Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

12.12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký Thứ Mười Hai

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 7994)
12.12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký  Thứ Mười Hai
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999


XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

12. Phẩm Đại Tự Tại Thiên Thọ Ký
Thứ Mười Hai


 
 Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất : “Thuở quá khứ xưa, đức Đại Uẩn Như Lai Đẳng Chánh GiácĐồng Tử Tinh Tấn Hành mà nói rộng pháp tứ vô lượngsáu Ba la mật rồi. Đức Đại Uẩn Phật lại nói với Tinh Tấn Hành Đồng Tử rằng : Thế nào là đại Bồ Tát tùy nhiếp pháp chuyển? Đại Bồ Tát có đủ bốn nhiếp pháp , do đây mà đại Bồ Tát mãi mãi nhiếp lấy chúng sanh.
 Những gì là bốn? Đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
 Những nhiếp pháp ấy thế nào ? Bố thí có hai thứ là tài thípháp thí. Ái ngữ là đối với tất cả người đến cầu xin hoặc muốn nghe pháp, Bồ Tát đều hay nói lời mến thương ủy dụ. Lợi hành là hay làm đầy đủ theo ý thích ưa của mình của người. Đồng sự là tùy mình có những trí và công đức vì người mà diễn nói nhiếp thọ xây dựng tất cả chúng sanh cho họ an trụ hoặc nơi trí hoặc nơi pháp.
 Lại nầy Đồng Tử! Ở nơi các chúng sanh đến cầu xin thì tâm ý thanh tịnh, đây là bố thí. Dùng lời lành an ủi, đây là ái ngữ. Làm cho đầy đủ thành tựu nghĩa lợi, đây là lợi hành. Hiện hành tâm bình đẳng làm thành nghĩa lợi cho họ, đây là đồng sự.
 Lại nầy Đồng Tử! Bố thíchư đại Bồ Tát phát ý hành xả. Ái ngữphương tiện vô gián. Lợi hành là thâm tâm không hối. Đồng sựhồi hướng Đại thừa.
 Lại bố thí là theo từ tâm mà thật hành xả. Ái ngữ là thường chẳng bỏ rời tâm hoan hỉ. Lợi hành là thành tựu đại bi tâm thường ưa thích việc lợi ích chúng sanh. Đồng sự là tu xả bình đẳng không cao hạ tâm luôn hồi hướng Nhứt thiết chủng trí.
 Lại bố thícầu tài đúng pháp thường nghĩ bố thí cứu nghèo thiếu.
 Ái ngữ là đã bố thí rồi còn an trí họ ở nơi pháp nghĩa.
 

 Lợi hành là tự lợi lợi tha bình đẳng nhiếp lấy.
 Đồng sự là vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh nên cứu cánh phát tâm Nhứt thiết chủng trí.
 Lại bố thí là tất cả sở hữu trong ngoài đều xả ly cả.
 Ái ngữ là nơi tất cả công đức trí huệ không hề giấu tiếc.
 Lợi hành là xả tự lợi chuyên lo lợi tha.
 Đồng sự là nhiếp tài vật như để trong bàn tay rồi tùy duyên ban cho lòng không ưu sầu.
 Lại pháp thínhư pháp đã nghe nói rộng lại cho người .
 Ái ngữ là dùng tâm không ô nhiểm mà phân biệt khai thị.
 Lợi hành là dạy người đọc tụng nhẫn đến thuyết pháp không nhàm mỏi.
 Đồng sự là chẳng rời bỏ tâm Nhứt thiết trí mà đặt để chúng sanhchánh pháp.
 Lại pháp thí là vì người đến lui cầu nghe pháp, thì dạy nói đúng pháp của Phật mà chẳng tuyên nói tạp loạn.

 Ái ngữ là dùng âm thanh vi diệu khai thị chánh pháp.
 Lợi hành là đem y phục đồ uống ăn mền nệm thuốc men và những đồ thiết dụng cấp thí cho người nghe pháp hoặc người thuyết phápthiếu thốn.
 Đồng sự là thường phát khởi thâm tâm vô gián thuyết pháp.
 Lại pháp thí là vì biết rõ pháp thítối thượng trong bố thí nên Bồ Tát thường thật hành pháp thí.
 Ái ngữ là những sự lợi ích được diễn thuyết.
 Lợi hành là diễn đạt nghĩa ấy chẳng y theo văn.
 Đồng sự là muốn khiến viên mãn tất cả Phật pháp nên thường vì chúng sanh theo đúng chỗ đáng dạy mà hóa độ họ.
 Lại bố thíĐàn na Ba la mật. Ái ngữThi la Ba la mậtSằn đề Ba la mật. Lợi hành là Tỳ lê gia Ba la mạt. Đồng sựTĩnh lự Ba la mậtBát Nhã Ba la mật.
 Lại bố thí là chư Bồ Tát sơ phát tâm. Ái ngữ là chư Bồ Tát đã phát hạnh. Lợi hành là chư Bồ Tát bất thối chuyển. Đồng sự là chư Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ.

 Lại bố thí là muốn vững chắc gốc rễ Bồ đề. Ái ngữ là muốn thành tựu mầm mộng Bồ đề. Lợi hành là muốn khai phát diệu hoa Bồ đề. Đồng sự là muốn thành thục thắng quả Bồ đề.
 Nầy Tinh Tấn Hành Đồng Tử ! Đây gọi là đại Bồ Tát bốn thứ nhiếp pháp. Vì muốn tu hành đại Bồ đề nên đại Bồ đề dùng bốn nhiếp pháp ấy ở trong đêm dài nhiếp thọ chúng sanh. Đây gọi là đại Bồ Tát tùy theo nhiếp pháp mà chuyển.
 Nầy Đồng Tử ! Nhiếp pháp ấy có vô lượng vô biên đều gọi là đạo Bồ đề vậy.
 Đức Đại Uẩn Như Lai khai thị đạo đại Bồ đề như vậy, Tinh Tấn Hành Đồng Tử ở chỗ Phật nghe pháp ấy rồi, lại nghe lời khen ngợi tam thế chư Phật ; Đồng Tử ấy rất vui mừng, liền đem y phục thượng diệu, đồ uống ăn, mền nệm, thuốc men và các vật cần dùng dưng cúng đức Phật Đại Uẩn và chư Thanh Văn Tăng. Trải qua chín mươi sáu câu chi năm cúng dường cung kính tôn trọng tán thán Phật và tăng như vậy và phát nguyện đại Bồ đề.
 

 Dầu Đồng Tử ấy làm vô lượng công đức như vậy, mà đức Phật Đại Uẩn chưa thọ ký Vô thượng Bồ đề cho Đồng Tử ấy.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Ông có nghĩ Đồng Tử Tinh Tấn Hành thưở xưa kia là ai chăng ? Chính là thân ta vậy. Thuở ấy ta cúng dường, phụng thờ Phật Đại Uẩn và chư Tăng trải qua bao nhiêu năm như vậy lại phát nguyện đại Bồ đề mà chưa được thọ ký.
 Từ sau đức Đại Uẩn Như Lai diệt độ trải qua vô số kiếp, có Phật Bửu Tánh Như Lai xuất thế có tám mươi na do tha đệ tử Thanh Văn đều là đại A La Hán chứng được Đệ nhứt Ba la mật.
 Thời kỳ ấy có Chuyễn Luân Thánh Vương tên Thiện Kiến đủ bảy báu. Vua Thiện Kiến dùng luân bửu oai trấn tứ thiên hạ, trị thế với chánh pháp nên hiệu là Pháp Vương, nhơn đức nuôi người được dân chúng mến trọng, cõi nước nhơn dân chỗ ở rộng rãi. Đại thành của vua ngự trị tên Viên mãn , Đông Tây rộng mười hai do tuần. Nam Bắc rộng bảy do tuần, an ổn giàu vui, nhơn dân đông mạnh, rất đáng mến thích, có nhiều của báu, đồ dùng dư dật. Trong thành Viên mãn ấy có Trưởng giả tên Thiện Huệ nhà giàu có lớn. Trưởng giả ấy đã từng cúng dường chư Phật quá khứ gieo trồng cội công đức.
 Bấy giờ Phật Bửu Tánh Như Lai quan sát Trưởng giả Thiện Huệ biết Trưởng giả ấy thiện căn đã thục kham làm pháp thí đại Bồ Tát tạng và là pháp khí chư Phật . Đức Phật liền đến nhà Trưởng giả ấy hiện đại thần biến, ngồi kiết già trên không khai diễn đạo Bồ đề cho Trưởng giả ấy và nói lời khen tặng tam thế chư Phật.
 Nghe đức Bửu Thắng Như Lai thuyết pháp khai thị và nghe lời khen ngợi tam thế chư Phật, Trưởng giả Thiện Huệ được lòng tin thanh tịnh vui mừng lớn, liền đem y phục thượng diệu đồ uống ăn mền nệm thuốc men đồ cần dùng cúng dường Phậtchư Tăng trải qua ngàn năm và phát nguyện đại Bồ đề. Dầu vậy vẫn chưa được Phật Bửu Tánh thọ ký.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Trưởng giả Thiện Huệ thuở xưa ấy chính là thân ta vậy. Thuở ấy ta cúng dường Phật và Tăng một ngàn năm vẫn chưa được thọ ký thành Phật.
 Sau khi Phật Bửu Tánh nhập diệt vô số kiếp có đức Phật Phóng Quang NHư Lai xuất thế. Tại sao đức Phật ấy hiệu là Phóng Quang ?
 Nầy Xá Lợi Phất ! Thuở ấy nhà vua trị vì hiệu là Thắng Oán, đô thành tên Thạnh Liên Hoa, an ổn giàu vui, nhơn dân đông mạnh. Nhà vua có một đại thần dòng Bà La Môn tên Quang Chủ rất được vua mến trọng. Thắng Oán Vương cắt một phần tư nước phong vương cho đại thần Quang Chủ. Lúc sau vua Quang Chủ sanh Thái Tử thân hình đoan chánh có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, mỗi thân phần đều phóng tia sáng như mặt nhựt chói lọi, nhơn đó đặt tên là Phóng Quang.
 Quang Chủ Vương triệu tập các nhà xem tướng giỏi vào cung rồi đưa TháiTử ra cho họ xem tướng. Xem xong họ đồng quyết đoán Vương Tử sẽ làm Phật. Sau đó ít lâu Thái Tử Phóng Quang trưởng thànhtrí huệ thông đạt.
 Bấy giờ Trời Tịnh Cư Sắc Cứu Cánh dùng sức thông trí biết Thái Tử sắp lên ngôi Chánh giác, liền đến chỗ Thái Tử hữu nhiễu xong, ở trước Thái Tử mà nói kệ rằng :
 Chẳng phải ở an trong Vương cung
 Sanh được công đức thắng thanh tịnh
 Phải nhờ xuất gia mặc ca sa
 Chứng quả Vô thượng diệu Bồ đề
 Trẻ mạnh qua mau như nước chảy
 Lại còn nhanh chóng hơn gió to
 Già suy tồi tệ chẳng nên ưa
 Hư hoại những gì người đời mến
 Già suy hay làm kém thế lực
 Muốn được xuất gia cũng khó được
 Bồ Tát ngày nay tuổi tráng niên
 Phải nên kịp thời phát tinh tấn
 Lành thay lành thay bực đại huệ
 Lành thay lành thay bực đại ngộ
 Lành thay lành thay mau xuất gia
 Quyết thành Vô thượng Đẳng chánh giác.
 Được trời Tịnh cư khai ngộ, Phóng Quang Bồ Tát do lòng tin thanh tịnhxuất gia. Đương đêm xuất gia ấy liền thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác lấy hiệu là Phóng Quang Như Lai đủ mười đức hiệu được tất cả trời người kính thờ
 Bấy giờ Thắng Oán Vương đến bảo Quang Chủ Vương rằng : Ta nghe con trai khanh xuất gia thành Phật. Chẳng rõ đức Thế Tôn đại từ bi giáng lâm chăng ? Nếu đức Phật chẳng thương xót đến nơi đây, thì ta sẽ mang bốn binh chủng đến chỗ đức Như Lai để ta thân thờ cúng dường cung kính.
 Quang Chủ Vương liền hội đại thần tuyên rõ việc ấy. Chư đại thần khuyên vua phải tự đến chỗ Phật để bạch hỏi sự việc đức đại bi Thế Tôn luôn thương xót chúng sanh muốn đến chỗ Thắng Oán Vương hay là chẳng đến.
 Quang Chủ Vương liền xa giá cùng quan quân qua chỗ đức Phật Phóng Quang đảnh lễ chưn Phật rồi bạch sự việc ấy.
 Phóng Quang Như Lai nói với Phụ Vương rằng : Nay Phật sẽ đến chỗ Thắng Oán Vương vì thương xót chúng sanh vậy !
 Đức Phóng Quang Như Lai liền cùng hai mươi câu chi đại A La Hán đi qua nước Thắng oán Vương. Phụ Vương Quang Chủ cũng mang quan quân tùy tuần, sắm đủ thứ sự thường cúng dường Phật và Tăng, đến biên giới nước được trị vì, Phụ Vương lễ chưn Phật buồn khóc trở về.
 Bấy giờ Thắng Oán Vương nghe tin đức Phóng Quang Như Laiđại chúng sắp đến thành Thạnh Liên Hoa, liền truyền nghiêm sức đô thành, trừ bỏ sỏi đá rác rưới , đường sá sửa sang bằng phẳng sạch sẽ, lại rưới nước hương, rải hoa đẹp, trải y báu, treo phan lọng, trổi âm nhạc. Vua lại truyền rao trong và ngoài đô thành có bao nhiêu hương và hoa không ai được đem dùng, nhà vua sẽ mua hết để cúng dường Phật và Tăng, người nào vi lịnh sẽ bị nghiêm phạt.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Thắng Oán Vương đem những vòng hoa, hương thoa hương bột, y phục quý đẹp, tràng phan lọng báu, đánh trống trổi nhạc, lai trần thiết nghi vệ oai thế đại vương ra ngoài đô thành để được chiêm ngưỡng đức Phóng Quang Như Laikính lễ cúng dường. Vua cùng quan quân và các hào tộc Bà La Môn Trưởng Giả Cư Sĩ trong nội thành đồng đến chỗ Phật. Đã đến rồi, trước hết vua Thắng Oán đảnh lễ chưn Phật đem hoa hương phan lọng cúng dường. Kế vua truyền lịnh quan quân hào tộc dân chúng cùng đảnh lẽ cúng dường đức Phật. Cúng dường xong vua Thắng Oán có đủ tâm hoan hỉ, tâm diệu thiện, tâm ly cái chướng, tâm vui đẹp cùng chư thần dân theo sau đức Phật.
 Nầy Xá Lợi Phất !Lúc ấy có một Bà La Môn tên Trân Bửu ở cạnh núi Đại Tuyết, năm trăm nho đồng tử làm đệ tử, Bà La Môn Trân Bửu ấy được mọi người tôn trọng, danh đức đồn xa, giỏi nghệ thuật, thong đạt cứu cánh ba kinh Tỳ Đà, sách Ni Kiền Trà, luận Kế La Bà, luận Phân Biệt Tự, luận Ý Để Ha Bà, luận Ngũ Phần Ký, luận Tùy Thuận Thế, luận Từ Tự Chủ, luận Trượng Phu Tướng, ở nơi tam minh đại giáo của sự tông sư cũng hiểu rành lý thú khéo biết khai giá. Trong năm trăm đệ tử có một nho đồng tên Mê Già trí huệ thông đạt tài bằng với Thầy là Bà La Môn Trân Bửu, kham làm đạo Thủ, Mê Già thưa cùng Thầy rằng : Đại Sư nên biết cho, tất cả kinh luận được học đều đã thông đạt, nay tôi sẽ trở về sanh quán, làm sao báo đền được ơn đức Đại Sư ? Thầy bảo rằng : Nầy Mê Già! Nếu đệ tử muốn báo ơn Thầy thì dùng của báu mới rõ hậu ý. Đó là những gì ? Nếu kiếm được đủ năm trăm đồng vàng thì đủ để tỏ hết lòng.
 Mê Già vâng lời kính lễ từ Thầy mà đi. Nho đồng ấy du hành khắp thôn thành đình quán quốc ấp vương đô, xứ xứ tìm cầu của báu để tạ ơn thầy. Họp đủ số tiền ấy rồi toan đem báo ơn, đi lần đến đô thành Thạnh Liên Hoa, xa trông thấy đô thành trang trí nghiêm lệ, hỏi thăm được biết ngày ấy có đức Phóng
 

 Quang Như Lai cùng hai mươi câu chi đại A La Hán và tám vạn bốn ngàn Bồ Tát sắp nhập đô thành nên nhơn dân sắm sửa cúng dường lớn, do đó mà đô thành được trang nghiêm như vậy.
 Thoạt nghe danh hiệu Phật, Nho đồng Mê Già được đại hoan hỉ phát lòng tin thanh tịnh tự nghĩ rằng : Chư Phật Như Lai xuất thế rất khó được gặp cũng rất khó như hoa ưu đàm, như rùa mù đáy biển gặp được bọng cây nổi, cả trăm ngàn đại kiếp hoặc được gặp một lần. Nay ta được gặp thật là hy hữu, phải đem năm trăm đồng vàng nầy mua hoa quí rải cúng dâng lên đức Phóng Quang Như Lai, rồi sẽ lại kiếm tiền khác báo ơn thầy. Lúc ấy có một nữ nhơn tay ôm bảy cành bông ưu bát la từ phía chợ đi lại. Mê Già đón hỏi nơi nào có được hoa đẹp sanh dưới nước thế nầy. Nữ nhơn đáp tôi ở tại chỗ bán vòng hoa mua những hoa nầy với giá năm trăm đồng vàng. Mê Già nói nay tôi trả lại cô số vàng ấy cô có chịu trao hoa chăng ? Nữ nhơn chẳng chịu. Mê Già lại nói : Nay tôi có năm trăm đồng vàng đây cô giữ lấy một mình. Còn bảy cành hoa nầy hai người cùng có chung được chăng ? Nữ nhơn hỏi, anh muốn dùng hoa nầy vào việc gì ? Mê
 

 Già đáp sẽ đem cúng dường đức Phóng Quang Như Lai. Nữ nhơn nói cứ như lời anh thì từ nay về sau đời đời thường có lòng thương tưởng làm chồng tôi. Nếu chịu như vậy tôi sẽ giao cho anh hoa nầy. Mê Già nói : Thôi đi, cô chớ nói như vậy. Tại sao ? Vì tánh nữ nhơn giao động nhẹ dạ nhiều phóng túng, tôi không thể hứa nhận lời cô được. Vả lại tôi sẽ ở trong vô số kiếp tu tập Phật pháp bố thí rộng lớn, hoặc của tiền sản nghiệp, hoặc ngôi vua thành ấp, hoặc vợ con, hoặc đầu mắt thịt xương, đại khái là tất cả sở hữu trong thân ngoài thân, không vật gì là chẳng đem bố thí. Hoặc có lúc sẽ bỏ cô mà vào trong Phật pháp xuất gia. Tánh nữ nhơn giao động nhẹ dạ phóng túng, lúc tôi tu bố thí lớn cô có thể làm chướng ngại hạnh đại xả của tôi. Nữ nhơn ấy đáp : Thiệt như lời anh nói thì có lợi ích lớn cho tôi. Dầu cho hiện nay anh có dem thân của tôi đây bán lấy một đồng vàng, lòng tôi cũng không hối, quyết chẳng làm ngại sự bố thí của anh. Hoặc chặt thân tôi ra từng đoạn để xả thí, quyết cũng không đổi lòng làm trở ngại sự tu tập Phật pháp của anh. Mê Già nói nếu cô có thể bằng lòng như vậy thì được. Cô nên mau trao hoa cho tôi. Nữ nhơn cầm hoa trao cho Mê Già.
 

 Được hoa Mê Già tức thì đi đến chỗ Phật, xa trông thấy Đức Phóng Quang Như Lai cùng vô lượng đại chúng oai nghi tường tự vô lượng trăm ngàn công đức trang nghiêm từ đầu kia đi lại.
 Thấy đức Phật Thế Tôn, Mê Già sanh lòng tin thanh tịnh vô lượng hoan hỉ kính mến đến trước Phật kính lạy chẳng xiết vui mừng. Lại thấy nhiều người trải y vô giá để cúng dường Phật. Mê Già tự nghĩ rằng nay tôi không có y tốt, chỉ có cái y da hươu xấu này nên trải giữa đường đở chưn đức Phật. Liền cởi y trải trên đất.
 Lúc ấy mọi người đua nhau đến lấy y da đem bỏ ngoài xa và đều cười trách rằng sao lại vì đấng báu quí nhứt trong đời mà lại trải cái y da hươu xấu ấy. Mê Già Nho đồng vội chạy lượm y da rồi đem trải trên chỗ bùn ướt bên đường ngã tư mà nghĩ rằng Phóng Quang Như Lai, đấng đại từ bi thương xót tôi mắt thấy khắp của Phật và trí biết khắp của Phật thấy biết việc nầy mong Phật lấy chưn đạp lên y da hươu của tôi.
 

 Phóng Quang Như Lai cảm thương bèn lấy gót chưn dẫm lên y da hươu. Thấy vậy, Mê Già lòng vui mừng hớn hở liền đem hoa ưu bát la ném lên không phiá trên đức Phật. Trên hư không lại có vô lượng chư Thiên đồng thời rải hoa trời mạn đà la, ưu bát la, bát đầu ma, câu vật đầu, phân đà lợi, và các thứ hương trời : chiên đàn, hương bột. Âm nhạc trời, thanh ca trời vang khắp hư không cùng cúng dường Phật. Hoa của Mê Già ở riêng một chỗ trên không biến thành vô lượng ngàn hoa ưu bát la, cánh hoa đều thòng xuống hiệp thành lộng hoa bay theo trên Phật.
 Thấy như vậy, Mê Già thêm hớn hở phát khởi lòng tin thanh tịnh ở trước Phật tháo mở búi tóc màu hoàng kim mười hai năm để trải trên đất và phát nguyện Vô thượng đại Bồ đề : đời sau nếu tôi được thành Phật, thì nay xin được đức Phóng Quang Như Lai đưa tay an ủi. Lại phát thệ lớn kiên cố rằng : Nếu đức Phật gót chẳng đạp trên tóc tôi, tay chẳng đưa an ủi tôi, chẳng thọ ký Bồ đề cho tôi, thì tôi quyết chẳng đứng dậy mà chết khô trên chỗ đất nầy.
 

 Nầy Xá Lợi Phất ! Phóng Quang Như Lai Ứng Cúng Đẳng chánh Giác có mắt thấy khắp, có trí biết khắp, trong ba đời không sự việc gì mà chẳng thấu tỏ, biết rõ dục giải của Mê Già nên đức Phật cất gót dẫm lên tóc Mê Già rồi, ngoái ngó bên hữu bảo chư Thanh Văn đại chúng rằng : chư Tỳ kheo chớ đạp tóc nầy. Tại sao ? Vì nho đồng nầy sau đây vô số kiếp sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc ấy Mê Già nghe Phật thọ ký hớn hở vui mừng liền bay lên hư không cao bảy cây đa la, chứng được trăm ngàn câu chi na do tha chánh định vô động, do thần thông trí lực xem thấy phương đông có hằng sa vô lượng chư Phật đều thọ ký cho mình rằng.Nầy nho đồng ! Sau đây vô số kiếp, ngươi sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni . Ba phương kia và bốn hướng thượng hạ mười phương chư Phật thọ ký cũng như vậy.
 Được chư Phật thọan ủi rồi, Mê Già từ trên không xuống đến chỗ Phật do lòng tinxuất gia tu tập phạm hạnh kiên cố thanh tịnh.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Nho đồng Mê Già thuở ấy chính là thân ta vậy. Nếu có đại Bồ Tát muốn sớm được Phật thọ ký thì nên ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nghe tụng hiểu biết nghĩa dạy lại người, lại nên tu hành chánh hạnh vô tướng. Tại sao ? Vì ta nhớ lúc trước gặp đức Phóng Quang Như Lai, không có pháp hạnh bạch tịnh nào mà ta chẳng tu hành. Dầu vô lượng cần khổ như vậy nhưng chẳng được Phật thọ ký. Tại sao ? Vì là hữu tướng tu. Sau đó ta mới ở nơi pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng nghe học an trụ chánh hạnh, đó là vô tướng hạnh, vô công dụng hạnh, vô sở đắc hạnh. Tu hạnh vô tướng như vậy nên được đức Phóng Quang Như Lai thọ ký.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Ta nhớ lúc đầu mới gặp đức Phóng Quang Như Lai ta được siêu quả tất cả hạnh hữu tướng hữu công dụng. Lúc mới thấy Phật ta được tùy giác tánh tất cả pháp , lại được thông đạt tự tánh vô sanh của tất cả pháp. Kế đó đức Phật thọ ký cho ta rằng Mê Già nho đồng sau đây vô số kiếp sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Đương lúc Phật thọ ký, ta chứng được vô sanh pháp nhẫn.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Chứng được những vô sanh pháp nhẫn gì ?
 Ta chứng được : Tất cả sắc pháp vô sở đắc nhẫn,tất cả thọ tưởng hành và thức vô sở đắc nhẫn, tất cả pháp uẩn xứ giới vô sở đắc nhẫn.
 

 Nầy Xá Lợi Phất ! Nói được nhẫn là nhẫn thọ các pháp đều vô sở đắc. Tại sao ? Vì chẳng phải lúc chứng được nhẫn như vậy mà pháp thế gian còn hiện hành, chẳng phải pháp dị sanh , pháp hữu học, pháp vô học, pháp Độc Giác, pháp Bồ Tát, Pháp Phật mà còn hiện hành. Tại sao ? Vì do tất cả pháp thế gian xuất thế gian chẳng hiện hành mà nói là đắc nhẫn, do tất cả pháp cứu cánh không được cũng không bị được nên gọi là đắc nhẫn. Lại nhẫn ấy, trong một sát na tận hết tất cả tướng và các sở duyên nên gọi là đắc nhẫn. Lại nhẫn ấy chẳng nhẫn thọ nhẫn cũng chẳng hoại mất nhẫn và các sở duyên nên gọi là đắc nhẫn, chẳng nhẫn thọ nhĩ tỷ thiệt thân và ý cũng chẳng hoại mất nhĩ tỷ thiệt thân và ý cùng các cảnh duyên nên gọi là đắc nhẫn.
 Nhẫn ấy không tận hết cảnh giới cũng chẳng xu đến cảnh giới nên gọi là đắc nhẫn.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Vì thế nên đại Bồ Tát muốn mau được Phật thọ ký chứng vô sanh pháp nhẫn ấy, thì phải ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nầy ân trọng nghe học thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa thú rộng giảng dạy người, an trụ chánh hạnh, đó là hạnh vô tướng, hạnh vô công dụng, hạnh vô sở đắc, các hạnh ấy gọi là chánh hạnh vậy”.
 Bấy giờ trong đại chúngtrưởng giả tử tên Na La Đạt Đa nghe đức Thế Tôn nói pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, lại nghe tán thán công đức của chư Phật chư Bồ Tát rồi liền rời chỗ ngồi trạch vai hữu, gối hữu chấm đất, hướng Phật đảnh lễ cung kính chấp taybạch Phật rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn, trước vì chư trưởng giả nói rộng các pháp tương tục bất tuyệt khai thị như vậy, giáo đạo như vậy làm cho đều chứng quả A La Hán, tức tại đời nầy tận hết mé sanh tử, mà chưa từng nghe và nói pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng và khen ngợi công đức của chư Phật, chư Bồ Tát. nay tôi may mắn được nghe, được lợi ích lớn nên phát sanh quan niệm rằng : Đại thừa như vậy là tôn là thắng là thượng là diệu, là vô thượngvô quá thượng, đó là Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
 Nay tôi hiện tiền được thân nghe đức Phật nói thọ trì lãnh ngộ mở tỏ các pháp. Các pháp ấy là phân biệt các pháp không chỗ nương nắm, không ngã không ngã sở, không có nhiếp thọ
 

 Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi nghĩ rằng : Trong tất cả thừa mà vô thượng đó là Phật thừa . Chư Phật Như Lai cũng nói thừa ấy là tối đệ nhứt, là tối vô thượng. Từ ngày nay tôi phát khởi tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì muốn làm lợi ích an lạc các chúng sanh, vì muốn xót thương các thế gian . Như đức Phật xây dựng chư đại Bồ Tát bao nhiêu học xứ, nay tôi sẽ đều y theo học hết cả “.
 Đức Phật bảo trưởng giả tử Na La Đạt La : “ Lành thay ! lành thay ! Nầy thiện nam tử ! Vô thượng Bồ đề rất khó tin khó chứng, rất khó tu khó học. Nay ông có thể phát được tâm ấy”.
 Trưởng giả tử Na La Đạt La bạch đức Phật : “ Vô thượng Bồ đề dầu rất khó tin khó chứng, rất khó tu tập, nhưng nay tôi phát khởi tâm dũng mãnh tinh tấn quyết sẽ tu tập Vô thượng Bồ đề chẳng lấy làm khó, lại ở nơi Vô thượng Bồ đề ấy tôi phụng tu mạnh chắc quyết không thối chuyển.
 Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi phát hoằng thệ :
 Giả sử phát tâm Bồ đề như số cát sông Hằng mới chứng được Vô thượng Bồ đề, ở nơi sự ấy tôi càng tinh tấn thêm mỗi mỗi đều phát tâm như vậy trải qua số kiếp như hằng sa nhẫn đến tùy theo chỗ phát tâm ấy, mỗi mỗi chỗ phát phải do chặt đứt hằng sa thân phần đầu mình mới phát khởi được tâm Bồ đề ấy, tôi ở trong sự cần khổ ấy càng thêm tinh tấn trọn chẳng buông bỏ Vô thượng Bồ đề. Tại sao ? Vì mặc dầu gặp phải những sự đau khổ ấy vẫn phải tu tập nhờ duyên ấy tất chứng Bồ đề. Huống là chứng Vô thượng Bồ đề thọ các an lạc mà chẳng tu học . Tại sao ? Vì Vô thượng Bồ đề tánh nó cao rộng đầy đủ lớn khắp. Phật pháp vô thượng chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể cân lường không có bờ mé chẳng thể tuyên nói. Dầu là vô ngại trí của chư Phật trải trăm ngàn câu chi na do tha kiếp dùng các ngôn âm tuyên nói Bồ đề ấy chẳng dễ hết được.
 Trưởng giả tử Na La Đạt Đa ở trước Phật nói kệ rằng :
 “Trăm ngàn câu chi kiếp
 Mới phát Bồ đề tâm
 Dầu nhiều khổ bức hại
 Chẳng bỏ chúng sanh giới
 Lúc phát tâm Bồ đề

 Cần chặt thân và đạo
 Khối lượng bằng Tu Di
 Tôi cũng kham nhẫn được
 Tôi an trụ Bồ đề
 Vì lợi lạc chúng sanh
 Nguyện cho tôi đời sau
 Như Thế Tôn ngày nay
 Xa thừa Thanh Văn kia
 Gồm cứu người hạ thừa
 Nguyện tôi ở đời sau
 Như Thế Tôn ngày nay
 Thừa đây là đại thừa
 Được chư Phật khen tặng
 Tôi thấy không gì bằng
 Nên tôi thích Bồ đề
 vì cứu vớt nguy ách
 Vì thoát ba ác đạo
 Vì cầu Như Lai đây
 Xuất thế hiện thành Phật “,
 Nói kệ rồi, Trưởng giả Na La Đạt Đa nghĩ rằng : Nay tôi minh đạt Phật pháp quảng đại sao tôi chẳng đem giáo hóa vợ con quyến thuộc. Trưởng giả liền đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu
 ba vòng rồi mau về nhà sắm đồ cúng dường cùng vợ con trai con gái và tôi trai tớ gái tất cả đồng có bảy người, mang bảy cặp y phục thượng diệu và những hoa hương đồ cúng dường với năm trăm nhạc công cùng nhau đi vội ra khỏi thành Vương Xá để được phụng kiến đức Thế Tôn.
 Thấy vậy có nhiều người hỏi . Trưởng giả tử ấy bảo mọi người rằng: Nay có đức Phật Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác ở núi Linh Thứu, vô lượng trăm ngàn trời người đại chúng cùng hội. Đức Phật dùng vô lượng phương tiệnchúng sanh mà tuyên nói khai thị Phật Pháp quảng đại , nên tôi đem quyến thuộc đến chỗ đức Phật ngự để cầu Phật pháp quảng đại ấy, để cầu thành tựu Phật trí huệ chẳng nghĩ bàn chẳng cân lượng được ấy , vì muốn gieo trồng cội lành Vô thượng Bồ đề. Các người nếu muốn thành tựu Phật pháp quảng đại thì nên cùng nhau đi đến chỗ đức Phật Như Lai sẽ cùng gieo trồng cội lành Phật pháp vô thượng quảng đại ấy.
 Nghe xong có mười ngàn người ở thành Vương Xá đều muốn đi theo trưởng giả tử đến chỗ đức Phật ngự.
 

 Trưởng giả tử Na La Đạt Đa cùng quyến thuộc và mười ngàn người đồng đến chỗ Phật, đảnh lễ chưn Phật rồi ở qua một bên. Trưởng giả tử cùng đại chúng tùy tùng đem hoa hương y phục phan lọng trỗi nhạc ca tụng cúng dường đức Như Lai, và đem y phục báu đẹp trùm lên mình Phật. Cúng dường xong , Trưởng giả tử vui mừng vô lượng liền ở trước Phật ca tụng ngợi khen nói kệ rằng :
 “Đấng trượng phu vi diệu đệ nhứt
 Chứng thanh tịnh Vô thượng Bồ đề
 Phát khởi vô biên thắng trí kiến
 Nay tôi cúng dường đức Như Lai
 Xưa vô lượng kiếp nhiều tu hành
 Vì lợi chúng sanh cầu đại giác
 Chứng pháp tự tại hiện thành Phật
 Nay tôi cúng dường đức Như Lai
 Tôi cùng vợ con chúng quyến thuộc
 Vì lợi chúng sanh cầu Bồ đề
 Và cùng mười ngàn nhơn dân chúng.
 Đồng chung qui y đấng Đại giác ”.
 Trưởng giả tử nói kệ xong bạch đức Phật : “ Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi cùng đại chúng đây đến trước đức Như Lai, tất cả đều đã an trụ Vô thượng Bồ đề. Xin đức Thế Tônthương xót mà lại thuyết pháp cho họ chẳng còn thối chuyển Vô thượng đạo. Nay tôi muốn ở chỗ Phật trồng cội lành xin đức Thế Tôn hiện chứng cho tôi. Sẽ khiến sức thiện căn ấy làm cho chúng sanh bình đẳng mau chứng Vô thượng Bồ đề, lại được vô lượng Phật pháp quảng đại như đức Phật hiện nay.
 Trưởng giả tử cùng quyến thuộc và năm trăm nhạc công mười ngàn nhơn chúng nhứt tâm đồng thanh bạch Phật : “ Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi nay ở trước đức Như lai đồng chí thành quy y với Phật, quy y với Pháp, quy y với Tăng. Xin đức Thế Tôn ghi nhớ chúng tôiƯu Bà Tắc bắt đầu ngày nay nhẫn đến thọ chung, thà bỏ thân mạng chớ chẳng bỏ tâm tin thanh tịnh quy y. Lại xin đức thế Tôn ghi nhớ chúng tôi , bắt đầu ngày nay cho đến Bồ đề , vì Vô thượng Bồ đềphát khởi tâm tăng thượng dũng mãnh. Lại xin đức Thế Tôn ghi nhớ cho chúng tôi, nguyện mau chứng Vô thượng Bồ đề vì các chúng sanh tuyên nói chánh pháp như đức Phật hiện nay. Lại xin đức Thế Tôn ghi nhớ cho chúng tôi, nguyện đời sau lúc thành Phật, đại chúng vây quanh như Phật hiện nay. Lại xin đức Thế Tôn ghi nhớ cho chúng tôi, nguyện đời sau độ thoát vô lượng chúng sanh khổ bức như Phật hiện nay.
 Phát thệ xong, Trưởng giả tử cùng đại chúng và các nhạc công lại đem các thứ âm nhạc vi diệu cúng dường đức Phật
 Vì thương đại chúng ấy nên đức Phật bay lên hư không ngồi kiết già. Năm trăm nhạc công thấy Phật hiện thần biến càng sanh tín tâm đối với đức Phật. Do oai lực của Phật, các nhạc khí chẳng cần nhiếp trì tự nhiên bay vọt lên hư không trỗi các bản nhạc âm thanh hữu nhiễu đức Như Lai.
 Thấy thần biến ấy, Trưởng giả tử và đại chúng đều cho là chưa từng có vui mừng hớn hở , đồng chấp tay kính lễ đức Như Lai.
 Bấy giờ trên hư không giáp vòng đúng một do tuần lại có vô lượng trăm ngàn nhạc khí tự nhiên hiện ra như ổ ong treo lơ lửng không ai cầm giữ , nhạc khí ấy đồng hòa tấu âm điệu vi diệu.
 Trưởng giả tử cùng quyến thuộc, năm trăm nhạc công, mười ngàn người thành Vương Xá, vá pháp hội đại chúng sáu mươi ngàn người, chư Tỳ kheo ngàn hai trăm năm mươi người, do oai lực Phật đều bay vọt lên hư không. Lại do thần lực của Phật, trên hư không hiện ra năm trăm nhạc đài, trong đài ấy đều nói diệu pháp. Lại có bốn đài nhạc lớn hiện trước Phật trang nghiêm điêu sức đẹp lạ khác thế gian. Lại có vô lượng trăm ngàn câu chi chư Thiên chúng đứng trên không rải hoa mạn đà la trên đức Phật. Do thần lực của Phật, hoa ấy ở trên không hóa thành tám vạn đài báu cao đẹp. Đại chúng thấy trong đài trên ấy có những trang nghiêm rộng lớn như vậy, nên đối với đức Như Lai càng thêm sanh lòng tin mến kính khen chưa từng có.
 Đức Thế Tôn biết đại chúng tâm tưởng thanh tịnh, lại biết rõ Trưởng giả tử Na La Đạt Đa và chúng mới đến có ý nguyện thanh tịnh rồi , đức Phật hiện mĩm cười, nơi điện môn của đức Phật phóng ra vô lượng tia sáng báu đẹp chiếu suốt mười phương vô lượng chư Phật quốc độ rộng làm Phật sự rồi quay về nhập vào đảnh đức Phật.
 Trưởng lão A Nan liền trịch y vai hữu hướng Phật chấp tay cung kính làm lễ bạch đức Phật : “ Bạch dức Thế Tôn ! Có nhơn duyên gì mà đức Phật hiện mĩm cười ? Tôi nghĩ rằng đức Như Lai hiện thần biến tất có nhơn duyên ”.
 

 Đức Phật phán dạy : “ Nầy A Nan ! Trưởng giả tử Na La Đạt Đavợ con trai con gái tôi trai tớ gái, ba mươi sáu người nầy do sức thiện căn cúng dường Phật, đời tương lai trải ngàn câu chi kiếp chẳng đọa ác đạo mà qua lại sanh trong trời người hưởng thọ khoái lạc. Qua khỏi kiếp ấy gặp Phật Thương Chủ xuất thế đủ mười đức hiệu. Ở nơi đức Phật ấy họ cúng dường cung kính tôn trọng tán thán rộng tu phạm hạnh. Sau đó trải qua hai mươi câu chi kiếp chẳng đọa ác đạo.
 Nầy A Nan ! Bảy người vợ bảy con gái và bảy tớ gái của Trưởng giả tử ấy từ thân nầy mạng chung bèn bỏ thân gái được thành thân nam tử hằng chẳng rời Na La Đạt Đa cùng tu Bồ Tát đạo, đời đương lai đồng ở trong một kiếp thành Vô thượng Bồ đề.
 Na La Đạt Đa đại Bồ Tát thành Phật hiệu Bình Đẳng Tâm Như Lai đủ mười đức hiệu . Tất cả quyến thuộc sẽ thành Phật đều đồng hiệu A Nhã Mạt Nhã Như lai đủ mười đức hiệu. Năm trăm nhạc công đời sau trải vô số kiếp chẳng đọa ác đạo, lại trải qua làm dực tùng mãn ngàn câu chi Chuyển Luân Vương , Đại lược mà nói, năm trăm nhạc công nầy ở trong kiếp ấy gặp mười ngàn đức Phật đều được gần gũi cúng dường không sót, sau đó đồng ở trong một kiếp thành Vô thượng Bồ đề đều hiệu Mỹ Âm Như Lai đủ mười đức hiệu. Mười ngàn người thành Vương Xá đây do sức thiện căn cúng dường Phật. Bốn trăm nguời trong số đó sẽ gặp Từ Thị Như Lai và đều tu phạm hạnh được lậu tậnnhập Niết bàn. Số người còn lại trải qua số kiếp hằng sa chẳng đọa ác đạo, lần lược được gặp ngàn câu chi đức Phật và rộng tu Bồ Tát hạnh, sau đó tất cả được thành Vô thượng Bồ đề đều đồng một hiệu Thậm Hi Hữu Như Lai đủ mười đức hiệu.

 Nầy A Nan ! Trong chúng hội sáu vạn đây có một ngàn người sau khi ta diệt độ chánh pháp đã hết, lại qua khỏi kiếp đao binh . Từ Thị Như Lai chưa xuất thế , thời kỳ chúng sanh thọ mạng lần tăng trưởng, Thiện Bộ Châu có tám vạn Độc Giác xuất thế, ngàn người ấy đều được gặp và cúng dường tu pháp lành, sau đó gặp Từ Thị Như Laicúng dường , sau đó trải qua hai mươi lăm câu chi kiếp chẳng đọa ác đạo, thân tối hậu làm người do sức thiện căn phát khởi tỉnh ngộ lòng tin thanh tịnh xuất gia chứng ngộ Duyên Giác Bồ đề. Trong đại chúng ấy có mười ngàn người phát sanh thành kiến , ngoài ra đồng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Lại còn có sáu mươi na do tha Thiên Tử xa trần rời cấu sanh pháp nhãn thanh tịnh đối với các pháp.
 Nầy A Nan! Có ai được thấy thắng lợi đặc biệt nầy mà chẳng phát khởi lòng tin thanh tịnh mến ưa cung kính phát tâm hi hữu đối với đức Như Lai. Chỉ trừ người ngu si bất tiếu . Tại sao ? Vì những đại chúng ấy ở nơi đức Như Lai chỉ tu căn lành nhỏ mà được lợi ích lớn như vậy, hoặc lại chứng nhập Vô thượng Bồ đề”.
 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã ấy mà nói kệ rằng :
 “Ở chỗ Phật tu những cúng dường
 Được công đức thù thắng như đây
 Nếu có mong cầu quả cao lớn
 Nên cúng dường chư đại Đạo Sư
 Hoặc Phật hiện tại tu cúng dường
 Hoặc thời kỳ Phật đã Niết bàn
 Cúng dường Xá Lợi như hột cải
 Thường được hầu kề chư Như Lai
 Nếu lại muốn tu các cúng dường
 Như Lai ở đời hoặc Niết bàn

 Cúng dường Xá lợi như hột cải
 Hành tâm bình đẳng quả bình đẳng
 Nếu người có tu tâm bình đẳng
 Cúng dường đấng thượng trong bình đẳng
 Sẽ thành báo thù thắng bình đẳng
 Và chứng diệu Bồ đề bình đẳng
 Nếu người muốn nhiếp các thiện đạo
 Ngăn chướng trừ tuyệt các ác đạo
 Và muốn xu hướng đường Niết Bàn
 Sẽ được như vậy chẳng là khó
 Phật có đủ thi la thanh tịnh
 Phật có đủ tam muội thanh tịnh
 Người sanh lòng tin thắng thanh tịnh
 Sẽ được quả Như Lai tối thắng
 Nếu tu tối thắng các cúng dường
 Mau lên thiện đạo tối thù thắng
 Và chứng chánh kiến đấng tối thắng
 Tuyên nói pháp vi diệu tối thắng
 Nếu thích làm người trí sáng suốt
 Thân trì Phật chánh pháp thanh tịnh
 Nên tu nguyện muốn chánh mãnh lợi
 Đa văn như lý chánh tư duy
 Có người được làm Chuyển Luân Vương
 Hoặc làm Đế Thích Phạm Thiên Vương
 Rộng tu vô lượng thắng công đức
 Quyết được vô dư đại Niết Bàn”.
 Đức Thế Tôn nói tụng kệ xong, bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất: “Nếu có thiện nam tử , thiện nữ nhân an trụ Đại Thừa muốn mau chứng được Vô thượng Bồ Đề, phải ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng phát khởi nguyện muốn nghe học thanh tịnh mãnh lợi ân trọng, nghe rồi thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa thú rộng giảng dạy mọi người. Tại sao? Vì ở nơi kinh này mà nghe học thọ trì nhẫn đến rộng giảng dạy mọi người thì hay khiến Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt, thường chẳng xa rời bốn hạnh vô lượng, thường siêng tu tập sáu Ba la mật, thường chánh phương tiện dùng bốn nhiếp pháp nhiếp hóa chúng sanh.
 Nầy Xá Lợi Phất ! Pháp môn vi diệu Đại thừa đại Bồ Tát tạng tức là Bồ Tát đạo, vì kinh điển này hay nhiếp trì Vô thượng Bồ đề vậy.
 Này Xá Lợi Phất ! Kinh này là thánh trân bửu tạng của chư Bồ Tát. Ta y theo kinh này chánh tu học rồi, cứu cánh chứng được sanh tử dứt hẳn và chứng tất cả Ba la mật. Do chứng như vậy nên ta hiệu là đấng Chánh đẳng Chánh Giác vô thượng.
 Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ở nơi tất cả Ba la mật đều đã cứu cánh. Đức Như Lai ở nơi tất cả việc làm đều đã lặng dứt. Đức Như Lai ở nơi tất cả địa đều đã chứng được và còn chứng được địa vô biên. Tại sao ? Do đức Phật chứng các Ba la mật ấy nên hay cứu cánh an trụ tất cả pháp Ba la mật.
 Vì thế nên chư đại Bồ tát phải ở nơi pháp môn vi diệu đại Bồ tát tạng này mà tinh tấn tu hành như chỗ Phật đã chứng được”.
 Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

 “Nơi nghiệp phải biết nghiệp
 Nơi báo phải biết báo
 Không nghiệp cũng không báo
 Là Niết bàn an ổn
 Các hữu vi đều khổ
 Trong ấy không có trí
 Thế nên trí sanh rồi
 Hữu vi đều giải thoát”.
 

 Đức Thế Tôn nói kệ xong, Trưởng Lảo Xá Lợi Phất và các Tỳ Kheo, cùng Thiên Nhơn Bát Bộ tất cả đại chúng nghe lời Phật nói đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
 

 Pháp hội Bồ tát tạng thứ mười hai
 HẾT TẬP III
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32609)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11095)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30232)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30313)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12589)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34456)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52118)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9520)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12528)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16128)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16107)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11950)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12516)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17467)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant