Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Giáo Trong Xã Hội Hiện Đại

12 Tháng Bảy 201421:26(Xem: 8701)
Phật Giáo Trong Xã Hội Hiện Đại

Phật Giáo trong xã hội hiện đại

Ni sư Thubten Chodron
Lược dịch: Huệ Pháp

blank



Ứng dụng giáo lý Phật giáo trong xã hội hiện đại như thế nào?

Đây là khía cạnh quan trọng trong xã hội hiện nay. Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày, trong mối liên hệ với gia đình, với bạn bè đồng nghiệp, với những người xung quanh trong cùng đất nước, và với những người khác ở những nước khác. Chúng ta cần đem giáo lý về tình thương của đức Phật đến với những người đồng nghiệp, những người trong gia đình, thậm chí những người ở cửa hàng tạp hóa hay trong phòng tập thể lực. Việc đem tâm từ đến với mọi người đó không phải là cách rải truyền đơn như những người cầm tờ rơi phát quảng cáo ở các ngã tư đường mà phải xuất phát từ chính bản thân chúng ta, chính chúng ta phải sống trong tinh thần từ bi đó, rồi mới áp dụng nó trong xã hội. Một khi, tâm từ xuất phát từ chính con tim của mình thì tự động sẽ ảnh hưởng một cách tích cực đến mọi người xung quanh. Ví dụ, chúng ta dạy con cái về lòng thương yêu, tha thứkiên nhẫn nhưng không chỉ là lời nói mà còn phải xuất phát từ hành động của chính mình, những đức tính chúng ta dạy cho con trẻ phải xuất phát từ chính lối cư xử của mình.

1. Dạy cho con tính thương người.

Nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ dạy con trẻ nuôi dưỡng lòng hận thù, chúng sẽ không bao giờ tha thứ khi người khác xâm hại đến bản thân. Đôi khi bạn dạy cho con mình ghét một ai đó trong gia đình chỉ vì mình ghét người đó. Điều đó khiến cho con mình bị một chiếc hố ngăn cách với các thành viên còn lại trong gia đình. Đôi khi cũng có người dạy con cái của họ rằng, cách tốt nhất để giải quyết vấn đề tranh cãi với ai đó là không bao giờ nói chuyện với họ. Điều đó, theo bạn có giúp cho họ có được hạnh phúc và lòng thương người không? Hãy nghĩ một cách thấu đáo về điều này để đảm bảo rằng bạn chỉ dạy cho con mình những gì có giá trị, những gì là tốt nhất.

Một minh hoạ rõ ràng nhất chính là tự soi rọi ngay chính trong tâm mình. Một khi tâm oán hận, lòng căm thù, hay mối ác cảm khiến bạn đau khổ, lẽ nào bạn lại truyền những mối độc hại đó, những cảm thọ đau khổ đó cho đứa con yêu dấu của mình. Đừng bao giờ dạy cho con mình những cảm thọ khó chịu đó.

2. Mang tâm từ đến trường học

Chúng ta mang tâm thương yêu không chỉ trong gia đình mà còn trong môi trường giáo dục (trường học). Một điều rất quan trọng là trẻ con đến trường không chỉ thu thập về thông tin mà còn học cách làm người và cách giải quyết những vấn đề nan giải trong cuộc sống của chúng. Các bậc phụ huynh và thầy cô bỏ ra nhiều thời gian và tiền bạc để dạy cho con trẻ nào là các môn khoa học, văn học, địa lý, lịch sử, vi tính v.v... nhưng họ có bỏ chút thời gian nào để dạy cho con trẻ lòng thương người? Chúng tamôn học nào dạy về cách trao truyền lòng thương yêu chưa? Chúng ta có dạy cho trẻ cách đối diện với những cảm thọ tiêu cực và cách để giải quyết mối bất hòa một khi xảy ra giữa bọn trẻ với nhau? Tôi nghĩ điều này quan trọng hơn là những môn học tại trường. Tại sao? Trẻ em có thể biết rất nhiều nhưng khi chúng trưởng thành với tâm ác cảm, thù hận hay hám danh thì cuộc sống của chúng liệu có được hạnh phúc?

Các bậc phụ huynh đều luôn muốn cho con mình có được một tương lai xán lạn, nên nghĩ rằng con mình cần phải có nhiều tiền. Họ đầu tư cho con mình học những môn học để sau này có được một công việc tốt, làm ra nhiều tiền - như thể tiền là nguyên nhân đem lại hạnh phúc vậy. Khi một người sắp hấp hối, gần kề cái chết, ta không bao giờ nghe họ nói về kế hoạch kiếm tiền hay nói về số tiền mà họ đã kiếm được trong quá khứ, mà chỉ nghe họ hối tiếc về những gì họ đã làm sai trong cuộc đời của họ. Họ sẽ mong mọi người tha thứ cho những sai lầm mà họ đã làm. Nếu bạn muốn con của mình có được một tương lai tươi sáng thì không chỉ dạy cách kiếm tiền mà còn cách sống, cách đạt được hạnh phúc.

3. Dạy cho con biết cách chia sẻ.

Có những bậc phụ huynh cư xử theo lối này: khi con trẻ đi học về, chúng đòi cha mẹ mình mua những thứ mà bạn đồng lớp có, kiểu như: “Bố, mẹ, con muốn cái quần Jean này, con muốn đôi bông tai mới, con muốn cái mà thằng bạn con có…”. Rồi những bậc cha mẹ đó nói con trẻ như sau: “Những thứ đó không đem lại niềm vui thích nào đâu con, không đem lại hạnh phúc, con không cần thiết để có nó đâu”. Nhưng sau đó họ lại ra ngoài mua những thứ mà những người khác có cho mình, thậm chí những thứ trong nhà đã có và ít sử dụng. Trong trường hợp này, những gì họ nói và làm trái ngược nhau. Bạn nói con trẻ tập chia sẻ cho người khác nhưng bạn lại không bao giờ làm từ thiện, hay chia sẻ những thứ không dùng cho người nghèo hay những người cần. Có một số người, trong nhà họ có rất nhiều thứ mà họ rất ít khi hay hầu như không dùng tới nhưng không bao giờ cho người khác. Tại sao? Họ sợ rằng nếu cho đi, họ sẽ lại cần đến nó trong tương lai. Chúng ta không thực hành hạnh bố thí, chia sẻ nhưng lại dạy cho con cái của mình tập tánh chia sẻ. Cách đơn giản nhất cho việc dạy con trẻ lòng rộng lượng là bảo chúng cho đi những thứ không dùng hồi năm ngoái. Có rất nhiều người nghèo và họ rất cần những thứ đó để dùng, vì thế, điều này sẽ giúp cho chính chúng ta, cho con cái chúng ta thực tập hạnh chia sẻ này.

Một cách khác để dạy cho con cái mình lòng tốt là không mua những thứ mà chúng muốn. Thay vào đó, khuyên con mình nên dành dụm số tiền đó để làm từ thiện, cho người nghèo. Bạn có thể dạy cho con mình từ những ví dụ mà bản thân mình đã trải nghiệm, điều đó sẽ khiến con mình dễ hình dungdễ hiểu hơn.

4. Dạy cho con về cách đối xử với thiên nhiênsử dụng đồ tái chế.

Tiếp theo là dạy cho con mình về môi trường và các sản phẩm tái chế. Bảo vệ môi trường mà chúng ta cùng sống với mọi ngườivạn vật là cách thực tập lòng từ bi. Nếu ta phá hủy môi trường thì chúng ta gây hại đến cho người khác. Ví dụ, nếu chúng ta sử dụng nhiều đồ dùng sử dụng một lần rồi bỏ, không sử dụng lại thì chúng ta đã tặng những thứ đó cho thế hệ con cháu sau này. Con cháu chúng ta sẽ thừa kế đống rác khổng lồ đó. Tôi rất mừng khi thấy nhiều người sử dụng đồ tái chế và sử dụng lại những thứ không đáng vứt bỏ đi. Đó là một phần thực tập trong giáo lý Phật giáo. Chùa hay các trung tâm Phật giáo phải đi đầu trong việc bảo vệ môi trường và sử dụng đồ tái chế.

Đức Phật không trực tiếp chỉ dạy nhiều vấn đề phức tạp xảy ra trong cuộc sống hiện đại này như việc sử dụng đồ tái chế, bởi thời của Ngài, không có việc này. Nhưng Ngài đã dạy những phương phápchúng ta có thể áp dụng trong những tình huống xảy ra trong thời hiện đại. Những phương pháp này giúp chúng ta giải quyết được những vấn đề trong thời đại mới mà nó không tồn tại cách đây 2500 năm.

5. Những cái nghiện mới trong xã hội hiện đại.

Đức Phật đã trực tiếp dạy chúng ta về tác hại của các chất gây say và khuyên chúng ta không sử dụng các chất gây hại này. Thời đức Phật, chất gây say chính là rượu. Suy rộng ra, lời dạy của đức Phật còn khuyên không dùng các chất ma túy hay lạm dụng các chất an thần. Rộng hơn nữa, chú ý những thứ khiến chúng ta nghiện hay đam mê có trong cuộc sống hiện nay là truyền hình. Trong xã hội hiện đại này, con người rất dễ nghiện phương thức giải trí này. Ví dụ, sau khi đi làm về, chúng ta mệt và muốn thư giản. Làm gì để thư giản? Chúng ta ngồi xuống và bật truyền hình lên, ngồi trước máy vô tuyến hàng giờ đồng hồ và thiếp đi. Tiền nhân của chúng ta, những người đã đạt được giải thoát cứu cánh, không bỏ phí thời gian để xem vô tuyến hay các thú giải trí khác. Đôi khi, có những chương trình truyền hình nào đó đem lại sự tệ hại hơn là nghiện rượu và ma tuý, đó là những chương trình có những cảnh bạo lực, chết chóc. Chúng ta cần tránh cho con trẻ xem những chương trình độc hại như thế này. Cha mẹ phải lựa chọn những kênh truyền hình nào phù hợp với lứa tuổi của con mình.

Mua sắm cũng là một cái nghiện khác không kém phần quan trọng trong xã hội hiện nay. Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe về điều này nhưng hoàn toàn đúng, các nhà tâm lý học đã nghiên cứu về cái nghiện shopping này. Một vài người nào đó, tâm trạng buồn chán, họ thích uống rượu hay dùng ma túy để giải sầu. Còn những người khác thì lại chọn cách khác, tới các trung tâm mua sắm, siêu thị để giải khuây. Họ mua những thứ mà có khi họ không cần tới, chỉ để vơi đi nỗi buồn. Họ đang cố quên đi nỗi đau trong tâm họ bằng cách mua sắm. Thậm chí, có người chỉ đến siêu thị, lang thang hàng giờ đồng hồ chỉ đề nhìn ngắm, rồi khi trở về nhà, tâm trạng cũng chẳng thể nào khá hơn.

Một cái nghiện khác là ăn quá nhiều hay ăn quá ít. Trong trường hợp này, để giải quyết nỗi buồn, người đó đã dùng biện pháp ăn uống. Tôi thường xuyên nói đùa rằng, “tam bảo” của người Mỹ là: xem ti vi, đi shopping và tủ lạnh (chứa thức ăn). Đó là ba thứ mà người Mỹ quy y (quay về và nương tựa)! Những thứ đó, chắc chắn không đem lại hạnh phúc nào cả mà còn khiến chúng ta thêm rắc rối. Nếu chúng ta có thể xoay chuyển “tam bảo” của người Mỹ thành Tam Bảo của Phật pháp (Phật - Pháp - Tăng) thì chúng ta sẽ có nhiều hạnh phúc hơn. Trong đời sống hằng ngày, việc thực tập những lời dạy của đức Phật có thể giúp chúng ta giải quyết được những tâm tư bất ổn của mình. Ví dụ, khi chúng ta mệt hay bị stress, chúng ta có thể thư giản bằng cách niệm danh hiệu của đức Phật hay lạy Phật. Trong khi niệm danh hiệu hay lạy Phật, chúng ta tưởng tượng đức Phật từ bi đang hiện diện trước mặt, hào quang của Ngài đang chiếu khắp thân thể của mình, xóa tan đi bao nhiêu nỗi phiền muộnmệt mỏi trong tâm. Vài phút sau, chúng ta sẽ cảm thấy thân thể trở lại cân bằng, đầu óc lại tỉnh táo. Cách thư giản này chắc chắn là rẻ và dễ dàng hơn là ‘quay về và nương tựa’ nơi ti vi, siêu thị và tủ lạnh.

Hãy thử một lần xem!!!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 65)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 144)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 223)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 188)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 718)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 798)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 801)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 684)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 793)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 676)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 683)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1087)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1087)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1232)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1318)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1062)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 918)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1042)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1078)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1238)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1255)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1149)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant