Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quan Điểm Của Phật Giáo Đối Với Các Tôn Giáo Khác

07 Tháng Sáu 201400:00(Xem: 7963)
Quan Điểm Của Phật Giáo Đối Với Các Tôn Giáo Khác

Quan điểm của Phật giáo
đối với các tôn giáo khác

HT. K. Sri Dhammananda
Thích Nữ Giới Hương dịch

Mục đích của bài viết này là để hổ trợ trong việc gia tăng sự hiểu biết tốt hơn về tôn giáo, sự khoan dungý nghĩa sâu sắc của các tôn giáo khác từ quan điểm của phật giáo, hay nói cách khác là để tìm hiểu thế nào là thái độ của phật giáo đối với các tôn giáo khác .

Ý nghĩa sâu sắc của tôn giáo là ở chỗ duy trìkính trọng tôn giáo của riêng mình nhưng không để mất đi sự kính trọng đối với các tôn giáo khác . Từ đó, chúng ta sẽ thiết lập một sự hiểu biết hổ tương, hợp táckhoan dung giữa những nhà tôn giáo với nhau để tất cả cùng đạt đến sự đòan kết và lợi lạc.

Người ta luôn nói về lòng bác ái của tôn giáo và tầm quan trọng của nó, nhưng ít khi chú trọng đến cách tu tập để đạt đến sự khoan dung độ lượng này. Ở đây cũng hy vọng rằng trong mục tiêu nhắm đến của bài viết, độc giả có thể có được một hình ảnh rõ ràng hơn về tánh cách độ lượng của tôn giáocố gắng để thăng hoa tính độ lượng đó. Chúng ta nên cố gắng lọai bỏ cái gọi là phức cảm tự tôn luôn cho mình là hơn người, ngờ vực lẫn nhau, định kiến tôn giáo và các động cơ ích kỷ, để làm tốt đẹpnâng cao tôn giáo mà mình đang kính trọng. Do đó, tìm hiểu tôn giáo là điều cần thiết.

Tất cả những người có tôn giáo phục vụ cho một nguyên lý chung của nhân lọai là giải thóat và gíac ngộ . Việc truy tìm gíac ngộ và giải thoát là việc tìm cầu chân lý. Bất hạnh thay! Chính trong chúng ta có nhiều cách thực tậpniềm tin tôn giáo buồn cười mà được mô tả giống như tương tợ chân lý, mà thực sự là chúng cách xa chân lý. Đối với những nhà tôn giáo chân chính chúng ta phải có can đảmlòng tin để xác định rằng những gì là nhận thức sai lầmcố gắng để chỉnh lý nó làm cho phù hợp với khoa học và hợp lý để đáp ứng các yếu tố cần thiết của chân lý. Chúng ta sẽ thất bại, nếu chúng ta cố bám víu vào những điều mà chúng ta biết không phải là chân lý. Chúng ta sẽ sai lầm nếu trong việc tu tập tánh khoan dung, mà không tương xứng, không phù hợp với chân lý. Trong việc truy tìm chân lý, chúng ta nên lọai bỏ các thái độ tranh đua hơn thua mà phải hợp tác làm việc để đạt mục tiêu cao thượng của chúng tahòa hợp tôn giáo vì lợi ích của nhân lọai.

Đức Phật đã chỉ ra rằng khi ngài còn tại thế có nhiều cách tu tập tại Ấn không có chấp nhất về các giá trị tôn giáo nào, ngài đã nhã nhặn khuyên những đệ tử của mình bố thí đồ ăn cho các bà la môn cùng những người khất sĩ khác và cổ vũ họ một cách bình đẳng, bất luận họ theo tôn giáo nào. Đức Phật cũng đã khuyên các đệ tử không làm tổn thương đến các tu sĩbà la môn và Ngài đã hòa giải các tu sĩ cũng như các bà la môn hòa hợp lại với nhau. Đức Phật đã nói rằng khi một người lừa gạt bà la môn, một tu sĩ hoặc người nghèo bằng cách nói dối, điều này là nguyên nhân đọa lạc của người đó. Vì vậy, ngài đã cư xử chân thật, tốt bụng đối với tất cả mà không có sự phân biệt nào hết.

Mục đích của phật giáo là hướng dẫn mọi người sống đời sống thánh thiện, không bao giờ có tâm hãm hại người khác, trau giồi phẩm chất con người để đạt chân giá trị nhân bản, tỏa sáng lòng từ bi bao la, bình đẳng đến tất cả không có sự phân biệt, tu tập tâm tránh làm điều ác và thanh tịnh để đạt an lạchạnh phúc.

Phật giáo là một tôn giáo hướng dẫn con người "biết sống và bảo vệ sự sống". Trong lịch sử thế giới không có sự kiện nào cho thấy rằng người phật tử đã làm điều nguy hại đối với tôn giáo khác ở bất cứ nơi nào trên thế giớimục đích truyền bá phật pháp. Người phật tử không xem sự tồn tại của các tôn giáo khác như là một chướng ngại đối với hạnh phúcan lạc của nhân gian.

Thông điệp của Đức Phật là một sự mời gọi tất cả mọi người gia nhập vào tình huynh đệ bao la để tạo sức đòan kết vì an lạchạnh phúc của con người. Ngài đã không có lựa chọn người và chính Ngài cũng không xem mình là người được chọn.

Tăng đòan truyền bá chánh pháp đầu tiên của Đức Phật là những bậc A la hán (những bậc thánh thiện hòan tòan). Họ là những người cao thượng do sự nỗ lực, tinh cần về sự xã ly và tu tập đạt đến sự hòan thiện. Trước khi gởi những đệ tử này, Đức Phật đã khuyên họ như sau:

"Này các tỳ kheo, hãy lên đường vì lợi ích cho số đông, vì an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích an lạc cho chư thiên và lòai người. Này các tỳ kheo, hãy tuyên thuyết giáo pháp cao thượng, để đưa đến một đời sống thánh thiện, hòan tòan thanh tịnh".


Theo lời khuyên này, Đức Phật muốn nói với tất cả mọi người sự khác biệt giữa thiện và ác, Ngài muốn dạy con người phương cách sống để đưa đến một đời sống hạnh phúc an lạclợi ích. Ngài không bao giờ khuyên các đệ tử của mình cải đạo người khác từ tôn giáo này sang tôn giáo khác. Lý tưởng giáo hóa của Ngài là giới thiệu cách sống chân chánh thánh thiện.

Đức Phật không chỉ trích, lên án bất kỳ tôn giáo nào mà trái lại gíac ngộ con người bằng việc chỉ cho họ sự vô ích của hai cực đoan : hành xác và hưởng dục và tránh việc thực hành những điều vô nghĩa hoặc mê tín dưới nhãn hiệu tôn giáo.


1. Tôn giáo chân chánh

Để trả lời cho câu hỏi cái gì cấu thành một tôn giáo đích thực, Đức Phật đã đưa ra một sự khẳng định vô tư rằng bất kỳ nơi nào pháp Tứ diệu đếBát chánh đạo được tìm thấy, nơi nào có người tu tập chân chánh để đạt đến tiến bộ tâm linh thì nơi đó được coi là tôn giáo đích thực. Ngài đã không nói rằng phật giáotôn giáo chân chánh duy nhất trên thế gian này mà ngài lại cổ vũ con người chấp nhậntôn kính chân lý đối với bất kỳ nơi nào chân lý thật sự được tìm thấy. Điều này có nghĩa là chúng ta không nên xem thường các lời dạy hợp lý của những tôn giáo khác. Một thái độ như vậy rõ ràng cho thấy rằng Đức Phật không bao giờ có thành kiến đối với các tôn giáo khác, Ngài cũng không độc quyền nắm giữ chân lý. Ngài muốn chỉ ra một điều duy nhấtchân lý và tất cả các lời dạy của Ngài là dựa trên Tứ diệu đế: chân lý về khổ, nguyên nhân của nó, sự đọan diệt khổcon đường đưa đến sự đọan diệt khổ.

Lúc nào Đức Phật cũng khuyên các đệ tử của Ngài làm những điều cần nên làm, không chỉ vì lợi íchhạnh phúc của riêng mình mà còn vì lợi íchhạnh phúc của những người khác. Ngài đã nói: " Nếu điều đó tốt cho bạn và người khác thì cần nên làm. Ngược lại, nếu điều đó có hại cho bạn và những người khác thì không nên làm". Là một nhà cải cách xã hội, Đức Phật đã khám phá ra cội gốc sâu xa của khổ đau nhân loại – là tham sân si đã cắm sâu trong tâm con người. Do đó, chỉ có sự cải thiện đúng đắn nơi tâm con người mới có thể mang đến hiệu quả. Sự cải thiện dựa trên thế giới bên ngoài bằng thế lực hoặc sức mạnh thì chỉ có thể kéo dài trong một thời gian ngắn, nhưng sự cải cách xuất phát từ chuyển hóa nhận thức bên trong của con người thì lâu bền hơn.

Cái bất thiện có khuynh hướng tăng trưởng tham, sân, si phải được vượt quachuyển đổi bởi sức mạnh của từ bitrí tuệ. Chính ngang qua sự thanh tịnh tâman lạchạnh phúc có thể được mang đến một cách hữu hiệu thông qua tôn giáo.

Phật giáo đã trở thành tôn giáo có tăng đòan truyền giáo đầu tiên trên thế giới. Cách đây gần 2300 năm, nhờ nỗ lực nhiệt tâm của Hòang đế A Dục (305-268 trước Tây lịch) (là người đạt đến đỉnh cao của khát vọng quyền lực, đã từ bỏ chiến tranh bạo động giết người để trở thành một người phật tử thuần thành ủng hộ phật phápvăn hóa phật giáo trong thời gian trị vì của mình). Ngài đã phái các đòan truyền bá chánh pháp, gồm cả con trai và con gái của mình đi khắp đất nước Ấn độ và nước ngòai để mang thông điệp cứu khổ của Đức Phật đến với mọi người. Vận dụng truyền thống cao thượng của Đức Phật, nhà vua đã không bao giờ quên nhắc nhở những sứ gỉa truyền giáo này được chỉ trích hay xem thường bất kỳ tôn giáo khác trong khi đang thuyết giảng phật pháp. Lời khuyên này đã được khắc trên trụ đá của vua A Dục bằng chữ Phạn và ngày nay những tàn tích này vẫn còn được thấy ở Sarnath, Ba La Nại, Ấn Độ.

Trụ đá ghi như sau:

"Chúng ta không nên tôn trọng chỉ riêng tôn giáo của mình và chỉ trích các đạo của những người khác mà nên tôn trọng các tôn giáo khác vì lý do này hay lý do khác . Với việc làm này, chúng ta mới giúp tôn giáo của mình phát triển và làm cho sự nghiệp truyền bá của các tôn giáo khác cũng phát triển. Ngược lại với hành động này, là chúng ta tự chuốc lấy tai họa cho tôn giáo mình và cũng tổn hại cho đạo khác. Bất kỳ ai tôn trọng đạo của mình và chỉ trích các đạo khác, rồi cho rằng làm như vậy là trung thành với tôn giáo của mình, nghĩ rằng "Tôi sẽ mang vinh quang về cho đạo của mình". Vì vậy, sự hòa hợp là tốt nhất: " Hãy lắng nghe tất cả và sẳn lòng lắng nghe những giáo lý mà các tôn giáo khác tuyên thuyết".


Các dân tộc ở Á Châu đã có nhiều lý do để biết ơn vị đại hòang đế này. Là một nhà cai trị, ngài đã làm tròn bổn phận ủng hộ các tôn giáo khác mà không có sự phân biệt.


2. Hòa hợp tôn giáo

Các nguyên lý tôn giáo đều có mục đích phục vụ con người. Nếu có nhóm cá biệt nào của nhân lọai mà không áp dụng các đức tính cao quý được dạy bởi tôn giáo như là từ bi, kiên nhẫn, khoan dunghiểu biết thì sẽ khó cho những người khác chung sống hòa bình.

Đó là điều rất tự nhiên đối với người ích kỷ, xảo quyệt để lợi dụng lòng tốt nhưng hãy để cho tất cả những nhà tôn giáo ngày nay nhớ rằng những người đấu tranh, những cuộc đổ máu dưới danh nghĩa tôn giáo, không theo các nguyên lý tôn giáo và không phục vụ nhu cầu con người. Họ đấu tranh vì lợi ích cá nhân hoặc là quyền lực bởi việc dùng danh nghĩa tôn giáo. Những người tu tập tôn giáo chân chánh không có lý do nào để đấu tranh, họ nên hòa giải các vấn đề của họ trong tánh cách hòa bình. Một tôn giáo chân chánh không bao giờ khuyến khích bất kỳ hình thức bạo động nào dưới bất kỳ hòan cảnh nào. Đồng thời không có sự phân biệt chủng tộc khi người ta thực hành phương pháp tu tập. Người phật tử có thể sống và làm việc với những người khác đạo mà không có bất kỳ thái độ thù địch nào. Người phật tử không bao giờ có máu đổ trong sự phân biệt khác nhau giữa họ với những tôn giáo khác vì lợi ích của tôn giáo.

Ngày nay vì sự hung bạo đã và đang tiếp tục bành trướng dưới danh nghĩa tôn giáo, nhiều người đã trở nên thất vọng khi đề cập đến từ "tôn giáo " .

Chủ nghĩa duy vật, đạo đức giả và sự cuồng tín đang giả trang dưới chiêu bài tôn giáo đã gây ra thảm hại ghê gớm nhất trong lịch sử nhân lọai. Gía trị tôn giáo đích thực là sự biến mất nhanh chóng khỏi tâm con người khi họ đi tìm sự huyền bí sâu kín. Các tôn giáo lớn của thế giới đang lao vào trong vô số hình thức khiến cho một số người nhạo báng tôn giáo . Đã đến lúc các nhà tôn giáo hãy cùng nhau đưa các giá trị tôn giáo vào trong một bối cảnh thích hợp, thay vì chỉ tranh luận trên sự khác biệt của các ý thức hệ hoặc thần học của tôn giáo.

Tôn giáo không nên giới hạn ở sự thờ phượngcầu nguyện. Tôn giáo không có phải là một phương tiện cho sự thuyết giảng suông mà là một phương tiện thực tiễn cho con người họat động vô hại, có đóng góp cho nhân lọai, đạt đến an lạchạnh phúc chân thật.

Các tôn giáo khác nhau có thể có những niềm tin và những quan điểm khác nhau đối với sự khởi đầu và chấm dứt của sự sống, cũng như sự diễn giải khác nhau về việc giải thóat tối thượng. Nhưng chúng ta không nên bận tâm đối với những vấn đề không đồng nhất tạo ra sự xung đột, mâu thuẫn, hiểu lầm, hận thù và đấu tranh.

Có nhiều đức tính chung đủ để các nhà tôn giáo trình bày lý thuyếtthực tập, để con người có thể sống đời sống chân chánh, an lạc và có văn hóa.

Chúng ta không nên xem thường và khiển trách những người khác. Nếu làm như vậy, chúng ta mở đường cho các nhóm chống tôn giáo đang sẳn sàng nhạo bángchỉ trích các tôn giáo. Chúng ta không nên cư sử trong cách như vậy, khi bày tỏ thái độ thù địch của chúng ta đối với các nhà có tôn giáo. Nếu chúng ta làm như vậy, người ta sẽ nói rằng tôn giáo khuyến khích chúng ta chia rẻ.

Phật giáo không cấm đóan việc bày tỏ lòng tôn kính đối với các đạo sư của các tôn giáo khác , cũng không hạn chế họ thăm viếng chiêm bái các nơi thờ phượngthánh tích ngòai phật giáo. Họ có thể bày tỏ sự hợp tác trong khi tu tập các nguyên lý căn bản của phật giáo.

Phật giáo khuyến khích sự hợp táchiểu biết trong các tôn giáo khác. Từ quan điểm này của phật giáo, thì nhãn hiệu tôn giáo không phải là điều quan trọng nhất đối với người được xem là tôn giáo, nhưng một người hướng dẫn đời sống tâm linh thánh thiện, vô hại có thể được xem nhưtôn giáo.

Những người vạch lỗi và chỉ trích phật giáo chỉ có thể làm được điều đó ở mức độ cạn cợt. Họ có thể chỉ trích các pháp môn tu tập truyền thống, các cách thức và lễ nghi nhưng không thể chỉ trích nguyên lý đã được Đức Phật thiết lập. Vì những nguyên lý này là hòan thiện ở mọi thời. Mọi người có thể tu tập được những nguyên lý này nếu họ muốn.

Các phương pháp dùng để giới thiệu giáo pháp của Đức Phật đều khế lý và khế cơ. Đức Phật đưa ra chân lý này ngang qua lí trí và thực nghiệm. Lời dạy này được trình bày rõ ràng, giản dị, gây ấn tượng sâu sắc và rõ ràng giúp cho tâm con người chúng ta không điên đảo và trở nên sáng suốt. Phương pháp này hiển nhiên làm sáng tỏ những nghi ngờ và lọai bỏ những mê tín mù quáng, hạn hẹp. Vì vậy, lời dạy của Đức Phật đã thuyết phục tâm và trí của những người thiết tha tìm cầu chân lý. Quan điểm phật giáo về sự khoan dunghiểu biết cũng đã thuyết phục những nhà tư tưởng lớn, triết gia, nhà duy lý, nhà tư tưởng tự do, nhà theo thuyết bất khả tri… đều đánh giá phật giáo là một phương thức sống an lạc.

Theo Đức Phật, con người do tính tự ngã mạnh mẽ nên phân biệt có sai khác. Khi điều này lắng dịu thì mối quan hệ lành mạnh giữa những con người với nhau sẽ phát triển. Tìm cầu cách sống hòa bình, an lạc phải bắt đầu từ bên trong buông xã những thủ chấp này chứ không phải bên ngoài mà được.

Nếu các nhà tôn giáo ngày nay không thể cùng nhau làm việc trong sự hòa hợp, bình đẳng không có sự phân biệt hoặc thái độ thù nghịch đối với người khác thì hòa bình mà chúng ta nói đến sẽ chỉ là trong giấc mơ mà thôi.

Khi những nhà tôn giáo chân chánh, thật lòng nối vòng tay lớn, hợp nhất những nỗ lực lại với nhau thì sẽ loại trừ được tất cả những tranh luận, và phân biệt giáo lý sai khác, và sẽ cố gắng phổ biến những giá trị tâm linh của những tôn giáo khả kính của chúng ta vì sự an lạchạnh phúc cho con người, mà không phân biệt tín ngưỡng hoặc chủng tộc nào. Chúng ta cũng nên nhớ rằng tôn giáo hiện hữu vì lợi ích của nhân loại và như vậy không nên lạm dụng một cách quá mức trong bất cứ cách nào chỉ vì cho lợi íchvinh quang của cá nhân.


3. Sự hợp nhất

Hãy để những nhà tôn giáo hòa hợp mà không dùng chủ nghĩa quân phiệt tôn giáo. Hãy để họ hợp nhất để chấm dứt tất cả hành động hung bạo và sát nhân trong danh nghĩa chiến tranh. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để mang lại tự do cho con người, và để tìm thấy một tôn giáo theo đức tin của họ. Hãy để các tôn giáo đòan kết lại với nhau để loại trừ tư tưởng độc quyền tôn giáo. Hãy để các tôn giáo thống nhất lại không dùng tôn giáo ở nơi buôn bán cho việc thuyết phục những người khác bằng cách tuân theo những phương thức không rõ ràng. Hãy để các tôn giáo hòa hợp lại để tôn trọng niềm tinphương pháp tu tập của người khác, miễn là tín ngưỡng và sự tu tập này không tổn hại và lừa dối mọi người. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để tẩy sạch những thái độ thách thức của việc chạy đua tôn giáo không lành mạnh. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để loại trừ những đồi bại, những cách tu trái luân lý đang phổ biến trong xã hội hiện đại. Hãy để các tôn giáo hòa hợp để giới thiệu cách sống ôn hòa giữa những tín đồ của họ và khuyên họ không đi vào các cực đoan.

Các nhà sáng lập của mỗi tôn giáo đã có những mục tiêu căn bảnhòa hợp nhân loại – để nuôi dưỡng sự đòan kết, thiện chí và sự hiểu biết giữa tất cả mọi người trên thế giới.

Theo đường hướng này, nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo khác cũng đã tìm cách để phát triển lãnh vực sâu sắc này vì đức tin của người khác. Tuy nhiên, bất hạnh thay, một số tín đồ nào đó của mỗi tôn giáo, vì những lý do ích kỷ cá nhân và tâm hẹp hòi, không độ lượng đã đi ngược với tôn chỉ đích thực của tôn giáo và do vậy đã tạo ra sự hỗn độn, hiểu lầm, phân biệt và không khoan dung.

Chúng tôi tha thiết hy vọng từ sự nhận thức các sự kiện này, một ngày nào đó nhân loại sẽ bắt tay nhau làm việc hòa hợp trong tình huynh đệ bao la vì lợi íchan lạc của tất cả mọi con người trên hành tinh này.

Cuối cùng, kính trọng tôn giáo của người khác sẽ làm nảy sinh sự tự tin cho tôn giáo của chính mình.

{Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "The Buddhist Attitude towards other Religions" của Đại lão HT. K. Sri Dhammananda, trong tác phẩm " Các Viên Ngọc Trí Tuệ của phật giáo "( Gems of Buddhist Wisdom), CBBEF, Taiwan, 1996, trang 497-508}

(Đạo Phật Ngày Nay)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 73)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 148)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 168)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 224)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 204)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 191)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 320)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 530)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 768)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 806)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 811)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 696)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 687)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 690)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 794)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 817)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 914)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 687)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 587)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 687)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 805)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 686)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 790)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 795)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 865)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 922)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1175)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1093)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1101)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1240)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1510)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1319)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1066)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 922)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1044)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1080)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1497)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1252)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1261)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 993)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1155)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant