cố siêng tự tu, ngàn vạn chẳng thể chịu người khinh gạt, tuỳ hỉ nơi nghiệp ác. Trên việc nhân quả, quyết không thiên tư, cũng không được chống đối. Cho nên đã là đệ tử Phật, phàm có sự thi vi, thì nhất định cần nghĩ đến hậu quả, mới có thể bắt tay, việc tự lợi lợi tha có thể nói có thể làm, đối với người có lợi, đối với mình không tổn, cũng nên làm nhiều; việc mà tổn người lợi mình, quyết không được làm, việc tổn người mà không lợi mình càng không được làm. Nguyện đệ tử của Phật chúng ta đều có thể tin sâu nhân quả, cầu Bồ Đề được Bồ Đề.
Đức Phật chỉ bày luật nhân quả, chủ yếu nhất là muốn chúng ta không được tạo các nghiệp ác, để khỏi phải thọ báo khổ trong tương lai, quả báo đã đến đối mặt, thì nên ngộ rõ là cái ác tạo tác đời trước đã đến, thản nhiên mà tiếp nhận, trả lại nợ nần; như con cái bất hiếu, gia đình không hòa, sự nghiệp chẳng thuận, quan hệ ác liệt của con người, phá tài sản, sinh bệnh, thủ thuật dao cắt... tức là trả lại nợ nần.
Nếu đọc xem kinh luận, có thể đưa ra “Phật nói báo ứng luân hồi năm con đường phước”, hay “Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện” xin đọc tụng vài quyển, chắc chắn biết được tu hành phước huệ ra sao.
Tuy mọi người đều biết quan hệ nhân quả, nhưng người có thể khởi quán tu nhân lại rất là ít, người nhờ vào sự xung động làm việc chiếm đa số, hai chữ “nhân quả” chỉ là “hai chữ” thế thôi, căn bản phát không ra sức, khởi không được tác dụng, không thể dùng sức nhân quả để khống chế ý thức chính mình, lúc trạng thái tình huống đến, điều thứ nhất nổi lên ở trong tâm không phải là nhân quả, mà là riêng tư và cừu hận... những tình tự xung động này, ngay những tánh tình thiêu đốt này sau khi phát tác xong, từ ký ức sâu xa “nhân quả” mới từ từ tỉnh lại, cuối cùng phát hiện ra tính nghiêm trọng của sự tình, nhiên hậu trở lại thu gom hậu quả tàn phá, lý do, mọi người không phải là không hiểu được đạo lý nhân quả, chỉ là không chịu tu hành, chỉ dừng lại ở giai đoạn “biết”, mà thường thường sức biết thì mười phần đơn lẻ mỏng manh, chống lại không được sự xung động của dục vọng. Bình thường người ta rất chiếu cố các niệm đầu: tham - sân - si, một khi có trạng huống phát sinh, thì trước tiên ở trong gân não lựa chọn một cái gì đó đối phó trạng huống, căn bản không muốn ý được yên tĩnh, khiến tham - sân - si từ trong niệm đầu trượt qua, mà đem nhân quả dừng lại dùng nhân quả quán sát, khiến “cái nhìn nhân quả” thành là một món lực lượng, kiểu này mới có thể ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi con người, lấy luật nhân quả làm một loại nhân sinh quan, ở trong một nhân sinh quan này, làm người xử việc, mà bất tất khiến tâm linh đối với sự bất an đợi chờ phán xét, tâm tình cũng mở sáng không được, theo thời gian sợ hãi mãi Thần minh ba thước trên trời và phán quan địa ngục đến dẫn người. Do đây, cần làm tốt công tác “dự phòng”, cũng cần có thể trước tiên hiểu rõ nhân quả biện biệt thị phi, mà làm cương lãnh cần thiết của tu trì; Tóm lại: 1. – Biết tin nhân quả. 2. – Ở trong sinh hoạt thường ngày khởi lên quán sát nhân quả. 3. – Sau khi quán chiếu thì cần nỗ lực khống chế xung động, khiến “nhân quả” thành là lực lượng, có lực lượng mới tu thành “nhân quả quán” được.
Một người hiểu rõ được nhân quả, gặp việc trước nhất biết được kết quả sau khi phạm sai lầm, sẽ hại, sợ chuốc lấy việc xử lý của pháp luật, cho nên sẽ kiểm thúc hành vi chính mình, kiểu này cũng giống như phương pháp phòng bệnh của y học. Nhưng ngược lại có rất nhiều người biết rõ hậu quả của sai lầm, họ kiềm chế chưa được xung động của chính mình mà nung nấu ra đại họa, thậm chí mất đi sinh mạng quý báu, khó bảo rằng chính họ có quý tiếc sinh mạng hay không?
Kỳ thật, “nhân quả” chỉ là một quan niệm, đã được tri thức giáo dục đưa ra, không nhất định là cái năng lực; không có năng lực thì không có khả năng cùng với hành vi đối kháng xen nhau, động lực của hành vi vĩnh viễn mạnh hơn tri thức chính mình, như thế, họ vẫn sẽ “trang điểm” cái nhìn nhân quả và đạo đức đầy đầu mà đi phạm sai lầm, vì “cái nhìn” của họ trọn không có “lực nhìn”, chẳng giống tập tánh bản thân: tâm tham, cừu hận... cũng có một món năng lực, cái năng lực này là từ nhỏ đã bị nuôi nấng mà ra, mỗi ngày đều dùng đến, mỗi lúc đều nghĩ đến, nên nói rằng họ có thể nào mà chẳng phát sinh ra năng lực to lớn? Cũng vậy, chúng ta cần đem quan niệm nhân quả hoặc đạo đức làm thành một cái năng lực, có thể nói trực tiếp đem ra khắc phục hành vi, cũng như vậy mỗi ngày làm, mỗi lúc nghĩ, ở trong cuộc sống tuỳ thời khởi quán để quán sát con người và sự việc, sau khi quán lâu rồi, sự quán sát đó cũng sẽ phát sinh ra năng lực chỉ huy hành vi; Chú ý! Không nên một mạch dừng lại ở nơi “quán” mà chẳng chịu “hành”, cần phải vừa quán vừa hành; mới bắt đầu tất nhiên quán nhiều mà hành ít, hoặc là một mặt thì quán còn một mặt vẫn phạm sai lầm, (lúc này nên phối hợp tu sám hối), nhưng chỉ cần kiên định ý chí không sợ khó, thì có thể khiến sự quán lần hồi mạnh hơn sự xung động của tham sân si, nhiên hậu phát sinh ra cái gọi là “chánh quán lực”; lúc này chỉ cần niệm loé lên, cũng sẽ có luật nhân quả ở trong tâm mạnh mẽ chuyển vận, hành vi sở hữu của anh đều tiếp nhận lấy lề lối của nhân quả như thế thì tính ra làm việc xấu cũng rất khó.
Bất cứ người nào cũng biết đạo lý: thiện có báo thiện, ác có báo ác, nhưng ở trên thế giới này vẫn có rất nhiều người không thể khống chế hành vi chính mình, tạo ác hoặc làm thiện thường thường không phép tắc mà cứ theo tâm ham muốn; trong tâm tuy nghĩ là phải làm thiện, mà trên thực tế hai chân ngược lại, thường thường không nghe sai khiến, đổi chỗ chạy đi tới nơi không đáng đi mà tạo ra ác nghiệp, đợi đến lúc lương tri thức tỉnh, mới phát hiện tự mình căn bản không có năng lực để gánh vác tất cả những ác quả này, giống như có một luồng khói sương vô hình ngăn cản con đường trước mặt, sau đó là một đôi tay vô hình, dẫn người mê hoặc đi đến tuyệt lộ; luồng khói sương này là “nghiệp lực” của chúng ta, mà đôi tay vô hình đó cũng tức là năng lực của nhân quả. Nếu như chúng ta không trừ dọn sạch nghiệp lực trước mắt, thì khó thấy mình bị dẫn dắt đến loại cảnh giới nào? Cho nên chúng ta cần xử lý nhân quả về trước của mình, thì trước tiên nên nỗ lực chuyển đổi nghiệp lực của chính mình, trừ dọn sạch khói sương trước mắt; sáng tạo thiện duyên thiện nhân mới, cải thiện quả báo bất lương, đem việc tổn thương tai hại mà đè bẹp đến mức tối thiểu.
Nghiệp lực của con người đương nhiên cũng là cái nguồn nhân quả đã tạo ở đời trước, nhân quả thiện khiến người được nghiệp lực thiện đi chế tạo quang minh và thánh khiết của đời người; mà nhân quả ác thì chứa đựng sự xung động chúng ta không thể khắc chế, khiến lý trí và lương tri của ta, trong sự xung động, bị che đậy mà mang đến khổ đau và tổn thương. Phật pháp tuy vô biên, ở trước nghiệp lực của con người, hãy còn một cái hạn chế không thể nhảy vượt. Cho nên có rất nhiều bạn bè học Phật, tuy học đầy kinh luận, tuy vào cửa bái thầy tập thiền định, nhưng chỉ cần nghiệp lực một ngày không chuyển biến, thì Phật pháp cũng chẳng thể xuyên thấu nghiệp lực của chúng ta mà khai ngộ minh tánh. Cho nên nghiệp lực tuy đáng sợ nhưng chỉ cần công phu chuyển đổi làm tốt rồi, ác nghiệp cũng có thể lập tức bị đóng chặt ở chỗ sâu xa của tâm linh, khiến nó không thể khởi ra hiện hạnh, mà nhường cho nghiệp thiện đến làm chủ, như thế chúng ta xem đầy bao nhiêu là kinh luận, khiến cho chính mình có thể “chớ nên làm các ác, các điều thiện vưng làm, tự tịnh nơi tâm ý”, một mấu chốt tức là cần niệm nhiều: Nam mô A Di Đà Phật! Nhờ Phật lực ép chế nghiệp lực, niệm Phật càng nhiều, lực niệm Phật càng lớn, lực niệm Phật càng lớn thì nghiệp lực càng thu nhỏ cho tới không còn; nghiệp lực bị ép chế rồi không thể phát sinh tác dụng, tu hành sẽ không có nghiệp lực trở ngại, đồng thời ác niệm một khi khởi lên thì biết, bèn quở trách mà chẳng thể tạo ác nghiệp. Niệm Phật đến khi trong tâm có Phật, lúc miệng chẳng niệm tâm vẫn ở tại niệm, chẳng niệm mà tự niệm, Phật chẳng rời tâm, tâm không rời Phật, ác niệm không từ chỗ nào mà sinh khởi.
Người biết (tin) nhân quả chẳng ước ao, càng không thể oán trách người.
Quả thiện ác ở trong khoảng nhất niệm.
Đức Phật chỉ bày nhân quả, điều rất chủ yếu là muốn chúng ta phàm phu không tạo các ác nghiệp, để tương lai khỏi chịu báo khổ, lúc khổ báo đã đến đối mặt, thì đầu tiên nên liễu ngộ là việc làm ác ngày trước đã đến, mà thảng nhiên tiếp nhận, trả lại nợ nần, như là con cái bất hiếu, gia đình bất hòa, sự nghiệp chẳng thuận, quan hệ con người ác liệt, phá tài, sinh bệnh, uống thuốc đắng, thủ thuật đao cắt... đều là các phương thức trả lại nợ nần.
Như thế làm ác, hành thiện được báo ứng gì? Thế giới ta bà chia ra sáu đường, tức là: trời, A ta la, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.
Cõi trời hưởng phước, thọ mạng cũng dài; A tu la phước báo giống như trời, nhưng có tâm sân; loài người có nghèo, giàu, khổ, vui... nói chung khổ nhiều vui ít; súc sinh thì là khổ, chúng ta đều thấy đó, trở xuống một đường khổ hơn một đường.
Hành thiện hợp với đạo trời, sanh vào cõi trời hưởng phước, phước báo hưởng hết rồi, đoạ lạc vào cõi người hoặc súc sinh, hành thiện hợp với nhân đạo lại chuyển sinh làm người, sinh nhà giàu có; làm ác hợp với nhân đạo, sinh nhà nghèo cùng hoặc thấp hèn chướng nạn thọ khổ; hợp với súc sinh đạo thì đoạ lạc làm súc sinh thọ khổ. Trở xuống các loài nên xét biết.
Như thế, thế nào là ác? thế nào là thiện?
Ác là phàm tư tưởng, ngôn ngữ hay hành vi của tất cả chúng sinh tổn hại, trái với luân lý đạo đức, lương tâm, trái lại với pháp luật quốc gia... đều là ác; trái với mười nghiệp thiện tức là ác.
Kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói thế nào là năm điều ác?
- Một là loại nhân dân manh động của chư thiên, muốn làm các ác, chẳng lúc nào chẳng làm như vậy. Kẻ mạnh hiếp yếu, xoay vần đánh nhau, tàn hại giết chóc, đắp đổi cắn nuốt nhau, không biết tu thiện, ác nghịch vô đạo. Sau chịu lấy tội ương tự nhiên đưa đến. Thần minh nhớ biết người phạm không tha thứ. Cho nên có việc: nghèo cùng hạ tiện, ăn xin cô độc, đui điếc ngọng câm, ngu si tệ ác, cho đến lúc luống cuống chậm chạp. Lại có kẻ tôn quý giàu có, tiền của thành đạt, đều là do đời trước từ hiếu, tu thiện tích đức dẫn đến.
- Hai là nhân dân thế gian, cha con anh em, nhà cửa chồng vợ, đều không nghĩa lý, không thuận khuôn phép, ham muốn quá đỗi, kiêu căng buông tuồng, đều ưa khoái ý. Mặc tâm tự lung càng dối gạt nhau. Miệng và tâm đều khác, lời nói và suy nghĩ không thật. Nịnh xiểm không trung, xảo ngôn dối lừa. Ghét hiền chê thiện, hãm hại oán cuồng. Vua trên không minh. Mặc dù dùng tôi: tôi dưới tự tại, dối lừa nhiều kiểu. Bước qua nên đi, phải biết hình thế. Lúc tại vị không chánh dễ bị dối gạt, vọng làm tổn hại kẻ trung lương chẳng đúng với lòng trời. Tôi dối vua, con dối cha, anh em vợ chồng, kẻ tri thức trong ngoài lại dối gạt lẫn nhau. Ôm lòng tham dục, sân nhuế ngu si. Muốn vun vén chính mình, muốn tham có nhiều. Sang - hèn - trên - dưới tâm đều đồng vậy. Phá nhà mất mạng, không nhìn trước sau. Thân thuộc nội ngoại, ngồi đó mất dòng họ. Hoặc lúc nhà cửa tri thức, bè làng bạn chợ, dân ngu người quê, cùng theo việc họ. Lại lợi hại với nhau, giận thành oán kết. Kẻ giàu có thì lẫn tiếc, không chịu bố thí, ôm giữ tham lam, nhọc tâm khổ thân. Như vậy rốt cuộc, không chỗ cậy nhờ, riêng đến riêng đi, không mộ ai theo, thiện ác họa phước, tìm chỗ sinh ra mạng, hoặc ở chỗ vui, hoặc vào chỗ khổ độc, nhiên hậu sám hối làm sao cho kịp.
- Ba là nhân dân thế gian nhân với nhau mà sống gởi, cùng ở trong khoảng trời đất. Năm tháng trôi đi thọ mạng không bao nhiêu. Trên có những bậc hiền minh, trưởng giả, tôn quý, giàu có; dưới có những người nghèo cùng, hà tiện, yếu kém, ngu si; giữa có những kẻ bất thiện, thường ôm lòng tà ác, chỉ nghĩ ham muốn nhẫy đầy, phiền chật trong lòng, ái dục loạn xạ, ngồi đứng chẳng yên, ý tham giữ tiếc, chỉ muốn được khống. Trông liếc sắc mịn, trạng thái tà vạy, biểu hiện ra ngoài, vợ mình nhàm ghét, riêng vọng ra ngoài, phí tổn của nhà, việc làm phi pháp. Giao kết tụ tập, khởi binh đánh nhau, đánh đập giết hại, cưỡng đoạt không đạo lý. Tâm ác ở ngoài, chẳng chịu tu nghiệp. Trộm cắp cho được, ham muốn phải làm cho thành việc. Sợ thế lực ép sát bên hông, quy cho vợ con, thích tâm khoái ý, cố sức làm vui. Hoặc đối với thân thuộc, không kiêng dè tôn ti. Trong ngoài nhà cửa, hoạn nạn khổ sở, cũng lại không sợ phép vua lệnh cấm.
- Bốn là nhân dân thế gian không nghĩ tu thiện; chuyển dạy kéo nhau cùng làm các việc ác: nói hai chiều, nói ác, nói nịnh hót, chiều uốn. Nói gièm sinh giặc đấu tranh lộn xộn, ganh ghét người lành, bại hoại người hiền, đứng một bên thích thú. Bất hiếu song thân, khinh mạn sư trưởng, bạn bè không tin, khó đựơc sự thành thật. Khi tôn quý thì tự cho mình lớn, tự cho mình có đạo. Hoành hành uy thế, xâm lấn đối với người. Chẳng thể tự biết làm ác mà không hổ thẹn. Tự lấy sự mạnh mẽ muốn người kính sợ. Không sợ trời đất thần minh nhật nguyệt, không chịu làm lành, khó có thể giáo hóa. Thi nhau nằm ngửa tự dụng, có thể cho là bình thường, không có lo sợ, thường ôm lòng kiêu mạn.
- Năm là nhân dân trong thế gian luống ỷ lại lười nhát, không chịu làm thiện sửa thân tu nghiệp; nhà cửa quyến thuộc đói lạnh khốn khổ, cha mẹ dạy răn trừng mắt giận dữ, lời nói bất hòa trái lệ ngược lại, thí như oan gia, chẳng bằng như không con; giữ lấy sự vô phép, đều là các hoạn nhàm chán; phụ ơn trái nghĩa, không có tâm đáp trả. Nghèo cùng thiếu thốn không thể được lại, lỗi lầm mặc tình đoạt lấy, buông tuồng trôi xuôi tản mất. Kể suốt chẳng được gì, dùng của giúp cho, mê rượu ham đẹp, ăn uống không độ lượng, tâm buông lung phóng đãng, đần độn theo sau, chống cự xúc phạm; không hiểu nhân tình cưỡng muốn ức chế. Thấy người có điều tốt thì ghen ghét xấu xa, vô lễ vô nghĩa không chịu hỏi han, tự cho là biết, không chịu hỏi rõ. Lục thân quyến thuộc giúp hay không chẳng buồn nghĩ đến. Chẳng nhớ ơn cha mẹ, chẳng giữ nghĩa thầy bạn. Tâm thường nghĩ ác, miệng thường nói ác, thân thường làm ác, không từng có một điều thiện; không tin Kinh Pháp chư Phật, chư Thánh; không tin làm đạo có thể độ đời được, không tin chết rồi Thần minh lại sinh, không tin làm thiện được thiện làm ác được ác; muốn giết người chơn, đấu loạn chúng tăng, muốn hại cha mẹ anh em quyến thuộc. Lục thân ghét nhơ mong muốn cho nó chết. Người đời tâm ý đều như vậy, ngu si mông muội mà tự cho là trí tuệ, không biết chỗ từ đâu sinh đến, chết sẽ về đâu, rồi cũng sẽ phải chết.
Thế nào là thiện? Tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi, làm việc đều hợp với luân lý đạo đức pháp luật quốc gia không tổn hại đến tất cả chúng sinh, tâm giữ công chánh ưa giúp con người, làm tức là thiện của mười thiện nghiệp.
Kinh Vô Lượng Thọ Đức Phật nói rằng: “... Một ngày một đêm chánh tâm chánh ý, trai giới thanh tịnh, thì hơn ở nước Vô Lượng Thọ làm thiện một trăm năm. Lý do vì sao? Vì cõi nước Phật kia đều toàn các điều thiện, không có mảy may ác. Ở cõi này tu thiện mười ngày mười đêm, thì hơn trong nước chư Phật phương khác làm thiện ngàn năm. Lý do vì sao? Nước Phật phương khác người làm thiện rất nhiều, người làm ác rất ít, phước đức tự nhiên không tạo nhân địa ác. Chỉ ở cõi này ác nhiều, không có tự nhiên, khổ nhọc cầu muốn lại dối ngờ nhau, tâm thân mỏi mệt, uống đắng ăn độc, những việc dữ ác như vậy chưa từng dừng dứt. Nhất tâm chế phục ý, thẳng thân chính niệm, lời nói và việc làm hợp nhau, việc làm chí thành, chỗ nói như lời, tâm và miệng không chuyển đổi, riêng làm các việc lành, không làm các việc ác, đó là món thiện lớn vậy.”
Chúng ta muốn lìa tai khổ nạn, được phước bình an cát tường, thì ngoài việc không làm “ác” ra, phải cần làm “thiện” cho nhiều.
Sáu đường luân hồi là chính chúng ta tạo ra vậy. Nhân nơi mê hoặc mà tạo ra nghiệp, tạo nghiệp rồi chắc chắn phải thọ báo; quả báo thiện ác mảy may không sai. Như muốn vượt khỏi sáu đường luân hồi, thì chẳng nên tạo nghiệp. Không tạo nghiệp rất khó, mà không mê hoặc lại càng khó hơn. Dứt hết hoàn toàn mới có thể ra khỏi ba cõi, vấn đề này không phải một đời mà có thể làm được. Nếu muốn được phước báo nhân thiên thì so ra dễ, Thánh Hiền của thế gian và các tôn giáo đều có thể khiến người làm được; nhưng ra khỏi luân hồi thì người thế gian làm không xong được.
Nhân quả báo ứng bèn là chân tướng của sự thật, như làm rõ sự thật này thì tâm an được ở lý, chẳng oán trời trách người vì tâm đã an rồi. Tâm an thì là định, định có khả năng sinh huệ, từ đây bỏ ác mà hướng thiện, sửa đổi cho vị lai.
8. SÁM HỐI
Tu hành là sửa đổi cho chính hành vi không hợp lý của chúng ta, cũng cần phải trước tiên tìm cho ra nguyên nhân lý do có những hành vi này ở đâu? Ngoài “vô minh” ra, tức là do “tập khí”. Như vậy, chủ yếu của tu hành là ở việc bỏ trừ tập khí. Có thể đem tập khí xấu xa mà sửa đổi, thân - miệng - ý của chúng ta cũng chẳng thể lại có tư tưởng lời nói và hành vi không hợp lý; Cũng vậy, cần phải trừ bỏ tập khí, quyết cần phải biết là nguyên nhân nào dẫn đến cho chúng ta có tập khí xấu xa này? Tìm ra nguyên nhân để rồi tiêu trừ nguyên nhân, nhiên hậu mới có thể dọn trừ được rễ dây dưa của tập khí. Thế này cần phải nương vào công phu “phản tỉnh” và “sám hối”. Phản tỉnh là công việc trước tiên của tu hành, Sám hối là đã tu hành, không có công phu phản tỉnh làm sao biết hành vi của chúng ta không đúng ư? Không có sám hối (sám lỗi trước, hối lỗi sau chẳng làm) làm sao có thể trừ bỏ tập khí? Chúng ta đã biết rằng mục đích của tu hành là cần phải thân - miệng - ý đều không ác, thế này cần phải phản tỉnh, từng lúc phải “hồi quang phản chiếu” (coi lại chính mình), mới có thể phát hiện cái xấu ác, nhưng chỉ phát hiện thôi cũng chưa đủ, quyết cần phải dừng lại tiêu diệt nó, cho nên phản tỉnh và sám hối cùng là trọng yếu.
Như thế nào là phản tỉnh và sám hối? Phản tỉnh là hỏi lại và tự xét, rõ biết chính mình trong quá khứ đã tạo việc ác gì, nhiên hậu đem việc ác bày tỏ ra sám hối. Sám hối cũng tức là nhận lỗi lầm, biết được các việc về trước làm là không đúng, ta cần sửa lỗi, nhiên hậu không nên làm như thế nữa. Trên phương diện sửa đổi, lại cần phải chú ý vấn đề tập khí, những hành vi từ lâu cũng có thể nuôi dưỡng thành thói quen, thói quen đã nuôi dưỡng thành, thường thường không dễ gì một ngày bèn có thể sửa đổi chân chánh được, do đó, lúc tu tập sám hối, sửa đổi lỗi lầm, cần có tâm nhẫn nại và thường xuyên, không thể vì thất bại một hai lần mà nản tâm, thối chí. Người đời nói rằng: “trường thành vạn dặm không phải là xây một ngày xong”, có thể nào nhân thất bại một hai lần mà nản lòng thối chí sao! Song ngược lại đây chính là tâm bệnh của con người, cũng có thể nói là nguyên nhân vốn có của chúng sinh ở mãi nơi luân hồi, không thể giải thoát. Do đó, Cổ Đức vì muốn ngừa trị nhược điểm này của phàm phu, lại nói sám hối quyết cần có tâm hổ thẹn. Vì cho rằng ta sinh ra là con người “vạn vật chi linh” (khí tinh anh của muôn vật) rốt cuộc sẽ tạo ra ác nghiệp không đúng đối với người khác, cũng như đối với chính mình, khó mà hiểu biết được, hổ thẹn không? Có thể nào chẳng sám hối? Từ trong tâm thường sinh hổ thẹn (tàm quý tâm), và sợ cái khổ sinh tử. Như vậy mới có thể giữ gìn tâm nhẫn nại và thường xuyên, không dứt sám hối, cho đến khi tội được diệt nghiệp được dừng.
Con người chẳng phải là thánh hiền, khó khỏi không lỗi lầm, lỗi lớn không có - lỗi nhỏ khó tránh khỏi, trong sự vô ý làm ra, chính mình còn không biết, sau đó không lâu xét lại mới biết là mình phạm sai lầm, có sai lầm thì cần phải sám hối sửa đổi.
Con người thường hay phạm sai lầm mà không tự biết; Nhưng người hiền chân chánh, phạm sai lầm mà biết sai lầm đó, tiến tới một cách mạnh mẽ việc nhận sai lầm mà sửa lỗi mình. Có thể thấy con người phạm sai lầm là điều thường tình, quý là ở chỗ có thể sửa đổi, đó là dũng khí đáng mừng khen! Nếu lầm lỗi mà không tự biết đó là kẻ ngu mê chìm đắm đáng thương xót! Nhưng có người ngược lại, biết rõ sai lầm mà vì các việc mượn cớ lót miệng, hoặc nhân tốt đẹp cho mưu đồ yểm hộ chính mình, xô đẩy trách nhiệm đến người khác, hãy còn mưu toan lời lẽ giảo quyệt, tự tha thứ việc đã sai lầm bèn khó tránh khỏi, đây thuộc về tội ác, không đủ làm phép tắc.
Chúng ta đã biết nhân quả “thiện có báo thiện, ác có báo ác”, nhưng vì có lợi ích tự thân, tập tánh ghét yêu chứa nhóm khiến như vậy, nên còn tạo các nghiệp ác. Nếu đã làm các nghiệp ác mà không biết sám hối, thì một lần lầm lỗi lại một lần càng lầm lỗi, cho nên đã làm ác thì phải sám hối cải chánh.
Sám hối, “sám” là sám lỗi ngày trước, đối với tội nghiệp đã phạm, sanh tâm “đại tàm quý” (hổ thẹn nhiều). “Hối” là sửa đổi quá khứ, tu chỉnh vị lai, lập định dứt khoát chú ý, sửa lỗi tự được mới mẻ, chẳng tái phạm. Sám, nếu có lỗi lầm, cầu xin đối phương rộng thứ bỏ qua, đây là bổn ý của “sám”. Hối tức là đã phạm sai lầm, nên nhận lỗi với đối phương, và nói ra sai lầm đã phạm, đây là bổn ý của “hối”.
Sám hối như trừ bỏ đồ nhơ, có thể trừ bỏ bụi nhơ tội ác trong tâm chúng ta. Chỉ cần tâm sinh niệm sám hối, tội sẽ không trở lại làm tội. Nếu như chẳng chịu nhận lấy sai lầm mà sửa đổi, thì tội nghiệp vĩnh viễn thêm lên ở nơi thân, như bóng theo hình. Sám hối chỉ là làm kiểu mà thôi, không có ý sám hối, cũng không có lòng hồi tâm hướng thiện, tâm kia không ở yên, sau lại làm theo việc ác, làm sao có thể tiêu trừ tội nghiệp!
Người tu hành quyết cần phải từng lúc phản tỉnh lời nói việc làm, ý niệm của mình, để cầu không hổ với mình, không thẹn với người. Nếu không có tâm tàm quý, lời nói việc làm đối với mình không gánh vác nổi, thì tâm này đầy đủ tội ác. Thường ôm lòng phản tỉnh tàm quý, mới có thể hiếu thuận cha mẹ, tôn kính sư trưởng, giữ gìn hòa vui trong anh chị em, hoà khí với bạn bè và mọi người.
Nếu chúng ta không sám hối, như thế tội nghiệp của chúng ta tạo tác, sẽ khiến chúng ta đoạ lạc, không biết chừng nào mới hết, mà chẳng biết dừng lại. Tất cả tội ác đều do vô minh vọng tưởng mà sinh ra; nếu có tâm sám hối thường xuyên niệm Phật trong sự tĩnh toạ thì tội nghiệp vốn có giống như sương bị mặt trời trí tuệ tiêu tan, khả năng hối cải quay về làm thiện như ánh sáng chiếu phá ở nơi thế giới tối tăm. Sám hối không nhất định vì lỗi hiện có của mình, cũng là vì đời quá khứ mà sám hối, đồng thời cũng vì tất cả chúng sinh mà sám hối!
“Sám hối” - Nghiệp chướng là việc mà con người vốn có đều có. Con người khởi tâm động niệm thì là tạo nghiệp, nhất định phải sinh ra chướng ngại. Chướng thế nào ư? Là ngăn che bản tánh của chúng ta. Ở trong bản tánh chân thật của chúng ta, có trí tuệ vô lượng, công đức vô lượng; hiện tại trí tuệ, khả năng công đức không thể khởi tác dụng. Nguyên nhân tại sao? Cũng là có chướng ngại. Vọng tưởng, chấp trước cũng gọi là chướng ngại.
Sám hối – Dọn trừ nghiệp chướng đến nay chẳng được, sao lại dám hưởng thụ danh lợi, tiền của, ăn uống, nam nữ... những việc thế gian tham ái ư? Lại tạo ra ương họa mới! “Pháp chỉ” ở trên hội Linh Sơn của Đức Phật: “Sám hối nghiệp chướng, tin sâu nhân quả, tu trì phước huệ, là phương thuốc thần diệu trị được vạn bệnh”. Sám hối có thể khiến chúng ta trong lúc tu hành trừ dứt nghiệp chướng.
Sinh mạng của chúng sinh là thông nơi ba đời, do sinh mạng đời quá khứ đã tạo nghiệp, cảm báo mà có sinh mạng đời này, đã vậy có đời quá khứ, đời quá khứ cũng đã tạo nghiệp. Như đây, nghiệp đời trước đã tạo, tự nhiên cũng nên sám hối thôi. Bởi phàm phu chúng ta không có “túc mạng thông”, không có cách nào biết chính mình ở đời quá khứ tạo những nghiệp ác gì, không chịu sám hối. Chỉ là đời này, đến trước mắt là dừng, các nghiệp ác đã được tạo ra đã qua, ngược lại có thể tìm biết, cũng tức là biết các ác nghiệp tự mình đã tạo, như vậy thì dễ dàng thêm cho việc sám hối.
Nếu còn có những ác nghiệp nhỏ nhặt chưa sám hối, ngay lúc nó hiện khởi ở trong tâm, thì có thể khiến tâm cảm thấy bất an mà chướng ngại cho việc tu hành. Do đó, một người trước khi phát tâm tu hành, ngoại trừ quả báo có thể thấy và sám hối nghiệp tội đời trước ra, cần phải thường thường phản tỉnh rằng: “đời này từ lúc nhỏ thẳng đến ngày nay, tạo ra những ác nghiệp gì? Phàm nhớ lại một vấn đề nào khiến tâm cảm thấy hành vi đó bất an, thẹn xấu xa lâu ngày, lại là ác nghiệp, đều quyết cần phải phát lồ ra sám hối, quyết cần phải sám hối đến khi trong tâm thật bình yên thanh khiết, mới nói là nghiệp tội tiêu mất.
Sau khi đã nói qua nghiệp tội đã nói ở trước, nội tâm lại có thể thanh tịnh, yên ổn, như vậy tu hành, thì không thể lại có nghiệp chướng đến tìm; do đây quyết cần phải cố gắng, giữ gìn cho được sinh mạng sám hối thuần khiết quá khứ này, không có thể khiến nó trở lại cảm nhiễm thói ác, để khỏi trở lại tạo các ác nghiệp. Giữ gìn như thế nào? Trước cần phải đối với tất cả các việc thiện, bất luận là mắt thấy hoặc tai nghe, trong tâm đều phải sanh lòng tuỳ hỉ; đối với việc ác, ngược lại phải ghét như thù oán, tốt nhất là đem tâm an trụ ở nơi “tứ chánh cần”; Tứ chánh cần là:
1. Ác đã sinh, khiến đoạn diệt.
2. Ác chưa sinh, khiến không sinh.
3. Thiện chưa sinh, khiến sinh khởi.
4. Thiện đã sinh, khiến tăng trưởng.
Bốn việc cần thiết chân chánh này tức là đạo lý “các ác chớ làm, các thiện nên làm” (chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành), chúng ta lấy trí tuệ để quán sát, chính là khéo tinh tấn siêng năng tu hành ba học: giới - định - huệ, trừ diệt ba độc: tham - sân - si; đem bốn việc cần thiết chân chánh làm pháp môn trợ đạo để siêng tu khổ luyện, dứt ác sinh thiện.
“Luật nhân quả” nên cùng với “sám hối” một lúc tu hành, càng giúp cho nỗi đau của tâm linh sau khi phạm sai lầm. “Sám hối” không nên dùng làm hành vi giao dịch, bởi vì chỉ cần giao một số tiền cho chùa viện để tham gia pháp hội, thì có thể tiêu được nghiệp tội vốn có ở trong đáy của tâm đã được giữ kín của mình sao? Tiền, không phải là vạn năng, đến pháp hội bái sám là giải quyết vấn đề tâm lý chính mình, rất thực tại là giải quyết phiền não; Thậm chí tiền đã giao, sám đã bái, vận tốt đã đến rồi, kết quả nếu ngược lại khiến người mất đi chỗ mong cầu, ở đó cũng sẽ mất đi tín tâm đối với Phật và Bồ Tát, lại chẳng gieo vào trong nguyện tu thân dưỡng tánh bằng sự nhiệt tình thiết tha.
Tác dụng của sám hối trước Phật và Bồ Tát tức là cần tìm chân tâm và thiện tâm chính ta, vả lại phải cầu mong chân chánh Phật và Bồ tát làm chứng rõ ràng, chứng minh tâm của ta là chơn vậy, thành ý gánh vác việc làm lỗi lầm của chính ta, vả lại không dẫm đạp che dấu. Việc đời này kiếp này có thể giải quyết được thì nên giải quyết, không nên trốn ở trong nhà sám hối với Phật và Bồ Tát, mà trên thật tế, người thù của anh, cứ như vậy, ở một nơi nào đó đau hận việc làm của anh; như nếu là anh rất khó làm được điểm này, thế thì ít nhất đối với người thân cận bên cạnh phải làm trước, trước sửa đổi được cá tánh, làm được một con người có ý nguyện sám hối nhận lỗi với người.
Ngay lúc nhân quả hiển bày năng lực, phương thức anh có thể làm tức là nhận tội của sự chân tâm thành ý, bình thản chân thành với việc làm tội lỗi mà sám hối hành vi của mình, cần phải phát xuất từ nội tâm, ở trước tượng Phật hoặc mặt hướng về phương tây, đem lỗi lầm đã phạm, tất cả nói ra và phát nguyện về sau không tái phạm. Không thể ban ngày tạo ác, ban đêm sám hối, cho là nghiệp tiêu, mà rốt cuộc là tạo nghiệp, mà lại sám hối không thôi.
Ngay khi anh muốn nhận lỗi, ý muốn sám hối (bất luận là lỗi lớn lỗi nhỏ) ngang bằng với việc tu “nhân quả quán”, hành mười thiện nghiệp. Cũng có thể chứng minh nhân cách Bồ Tát của anh đã đầy đủ làm việc khó làm.
Chân tâm hối cải, tâm địa tức được trong sạch, tâm chúng ta nếu không thanh tịnh, không bình đẳng, thì “giác tâm” cũng mất đi, lập tức phát khởi sám hối. Sám hối không phải là bảo người ta hàng ngày nghĩ lỗi đã làm, việc này là sai lầm, nghĩ như thế này tức là trở lại tạo tội, càng nghĩ một lần là lại tạo một lần. Lỗi lầm đã làm biết rồi, về sau không làm lại gọi là sám hối.
Cần làm tới khi nghe lỗi thì vui, trong lòng cảm tạ, cảm ơn, từ trong tâm nhận điều không đúng, chẳng phải là trên cửa miệng nhận điều không đúng, nên phải trong nội tâm sám hối; không phải nghe lỗi thì nóng lên, càng không phải nghe lỗi thì giận.
VĂN SÁM HỐI:
“Đệ tử tên là.... (đem lỗi lầm đã phạm, tất cả nói ra), ngày trước đã tạo các ác nghiệp, đều do vô thuỷ tham - sân - si, từ thân - miệng - ý mà sinh ra, tất cả con nay đều sám hối.”
Phương thức sám hối, trước tiên cần phải sạch cái tâm, tịnh ở ý, chính ở hình, cung kính ở thân, nghiêm túc ở nơi dung mạo, tóm lại là cần cầu thân - miệng - ý thanh tịnh.
9. NĂM GIỚI
Năm giới là giới điều rất cơ bản của bốn chúng đệ tử Phật. Không luận là xuất gia hay tại gia đều phải tuân thủ. Người tu hành “ năm giới không giữ, dứt đường nhân thiên”.
Năm giới, mười thiện nghiệp là tiêu chuẩn đạo đức nhân loại, mỗi điều giới luật đều là “chẳng làm các ác” biện chứng thống nhất “vưng làm các thiện”. Đạo đức Phật giáo là một đường lối rất chú trọng động niệm và hiệu quả, bất luận người khác nói như thế nào và làm như thế nào đều là một lối. Ngược lại, như riêng tư, tự lợi, tạp niệm nảy sinh, thì bất luận người khác nói nhiều, đẩy đưa nhún nhường động tiếng thế nào cũng đều là giả, đây là nguyên tắc cơ bản của đạo đức Phật giáo cân lường.
Năm giới, mười thiện nghiệp của Phật giáo là cùng với luân lý xã hội và pháp luật Quốc gia gần giống nhau, cho nên vấn đề lý tánh nhân từ thuần khiết, là tập trung tinh hoa đạo đức xã hội loài người, mọi người có thể làm được năm giới, mười thiện nghiệp của Phật giáo cũng có thể đạt đến tư tưởng đẹp, hành vi hay, thế nầy quan hệ người và người cũng sẽ hoà mục và an khang. Đạo đức Phật giáo, chủ yếu là vưng làm năm giới, mười thiện nghiệp, khiến cho hoàn thành một con người tốt lương thiện.
Năm giới là: không sát sinh - trộm cắp - không tà dâm - không nói vọng - không uống rượu.
KHÔNG SÁT SINH
Luận Đại trí Độ nói: “Trong các tội nghiệp, sát nặng nhất; trong các công đức, không sát thứ nhất”. Động vật bay lên trời, bơi trong nước, có bản năng sinh tồn của nó, có tự do sinh tồn của nó; Con người tại sao tự tàn sát nhau? Hoặc vì miệng thèm giết nó để ăn, tạo thành “oan oan tương báo” thời gian không thể không kết.
“Không tranh giành” thì chẳng thể sát sinh, lấy tâm bình đẳng mà đối đãi với chúng sinh thì chẳnh thể tranh giành; nếu khởi lên cái niệm ta mạnh hơn người, ta làm hơn người, ta lớn hơn người thì sát sinh cũng là nhân ở nơi tâm tranh chấp mà tác quái, một khi tranh chấp thì sẽ mày chết tao sống... chết và bị thương vô số.
KHÔNG TRỘM CẮP
Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy rằng: “A Nan! lại nữa thế giới, sáu đường chúng sinh, tâm không trộm cắp, thì không nuôi lớn sự tương tục sinh tử. Ông tu Tam Muội vốn ra khỏi trần lao, tâm trộm nếu không trừ thì trần lao không thể ra. Dù có đa trí và thiền định trong hiện tiền nếu như không dứt trộm cắp, thì quyết phải rơi vào tà đạo”.
Của không cho chẳng lấy, là nói chẳng chuyên chỉ trộm cắp tài vật của người khác, tức là ở nơi tâm hành sự có loại giống như trộm cắp ấy, cũng gọi là trộm cắp: như lời nói và việc làm dối trá khác là: Phỉnh dụ mê hoặc người không biết, mong lấy lợi dưỡng, tổn người lợi mình, cậy thế lấy tiền của, dùng kế mưu của v.v...
“Không tham” thì không thể trộm cắp, vì sao phải trộm cắp tiền của người khác? Tức là do vì tham. Nếu người không có tâm tham, thì kể ra người ta cho anh, anh cũng không cần, cho nên cần phải đem tâm tham mà trừ bỏ mới không thể trộm cắp.
KHÔNG TÀ DÂM
Đức Phật chế cho hàng đệ tử tại gia, nếu không phải là vợ chồng hợp pháp thì tuyệt đối nam nữ không thể hành dâm – chẳng dâm, là chẳng riêng chỉ hành dâm mà nói, lại còn bao quát niệm dâm khởi lên trong tâm, lời dâm ở nơi miệng nói. Vì dâm là cội rễ của vạn vật sinh tử. Người học Phật tu hành thì cần phải đoạn dứt dâm! dâm không đoạn thì Phật đạo không thành!
“Không cầu” thì chẳng thể có tâm dâm, tâm dâm dục tức là cầu cái sở hữu, nữ cầu người yêu nam, nam cầu người yêu nữ đều là cầu khác tính không chỉ rịêng cầu lại còn “truy” cầu; Giả như không cầu thì dâm thế nào?
Trong kinh Lăng Nghiêm nói “dâm” là giới đầu; Người tu hành không thể đoạn trừ tâm dâm và việc làm dâm, thì không cách nào đoạn trừ cội rể sinh tử. Nhân đây không luận người ta tinh tấn tu hành như thế nào, tuyệt đối không cách nào ra khỏi ba cõi. Dẫu người nầy khéo nói pháp yếu, có biện tài, hiện tiền thiền định hữu lậu, anh ta vẫn là qua lại với ma quỷ, không những Tam muội chân thật (định) không thể hiện tiền, ngược lại lấy trí thiền nuôi giúp tâm dâm khiến dâm tăng trưởng lẫy lừng, rốt rồi khiến mình rơi vào ma đạo. Kinh nói rằng:
“Cho nên A Nan! nếu không đoạn dâm, tu hành thiền định, như đem cát đá muốn nấu thành cơm, trải trăm nghìn kiếp, chỉ là cát nóng. Bởi vì sao vậy? Chẳng phải gốc cơm, mà là cát đá thành vậy. Ông lấy thân dâm, cầu diệu quả Phật, dù cho được ngộ, đều là rễ dâm, cội rễ thành dâm luân hồi ba đường quyết chẳng ra khỏi: Như Lai niết bàn, đường nào tu chứng? Phải khiến thân tâm, cơ dâm đều dứt, tánh dứt cũng không, Bồ đề chư Phật có thể cầu mong. Lời ta nói đây, gọi là Phật nói, không như đây nói, tức Ba tuần (Ma vương) nói”.
Trên đây là đức Phật đối với người không như pháp, không như luật mang lấy dâm mà tu hành, vốn mong tu chơn, ngược lại thành ma nghiệp, sau khi mệnh chung, ắt phải rơi thứ nhứt ma đạo mà Ngài dạy răn phải sáng suốt xét nét thanh tịnh. Bốn chúng Phật tử muốn cầu thành tựu đạo nghiệp đối với lời dạy răn của đức Phật, lý phải tin thọ phụng hành, như vậy mà tu hành.
KHÔNG NÓI VỌNG
Lời nói rỗng vọng là nói mà không có tin, không xuất phát từ hư vọng vậy. Nếu thấy nói không thấy, không thấy nói thấy: lấy hư làm thật, lấy thật làm hư: lấy có làm không, lấy không làm có: Phàm là tâm và miệng không tương ứng nhau, muốn lừa dối với người, đều là như vậy cả.
Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật nói rằng:
“A Nan, như vậy thế giới sáu đường chúng sanh, tuy thân tâm không có báo của sát – đạo – dâm, ba hành nghiệp đã mãn, như nếu đại vọng ngữ, tức là “Tam ma đề” không được thanh tịnh, thành thọ kiến chấp ma, mất đi hạt giống Như Lai”.
Thế nào gọi là đại vọng ngữ? Là tự mình chưa đựơc Bồ đề vọng nói tự mình đã được Bồ đề, mình chưa chứng niết bàn vọng nói đã chứng niết bàn. (chưa được nói là được, chưa chứng nói là chứng), giả Phật lộn xộn mê hoặc chúng sinh đời sau, hoặc giả được quả vị Bồ tát... đó là ma ba tuần, là tạo đại vọng ngữ.
“Không tư riêng” thì không thể dấy lên lời nói vọng. Mọi người nói vọng cũng nhân vì sợ mất đi lợi ích của chính mình, tâm riêng tư tác quái cho nên nói dối lừa người, muốn khiến người không nhận biết mình.
KHÔNG UỐNG RƯỢU
Các loại rượu một ngụm cũng không nên uống, uống một ngụm thì sẽ có ngụm thứ hai, rồi tiếp ba, bốn... khói cũng không nên hít, đồ độc cũng không nên ăn dùng.
Uống rượu là một phương thức giao tế của người hiện đại, nhân uống rượu mà sự việc lầm lạc so ra đều như thế, từ rất sớm hơn hai nghìn năm trăm năm trước trong kinh điển Phật cũng đã rõ ràng nêu chỉ chỗ xấu của uống rượu, ngày nay xem ra chỗ nói đó không phải hư rỗng. Uống rượu xong mà niệm Phật tụng kinh, ngang với không tụng không niệm, không thể không biết.
“Không tư lợi”, thì chẳng thể phạm giới rượu. Người ta vì sao phải uống rượu? Tức là muốn mê loạn thân tâm mình, làm cho nó mơ mơ màng màng, làm cho tự mình thành tiên, thành thần, tiêu diêu ở trên trời. Uống rượu say sẽ chửi người cho rằng là việc muốn làm, lại tăng trưởng dâm dục, lại muốn dùng rượu để giúp cho huyết khí lưu thông nhanh một chút, uống rồi quên đi tất cả, như hít vào rồi chẳng phải mạng khác mà một kiểu phiêu phiêu. Đây đều là tâm tự lợi tác quái, cho nên không uống rượu.
Đức Phật nói: “Ba nghiệp thân - miệng - ý làm ác, chỉ rượu là căn bản”. Uống rượu say loạn, tâm không chừng mực, dùng phung phí vô độ vậy. Đó là cửa của các bệnh, gốc của đấu tranh. Cho nên các loại rượu đều không nên uống.
Đức Phật nói: “Người uống rượu có sáu việc tổn thất: tài vật dể tổn thất, dễ sinh bệnh, ưa thích đấu tranh, chuốt bày tiếng xấu, dễ giận dữ táo bạo, càng lúc càng không có trí tuệ”.
Kinh Ưu Bà Tắc nói rằng: “Nếu lại có người ưa uống rượu, người đó hiện tại thường mất của, thân tâm nhiều bệnh, thường thích đấu tranh, tiếng xấu nghe xa, tản mất trí tuệ, bị xấu nhan sắc và sức lực, chỗ làm đáng trách tất cả, người ta không ưa gặp, không thể tu thiện, đó gọi là báo ác hiện đời của người uống rượu.”
10. MƯỜI THIỆN NGHIỆP
A. PHẬT NÓI KINH “THẬP THIỆN NGHIỆP”
Tín đồ Phật giáo báo ân hoằng pháp cần phải từ mười thiện nghiệp bình thường làm lên. Mười thiện là tôn chỉ lớn, hạnh môn của Phật giáo. Chúng sinh thăng trầm nơi sáu đường, đã thấy sự nhẹ nặng của thiện ác để mà xét đoán: Thánh hiền trải qua ở tam thừa cũng lấy sự cạn sâu tu thiện diệt ác làm chổ quyết định. Do đây thấy rằng pháp “mười thiện nghiệp” là sự cân nhắc thánh phàm cao thấp, kim chỉ nam cho cuộc sống của Phật tử.
Đạo mười thiện nghiệp, đã là căn bản của tất cả thiện pháp, thì bất luận làm người hoặc sinh ở cõi trời, thậm chí cần quả thánh ba thừa xuất thế, đều phải lấy mười thiện nghiệp làm cơ sở, nhiên hậu từng bước từng bước tiến lên, thì có thể đạt đến quả Phật tối cao.
Gốc làm người ở nơi mười thiện, nguồn thiện cũng ở nơi mười thiện, và cơ sở của năm thừa cũng ở nơi mười thiện.
Chúng ta cần phải làm việc thiện, tốt nhất có thể hiểu rõ định nghĩa của thiện, như mà đối với chân nghĩa của thiện không rõ, thì có lúc điểm xuất phát là thiện, nhưng kết quả ngược lại việc làm ra và thiện trái nhau, thực tại nầy thật là không sửa đổi được.
“Thiện” căn cứ sự chỉ bày của Đức Phật cho chúng ta, định nghĩa đó có thể từ ba phương diện nói ra:
1/ Từ sự động niệm của tâm mà nói:
Sự thuần khiết và không thuần khiết của hoạt động tâm lý. Hoạt động tâm lý thuần khiết là không có phiền não xen lộn ở bên trong mà chỉ cùng với thiện tâm: không tham, không sân, không si, tàm và qúi tương ứng, tức là việc thiện. Ngược lại mà nói, hoạt động tâm lý tạp nhiễm không thuần khiết, thường cùng với các phiền não: tham, sân, si, mạn, tà kiến, không tàm, không quí trói buộc nhau, tức là ác; phân biệt thiện – ác, hoàn toàn là xem sự thanh tịnh hay không thanh tịnh của nội tâm.
2/ Từ sự ảnh hưởng của hành vi mà nói:
Chúng ta biết rằng, giữa người và người đều có sự tương quan, nhơn sự biểu hiện của bất cứ hành vi nào đều sẽ ảnh hưởng đến các người khác, từ ảnh hưởng tốt hoặc xấu đó, thì có thể phân biệt thiện hoặc ác. Cho nên sự thiện ác của hành vi chủ yếu là sự lợi hại của ảnh hưởng xã hội mà phân biệt.
3/ Từ sự trước sau của thời gian mà nói:
Người đời một số chỉ coi trọng hiện thực, nắm lấy hiện thực, nhưng Phật pháp giảng rằng: Không những có thời gian hiện tại mà còn có thời gian vị lai, làm người không thể nhìn ngắn ngủi chỉ có hiện tại thôi. Nên còn phải nghĩ đến vị lai, như một khi nghĩ đến vị lai, thì hành vi hoạt động của hiện tại cũng không dám tùy tiện. Hành vi hoạt động của chúng ta là chẳng những đối với hiện tại, mà vị lai cũng đều có lợi ích. Như vậy tức là thiện. Giả sử cho rằng chỉ đối với hiện tại có chỗ tốt đẹp, nhưng đem phương pháp không chính đáng cầu được sự đầy đủ trên cuộc sống hiện tại, mà đối với sinh mạng sống mới của vị lai không những không có chổ tốt đẹp mà ngược lại cảm đến sự đau khổ rất lớn, tức là ác.
Nghiệp tức là hành vi, tức là ước nói động tác của thân tâm, song mỗi một động tác của hành vi thân tâm sau khi qua đi, không phải qua đi thì nói xong, ắc còn có sự lưu giữ lại năng lực; Phật pháp nói là “nghiệp lực”. Cho nên chữ “nghiệp” nầy, ở trong Phật pháp là ước giảng hai phương diện: một là ước nói ở ngay nơi hoạt động, hai là ước nói sau khi hoạt động chỗ lưu lại lực dụng. Nghiệp dụng lúc động làm, trở thành quá khứ rất mau; nghiệp lực giữ lại, trải qua trăm nghìn kiếp đều không mất. Đưa ra ví dụ để nói, như tôi đánh anh một cái, hoặc chửi anh một câu; hoặc đánh hoặc chửi đều là một món nghiệp dụng, đem năng lực đánh chửi này lưu giữ lại, lại là nghiệp lực. Nghiệp lực cũng giống như chủng tử (hột giống) mà người ta nói, chủng tử trước lúc chưa bại hoại, không luận đến lúc nào, chỉ cần có trợ duyên (đất, nước...), tự nhiên sẽ phát sinh ra mầm; “nghiệp” của chúng ta thu chứa ở trong đó, gặp được nhân duyên nào đó, tất nhiên cũng sẽ cảm thọ riêng một mạng sống mới.
Do đây, chúng ta đối với hành vi sở hữu của mình, đều phải tự mình gánh vác trách nhiệm, không phải bởi vì làm rồi thì tính rồi, nếu anh tự cho là xong rồi, nghiệp lực có thể không chịu tha thứ cho anh, đến lúc tương đương, nhất định sẽ tính sổ với anh, quyết không thể dễ dàng buông tha.
Nghiệp, không phải là túc mạng luận, tuy nhiên đối với hiện tại có chỗ ảnh hưởng, ngược lại không thể chi phối. Nghiệp, cũng giống là hạt giống (chủng tử), một ngày kia phát mầm thành thục, thì ắt phải kết quả. Đạo lý của nghiệp rất đơn giản, tức là “phép tắc nhân quả” mà thôi.
Cung kính ghi chép (trích) từ trong “Kinh Phật nói đạo mười thiện nghiệp”:
“Pháp này tức là đạo mười thiện nghiệp. Thế nào là mười? Nghĩa là có thể trọn xa lìa: sát sinh, trộm cắp, tà hạnh, nói vọng, hai lưỡi, miệng ác, lời nói chiều uốn, tham dục, sân nhuế, tà kiến (ngu si).”
Từ sát sinh đến tà kiến, thông thường gọi là mười ác, hoặc con đường mười ác nghiệp. Nay đây trên mỗi ác nghiệp, lại thêm hai chữ vĩnh ly (vĩnh viễn rời xa), tức là vĩnh ly sát sinh... đến tà kiến, đó tức thành là mười thiện. Cho nên trong đoạn kinh văn này, chúng ta cần phải biết hai chữ rất trọng yếu đó là “vĩnh ly”. Đương nhiên, vĩnh ly kiểu này là bậc thánh mới có thể làm được, không phải chúng ta một hạng phàm phu có thể làm được. Tuy là như vậy, chỉ cần chầm chậm học, thường thường tu, từ nay không làm việc sát sinh... cho đến tà kiến, tóm lại có làm thì có một ngày “vĩnh ly”.
B. THẬP THIỆN NGHIỆP
Không sát sinh
- Không trộm cắp
Không tà dâm.
Không nói vọng
_ Không nói hai chiều
Không nói ác
Không nói thêu dệt
- Không tham dục
Không sân nhuế
Không tà kiến (ngu si)
Thế nào gọi là sát sinh? Cắt đứt mạng sống là sát, có tình gọi là sinh; dứt đi sinh mạng của loài hữu tình gọi là sát sinh. Phàm là động vật có sinh mạng: bay trên không trung, chạy trên đất, bơi trong nước, bất luận là lớn hay nhỏ, trên từ chúng ta, dưới từ côn trùng nhỏ nhít, đều không thể có ý sát hại, hoặc khiến sảy thai, tự sát, cũng là sát sinh. Bất luận là dùng phương pháp công cụ nào, dù trực hay gián tiếp đến nỗi khiến cho sinh mạng của loài hữu tình tử vong gọi là sát sinh.
Thế nào là trộm cắp? Của vật công cộng, của vật riêng người, không luận là nhiều hay ít, lớn hay nhỏ, không được xâm chiếm, chưa trải qua sự đồng ý của họ, không cho mà tự lấy, gọi là trộm cắp. Vấn đề trộm cắp trên xã hội, có khi trực tiếp, có lúc gián tiếp, có hình thức hoặc không hình thức. Thí như ăn trộm, ăn cắp, cướp giật là trực tiếp; tham ô nhận hối lộ, chiếm dụng của công, riêng nuốt tiền của của người khác là gián tiếp; trói buộc dối gạt lấy, mạo phạm nhờ đỡ công việc là có hình thức; giả công giúp tư, “nuớc đục thả câu” là không hình thức. Tóm lại, không cho mà tự lấy, hoặc dùng thủ đoạn không chánh đáng mà đoạt lấy tiền bạc của cải, đều là trộm cắp.
Thế nào là tà dâm? Tình nhiễm phóng đãng, giao cấu ô uế gọi là “hạnh bất tịnh”. Ngoài vợ chồng chính thức ra, có bất kỳ hành vi dâm uế nào, làm loạn quan hệ nam nữ, phạm hạnh bất tịnh, thì gọi là tà dâm. Đồng tính cẩu thả giao hợp, tự an ủi cũng thuộc về tà dâm, niệm dâm trong lòng khởi lên, miệng nói lời dâm cũng là tà dâm.
Người tu hành có nam có nữ, thì cần phải đoạn dâm, sự liên tưởng đều không nên nghĩ đến, vợ chồng chia phòng mà ngủ. Tu hành như vậy không dứt được dâm, thì phẩm vị vãng sanh cực lạc cũng không thể cao được.
Không dâm dục, là người tu hành có niệm đầu không dâm dục, như có mảy mún niệm tưởng dâm dục, thì không thể vượt khỏi ba cõi, mà vẫn ở trong luân hồi chịu lấy sinh tử. Ý niệm dâm dục này, tức là cội rễ của sinh tử. Nếu có thể đoạn được nó, bèn ra khỏi ba cõi mới có thể chứng quả thành Phật.
Một bệnh sắc dục cũng đã nêu lên bệnh chung của người đời. Chẳng riêng gì người trung căn, hạ căn bị sắc mê hoặc, mà người thượng căn nếu không tự giữ gìn chiến đấu, thiếu cẩn thận ở niệm, thì khó khỏi bị sự mê hoặc. Thử xem từ xưa đến nay bao nhiêu hào kiệt vượt trội, cố gắng làm thánh hiền, chỉ do phá không được cửa này, trở lại làm kẻ hạ ngu thấp hèn, lại còn vĩnh viễn rơi vào đường ác, bởi vì khó thắng số. Người tu hành vốn là ra khỏi sinh tử, nếu không gắng trừ bệnh này, thì cửa sinh tử khó ra khỏi. Tức là pháp môn niệm Phật, tuy mang nghiệp vãng sanh, nhưng nếu tật dâm kết chặt thì là cách xa với Phật, khó ở việc “cảm ứng đạo giao” vậy. Phải cố gắng trừ sạch tập khí ác nghiệp, mới có thể có phần tự do.
Người tu hành không nên có tư tưởng tình ái, càng không thể có hành vi tình ái, đối với bất kỳ người nào không nên sinh ra tâm tình ái; có tình ái thì rễ khổ không dứt, có tình ái thì sinh tử không thể mất. Có người nói “Con người là động vật có tình cảm, cho nên có tính dùng sắc chất”. Bởi do thế này nên cần tu hành.
Giả như anh có thể buông bỏ một cách triệt để tất cả sắc dục, như thế thì một cái xong tất cả đều xong. Anh hùng hảo hán trong thiên hạ cho đến kẻ tu hành, không biết bao nhiêu đều bị cửa sắc đẹp làm mê. Những vấn đề trên thế gian và phiền não cũng gốc là ở đây.
Đối với việc sắc tình, chưa thấy thì không nên nghĩ, thấy thì không nên tưởng, đã thấy thì không được loạn. Nếu xem, nghe, nghĩ, tưởng, tâm niệm khởi lên, tánh hiền xung động, vượt qua nghĩ tưởng và xung động, thì lửa dục đốt thân, muốn không phạm giới cũng không thể được. Cho nên chưa thấy thì không nên nghĩ, thấy rồi, nghe rồi thì không nên tưởng, càng không được có động tác, nếu tâm niệm khởi lên tức liền quở trách, thì không muốn vào chỗ si quấy. Nếu sinh lý xung động, thì nghĩ tưởng lúc tức giận hiện tướng hung ác, lúc bệnh hoạn hiện tướng suy bại, lúc chết hiện tướng khó nhìn, từng việc quán sát chắc chắn. Như thế chỉ cần cấu uế đờm tửa, lông tóc răng móng, xương thịt máu mủ, mọi thứ gớm nhờm giống như tử thi, dơ như nhà xí; ai đối với vật này mà sinh tham ái? Tham ái đã dứt, niệm dục tiêu mất, tâm địa thanh tịnh; không nên nghĩ tới sắc đẹp của nó, chỉ nghĩ đến chỗ xấu xa của nó, như vậy tánh dục không thể xung động được.
Dâm dục dễ sinh ra sự đố kỵ, chê bai người khác, chiếm hữu, vướng mắc, ân oán, tranh giành quấy rối... những tranh chấp và phiền não, ngăn ngừa thì đẩy lùi đi được nhiều phiền phức, vui được yên ninh. Dâm dục dễ phát sinh quan niệm gia đình, gia quyến; từ đó sinh ra niệm quan hệ, riêng tư, trói buộc, gánh vác, kết tình, làm phương hại cho việc tu hành. Ở thế giới này, dục lạc là cội rễ luân hồi của chúng ta nhập thai.
Thế nào là lời vọng? Miệng phải mà tâm trái, dối gạt không thật, điên đảo trắng đen, lộn xộn thị phi, nói chung đều là lời nói vọng.
Thế nào là lời nói ác? Đem lời thô bạo, ác độc, tổn thương người, khinh người, làm khốn đốn người, hơn người, lời ô uế... để chửi mắng nhục mạ người, làm tổn thương lòng người, lời trù yếm rủa quở, khiến người phát sinh áy náy lo lắng trong lòng, không thoải mái, sanh giận đều là ác khẩu. Đối với súc sinh cũng không nên chửi nó.
Thế nào gọi là nói lưỡi hai chiều? Tạo lời bịa đặt sinh sự, xúi dục thị phi, khiêu khích ly gián, ly gián cảm tình giữa người và người, khiến người kia – đây không hòa, gây chuốt oán; đó gọi là nói lưỡi hai chiều (đâm bị thóc, thọc bị gạo).
Thế nào gọi là lời nói thêu dệt? Nói lời dâm đãng tầm thường, nhơ uế không chánh, khêu gợi tình cảm, lời không ra gì, lời không ý nghĩa, lời ngon tiếng ngọt, cái đáng phê bình ngược lại khen đẹp, cái việc tốt đẹp lại đem phỉ báng, mỗi nơi một khác không hợp với nghĩa, những lời như thế đều gọi thêu dệt. Ba bốn người bạn tụ lại một chỗ, cao hứng bàn luận, vui cười đắc ý rất dễ phạm phải lời thêu dệt, phải nên cẩn thận.
Con người rất dễ bị phạm về nghiệp miệng. Cho nên đối với chúng sinh có lời làm tổn thương hại người, ngược đãi, ô uế, thô bạo, ác độc, nói lời dối gạt, nói khoác lắm lời, miệng tâm trái nhau, đều không nên nói; dẫu bị người cho là kẻ câm, cũng không nên làm tổn hại đến khẩu nghiệp.
Thế nào gọi là tham dục? Tham dục còn gọi là tham ái tham luyến. Chúng ta không chỉ yêu thương thân thể sinh mạng chính mình, mà còn yêu thương các món tài sản quyền thế, danh dự, người thân của mình, tham luyến không xả được. Không có muốn cho có, có rồi lại càng muốn có nhiều càng tốt; tại sao đều muốn có? Tại sao đều không đủ? lòng tham không bao giờ đủ, đó là tham dục. Vì thoả sự ham muốn chính mình, chỉ cần đạt được mục đích, bất chấp thủ đoạn, công lý thế nào, nhân tình thế nào quên hết.
Tâm tham khởi lên, ở ngay nơi lúc khởi tưởng về trước không có nó, không phải là sống tốt đẹp sao, vì sao quyết phải phí sức tranh cầu? Nghĩ vậy tâm sẽ tiêu mất.
Thế nào gọi là sân nhuế? Sân nhuế là phát giận, thịnh nộ, oán hận. Có chút ít không như ý thì phát giận, não phiền không thoải mái, trong lòng ôm lấy điều không vui, oán đây hận kia. Đối với người, sự việc, vật, lúc mà gặp mặt tất cả nghịch cảnh không như ý, thì sự giận ở bên trong phát ra bên ngoài, đó gọi là sân nhuế. Sân nhuế đối với người tu hành có chướng ngại chẳng nhỏ, có câu rằng: “Một việc ác phá chín việc thiện”.
Đang lúc gặp việc không như ý phải biết lúc cơn giận nổi lên, không nên nói, cũng chẳng ức chế, cũng không nên phát tiết ở trên thân người khác. Còn nói, giải quyết không xong vấn đề; ức chế thì sẽ làm tổn thương đến thân thể; phát tiết trên thân người khác thì tìm cái nhỏ mọn đối với anh, phát tiết trên thân thể họ, tức là anh làm tổn thương đến họ, đối với mình thì cũng chuốc lấy điều không tốt. Phẫn nộ là chất độc, thân thể cần phải chuẩn bị kháng cự, trong máu mủ đầy cả chất độc, nếu không được phát tiết ra ngoài, như thế sẽ chịu khổ, vì sự phẫn nộ đó tồn tại mà chẳng thể giận! Nay đây xin đưa ra một phưong pháp: Chầm chậm hít dài một hơi, ngước lên trời từ từ thở ra, như vậy làm vài lần, hoả khí liền tiêu mất; hoặc tìm một chỗ, một tay nắm cú đánh một cái, hoặc vẽ trên miếng giấy, hoặc vào trong phòng đánh bị bông, hoặc cái gối... để tiết lần khí giận. Phương pháp tốt nhất là: coi như gió bên tai, coi như đang biểu diễn ca múa, như nó đang tự chửi mắng nó, không nên lý sự với nó, không khởi tâm động niệm, khí sẽ không sinh khởi (không giận) được.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một niệm tâm sân khởi, trăm ngàn cửa chướng ngại mở”, “Lửa sân nhuế có thể đốt cháy rừng công đức”. Có thể chẳng sợ sao?
Thế nào gọi là tà kiến (ngu si)? Ngu si không phải là ngu thật, là có một chút thông minh nhỏ; bởi vì tư tưởng lầm lạc (tà kiến), tất cả kiến giải hoặc tập tánh không hợp lý, dẫn đến sự điên đảo trên hành vi, không rõ biết phải quấy, mặc tánh vọng làm, không rõ đạo lý, không tin chánh đạo, không tin nhân quả báo ứng, không tin Phật, Bồ tát, thần quỷ. Tự cho là phải, cuồng vọng tự đại, trong mắt không có người, kiêu căng ngạo mạn đó là ngu si.
Thập thiện nghiệp - không trái phạm, mới là thập thiện nghiệp (mười nghiệp thiện); trái phạm rồi thì là thập ác nghiệp (mười nghiệp ác). Tóm lại, phàm là việc tổn hại chúng sinh thì thân không nên làm, miệng không nên nói, ý không nên nghĩ.
Sau khi biết đạo lý của mười thiện nghiệp, thì không nên giống như kiểu trước kia làm việc theo chỗ muốn của tâm, ưa gì làm nấy; trước khi làm việc hay nói cần phải nên nghĩ là có tổn hại đến chúng sinh hay không, có vi phạm đến mười thiện nghiệp hay không?
Người tu hành phải tin Tam Bảo, biết nhân quả, giữ năm giới, làm mười nghiệp thiện và nhẫn nhục, đây là việc người tu hành quyết cần phải đầy đủ. Đức Phật do đó dạy bảo cho tín chúng cái việc hợp tình nhập lý, trừ phi người không muốn làm điều tốt, những việc này làm tiêu chuẩn phép tắc mới thành sự răn ngừa của con người.
Chúng ta làm con người không thể không nói đến luân lý, đạo đức và lương tâm. Mà mổ xẻ đạo đức hay không cũng là ở trên sự đoan chánh hay không của hành vi. Người có hành vi đoan chánh thì làm mười nghiệp thiện, người không có hành vi đoan chánh thì làm mười nghiệp ác. Một cái hành vi của nhân dân tốt là đoan chánh, huống chi chúng ta là Phật tử, là người tu hành.
Xa lìa vĩnh viễn mười nghiệp ác, nhất định sẽ được công đức rất nhiều.
Kinh chép rằng:
“Này Long Vương, nếu lìa SÁT SINH, tức thành tựu được mười pháp lìa não phiền. Thế nào là mười? 1. Đối với các chúng sinh khắp ban cho sự không sợ sệt. 2. Vì chúng sinh khởi tâm đại từ. 3. Vĩnh viễn xa lìa tất cả tập khí sân nhuế. 4. Thân thường không bệnh. 5. Thọ mạng dài lâu. 6. Thường được phi nhân thủ hộ. 7. Không có ác mộng ngủ thức vui vẻ. 8. Diệt trừ oán kết, các oán tự giải. 9. Không sợ đường ác. 10. Mệnh chung được sanh lên trời, đó là mười việc.
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa TRỘM CẮP tức được mười món tín pháp có thể giữ gìn. Thế nào là mười? 1. Tài sản chứa đầy, vua, giặc, nước, lửa không phải là con yêu, không thể làm tản mất. 2. Nhiều người yêu thích. 3. Người không khinh rẻ. 4. Mười phương khen ngợi. 5. Không buồn tổn hại. 6. Tiếng lành đốn khắp. 7. Ở trong chúng không sợ. 8. Tiền tài, sinh mệnh, hình sắc, sức lực đều an lạc, biện tài đầy đủ, không khuyết thiếu. 9. Thường ôm lòng bố thí. 10. Mệnh chung được sanh lên trời; đó là muời.”
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa TÀ HẠNH, tức được bốn món đức trí đáng ca ngợi. Thế nào là bốn? 1. Các căn điều hòa và thuận nhau. 2. Vĩnh viễn xa lìa ồn ào. 3. Người đời ngợi khen. 4. Vợ chẳng lấn quyền. Đó là bốn.”
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa NÓI VỌNG tức được tám pháp chư Thiên khen ngợi. Thế nào là tám? 1. Miệng thường thanh tịnh thơm mùi hoa Ưu Bát. 2. Làm các điều thế gian tin phục. 3. Phát lời nói chân thành chứng thật, trời người kính yêu. 4. Thường dùng ái ngữ (lời khả ái) an ủi chúng sinh. 5. Được vui thù thắng nơi ý, ba nghiệp được thanh tịnh. 6. Lời nói không sai lầm, tâm thường hoan hỉ. 7. Phát lời tôn trọng, trời người phụng hành. 8. Trí tuệ thù thắng, không có thế lực nào chế phục. Đó là tám.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu xa lìa LƯỠI HAI CHIỀU, tức được năm pháp không thể hại. Thế nào là năm? 1. Được thân bất hoại, không thể hại được. 2. Được quyến thuộc bất hoại, không thể phá hoại. 3. Được niềm tin bất hoại, thuận với gốc vậy. 4. Được phép hành bất hoại, sở tu kiên cố vậy. 5. Được thiện tri thức bất hoại, không đảo điên vậy. Đó là năm.”
“Lại nữa Long Vương, nếu lìa ÁC KHẨU, tức được tám món thịnh nghiệp. Thế nào là tám? 1. Nói không trái với chừng mức. 2. Nói đều là lợi ích. 3. Nói ắt hợp với lý. 4. Nói từ ngữ hay tốt. 5. Lời nói được thừa lệnh. 6. Nói ra thì được tin dùng. 7. Nói ra không cần bàn cãi. 8. Lời nói đều được yêu thích. Đó là tám.”
“Lại nữa này Long vương, nếu lìa LỜI NÓI THÊU DỆT, tức được thành tựu ba món quyết định. Thế nào là ba? 1. Nhất định làm cho người trí yêu thích. 2. Nhất định có thể dùng trí như thật để trả lời. 3. Nhất định có oai đức tối thắng đối với người – trời, không có hư vọng. Đó là ba.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu lìa THAM DỤC, tức có thể thành tựu năm món tự tại. Thế nào là năm? 1. Ba nghiệp tự tại, các căn đầy đủ. 2. Tài vật tự tại, tất cả oán tặc không thể cướp đoạt. 3. Phước đức tự tại, từ tâm ưa muốn, vật đều đầy đủ. 4. Vương vị tự tại, của báu cũng như vật, đều phụng hiến dâng. 5. Vật có được hơn cả mong cầu hơn cả trăm lần thù thắng do lúc xưa không lẫn tiếc vậy. Đó là năm.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu lìa SÂN NHUẾ, tức được tám pháp vui tâm. Thế nào là tám? 1. Không có tâm tổn hại não phiền. 2. Không có tâm sân nhuế. 3. Không có tâm giành giật. 4. Có tâm nhu hòa chất trực. 5. Được tâm từ của bậc thánh. 6. Thường làm lợi ích, an được tâm chúng sanh. 7. Thân tướng đoan nghiêm. 8. Vì bởi hòa nhẫn nên mau sinh cõi phạm hạnh (thanh tịnh). Đó là tám.”
“Lại nữa này Long Vương, nếu lìa TÀ KIẾN, tức được thành tựu mười pháp công đức. Thế nào là mười? 1. Được ý vui chân thiện, bạn bè chân thiện. 2. Tin sâu nhân quả, dẫu có hy sinh thân mạng quyết không làm điều ác. 3. Chỉ quy y Phật mà không phải các trời nào khác. 4. Trực tâm, chánh kiến, trọn xa lìa tất cả lưới nghi tốt xấu. 5. Thường sinh về nhân thiện, không quy về các đường ác. 6. Vô lượng phước huệ lần lữa tăng trưởng thù thắng. 7. Trọn lìa tà đạo, làm nơi Thánh đạo. 8. Không khởi thân kiến, xả các nghiệp ác. 9. Trụ nơi vô ngại kiến. 10. Không đọa lạc ở các nạn. Đó là mười.”
“Thập thiện nghiệp” nên cùng với “luật nhân quả” và “sám hối” đồng thời tu hành, sau khi rõ biết luật nhân quả thì không thể phạm mười thiện nghiệp; nếu phạm mười thiện nghiệp tức phải dùng sám hối càng giúp cho tâm linh sau khi phạm sai lầm mở được nỗi đau.
Giữ miệng, nhiếp ý, thân không phạm, như vậy hành giả được độ sinh.
Có thể nương nơi phương pháp mười thiện nghiệp thực tiễn là sáu pháp “Ba La Mật”, tu được sáu pháp Ba La Mật, mới càng thù thắng hơn.
11. SÁU PHÁP BA LA MẬT VÀ BỐN PHÉP NHIẾP
Ngoài ba học là: Giới - định - huệ, cộng thêm: bố thí - nhẫn nhục - tinh tấn, hợp thành sáu độ, cũng gọi là sáu độ Ba La Mật (sáu pháp Ba La Mật).
Chữ Ba La Mật là tiếng Phạn, nghĩa là “Đáo bỉ ngạn” (đến bờ bên kia). Người qua sông cần phải nương nơi thuyền bè mới vượt qua giữa dòng để tới bờ bên kia; người học Phật ở bờ sinh tử luân hồi, vượt qua dòng ở giữa là phiền não, đến bờ bên kia tịch tịnh Niết Bàn. Sáu pháp Ba La Mật thì có thể vượt qua biển khổ sinh tử luân hồi, đến được bờ bên kia giải thoát: Niết Bàn.
Hàng Bồ Tát của Đại thừa Phật giáo vì thành tựu Phật đạo tối hậu, quyết cần phải thực tế bước lên sáu pháp Ba La Mật. Mỗi một người tu hành học Phật, đều cần phải phát “tâm Bồ Đề”, đầu tiên đều cần phải tự mình đầy đủ thực tế, tích cực làm cho được hành vi: “tạo phước cho nhân loại, lợi ích cho chúng sinh”, mới có thể đạt được đầy đủ cho chính mình, chỉ muốn ngóng trông tìm cầu thì phiền não, thất vọng, đau khổ càng nhiều. Vì cần đạt được dục vọng chính mình, tự nhiên sẽ bất chấp mọi thủ đoạn đối với bên ngoài để tham cầu tất cả, do đó, cũng tạo nên nghiệp ác rất là nhiều, dẫn khiến phiền não, thất vọng, đau khổ tiếp tục đến; tóm quy một câu nói: đều là vì danh lợi hư huyễn không thật, phiền não thống khổ mang lại, cội gốc sanh tử mang lại. Song pháp môn “Lục độ Ba La Mật”, chính là Đức Phật vì chúng sinh giải thoát phiền não thống khổ, khiến con người đạt được cảnh giới lý tưởng an lạc: Niết Bàn; Đồng thời khiến con người thẳng đến thăng hoa cuộc sống tinh thần; Pháp môn này tu hành viên mãn sáu món, tự lợi lợi tha, thành công sự nghiệp.
Sáu pháp Ba La Mật: Bố thí - trì giới - nhẫn nhục - tinh tấn - thiền định - trí tuệ.
Bố thí có thể giải thoát độ được tâm “xan tham” của thân tâm. Trì giới có thể giải thoát độ được “tà hạnh” của thân tâm. Nhẫn nhục có thể giải thoát độ được “sân hận” của thân tâm. Tinh tấn có thể giải thoát độ được “giải đãi” của thân tâm. Thiền định có thể giải thoát độ được “tán loạn” của thân tâm. Trí tuệ có thể giải thoát độ được “ngu si” của thân tâm. Khiến người đạt được cảnh giới giải thoát “thật tướng vô tướng”. Cũng tức là: 1. Vô ngã tướng; không phải ngã là một cá nhân rất sai lạc và cứng cỏi, không phải chỉ biết có ngã mà không biết tâm trạng của người khác. 2. Vô nhơn tướng; trong cuộc sống hằng ngày, không có quan niệm cảm giác điểm đối lập người và ta. 3. Vô chúng sinh tướng; trong quá trình sinh hoạt, không thọ trở lại các món ái dục, dục vọng mê mờ, si ám, trói buộc, tạo các món nghiệp ác, thọ các món khổ, mà cuộc sống an ninh tự tại. 4. Vô thọ giả tướng; không đem sinh mạng ngắn ngủi tạm bợ hiện thời cho là vĩnh hằng, không đem sinh mạng vô thường hiện đời cho là thế giới trường cửu. Tìm đến mà phá trừ “ngã chấp, pháp chấp” của con người, đạt được cảnh giới: từ - bi - hỉ - xả, ngã - pháp cả hai đều không.
A. BỐ THÍ (vưng làm các điều thiện)
Trong đại thừa Phật pháp, vì sao bố thí được kể là đầu của sáu pháp Ba La Mật? Bởi vì bố thí là một hành vi có thể thăng hoa nhân tính, nó có thể phát sinh năng lực của sự vượt qua (gọi là ĐỘ); đem sự nhỏ mọn, cố chấp đóng kín, tật đố, bi quan mà vượt qua, đến bờ bên kia của sự nhiệt thành, thoải mái, rộng rãi, tri túc và giàu có.
Bố thí tức là phát tâm Bồ Đề, rộng lợi ích tất cả chúng sinh, giải thoát khổ nạn của chúng sinh, giúp cho chúng sinh an lạc.
Mục đích của bố thí: thương xót chúng sinh, vì khiến chúng sinh an lạc. Không ở việc mong cầu, không mong báo đáp, không ở nơi rộng thu lấy tiếng tốt xa bay.
Bố thí (làm thiện) cần phải thành tâm, không được phân chia đối tượng, oán thân, kia đây, ôm lòng nặng đây nhẹ kia, bố thí thế này thì không phải là bố thí.
Bố thí không khó, khó ở chỗ đạt được cảnh giới “thể của ba luân đều không”. Ba luân đều không là: không có cái “ta” bố thí; không có “người” thọ của bố thí; cũng không có “vật” được thí.
Bố thí tức là “thí xả”, vấn đề thí xả có nhiều phương diện, và chẳng cuộc hạn ở nơi nắm tiền bạc tài vật mà đưa ra. Tức là dùng trí huệ, học vấn, hoặc thể lực, năng lực của mình tuỳ thời tuỳ chỗ đều có thể giúp đỡ cho người cần chịu giúp đỡ.
Bố thí chia ra: tài thí, pháp thí và vô uý thí.
Bố thí tài (tài thí), đem năng lực tài sản của mình mà thí cho. Không chỉ là đem ra một ít tiền quyên giúp chùa chiền hoặc nhà nghèo khó, mà là cần phải ở trong sinh hoạt hàng ngày, mỗi niệm mỗi niệm vì người khác, không phải vì tự kỷ.
Bố thí pháp (pháp thí), đem Phật pháp giáo hoá dẫn dắt chúng sinh, khiến nhân đó mà được độ. Phàm là người khác muốn biết, muốn học tập, chỉ cần ta biết, ta có thể, thì nhiệt tình dẫn dạy họ. Không điều kiện, không kể trả công; nếu là có giá thay thế, thu phí dụng... như thế không phải là bố thí. Cho nên bố thí pháp không nhất định giảng kinh, nói pháp.
Bố thí không sợ sệt (vô uý thí), cứu độ khổ nạn cho chúng sinh, nên lấy tinh thần an ủi giúp đỡ, khiến họ xa lìa lo lắng, không sợ không hãi, trừ khỏi sự bất an.
Lúc thân tâm ở chúng sinh bất an, sợ sệt, lo âu, có thể giúp họ tiêu trừ được sự lo sợ, bất an của họ.
Bố thí là giữ thiện tâm, làm thiện hạnh. Thế nào là thiện? Tức là tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi, làm việc hợp với luân lý đạo đức của xã hội, luật pháp của quốc gia, không làm tổn hại đến tất cả chúng sinh, tâm giữ công chính, vui đối với việc giúp đỡ người, tức là thiện.
Giữ tâm làm thiện cần có tâm lợi ích chúng sinh, tâm ý cần chân chính thiết thực, lượng sức mà làm, bố thí bởi lòng từ tốt đẹp. Giả như nói ta không có trí tuệ lại không có năng lực, càng không có của tiền vật chất, làm sao mà thí? Ở nhà hiếu thuận cha mẹ, bên ngoài tôn thầy kính lão, hiếu đễ trung tín, kính trên hòa dưới, tâm giữ chân thành, hiền hậu, lấy sự ôn hòa nhẹ nhàng, nhân từ đáng mến, diện mạo hòa vui, thái độ cởi mở đãi người tiếp vật, rất ít xem đến thành công của người ta, hoặc làm việc thiện có thể sanh khởi tâm tuỳ hỉ, khen ngợi người khác, nhà người có việc xấu cần nên an ủi họ, đối với kẻ mất chí hướng nên nói lời khích lệ, đối với người buồn đau nói lời an ủi, như ở trên đường bắt gặp vỏ cây giấy vụn... kiểm tra nó, những việc này chịu khó động tay, kịp thời phục vụ lạc quan, đều có thể làm, không phải là thí cho bao nhiêu tiền, bao nhiêu vật mới là làm thiện. Chỉ cần giữ tâm thiện mới là thiện, không phải là làm được bao nhiêu thiện mới là thiện.
Chỗ làm được ít trên tiền tài, có thể mỗi tháng bố thí mười phần trăm chỗ được; chỗ làm được nhiều thì có thể bố thí nhiều, làm việc cúng dường tam bảo, in (giúp) kinh sách, phóng sinh, cứu giúp nạn gấp, kẻ nghèo, người bệnh, người cần giúp đỡ.
Đối với việc thí xả tài vật (hành thiện) cho người, đừng còn có một chút tâm hư vinh dứt không được, ôm giữ lấy tâm kiêu mạn, tự đại, tật đố, phải hoàn toàn phát tâm chân thành, đồng tình từ nội tâm. Như anh bố thí được một vạn đồng, có người khác chỉ bố thí được một trăm đồng, như thế anh sẽ cảm thấy chính anh so với người kia, người bố thí một trăm đồng, anh rất là to lớn. Có tưởng pháp kiểu này sẽ sinh ra tâm lý kiêu mạn tự đại, việc làm thiện của anh sẽ cùng với sự kiêu mạn xen lộn với nhau rồi. Ngoài việc bỏ tiền ra rồi, chúng ta phải chăng cũng nên xét nét hiểu động cơ tâm lý thái độ lúc làm thiện của chúng ta, có phải là chân chính có thể phát sinh ra công năng của “Ba La Mật” hay không? Hay là khiến cho việc làm thiện của mình ngược lại mà trở thành một cái duyên nhiễm, bất tịnh, tâm tham danh cầu công đức của thế tục đó là “nhiễm”, khiến cho người bố thí và người thọ thí đều không cách nào được đại lợi ích chân thành.
Sau khi bố thí lại sinh tâm hối hận, hoặc khoe việc làm thiện của mình, đây không phải là bố thí tốt nhất. Sau khi bố thí hoan hỉ trong lòng, vả lại không đem việc thí xả của mình để mà nhận lấy đối tượng thí xả, và đồ vật được thí dính mắc trong lòng, đây mới là bố thí đỉnh cao.
Chỉ cần lấy sự bố thí của tâm chân thành, dẫu là mười đồng, cũng hơn là công dức của trăm vạn đồng mà không chân thành. Bố thí không có tâm chân thành là vì cầu lấy công đức hoặc được danh tốt rộng rãi, dù cho bố thí mấy mươi vạn đồng cũng chẳng được công đức mấy mươi đồng.
Đại phàm nghĩ thiện làm thiện, người thường phần nhiều biết làm, muốn làm, nhưng nếu chẳng thể “tịnh không” ngã kiến, ngã chấp, ngã tham, ngã hận, ngã dục, ngã tư (riêng)... chứa nhóm thành kiến, thì gặp việc thường tình thấy trước mắt nhất là tâm riêng tư (ngã tư) làm trọng, nhân đầu mối tình cảm dấy động mà việc làm và chí nguyện trái nhau, nhân tu dưỡng chẳng đủ mà xử trí không thoả đáng, cái biết và việc làm khó đem mà phối hợp, chứa nhóm lại thường sanh khốn đốn buồn lo, ham muốn riêng tư thường trở ngại việc thiện, vọng niệm tăng thêm phiền não, cho nên nhờ “không quán” giúp cho việc tu dưỡng.
Niệm Phật cần tịnh tâm tịnh ý, xử sự cần phải tịnh tâm, đương nhiên mục đích của bố thí cũng phải cần từ trong tâm xả mà cầu tịnh tâm, xả được thì tịnh, không thể xả được thì nhiễm. “Chấp trước” là kẻ địch lớn của sự tu hành. Sau khi bố thí anh nên “tướng lìa tâm lìa”, không nên ôm giữ trong lòng sự tình đó, tâm mới có thể lìa, đây mới là ‘bố thí của vô tướng”. Nếu như anh làm việc bố thí nhiều năm, ở trong tâm vẫn còn một mực chấp trước công đức, như thế thì nên phải cẩn thận kiểm thảo trạng thái của tâm này.
Làm thiện, trong trăm việc thiện “Hiếu” là trước nhất, không hiếu thuận với cha mẹ, không thể nói là làm thiện. Làm người, con trai hay gái, phải nên phụng dưỡng kính thuận cha mẹ. Hiếu thuận cha mẹ mà chỉ lấy cơm áo, tiền bạc để lo là chưa đủ đâu. Hầu hạ mẹ cha cần phải cung kính, phải nhẹ nhàng, một lời nói một việc làm đừng khiến cho cha mẹ phải thương tâm khó lòng, cần phải làm cho cha mẹ sinh tâm hoan hỉ, việc chính đáng cha mẹ làm không nên ngỗ nghịch, cha mẹ dè răn không được trái ngược, dắt dẫn cha mẹ tin Phật, học Phật tu hành mới là báo đáp ơn cha mẹ chân chính.
Bỏ người nhà cuộc sống gian khổ, không đoái hoài mà đi làm thiện, chẳng được công đức.
Tu thiện như thế chia ra có: Chân thiện - giả thiện, dương thiện - âm thiện, thị thiện - phi thiện, bán thiện - mãn thiện, đại thiện - tiểu thiện, nan thiện - dị thiện.
Những món thiện này mỗi cái đều có mỗi đạo lý, ắt cần phải tiến tới mà giải rõ, chẳng như vậy, làm thiện mà không rõ lý, thì tự khoe mình làm được việc thiện, làm được công đức gì, như thế biết rằng không phải làlàm việc thiện, mà kỳ thật tạo hành vi xấu, uổng phí khổ tâm, không được chút tốt đẹp nào!
Thế nào gọi là chơn thiện – giả thiện?
Phàm làm việc có ích đối với người tức là chơn thiện (thiện chân chánh); chỉ cần làm lợi riêng mình, làm thiện như vậy tức là giả thiện (thiện giả dối). Làm thiện mà không có sở cầu, thiện mà lợi người mới là chơn thiện, như thế sợ rằng chửi người đánh người cũng kể là chơn thiện. Giả như chỉ vì lợi ích chính mình,tức khiến cho anh cung kính người khác, lễ nhường người khác, dùng của tiền thí cho người khác, giúp đỡ người khác cũng gọi là giả thiện. Cho nên gọi là loại người cố ý nói tốt, tạm gượng, dèm xiểm dối lừa đó vậy.
Tu hành trọng yếu nhất là xuất phát từ sự chân thành mà không có sở cầu, giữ tâm lợi ích xã hội quốc gia, làm cho tất cả chúng sinh tạo phước, làm thiện không cần báo đáp, không lộ bày dấu vết, việc thiện như thế là “chơn thiện”; làm việc thiện vì đại chúng xã hội, tất cả chúng sinh tạo phước mà mình còn muốn sự báo đáp tương đương, hoặc mục đích lợi ích nào đó, mưu đồ có chỗ được, đây là trong cái thiện có xen lộn với cái ác (thiện không thuần chất), không phải là chơn thiện. Thiện mà muốn người thấy biết, không phải là “chơn thiện”, ác mà sợ người biết mới là “đại ác”.
Thông thường con người là phàm phu mắt thịt, tục tình và tâm địa của họ không sạch sẽ, tức là vọng tưởng chấp trước còn rất nhiều, không có huệ nhãn, Phật nhãn, nhìn không rõ sự thật chân tướng. “Nhận thiện là ác, cho ác là thiện”, thiện ác đảo điên, đây cũng gọi là mê hoặc điên đảo, người thế này ở thế gian lại rất nhiều. Thế nào là chơn thiện? Chúng ta cần phải khảo sát cho rõ ràng từ tong tâm địa, mới biết mình hành thiện hay không. Thiện ác ở tâm địa, chứa thiện nhiều, lập công to đều là tu trên tâm địa, thuần tuý là lợi cho người giúp cho đời, không có lợi cho mình hay tâm riêng tư.
Thế nào gọi là dương thiện - âm thiện (Thiện bày ra ở bên ngoài - thiện ẩn ở bên trong)?
Phàm làm việc thiện mà người ta biết, thì là dương thiện; làm thiện mà không bị người ta biết thì gọi là âm thiện. Việc thiện của anh làm mọi người đều biết, người người nhìn thấy khen anh tốt, thì chỉ có thể rộng thu loại tiếng khen (danh dự), Khen tốt tức là phước, chính phủ biểu dương (anh là người tốt, làm được rất nhiều việc tốt), quả báo đều báo rất rõ ràng. Cho nên chư vị nên hiểu rằng, không luận là làm bao nhiêu việc thiện, bất tất phải để cho người khác biết, thì việc thiện vĩnh viễn chứa ở trong đó, mà không cầu báo hiện khởi, gọi là “tích đức”. Người khác biết rồi, thiện sẽ không chứa được, làm bao nhiêu thì báo trả bấy nhiêu, về sau quả thiện không còn chút nào, ngược lại tạo rất nhiều ác. Hành thiện mà không bị người khác biết, “âm đức’ trời ắt ban cho đức dày. Do đó dương thiện và âm thiện thì chỉ chia phân giữa sự sáng suốt và ám độn thôi.
Thế nào gọi là thị thiện - phi thiện (thiện phải - thiện quấy trái)?
Đã làm việc thiện tại sao lại có việc phân ra “thị thiện” và “phi thiện”? Phàm người làm thiện không luận sự hiện hành mà luận sự dẫn đến cái xấu, không luận nhất thời mà luận dài xa, không luận một thân mà luận thiên hạ. Trước mặt thấy là thiện, trên thực tế chẳng là thiện. Đối với một người là thiện, đối với nhất thời là thiện; mà đối với quốc gia xã hội là phi thiện, đối với đời sau là phi thiện. Cho nên đối với thiện – ác không thể chỉ xem hiện hành trước mắt, cần phải hiểu được ảnh hưởng đối với quốc gia xã hội, đối với hậu thế lâu xa về sau, là mặt chính hay là mặt trái. Hiện hành giống như thiện, kỳ thật kết quả đủ để hại người, thời in tuồng là thiện mà thật thì phi thiện, kết quả đó có ích cho đại chúng, thì tuy là chẳng phải thiện mà thật là thiện.
Nêu lên một ví dụ có thể hiểu thông, như không nên khoan dung tha thứ được, khen ngợi người khác quá đáng, vì giữ tín nhỏ mà sai lầm đại sự, sủng ái con cái mà dung dưỡng đại hoạn... đều gấp mong chúng ta lắng tịnh kiểm thảo mà cải tiến.
Thế nào gọi là bán thiện - mãn thiện (thiện một nửa - thiện đầy đủ)?
Bố thí trăm nghìn vạn đồng, nhưng tâm ý ngược lại không chân thành; Bố thí một hai chục đồng, nhưng tâm ý chân thành; Lấy đây làm thí dụ, thì là trăm nghìn vạn đồng kia là “bán thiện”, một vài chục đồng đó là “mãn thiện”. Thí như đem của tiền mà giúp đỡ cho người khác, không phải ở nơi tiền nhiều hay làm nhiều, mà là thành ý nơi chân tâm, hết lòng hết sức mà làm, tức là mãn thiện; Nếu bố thí của tiền mà lòng xót xa, thi ân mong báo đáp, hoặc có mưu đồ, thí tiền mà không quên được, như thế dẫu cho thí trăm nghìn vạn đồng, cũng chỉ có một nửa thiện mà thôi!
Thế nào gọi là đại thiện - tiểu thiện?
Lập chí làm việc thiện lợi ích cho chúng sanh, quốc gia xã hội, thì thiện tuy nhỏ mà công đức lớn, nếu chỉ vì lợi ích cho mình hay gia đình, như thế tuy lớn mà cũng là nhỏ.
Thế nào gọi là nan thiện - dị thiện (Thiện khó làm - thiện dễ làm)?
Cũng giống như tu thân khắc kỷ, cũng cần khắc phục từ chỗ khó khắc phục, thì lỗi lầm nhỏ cũng không thể phạm. Như mười năm tích góp nhịn ăn nhịn tiêu, trả nợ thay cho người khác, cứu sống vợ con người ta, ở trên nói việc dốc túi giúp nhau, nghĩ tưởng người khác, vì việc người khác nghĩ tưởng, đây là vấn đề tốt có thể nói là khó xả mà có thể xả, việc thiện này rất khó làm mà rất đáng quý, mà phước cũng rất là hậu. Người có tiền tài thế lực, làm việc thiện rất là dễ, dễ mà không chịu làm, tức là thiện dễ làm mà không làm thì giàu mà bất nhân.
Bàn về cái thiện, lấy “chủ nghĩa công lợi” là điểm xuất phát, làm bất kỳ việc thiện nào, trước tiên xét cái gốc thành công hiệu quả tác dụng, quả báo và danh lợi..., xác nhận sự thu hoạch được, rồi mới làm; hạng người này không phải bình thường vô cớ cho anh của tiền, họ nhất định có mưu đồ rồi.
Thiện - thương người như mình; do hạng người này đã phá trừ được “ngã chấp”, cho nên có thể quên mình, mà đạt đến cảnh giới thương người như mình, nhưng vì họ chưa phá trừ “pháp chấp”, cho nên lúc làm việc thiện, trong tâm vẫn còn có quan niệm trừu tượng, vì họ mang lấy danh - tướng, cho nên chưa làm được sự tự tại tuyệt đối.
Thiện - rất hoàn mỹ; làm thiện không những không cầu đáp trả, mà còn không phân biệt người và ta, thậm chí cũng không gánh vác bất kỳ một danh – tướng nào. Tâm từ bi của hạng người này là không có điều kiện mà không có hạn lượng. Vì lúc họ hành thiện, ngay cả một chút danh tướng mang lấy cũng không có, cho nên rất chân thành, rất tự nhiên, cũng rất là vui vẻ, đây tức là cả ba vòng cái thể đều KHÔNG (tam luân thể không).
Người bước đầu học Phật hành thiện, thì khó tránh khỏi sẽ có chấp trước, đợi sau khi công phu tu dưỡng thuần thục, thì có thể vượt qua sự trói buộc và dẫn dắt của danh tướng.
Lớn hay nhỏ của thiện nghiệp đều xem nơi gốc trình độ trong sạch chân thành của tâm con người mà định. Như tâm có thể chân thành trong sạch đến cực điểm (tức là dừng ở nơi chí thiện), không có một chút cặn bã, tức là đại thiện. Nếu tâm không trong sạch, dừng ở nơi tính toán gọi là tiểu thiện. Ví như người giàu có bố thí tiền làm việc thiện, hết sức xuất ra mấy trăm vạn đồng, nếu có một chút ơn huệ bố thí nào mong được báo đáp dù là tiếng khen, tâm cầu phước làm công đức đó, nhân thiện cũng không chân thành thiết tha, như có một người khác, của tiền ít ỏi, chỉ có thể thí vài mươi đồng, thuần tuý phát ra từ tâm từ bi, không xen lộn mảy may một ý niệm khác, thiện nghiệp của người này so với người kia, người mà xuất ra mấy trăm vạn đồng, thì người này lớn hơn nhiều. Nhưng cái tâm rất chân thành thanh tịnh này nói đến rất khó. Cho nên tâm thiện chơn thiết, một việc làm có thể muôn việc thiện.
Thiện mà có tướng tức chẳng phải chí thiện. Cho nên nói rằng người dừng được ở nơi chí thiện, vô niệm vô tướng, mà từng giờ từng phút vẫn không lìa tâm đại bi, không xen lộn tâm tư kỷ, tức là “không giữ ở nơi tướng, như như chẳng động” ở trong kinh đã nói.
Hơn muôn việc hành trì của Đức Phật dạy, lấy bố thí làm thứ nhất. Thí tức là xả, tức là làm thiện; người hiền minh ở trong xả sáu căn, ở ngoài xả sáu trần, tất cả đều có thể xả, thông thường con người đương nhiên làm không được cảnh giới này, thế thì làm thiện không nên mong muốn làm lợi mình mà phải mong muốnvì lợi người, lợi chúng sinh thì bên trong có thể bỏ trừ căn tánh hạ liệt so kè riêng tư, bên ngoài có thể giúp người nạn gấp, thì đem công vốn có đối với việc làm thiện mà tu trì. Tuy nhiên ban đầu sẽ cảm thấy miễn cưỡng, nhưng lần lần thì sẽ cảm thấy tâm lý yên ổn.
Nói rõ bố thí là giúp đỡ người khác, thật ra vì mình, bởi vì anh làm cái gì thì thu hoạch cái ấy. Của tiền anh bố thí càng nhiều, chính anh cũng càng có thể thăng hoa cuộc sống tinh thần, “chánh nhân” là làm việc thiện bố thí rồi, do đây chỗ được mới là giàu có chân chánh (chánh quả); cho nên nói là bố thí có phước hơn thọ dụng, tiến đến mới có thể hiểu rõ một cách thuận lợi và “trì giới” một cách thực tiễn.
Cái mà anh giao ra có hình hay vô hình mà sự thu hoạch nhìn không thấy; anh bố thí rồi một khoảng thời gian, như con cái trái lời, thì đã ít phiền anh, nhà người cũng lễ độ đối với anh, làm việc cũng dễ dàng nhiều... Anh nói: tiền của tôi không đủ xài lấy đâu bố thí? Nếu như anh có thể tiết kiệm một chút, tính nhập để mà xuất, lấy một gia đình mà dự toán, trừ những phí dụng tất yếu trong sinh hoạt ra, cái gì đang dùng thì dùng, phải nhón gọn lại thì nhón gọn, không phải là những khoảng phí tổn tất yếu mà không được dùng, như là không có việc gấp ra ngoài nên đi xe buýt, chẳng nên đi taxi... Như vậy không những có tiền để bố thí, mà còn dư tiền để cất giữ! Anh bố thí mấy trăm đồng, số mục tuy nhỏ, nhưng đây là tiền nhịn ăn nhịn dùng, công đức đó lớn hơn đại phú ông quyên giúp hơn mấy trăm vạn đồng. Thông thường con người không có khả năng có thể có nhiều tiền để bố thí, nhưng có thể giữ thái độ xử thế “chớ vì thiện nhỏ mà không làm”, thiện trong một niệm tức là tu hành. Con người, không có tâm bố thí, tức khiến giàu có trở lại cũng chưa chắc thấy được khả năng bố thí. Không thể xả được, nắm đưa ra một phần của tiền cho người khác, vật ngoài thân, đều xả không được cho người, cần bàn gì đến Bồ tát tâm!
Có người thường nói: “Đợi lúc ta có tiền mới bố thí làm việc thiện”. Bố thí không hạn cuộc ở nơi cầm tiền đưa ra, tức là dùng trí tuệ hoặc thể lực của mình, tuỳ thời đều có thể giúp đỡ người cần giúp đỡ, mà tuỳ duyên bố thí. Bố thí ở nơi tâm thương xót, tâm đồng tình và tâm cung kính.
Tài thí có thể độ người khốn đốn ách nạn, không thể độ người thoát ly sinh tử. Pháp thí có thể độ huệ mạng của người, có thể siêu xuất luân hồi. Lúc bố thí tâm giữ bình đẳng, lúc tài thí nên giữ tâm cứu độ, không nên giữ tâm thi ân; lúc pháp thí, phải giữ tâm giúp đời, không nên giữ tâm danh lợi.
Bố thí cũng tức là giữ tâm tốt, làm việc tốt, nói lời tốt; phàm không có tâm, lời, việc lợi ích chúng sinh, đều không giữ, không nói, không làm.
B. TRÌ GIỚI (không làm các việc ác)
Tu hành trọn dứt sinh tử, ngoài vấn đề trì giới ra chẳng có thể nói lời dứt sinh tử, dứt sinh tử thì phải giữ gìn cấm giới cửa Phật! Trì giới trước tiên cần phải biết nhân quả, thì mới biết vì sao cần phải trì giới? Trì giới tức là khiến hành vi không vượt qua quy củ, không tạo các món ác nghiệp.
Ý nghĩa của giới tức là “dừng ác sinh thiện”, dừng mà trừ bỏ tội ác của mười ác, năm nghịch, giúp lớn thiện pháp gọi là nghĩa giới.
Đức Thích Tôn lúc sắp Niết Bàn, ngài A Nan thưa hỏi Đức Phật lúc còn tại thế, tôn Phật làm thầy, sau khi Phật nhập diệt lấy gì làm thầy? Đức Phật dạy rằng: “Lấy giới làm thầy”.
Cho nên chúng ta là đệ tử của Phật, hành trì giới luật, mới có “đạo sư”, nếu không có giới hạnh, cũng như không có thầy truyền.
Trong luật tạng của Phật giáo, liên quan đến giới tướng của luật học rất nhiều, tại gia có: ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện giới... xuất gia có tỳ kheo giới... Tóm lại,đều lấy năm giới làm căn bản mà trì cho được tịnh thì những cái nhánh cành (chi mạt giới) cũng dễ hành trì vậy.
Công đức của trì giới, thế tục nói rằng: “Thọ giới dễ, trì giới khó”, xác định là có lý. Nhưng cũng ở nơi thiện căn của chúng ta mà có cạn - sâu, quan hệ nghị lực của tín tâm có hay không? Nếu như đệ tử của Phật giới luật nghiêm tịnh, thì ai chẳng kính ngưỡng? Chư Phật, Bồ Tát hãy còn hộ niệm, huống gì trời, rồng quỷ thần và con người? Luật Tứ Phần nói “trì giới có mười món công đức”:
1. Đầy đủ chí nguyện, có thể giữ gìn cấm giới, thì thân tâm thanh tịnh, huệ tánh sáng suốt, tất cả trí - danh - thệ - nguyện, không món nào là chẳng đầy đủ.
2. Như Phật mà học, Đức Phật lúc ban đầu tu hành, lấy giới làm gốc, mà được chứng quả, hay trì giới kiên cố, đó cũng là học như Phật.
3. Trí không huỷ hoại, giới hạnh thanh tịnh, thân miệng không lỗi, phàm người có trí vui ưa khen ngợi, mà không chê bai.
4. Thệ nguyện không thối lui, kiên trì cấm giới, cầu chứng bồ đề, thệ nguyện tinh tấn, được bất thối chuyển.
5. An trụ hạnh chân chính, kiên cố giữ cấm giới, cầu chứng được Bồ Đề, ba nghiệp thường thanh tịnh, mà ở nơi chánh hạnh, an trụ không xả bỏ.
6. Xả bỏ sinh tử, thọ trì cấm giới, thì không sát, đạo, dâm, vọng các nghiệp, có thể lìa xa sinh tử, trọn thoát quả khổ luân hồi.
7. Ưa thích Niết Bàn, kiên trì cấm giới dứt các vọng tưởng, cho nên nhàm chán khổ sinh tử, ưa thích vui của Niết Bàn.
8. Được tâm không trói buộc, giới đức được tròn sáng, tâm thể được trong sạch, tất cả nghiệp duyên phiền não thảy đều giải thoát, không có hoạn trói buộc.
9. Được tam muội thù thắng, trì giới thanh tịnh, tâm không tán loạn, thì được thành tựu tam muội, định tánh hiện tiền, siêu các hữu lậu.
10. Không thiếu của cải tín tâm, trì giữ giới luật, đối với Phật pháp đủ tâm chánh tín, thời có thể sinh ra tất cả công đức, pháp và tài không hết.
Phải biết rằng giới của Phật không thọ thì thôi, thọ thì không nên huỷ phạm, không phạm thì thôi, phạm thì rốt cuộc đoạ lạc. Cho nên người trì giới không nên vì “danh” mà động, không bị “lợi” dụ, không vì uy vũ khuất phục, thân này có thể nát, giới này không nên phá, cho nên gọi là: giữ giới như đỉnh cao núi thái, đứng một mình chót vót mà không thể động, đây mới là trì giới.
“Giới”, là một quy luật, cách luật; trong Phật giáo có giới luật, cũng có thể nương pháp mà làm; trì giới vốn là phần trọng yếu của tín đồ Phật giáo tu hành, cho nên gọi “giới là gốc của Bồ Đề vô thượng”. Lúc Đức Phật còn tại thế, ngài dẫn dạy hàng đệ tử rằng: “lấy giới làm thầy, giới còn thì pháp còn”. Nói rõ tánh trọng yếu và địa vị “giới”. Trì giới là duyên tăng thượng. Giới như trăng sáng lớn, hay tiêu tối tăm của đêm dài. Lấy giới làm thầy, nên cần tôn kính giới, cần siêng hộ giới, tôn trọng chánh pháp, làm các việc thiện.
Giới, giúp cho chúng ta tu thành thiện pháp, phòng ngăn việc quấy, dừng dứt cái ác, là đạo ngăn cấm cho thân tâm, khiến thân tâm không làm việc tổn hại chúng sinh, cũng tức là nghĩ ác, làm ác của mỗi kiểu, mỗi loại từng chút đều không nên có, không nên làm.
Cần được tất cả thiện pháp, thì quyết phải cần trì giới, vì tất cả thiện pháp thanh tịnh chỗ có, đều ắt phải bắt đầu từ giới luật. Cho nên trì giới chỉ là một thủ đoạn, phương tiện mà thôi, không phải là mục đích. Song nguyên nhân của trì giới chính là thông qua mình lề lối trang nghiêm, mới có thể đả phá, bỏ trừ được tất cả tậc chứng của bản thân, triệt để mở bày giải thoát mê hoặc của tất cả ngoại cảnh, mà đạt đến Niết Bàn. Giới cũng giống như pháp luật của quốc gia. Quốc gia có pháp luật, mọi người tuân thủ pháp luật, xã hội mới có thể tốt đẹp, hòa bình, an lạc. Cho nên nói rằng “giới mà không giới”.
Giới là dẫn dạy chúng ta tránh sao để khỏi phạm lỗi lầm, và cảnh tỉnh chúng ta nếu vượt qua phạm vi giới luật, phải chịu sự báo ứng của nhân quả. Giới không phải là dùng để trói buộc người tu hành. Là giống như pháp luật của quốc gia, là muốn chúng ta chẳng nên phạm, nếu phạm rồi, thì sẽ phải chịu sự khống chế, khiến cho anh phải chịu sự báo ứng của thân hiện tại.
Giới, không những biểu hiện quy củ mô phạm của hành vi tình cảm đối với con người mà còn biểu hiện quy củ mô phạm của sự thật và tư tưởng đối với con người.
Cuộc sống ngày thường của chúng ta tuỳ tiện một câu nói, một việc làm có thể khiến chúng ta cao hứng, cũng có thể khiến chúng ta giận dỗi, đều là do người khác nắm giữ chúng ta, ngay cả ưa, giận, buồn, vui cũng đều không có cách nào đối trị, tu hành làm sao có sự thành tựu!
Đệ tử Phật cần phải khéo hộ giữ giới luật, không như vậy thì ở nơi giới pháp tức khiến có sự rò rỉ mà lọt mất, cũng có thể khiến cho hành giả trở lại nơi biển khổ sinh tử đoạ lạc luân hồi không thôi, đây là tánh trọng yếu của giới luật, người có tâm học Phật tu hành không thể không xem trọng giới luật.
Giới, là đình chỉ cái ác, thì tại sao là ác? Phàm là bồng bột ở nơi luân lý xã hội và lương tâm đạo đức, trái phạm pháp luật quốc gia, tức là ác; tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi làm tổn hại chúng sinh, tức là ác, trái phạm mười thiện nghiệp tức là ác.
Trì giới lấy sự “nhiếp tâm” làm gốc, thân và miệng tuy không phạm giới mà tâm buông lung, chẳng gọi là trì giới, ắt cần phải thu nhiếp tâm ý, thân và miệng cố không phạm, vọng niệm cũng không sinh, mới gọi là trì giới. Trì giới tức là thủ phép, giữ quy củ, giữ trật tự. Không chỉ là giữ năm giới, mười nghiệp thiện.
Nhiếp tâm không động như gió ngừng sóng lặng. Nghe được thấy được cái gì tốt, cái gì xấu đều không mong muốn. Một khi muốn thì tâm liền động, chẳng thể yên tịnh, không tịnh thì chẳng thể định, không định thì huệ không phát.
Người bước đầu nghe Phật pháp, phần nhiều sanh tâm sợ sệt, nói rằng: “ái ái da, Phật pháp nghiêm quá! Thế này cũng phạm giới, thế kia cũng phạm giới!”; cho nên hãi sợ, chẳng chịu thọ giới, chẳng chịu trì giới. Nếu trong lòng không giữ tâm riêng tư tự lợi, không giữ niệm tâm tổn hại chúng sinh, có gì mà sợ lắm vậy! Pháp luật quốc gia nhiều như thế, anh không phạm luật, pháp quan làm gì được anh, anh không phải là sống tự do tự tại sao? Trì giới, thọ giới, có gì mà sợ lắm vậy? tức là sợ anh không muốn làm người tốt, nên mới sợ thọ giới! Cách thường nói, sáu đường chúng sinh là đồng đẳng đối đãi cũng còn tốt, tức là khổ – vui không phải một kiểu; nếu học Phật mà không trì giới, một khi mất thân người, rơi rớt trong ba đường ác chịu khổ, thế mới đáng sợ! Trì giới chính là “thuốc kim đơn” cứu pháp thân huệ mạng của chúng ta. Nếu hiểu rằng sinh tử có số phần đã định, đó là con ma cháu ma. Nếu không cam tâm đoạ lạc trong ba đường ác, thì nên cẩn thận trì giới! Giới vốn không dễ trì, vì không chạy theo thế tục, nên phát không được tâm trì giới. Trì giới cũng giống như rèn sắt, nung rồi nung, đập rồi đập, bỏ những sái vụn (sái vụn tức là tập khí) thường thường đưa vào lửa, thường thường đập rèn... đâu phải làm một cái là xong sao? Ngồi dưới tam bảo của Như Lai, đều không ăn thịt, ngay lúc ban đầu không phải là không muốn ăn đâu! Nhưng tập lâu rồi không ăn được. Nếu tâm niệm một khi sinh ra tức liền quở trách, như rèn sắt đánh hết những sái vụn. Tất cả đều là từ từ mà mài luyện, thọ không được miễn cưỡng thọ, trì không được miễn cưỡng trì, chẳng sợ trì không được mà chỉ sợ không phát tâm. Chư Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, đưa chung ra không phải e dè chúng ta phạm giới, nhưng các thần hộ giới, họ thì không dung cho người phạm giới. Phạm nhiều không bằng phạm ít, phạm ít không bằng chẳng phạm. Chư Phật, Bồ Tát từ bi với chúng ta, tự chúng ta không từ bi với mình.
“Thọ được giới”, thì cần phải nhận rõ vấn đề “trì giới”. So như anh không sát sinh, anh muốn là không thọ giới, anh không sát sinh thì là không tạo lỗi xấu, đành vậy, nhưng anh cũng chẳng tạo công đức gì khác, anh lại không cứu người, anh có công đức gì? Những việc anh thọ năm giới, anh không sát sinh, anh cũng có công đức trì giới. Ngược lại mà nhìn, nếu là người không thọ giới, giết người rồi tức là một tội báo, anh thiếu người ta một mạng, tương lai sẽ phải trả người ta một mạng. Anh giết con vật mà ăn, tương lai người ta sẽ đem anh ra giết thịt để mà ăn, đây là bình đẳng; nhưng không có tội phá giới. Nếu là thọ giới rồi, sau khi anh bắt vịt để giết thịt ăn rồi, đời sau anh bị biến thành vịt bị người ta giết ăn, ở đây anh còn thêm một tội phá giới. Tội phá giới thì càng lớn nhiều, cho nên trì giới tức là thế này, anh trì được ổn định, công đức rất là lớn.
Trong vấn đề phạm giới, điều rất tệ hại là phỉ báng pháp. Ví dụ như Phật pháp là giả, vấn đề huỷ báng này chúng ta chẳng nên, nhưng chúng ta vẫn cứ huỷ báng. Anh nói theo người khác, nói kinh điển nào là giả, hiểu rõ người nào là thiện tri thức, có người chê bai người khác, anh theo nơi cái nghe phụ hoạ nói người khác là thiếu công đức; đây đều thuộc về vấn đề huỷ báng. Khoe khoang không khác gì là tăng thêm sự huỷ báng, giữ trong lòng không nói ra là giảm ít sự huỷ báng, tội của sự huỷ báng rất là nặng.
Đối với giới, người thọ giới rồi nếu làm việc xấu thì thảm hại hơn nhiều so với người chẳng thọ giới. Cho nên chúng ta thọ giới rồi không thể không hiểu rõ về giới. Cần giữ gìn không phạm. Giới bị phá rồi, anh cũng như vật bị lủng lọt. Như cái bát bị lủng, đổ nước vào một hồi sẽ chảy mất hết. Cho nên “kiên trì giới luật”mấy chữ này phải ráng ghi nhớ lấy trong lòng.
Không giữ cấm giới, thì chẳng thể giữ tâm, không tu trí tuệ, buông lung ý niệm, chỉ cầu danh tốt, không thuận lời dạy đạo, chẳng chịu siêng năng ưa chuộng nghĩa độ đời.
Nhưng mà giới luật của Phật giáo rất nhiều, như là Tỳ kheo giới, Tỳ kheo ni giới... rất cơ bản là năm giới, chúng tại gia trì năm giới mười thiện nghiệp.
Trì giới quyết cần phải không thời khắc, tuỳ thời tuỳ chỗ đều nên phải sinh khởi chánh niệm (niệm chánh đáng), quyết cần phải dứt khoát đủ niệm đầu và lý tưởng chân chánh, nên lấy đại từ và đại bi làm nguyên tắc, do đó ở trong tình huống xấu ác niệm không theo đó mà sinh khởi, tự nhiên có thể ngăn dừng ý nghiệp; đã không có ý nghiệp, tức không có thân nghiệp và khẩu nghiệp, ba nghiệp tức được thanh tịnh.
C. NHẪN NHỤC
Nhẫn là tâm có thể nhẫn, nhục là cảnh được nhẫn. Tức là nhẫn nại tất cả khổ đau, chịu được sự khinh khi lăng mạ, không tranh đấu với người khác. Thường tình rất là khó nhẫn, chẳng gì bằng bị hiếp đáp nhục nhã, nhục mà nếu có thể nhẫn, thì nhẫn với cái khác so ra cũng dễ làm được. Đối với sự nhục mạ gia hại của người khác, không sinh tâm sân hận, gọi là nhẫn nhục. Nhẫn nhục cũng là nhẫn nại, không luận làm công việc gì, đều cần có lòng nhẫn nại.
Nhẫn nhục: đối với việc lợi dưỡng, suy tàn, chê bai, khen ngợi, xứng ý, quở trách, khổ não, vui vẻ – tám việc ấy đều để ra bên ngoài, đối việc trái ngược tâm tư, đều an tâm nhẫn chịu, tức gặp người chửi mình, đánh mình, thậm chí giết mình, nên giữ lấy sự báo ơn ở nơi tâm Bồ Tát, xem những việc này, dùng để tiêu trừ nghiệp chướng đời trước của ta, giúp nhân duyên cho ta thành Phật, lại nữa Bồ Tátcũng chẳng phải giả trau chuốt diện mạo bên ngoài, bướng bỉnh chịu lấy sự ăn thiếu thốn, để rộng chứa danh nhẫn có thể so sánh.
Pháp môn nhẫn nhục, từ cạn đến sâu có năm việc không đồng:
1. Sanh nhẫn:
Tức là mỗi khi bị nỗi nhục đến, không cách chạy trốn, không cách chống cự, chỉ nên kiên cường một lòng nhẫn nại với nó, nhưng tâm lý cảm thấy khó thọ nhận, đau khổ mười phần, cho nên gọi là sanh nhẫn.
2. Lực nhẫn:
Chúng ta đối với nỗi nhục khi nó đến, không để cho người khác bàn bạc, dùng sức khả năng rất lớn, lui một bước, nhường ba phần, đem nó đè ép xuống, một lòng xưng niệm danh hiệu Phật, nhờ sức từ của danh hiệu Phật, đem tâm phẫn hận mà an định, cũng giống như đè bình hồ lô trên mặt nước, chẳng thể buông tay, một khi buông ra thì hồ lô lập tức nổi trở lại, nên gọi là lực nhẫn.
Hai việc nhẫn trên đây gọi là sự nhẫn
3. Duyên nhẫn:
Ngay lúc nỗi nhục hiện ra, chúng ta dùng trí tuệ một mực “hồi quang phản chiếu” (chiếu rọi lại tự thân tâm mình), tu phép quán nhân duyên. Chín chắn mà nghiên cứu vì sao vô cớ lại chịu nhục, bị đòn, bị chửi mắng, trong đó nhất định có những nguyên nhân. Bị ngừơi hiếp đáp làm nhục đều là nhân duyên đời trước mà quả ác bây giờ cảm chiêu lấy, nên đời này theo nghiệp mà thọ báo. Là cho ý tưởng thọ báo trở thành ý tưởng trả nợ, tự nhiên lấy nỗi nhục khó có thể nhẫn thọ, ngược lại là thọ một cách thuận tiện, tâm tình thoải mái, không sinh sân hận, cho nên gọi là duyên nhẫn.
Người xưa nói rằng: “có tâm bao dung thì đức mới lớn, không tham muốn thì khí mới trùm”.
4. Quán nhẫn:
Mỗi khi ngay lúc nỗi nhục phát sinh, thì dùng trí tuệ “không quán” ra để mà chiếu rọi quan sát, rõ được tâm, thân, thế giới, tất cả các pháp, xưa nay “vô ngã” để được (không có cái gì ta có thể được). “Ngã” là không, thì trong đó còn có ngã nào bị hiếp đáp nhục nhã ư?cho đến cảnh giới bị nhục? Đây tức là “tướng ngã” có khả năng KHÔNG và “nỗi nhục” được KHÔNG, cả hai cái hoàn toàn là KHÔNG, cho nên “tướng nhục” ở khoảng giữa, đương nhiên cũng là trọn không thể có được. Cũng vậy, tâm sân hận của muôn việc ác đó tự nhiện sẽ không thể phát sinh. Cho nên gọi là quán nhẫn.
5. Từ nhẫn:
Bồ tát mỗi khi gặp nỗi nhục đến, không những không sinh tâm sân hận, mà ngược lại phát tâm từ bi, thương xót nghĩ tưởng người này thực tại ngu si đáng thương, vô lý chuốc lấy ồn ào, vọng sinh nhánh nhóc. Hiện tại đánh chửi, làm nhục ta, ta có thể nhẫn thọ, như không có việc đó, chẳng thể báo trả lại. Nếu đối với người khác mặc ý huỷ nhục, nhất định phải chịu đến lúc đáp trả lại, chửi nhau, đánh nhau, đây kỳ thật cũng tức là mượn miệng người khác chửi mình, mượn tay người khác đánh mình. Càng nghiêm trọng thậm chí phát triển đến thương tật tàn phếnhân mạng, chịu lấy sự phán xét của pháp luật, tương lai khó trốn khỏi sự báo ứng của nhân quả, do đó khởi “vô duyên đại từ” phát xuất “đồng thể đại bi”, tuỳ nghi phương tiện giáo hóa, khiến cho người khác hiểu rõ qua lại, biết lỗi phải sửa đổi, dứt ác tu thiện, cho nên gọi là từ nhẫn.
Ba món nhẫn này gọi là lý nhẫn.
Nhẫn nhục không những là nhẫn cái nhục của người khác đem đến cho mình, đồng thời càng phải nhẫn cảnh chính mình gặp gỡ. Nếu ở trong nghịch cảnh khốn cùng bệnh khổ, nhẫn khiến cho niệm suy đồi, thấp hèn không sinh; ở trong thuận cảnh giàu sang, nhẫn khiến cho niệm kiêu căng, mê đắm không khởi; ở trong thường cảnh không thuận không nghịch, muôn pháp sinh diệt, nhẫn khiến cho niệm dời theo sự di dịch không sinh, chịu sự hiếp đáp nhục nhã không sinh sân hận, gặp sự khen ngợi không sinh hoan hỉ.
Nhẫn nhục không chỉ là nhẫn sụ hiếp đáp nhục nhã, giết hại, hai cảnh thuận nghịch trên tâm lý, mà cần phải nhẫn đói khát, lạnh, nóng, thương đau, các khổ trên sinhlý. Nhẫn nhục là chiến đấu cùng với phiền não của nội tâm, phiền não từng lúc máy độngở nơi tâm của ta và người, nếu một lòng không chịu nhẫn, tức phiền não sẽ chiếm cứ vị trí trên tâm của người ta.
Nhẫn nhục chủ yếu bao hàm: 1. Tâm nhẫn nhục phi thường. 2. Nghị lực kiên cường. 3. Xa lìa phẫn nộ. 4. Xa lìa tất cả xung động. 5. Lúc chịu nhục có thể vượt khởi tâm khoan dung tha thứ.
Đây là năm món nội tâm nhẫn nhục, mới là nhẫn nhục chân chánh. Quyết cần phải phát khởi tâm từ bi từ nội tâm, khoan thứ tất cả, nếu như việc khởi tâm sân hận thì khổ não khó mà kham chịu.
Nhẫn nhục là một loại biến chiến tranh thành giao hảo, biến hung ác thành tốt hòa, tiến đến hiện bày đại từ đại bi, đồng thời cũng là pháp môn chủ yếu”trên cầu phật đạo, dưới giáo hóa chúng sinh”.
Nhẫn nhục là: nhẫn cái khí, nhẫn cái khổ và nhẫn cái vui.
“Nhẫn cái khí”, là nói ngay người khác hiếp đáp nhục mạ, làm tổn thương, chẳng khởi tâm oán hận, phẫn khí. Không đi kể lể, không khởi tâm trả báo, chẳng cùng đối phương thường hay gặp biết, là muốn lui một bước, bất kể người khác đối với ta như thế nào, đều cần phải nhẫn cho được, tức là chẳng nên phát nóng giận, thêm nữa dùng tâm từ bi để nhìn và tiếp đãi đối phương, vui vẻ hít vào mà tiêu mất khí nóng; Như người đời: bôi nhọ, khinh khi, làm nhục, chê cười, dối gạt, khinh tiện, ghét... các việc đối với ta, phải có cách gì? Nhẫn nhịn, chịu đựng, tránh né, cung kính, không lý sự đối với họ; đây gọi là cái nghịch đến mà thuận thọ nhận, không nên châm chọc với nhau, mới là nhẫn khí.
Người đời hiếp đáp nhục mạ ta, chê bai ta, là tự mình còn có khuyết điểm,nên phản tĩnh tất cả việc làm của mình, nếu có khuyết điểm thì dốc sức sửa đổi để tiến bộ. Lúc chịu nhục còn cảm được vận may, cảm tạ người ta xét nghiệm ta, khiến ta có cơ hội tu “nhẫn nhục”, cảm tạ họ cho ta tiêu được tai ách. Anh nhẫn rồi, việc không còn, được thái bình. Nếu nói ta cũng nhẫn không được khẩu khí này, như thế ta làm sao? Cần phải có cái tư tưởng như thế này: họ chửi ta - còn tốt không đánh ta, họ đánh ta - thật là vận may họ không giết ta, ngón tay bị đâm một cây gai - còn may mắn không đâm trong tròng mắt, thì chẳng thể buồn bã hay giận dữ được. Nếu gặp lúc giận, thì phải nhẫn, biến nhẫn thành tha thứ, tha thứ rồi tha thứ! Cần chuyển xoay tư tưởng đến chỗ tốt đẹp, nếu chuyển đến chỗ xấu xa, thế thì thảm lắm, khổ não nhẫy đầy!
Nhẫn khí, không phải là nhẫn thọ, càng không phải là đem cái khí căm phẫn, buồn phiền ở trong tâm mà đè nén ức chế chính mình; mà là đối cảnh (chẳng hiểu được) có cảnh, đây mới gọi là nhẫn khí, như người khác chửi ta, mà không hiểu họ đang chửi ta, mà họ đang chửi chính mình, hoặc là đang biểu diễn ca múa.
“Nhẫn cái khổ”, là nhẫn áo mặc, đồ ăn, ở, đi, lạnh, nóng, đói, khát, bệnh, đau... các điều khổ. Ăn được no, mặc được ấm, ở có nhà, đây không kể là khổ. Ăn, chủ yếu là bụng không đói, miệng không khát, có thể duy trì được thân thể khỏe mạnh, có sức sống, có khí lực. Ăn vật ngon dở là xem đối với sức khỏe của thân thể được lợi ích lớn hoặc nhỏ để phân biệt đó là ngon hay dở, không phải là phân cao thấp ở trên giá trị và cách thức, nghĩa là giá tiền cao là tốt mà giá tiền thấp là không tốt. Áo, đồ nhãn hiệu, đồ mặc đẹp dùng để đi lại, mà y phục phổ thông cũng là đồ mặc; áo chủ yếu là để chống lạnh che thân. Ở, nhà to hoa lệ gọi là chỗ ở, mà nhà nhỏ bình thường, nhà lá cũng là chỗ ở; ở chủ yếu là ngăn gió che mưa, không rọi mặt trời, tối đến ngủ được.
Người học Phật tu hành ở trên cuộc sống vật chất là làm sạch nỗi khổ, tuy nhiên có tiền, có địa vị trên xã hội, có danh vọng, cũng không thể giống như ngoại đạo làm ra vẻ của chốn phồn hoa như thế, bày biện giàu có, chạy theo mốt, chất đầy cửa, ưa sĩ diện. Ăn, không cầu sơn hào hải vị, miệng muốn hưởng thụ. Áo mặc, không cần áo lụa hàng bông hoa. Ở, không cầu lầu cao nhà lớn.
“Nhẫn cái vui”, là ngăn trừ tất cả vật phục sứctrên thân và hưởng lạc trên cảm quan, như không hút thuốc, không uống rượu, ít giao tế qua lại, chẳng ca múa xướng vui, chẳng bước chân tới chỗ trường hát, cờ bạc, ngay cả ti vi cũng ít xem, để tâm khỏi bị tán loạn không chuyên nhứt, ngăn ngại việc tu hành. Có tâm dục lạc, tâm cũng không dễ gì yên tĩnh, tâm không yên tĩnh làm sao có thể định. Cuộc sống bình thường không cầu buông thả và khoái lạc, thì cũng không ưu não và cũng không sợ sệt.
Nhẫn nhục, nhân vì tập khí nên nhất thời khó nhẫn nại, chỉ cần hạ quyết tâm, có nghị lực, có tâm thường xuyên, thì có thể làm được thôi.
D. TINH TẤN
Tinh tấn, không xen tạp, gọi là TINH, không thối lui gọi là TẤN. Ý của tinh tấn là: tinh là tinh thần, chỉ tâm không xen tạp cái ác. Tấn là không thối lui, không giãi đãi, không buông lung, là ý nói sự nỗ lực, đủ có ý chí kiên cố, chỉ có sự cố gắng tiến tới trước không dứt, không có tâm lùi về sau, nghịch lý và ý chí có thuỷ có chung.
Tinh tấn; phàm người tu hành Phật đạo, như nông phu làm ruộng, không nên sợ cần khổ, mới có thể có thu hoạch; lại như người buôn kinh doanh sự nghiệp, không được gián đoạn, mới có thể được lợi. Nông phu nếu sợ khổ thì ruộng kia sẽ bị hoang phế, người buôn nếu bị bể việc thì làm sao có thể mong doanh nghiệp được lợi, đạo lý trong đây mọi người đều biết. Tu học đạo, nông phu làm ruộng và người buôn bán, là một kiểu đạo lý, nên chẳng được làm biếng, không được gián đoạn. Ở ngay trong vô lượng pháp môn, điều phải nên là “thâm nhập một cửa”, mới có thể thành tựu. Nếu muốn các cửa đều học, là tuyệt đối không thể thành tựu được. Các cửa đều học, đó là việc sau khi “một cửa” thành tựu, một cửu thành tựu rồi, thì vô lượng pháp môn khác một khi xem, một khi nghe lập tức đều thông đạt hết.
Tinh tấn có thể đối trị ma chướng giãi đãi (lười biếng), phá phiền não ác, trừ các phép ác, não phiền, bức bách.
Người tinh tấn ở trong vấn đề dứt ác tu thiện mạnh mẽ cố gắng, vì thể tánh đối trị biếng lười, hoàn thành đầy đủ việc thiện để làm chỗ dùng của nghiệp.
Cho nên “đoạn ác tu thiện”, trước tiên chỉ cần đoạn trừ tất cả pháp ác, siêng tu tất cả pháp thiện, mới có thể đạt đến chỗ gọi là “tinh tấn”, dõng mãnh mạnh mẽ. Đó chỉ là dứt các pháp ác đã có, mà trong tu thiện quyết cần phải trực tiếp dứt trừ, ý chí kiên cường đã tinh càng muốn tinh thêm, không ngừng gắng tiến về phía trước, vì không sợ khó, không sợ khổ, và quyết xả tinh thần lớn mạnh có thể xả, mới có thể đối trị được giãi đãi, và làm cho tròn đầy một cách tích cực tất cả việc thiện thế gian và xuất thế gian. Chỗ gọi rằng: “hoàn thành đầy đủ việc thiện” là chỉ cho trong quá trình tu hành, cần phải tích cực nơi việc thiện để khắp độ chúng sinh.
Tu tập Phật pháp, không có thể lúc làm lúc nghỉ, hôm qua như vậy, nay lại là như vậy, tu hàng ngày - tu hàng năm - tu trọn đời, không nên quá gấp, không phải một năm hay muời năm thì có thể tu xong, quá gấp dễ sinh mỏi mệt nhọc nhằn, làm thương tổn sức khỏe, cũng không nên quá kéo dài, nhiệt tình chỉ có năm phút, ngày nay không tu còn có ngày mai, năm này không tu còn có sang năm, kéo dài quá, dễ khiến thân tâm biếng lười buông lung, trong tất cả nên phải thích ứng. Tinh tấn như giọt nước chảy lâu làm xuyên đá núi.
E. THIỀN ĐỊNH
Thiền định độ cho sự tán loạn: chúng sinh thì tâm tính tán loạn, vọng tưởng lăng xăng, tâm như vượn, ý như ngựa, luôn nghĩ đến sự ruổi dong, từng sát na dừng niệm, sinh niệm, niệm niệm không dừng, nên tu thiền định để thoát thân tán loạn.
Thiền định tức là đem tâm này an trụ, không buông thả nó tản ra, nghĩ đông nghĩ tây tạp loạn không rõ ràng.
Thế nào gọi là thiền? Tức là nhất tâm xét vật là thiền. Thế nào gọi là định? Tức là tĩnh lặng tư duy một cảnh là định. Ý nghĩa và mục đích chân chánh của thiền định là ở trong “tịnh lự” (tĩnh lặng tư duy) tập trung tinh thần, thống nhất tư tưởng, trừ bỏ tất cả vọng tưởng tạp niệm, tình tự không xung động, cảnh tịch tình không, thoát ly thế giới huyễn tưởng chủ quan, mà nhập vào thế giới an bình tĩnh lặng chân chánh.
Thiền định, mục đích chủ yếu là “nhiếp các tâm loạn”; do vì con người ở nơi cõi dục, chỗ chỗ tâm loạn nhẹ thổi, có lúc như lông chim hồng bay lên, đều là dong ruổi phân tán không dừng, chẳng thấu rõ sự chế ngự của thiền, chẳng dễ gì được định, chỉ có thấu suốt thiền định, mới có thể triệt để rửa hết và tiêu diệt ma chướng tán loạn trong tâm, ma được trừ bỏ, trí huệ tự nhiên tăng trưởng. Chỉ có thấu suốt thiền định - tịnh lực, mới có thể giải thoát phiền não căn bản của sinh tử, cũng tức là nói “thiền dịnh có thể thống nhất tinh thần - dừng, lặng, yên, định, sau tiến đến mà thay đổi, chuyển tĩnh lặng để đoạn trừ các chướng mê hoặc: tham, sân, si, mạn, nghi của nhân loại”. Cản trở phiền não xâm lấn, không bị trở lại cái mê, cái hoặc của ngoại cảnh, không theo cảnh mà khởi sinh diệt.
Thiền định tức là lìa tất cả tướng ở bên ngoài, tâm tánh bên trong không loạn. Nếu chấp trước tướng của ngoại cảnh, tâm tánh bên trong cũng sẽ hỗn loạn. Có thể lìa được tất cả các tướng ở bên ngoài, tâm tánh ở bên trong cũng có thể bất động.
Tâm niệm đối với tất cả cảnh giới thiện ác không khởi, tịnh không phải là chỉ giống đầu đá, người gỗ không hay không biết khi đối mặt với ngoại cảnh, mà là niệm không chấp trước. Gặp duyên đối cảnh, lý vả đáng có chỗ phản ứng vẫn vậy có chỗ phản ứng. Ví như lái xe trên đường, gặp đèn đỏ thì dừng, đèn xanh thì đi, tâm không trở ngại, tức là “ứng với không chỗ trụ mà sinh tâm đó”. Nhưng phải thiết tha mà nhớ rằng: ứng với không chỗ trụ mà “không” sinh tâm đó, như thế càng hay.
“Ứng với không có chỗ trụ mà sinh”, cũng chẳng qua là niệm niệm không chấp trước mà thôi! Con người, xưa nay là Phật, ngược lại nhận đồng với mình là phàm phu, trái lại cho là Phật cao không thể vin tới được! Chỉ có đả phá chấp trước nhận thức mình là phàm phu, bản lai diện mục của Phật mới có thể “nước trong cá hiện”, nếu như nhất định có chỗ chấp trước, thì không được nhận đồng: tự mình là Phật.
Người bước đầu học tập Phật pháp, thô tháo náo loạn ở nơi tâm rất nhiều, định lực không đủ, trong một sát na niệm trước diệt, niệm sau khởi, niệm niệm liên tục với nhau, trọn không dừng dứt, nên phải khởi được chánh niệm, từ từ có thể khiến cho tâm niệm thanh tịnh, mà đạt đến vô niệm; công phu này việc cần thiết là phải chu đáo tỉ mỉ, thời gian lâu, mới có thể vào định, đạt tới cảnh giới vô niệm. Tốt xấu, chê khen, mừng giận đều không khởi tâm động niệm, mới có định lực.
Niệm Phật cũng là một phương pháp thiền định. Có thể niệm cho tới khi miệng không niệm mà tâm ở nơi niệm, chẳng niệm mà tự niệm, niệm Phật có công phu rồi, cách “niệm Phật tam muội” không xa.
F. TRÍ HUỆ (Bát Nhã)
Trí huệ được chứng đắc từ thiền định, tức được gọi là: trì giới mà được định, từ định mà phát huệ. Nhưng trí huệ này tịnh mà không phải là trí hữu lậu: thông minh, đa văn, bác học của người đời; mà là chánh trí viên dung vô ngại. Trí tuệ này có khả năng chiếu phá tất cả khách trần phiền não, hiển bày bản tính chân như rõ biết tất cả chân tướng của vũ trụ. Có được trí huệ đối với tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, vạn tượng vũ trụ, là không chỗ nào chẳng biết, không chỗ nào chẳng hiểu, có thể thông đạt sự lý, phân biệt thị phi, phá trừ các món mê hoặc. Chính xác rõ hiểu chơn tướng các pháp và khế hợp nhận thức chính xác của chân lý, vì sao có thể làm, rất rõ ràng nên lời nói cũng viên dung.
Tu sáu pháp Ba La Mật quyết cần phải cùng giúp cùng làm, không được thiếu một pháp. Vì huệ mà không có định chưa có thể thọ dụng, định mà không có huệ chưa khỏi trầm mê, mà chẳng trì giới bèn trở ngại cho việc chứa nhóm thiện pháp. Ba món học gồm đủ mà không bố thí lại không thể nhiếp hoá chúng sinh, bố thí mà không tu ba món học thì chỉ trồng phước báo trời, người. Trì giới mà không nhẫn nhục thì khó điều hòa khí sân nhuế. Có tinh tấn mà không có các pháp (độ) khác thì luống uổng công phu. Có các độ mà không có tinh tấn thì ban đầu siêng năng mà sau giãi đãi. Cho nên nhất định phải sáu độ cùng tu, mới có thể hành hai việc lợi (tự lợi, lợi tha) của hàng đại thừa Bồ Tát một cách viên mãn.
Hành giả tu Bồ Tát, ngoài việc siêng tu trì sáu độ BaLaMật ra, còn cần phải hành “ Bốn phép nhiếp”, mới có thể vào sâu trong nhân loại mà cứu độ chúng sinh.
G. BỐN PHÉP NHIẾP
Bốn phép nhiếp tức là: Bố thí nhiếp - Ái ngữ nhiếp - Lợi hành nhiếp - Đồng sự nhiếp.
Bố thí nhiếp: Nếu khắp độ chúng sanh quyết cần phải đi sâu trong nhân sinh, tiếp cận cùng với người được độ thì mới có thể đạt đến nguyện vọng của mọi người
1. Bố thí nhiếp: Là đối người nhu cầu tiền tài dùng “tài” để bố thí; đối với người cầu biết tâm làm trọng thì dùng “pháp” để bố thí. Thích hợp với thời gian, không gian đầy đủ nhu cầu của chúng sinh, khiến cho tâm kia được hoan hỷ, do cảm cái ơn mà tiếp nhận sự giáo hóa, mà đạt được mục đích hóa chúng sinh.
2. Ái ngữ nhiếp: Thường đối với người nói lời hòa vui từ ái, lời nói hài hòa đáng thân, khéo nói tiếp đãi với người, nói lời mà khiến người nghe sinh tâm hoan hỉ, nguyện ước muốn nghe, cũng vì đạt đến mục đích hóa độ chúng sinh. Ái ngữ không phải là lời nịnh hót, hoa mỹ hoặc nói dèm pha.
3. Lợi hành nhiếp: Dùng các việc làm của thân, miệng, ý đều có lợi cho người, toàn tâm toàn ý vì mọi người mà phục vụ, khiến cho họ vui vẻ, cam tâm tình nguyện cùng tu đạo Phật, nương theo lời dạy mà vưng làm, cũng vì đạt đến mục đích độ người.
4. Đồng sự nhiếp: Vào sâu trong xã hội, công tác cùng với mọi người, cùng sinh hoạt, gần gũi với nhau, khiến cho bên kia bên đây tình như thủ túc, ở nơi hoàn cảnh khế cơ họp duyên mà hóa độ họ.
Thông thường nói rằng: Bồ Tát vì thành tựu Phật đạo tối hậu mà tu: Sáu độ “Balamật “ và pháp môn lợi tha “bốn phép nhiếp”; Quyết cần phải lấy “bốn tâm vô lượng” làm căn bản, mới có thể chân thật phát huy mục tiêu lợi tha.
12. BỐN TÂM VÔ LƯỢNG
Tâm vô lượng là không có phép hạn lượng, ý là rất khó mà giới hạn suy lường. Bốn tâm vô lượng còn gọi là “bốn đẳng tâm”. Ý là chỉ lấy tâm bình đẳng mà không sai biệt để giáo hóa lợi ích tất cả chúnh sinh. Ở đây nói đơn giản như sau:
1. Tâm từ: Từ là chỉ niệm ái, tức cho ta an lạc. Tức là nghĩ yêu chúng sinh mà cho chúng sinh an lạc.
2. Tâm bi: Bi - là chỉ sự thương xót, tức là tâm dẹp đi khổ. Cũng là nghĩ thương chúng sinh chịu các điều khổ, mà thường ôm lòng bi, cứu giúp chúng sinh thoát ly khổ đau.
3. Tâm hỉ: Thấy người ngăn ác làm lành, sinh tâm hoan hỉ; thấy người lìa khổ được vui, sinh hoan hỉ; tâm nầy khắp duyên nơi chúng sinh.
4. Tâm xả: Xả là bỏ xả tâm từ, bi, hỉ đã làm, đều không để ở trên tâm, xả mà không còn dính mắc, oán, thân, ghét, yêu thảy đều buông bỏ.
Vui vẻ cùng chúng sinh gọi là Từ, cứu khổ chúng sinh gọi là Bi; thấy chú ng sinh lìa khổ tâm sinh vui sướng gọi là hỉ; Một mực bình đẳng đối với chúng sinh, kẻ oán người thân đều xả mà không còn dính mắc gọi là xả. Tu trì bốn tâm trên còn khả năng: không sinh chấp trước.
13. TỰ TỊNH KỲ Ý (Tâm thanh tịnh)
“Tự tịnh kỳ ý” tức là tự tâm được thanh tịnh, tâm không động niệm. Không vọng tưởng, không tạp niệm, không phiền não, việc ác không nghĩ tưởng, việc thiện cũng không nghĩ, việc của hiện tại ( trừ việc đang công tác ) không nghĩ, không nghĩ việc của vị lai; Đem muôn niệm tập trung nơi một niệm - chỉ niệm Phật. Có thể làm được như thế này tức là cảnh giới tâm bất loạn, không có công phu tương đương thì làm không được. Có thể làm được việc không có phiền não thì chỉ chánh niệm, không phải là tà niệm, chỉ có thiện niệm, không phải là ác niệm; Tức là đúng vậy.
Tâm thanh tịnh không phải là chỉ nói, nói thì không có thể làm được, có người tu đến vài mươi năm ngay cả một chữ “tham” cũng không quên được, một chữ “ái” cũng còn thường tại ở tâm đầu. Nếu muốn tâm được thanh tịnh, chẳng hạ một lần quyết tâm thì chẳng thể được! Có thể xả - là có thể xem cho rõ, buông cho rời; Nếu rốt cuộc ở nơi tình đời việc thế tục cứ lay chuyển, tâm làm sao có thể tịnh được?
Tâm thanh tịnh không phải là giống như người bằng đá, thế nào đi nữa đều không nghĩ tưởng; mà là nhất tâm chế ý, gặp việc không mê, chỉ có chánh niệm, không có tà niệm, tức là lúc ăn cơm nhất tâm ăn cơm, ăn rồi lại nghỉ ngơi, lúc công tác nhất tâm công tác, công tác rồi lại nghỉ ngơi, không đình trệ ở trên niệm đầu, không dừng giữ ở nơi niệm quán, cũng như chim bay qua bầu trời không để lại dấu vết.
Ví dụ như: Gặp có người đang bán chim, mà anh muốn mua chim để phóng sinh, nhưng tiền trong túi không đủ, việc mua không thành, trong lòng nghĩ rằng ngày hôm nay có thể mang nhiều tiền hơn một chút thì tốt hơn nhiều, đây tức là vọng tưởng. Lúc ăn cơm thì nói rằng đồ ăn của ngày mai ngon, đây cũng là tạp niệm. Con cái có việc ra khỏi nhà bảo nó về trước hai mươi mốt giờ, nhưng qua hai mươi hai giờ chưa thấy nó về, anh lại đợi nó mà không đi ngủ, tức là buông không rời. Gặp cảnh thuận thì cười híp mắt, gặp cảnh nghịch, bị cảnh chuyển mặt mày ủ rủ khổ sở, tức là phiền não.
Tu tâm thanh tịnh, nhất định cần hạ quyết tâm rất lớn, tâm thường xuyên tâm nhẫn nại, cũng tức là nói “đắm nhiễm tình đời” (nghĩ tưởng bận tâm về người, việc, vật của thế gian), chúng ta nên xả ly càng nhiều càng tốt, rốt cuộc cũng chẳng cần nghĩ tưởng bận tâm, đem cái niệm nghĩ tưởng bận tâm chuyển biến thành cái niệm: NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT; Đem lợi ích nhà và thân của mình (thân là người gốc, nhà là gia đình của ta) cũng là khởi tâm động niệm, đều là cái niệm lợi ích cho nhà và tự thân (chỉ là nghĩ tưởng mình, không nghĩ tưởng chúng sinh) đem niệm đầu nầy chuyển biến làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, không nghĩ tưởng mình, thế nầy tâm chúng ta cũng thanh tịnh nhiều rồi; có thể làm được vấn đề khởi tâm động niệm chỉ là ADIĐÀPHẬT, tịnh không có niệm khác, nhất tâm chỉ có ADIĐÀPHẬT, không bị ngoại cảnh chuyển. Như vật tâm chúng ta cũng thanh tịnh.
A/ NHÌN RÕ – BUÔNG RỜI
Nhìn rõ, tức là nhìn xem tất cả giả tướng của thế gian, tất cả vô thường, như sinh không mang gì lại, tử không mang gì đi, có người khác cũng tốt, không người khác cũng tốt; người có tiền cũng là người, người không tiền cũng là người; người có tiền ăn nhiều cá nhiều thịt gọi là ăn no, người không tiền ăn rau xanh, đậu hũ cũng là ăn no; người có tiền nhiều người khác gặp đến nể mặt, người không tiền, người ta không gặp không nể mặt. Nhưng người có tiền có được bao nhiêu việc không khổ não buồn lo? Người không tiền tự mình nhìn thấy mình, không đi phân biệt có tiền hay không có tiền, tốt xấu được mất, không thể vì không tiền thì không có sĩ diện mà tự ti, cuộc sống được mãi vui vẽ, tự tại ở chỗ cảnh thuận thì vui, gặp cảnh nghịch cũng vui, tâm vui thì cảnh thường vui. Biết (tin) lý nhân quả thì “nhìn được rõ”. Bi thương, sợ sệt, buồn lo, bận tâm, tham lam, phẩn hận tức là nhìn không rõ.
Buông rời tức là không chấp trước: người, việc, vật các món của thế gian, như tiền vàng, tài sản, người thân, nam nữ, ăn uống, ngọc ngà châu báu, bảo vật... Không đem nó mà để ở trên tâm, có cũng như không, chẳng mong ngóng nó, chẳng vì nó mà bận tâm, so tính lo buồn.
Đem người, vật, việc của thế gian từng cái, từng cái nắm trên tay mà quẳng đi, buông đi buông càng nhiều càng nhẹ, buông càng triệt để thì càng không bận tâm, cái đồ ở trong tâm không còn (hiện thực thì hãy còn) chỉ là trong tâm không có nó mà thôi, tâm mới có thể bình tĩnh, bình được tâm thì mới đầy đủ, đầy đủ thì mới buông được rời. Việc hôm qua không hối, không oán, việc của ngày nay không tham không cầu, việc của ngày mai không lo không sợ.
Nhìn cho rõ, tức là nhìn tất cả giả tưởng, tất cả vô thường của thế gian, đây có thể học tập từ trong văn tự, lời dạy trong kinh điển rất nhiều đạo lý của phương diện nầy đều đưa ra cho chúng ta “nhận thức nhìn được rõ”.
Nhưng buông cho rời, cũng không đơn giản, nói thì dễ mà làm thì rất khó, không có niềm tin kiên cường, càng không nên phí một phen, cố sức mới có thể dẹp thoát sự ràng buộc kìm hãm này; như gặp lúc khó khăn trọng đại, ô nhục hoặc vấp ngã, hoặc những việc không như ý, thì nên không có ngày tiếp tục trở lại việc này.
Buông cho rời tức là buông rời việc thế gian như: tham, sân, si, mạn, nghi, như tiền bạc, tài sản, sự nghiệp, người thân... của chúng ta; Nói chung là căn tánh thấp hèn của con người, việc này thì không dễ dàng. Nếu đối trị với căn tánh thấp hèn này thì cần dùng một cái khác “Tịnh”, để đối trị. Như bố thí, trì giới, sám hối, những việc này không phải là lý Phật cao siêu, tức là cần việc làm. Cũng như bố thí, tức là đối trị tham dục, bố thí càng lớn, càng triệt để, thì càng có thể giảm thấp đi dục vọng của con người, tâm tình sẽ ngày càng nhẹ nhàng sảng khoái, cảm thấy nợ nần ít đi, trong lòng thoải mái, đây tức là kết quả của việc làm bố thí. Ngược lại, nếu bố thí rồi mà khiến cho anh càng thêm chấp trước công đức, rồi truy cầu, tham đắm danh tiếng của bố thí, hư vinh đầy đủ cho tự tâm, đây cũng là biểu thị trạng thái của tâm không đúng rồi, đây cũng là “buông không rời”. Ngoài ra những việc khác như trì giới thì phải thanh tịnh, nếu như không có thì phải điều chỉnh thêm nữa, lý tánh thì nhiều, cảm tánh thì ít, hoặc là bài trừ tâm sở cầu mà làm việc thiện.
Buông được rồi, cần tâm đầy đủ, tâm đầy đủ mới có thể buông được, tâm đầy đủ là tâm địa tự bình. Tâm không đẩy đủ là buông chẳng rời, như không có tiền thì muốn có tiền, có tiền rồi lại muốn có nhiều hơn, càng nhiều càng tốt, tâm làm sao có thể bình. ( Tâm đẩy đủ không phải là đầy đủ cho tâm tham vọng ham muốn của mình, mà làm tâm “thiểu dục, tri túc” vậy). Nếu như chấp dính việc thế gian mà không buông xả, thì ở nơi việc vãng sinh là một món chướng ngại lớn.
Người đời nhiều đời nhiều kiếp, tâm sinh chấp dính cái được ở thế gian, chỉ sợ mất đi, tham luyến mà buông xả không được, lại còn tìm cầu cho đầy đủ đời này, thì ắc sẽ chuốt lấy khổ não càng nhiều cho chính mình, cũng sẽ ngăn trở con đường vãng sinh thế giới Cực Lạc.
B/ TÂM BÌNH THƯỜNG
Tâm bình thường tức là: Trực tâm, tâm dài xa, không tạo tác, không an bài, không phân biệt, việc để trong nội tâm là yên ổn tĩnh lặng và bình hòa, cả một năm, suốt một đời, thường thường như vậy tức là bình thường. Ví như: Người đời tiếp khách quen, chỉ dùng trà cơm bình thường không bày biện sắp đặc, tiếp đãi thế nầy có thể dài lâu, tức là bình thường; Như có quý khách đến bày ra bao nhiêu kiểu đồ ăn ngon, đây thì không bình thường, chỉ có thể tiếp đãi mười ngày nửa tháng, nhà không lễ thường, cho nên tiếp đãi chẳng bình thường, thì chẳng dài lâu được.
Tâm bình thường là tâm hàng ngày biểu thị việc nên làm tự nhiên trong cuộc sống ngày thường, không bị niệm lăng xăng, cố chấp,lộn xộn làm trở ngại, không miễn cưỡng công tác liều mạng chính mình, mà có thể làm việc một cách yên ổn thỏa đáng thuận lợi theo lệ thường ngày, khiến cho sinh hoạt chính mình không bị trói buột.
Chúng ta chỉ cần lấy tâm bình thường để đối mặt với cuộc sống hiện thực, không phân biệt tốt xấu, được mất, giàu do người khác giàu, nghèo do người khác nghèo, bệnh do người khác bệnh, già cũng do người khác già, tùy thuận tự nhiên không cưỡng cẩu, mở thoát những việc trói buộc buồn tình này, mặc cho bốn mùa biến đổi, đều là thời tiết tốt tươi.
Tâm bình thường là một cái tâm giữ được sự quân bình mà thuần khiết, có trí huệ viên dung vượt thoát nổi lòng ôm ấp, không bị sắc tướng cõi dục làm mê, không bị huyễn tưởng trần lao làm lầm lạc ( dối gạt ), tâm trong sáng tự tại, bình thảng vui tươi, trải qua cuộc sống vui vẻ đơn thuần.
Con người có tâm chân thật, nhẫn nhịn, bình ổn và tha thứ, thì gặp việc từ nơi tự bao dung mà ổn định, nên không thể vì con người, sự tình, vật chất làm cho suy nghĩ phiền não. Cho nên tâm bình thường tức là cuộc sống bình đạm, bình thường, bình bình thường thường, chẳnh vì vật vui, chẳng vì mình buồn, hiểu rõ tại ta, tiếp nạp người khác, lấy tâm từ ái mà bao dung tất cả.
14. SANH TỬ VÀ NGHIỆP
Sanh tử vô thường, thường đem đến sự sợ sệt và bất an rất nhiều cho chúng sinh. Mọi người cho là người chết rồi thì trăm việc hết, cái gì cũng đều không có. Đây là con người chỉ có nhục nhãn, không có huệ nhãn, không thấy được chân tướng của vạn tượng vũ trụ, nên mới nói thế này. Nhưng Đức Phật không những có nhục nhãn, huệ nhãn mà còn có Phật nhãn, chân tướng của muôn hình tượng vũ trụ Ngài thấy rất rõ ràng. Ngài nói sinh mạng của con người không phải là chết rồi thì kể như xong hết, nếu như đơn giản như thế này, đời ngừơi cũng có cái tâm tham muốn, thích làm cái gì thì làm cái nấy! Lại nữa sao cần phải nói cái việc có nhân quả báo ứng thiện ác, nếu rõ sinh tử như thế nào là phiền rồi! Kỳ thật, sinh mạng trước khi chưa sinh thì đã có rồi, cũng không phải chết rồi là hết - đơn giản như thế! Không phải nói qua loa vài ba câu thì có thể nói được vấn đề rõ ràng, đồng thời cũng là vấn đề rất khó giải quyết. Do đó với nhu cầu học Phật tu hành, là để giải quyết đại sự sinh tử đời người này.
Hành giả học Phật đối với cái chết, cần thiết phải ghi nhớ hai điều đạo lý:
1. Đời người vô thường, tuỳ theo thời gian đều có khả năng chết, hoặc tuổi thọ hết, hoặc phước hết, hoặc chết đột ngột.
2. Không nên cho rằng thọ mạng là trời sinh có chủ định về số tuổi thọ, thực tại là đa số nghiệp ác hiện đời, việc không nên làm đi làm, không khéo giúp nuôi tốt tự thân. Chớ nên cho là nhất định tuỳ thuộc ở tuổi thọ hết mà chết, còn có việc chết đột ngột thì sao, nào là tai nạn về nước, lửa, hung sát, xe cộ, trúng độc... tử vong không chính đáng, tình huống bất thường tạo thành.
Trước chưa rõ sinh tử, chết rồi lại sinh, sinh rồi lại chết, chết chết sinh sinh, sinh sinh chết chết luân hồi không dứt, mà nhân tố chủ yếu tạo thành luân hồi sinh tử này tức là NGHIỆP.
Nghiệp, tiếng Phạn gọi là “yết ma”, nghĩa là “tạo tác”, ta và người ở trên tư tưởng, hoặc nhân tư tưởng phát ra tạo tác các ác ở nơi ngôn ngữ và thân thể, giả gọi là “nghiệp”. Bất luận có hành động thế nào, Phật pháp đều gọi là NGHIỆP.
Nghiệp có ba tánh: thiện, ác và vô ký. Thiện nghiệp hay chiêu lấy thiện quả, ác nghiệp hay chiêu lấy ác quả, vô ký nghiệp đã không phải là thiện lại không phải là ác, cho nên không cảm quả.
Liên quan với “nghiệp”, hơi khó khiến cho người hỏi hiểu rõ, nhân vì nó không hình không tướng, không chất không lượng, nhưng người ta khởi tâm động niệm, đều thành nghiệp chủng, vả lại trọn không thể mài dũa hay diệt đi, nó tồn tại hằng hữu, gặp duyên thì khởi hiện hạnh. Chúng ta nếu miễn cưỡng làm một phép so sánh, thì không ngại nói là ấn tượng trong ý thức của ta và người. Ta và người mỗi khi có khởi tâm động niệm, cho đến ngôn ngữ hành vi, không kể là thiện hay ác, trong ý thức tất có lưu giữ ấn tượng, đây tức là nghiệp chủng vào trong ruộng thức thứ tám, ruộng thức thứ tám là thức A Lại Da. Ta và người ở nơi ngôn ngữ và hành vi của thân tâm cho ấn tượng lưu giữ trong ý thức, tuy có cạn có sâu, nhưng đều không do sự lâu hay tạm của thờ