Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 6: Nhẫn Nhục

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11824)
Chương 6: Nhẫn Nhục

Chương Sáu
Nhẫn Nhục

1-2.

Thiện hành tích lũy ngàn năm ,
Một giây nóng giận tiêu tan tức thì .
Ác nào sánh kịp sân si .
Hạnh tu nhẫn nhục không gì quý hơn .

3. 

Hận thù nếu cứ ôm giữ mãi ,
Chẳng bao giờ tìm thấy an vui .
Còn đâu hạnh phúc thảnh thơi ,
Bỏ ăn mất ngủ, trọn đời bất an .

4. 

Một người gia chủ nổi sân ,
Có khi bị giết bởi chân tay mình .
Những người ông đã tận tình ,
Giúp cho tài sản an bình bấy lâu .

5. 

Vì nóng giận, bạn bầu thân quyến ,
Đều bỏ ta, chẳng luyến lưu chi ,
Dù ta bố thí tràn trề ,
Tâm sân hận mãi khổ vì cô đơn .

6. 

Kẻ thù giận dữ tạo nên ,
Bao nhiêu đau khổ triền miên đọa đày ,
An vui hiện tại tương lai ,
Đều là quả phúc cho người không sân .

7. 

Được nuôi dưỡng bằng tâm bất mãn ,
Ái biệt ly, ghét chán gặp hoài .
Hận thù cứ thế dằng dai ,
Cuối cùng hủy diệt con người nơi ta .

8-9. 

Hãy nên trừ khử thức ăn ,
Duy trì lớn mạnh hận sân nơi lòng .
Gặp gì cũng cứ như không ,
Giận thì tổn đức điều mong chẳng thành .

10. 

Tại sao phải tự hành tự phạt ,
Với việc còn biện pháp cứu nguy .
Nếu không còn có cách chi ,
Thì đau khổ liệu ích gì cho ai .

11. 

Với bản thân và người bằng hữu ,
Ta cầu mong cho khỏi khổ đau .
Khỏi lời lăng nhục, ác thô ,
Nhưng còn với kẻ oán thù không đâu .

12. 

Đời vui hiếm, lắm sầu đau ,
Nếu không có khổ, ai nào xuất ly .
Tâm ơi dũng cảm lên đi ,
Dù bao đau khổ sá chi lẽ thường .

13. 

Kẻ ngoại giáo theo đường khổ hạnh ,
Chuốc vào thân những cảnh đớn đau .
Nay ta muốn đắc đạo mầu .
Sao không can đảm chịu bao oan tình .

14-15. 

Đói lòng, nóng lạnh, bọ sâu ,
Kẻ quen chịu đựng có đâu than phiền .
Nhờ quen những hại nhỏ nhen ,
Ta dần nhẫn được rối ren khổ nàn .

16. 

Những nỗi khổ trói giam đánh đập ,
Thời tiết hay bệnh tật gây nên .
Đừng nên vì chúng não phiền .
Chỉ càng thêm khổ cho mình ta thôi .

17-18. 

Trước cùng một cảnh máu me ,
Kẻ thì ngất xỉu người thì tiến lên .
Đều do tập quán mà nên ,
Vậy ta hãy tập xem khinh khổ sầu .

19-20. 

Bậc trí dù trải bao gian khó ,
Vẫn giữ tâm ổn cố bình an .
Như người chiến sĩ vinh quang ,
Bị thương vẫn tiến khi chưa tan thù .

21. 

Nhờ đau khổ, hết kiêu căng ,
Chán xa sinh tử, xót thương hữu tình .
Ăn năn tội ác, vui lành ,
Đây bao thiện đức do từng khổ đau .

22. 

Trên đời có biết bao thống khổ ,
Bệnh tật và mưa gió gây nên .
Khổ nào cũng bởi duyên sinh ,
Sao ta chỉ giận hữu tình mà thôi .

23-24. 

Ốm đau cùng những sân si ,
Dù không ai muốn vẫn thì khởi lên .
Cơn sân không tự biết mình ,
Kẻ sân không tính ta nên nổi sùng .

25-26. 

Tội áclỗi lầm đủ thứ ,
Không bỗng dưng vô cớ phát sinh .
Nhân duyên tụ hội mà thành ,
Các duyên cùng quả đã đành vô tâm .

27-31. 

Việc gì cũng bởi duyên sinh ,
Hiểu ra lẽ ấy không nên oán hờn .
Những gì sinh diệt hợp tan ,
Chỉ như huyễn hóa bóng vang thôi mà .

32. 

“ Nếu mọi sự đã là không thực ,
Ai là người chế phục cái chi .
Sao còn nói diệt sân si ” ,
Đời này thật có khổ vì nổi sân .

33. 

Khi ai vô cớ hại mình ,
Hãy nên xem đấy duyên sinh, vô thường .
Duyên kia có hợp có tan ,
Ta nên hoan hỉ dễ dàng bỏ qua .

34. 

Nếu đau khổ do ta tự chọn ,
Thì không ai lựa chọn khổ đau .
Lẽ ra không kẻ khổ sầu ,
Vậy nên tất cả quy vào duyên sinh .

35. 

Có người sơ ý bị thương ,
Vì gai nhọn hoặc dao gươm đâm mình .
Có người ham muốn dục tình ,
Đâm ra sầu khổ hại mình bỏ ăn .

36-37. 

Có người tự ải, tự trầm ,
Tự ăn độc dược do tâm khổ sầu .
Tự mình còn hại mình thay ,
Làm sao không tác hại dây đến người .

38. 

Dù không thể xót thương những kẻ ,
sân si đã giết hại ta .
Đừng nên giận họ ít ra ,
Bởi vì tất cả chỉ là duyên sinh .

39. 

Nếu là một kẻ ngu si ,
Thói ưa tác hại chỉ vì ác tâm .
Nổi sân với họ cũng lầm ,
Như sân ngọn lửa đã làm cháy ta .

40. 

Nếu sự hại phát sinh ngẫu hứng ,
Nơi một người tính vốn hiền lương .
Nổi sân vì họ cũng dường ,
Giận hư không để khói vương bụi mù .

41. 

Khi ta bị đánh bằng cây ,
Ta thường oán ghét con người đánh ta .
Kẻ kia cũng bị sử sai ,
Bởi cơn giận dữ vậy ai đáng thù .

42. 

Có lẽ xưa ta từng tác hại ,
Nên ngày nay đáng phải tổn thương .
Tư duy như vậy nguồn cơn ,
Không còn sân hận đau buồn làm chi .

43. 

Từ hai phía có đau này ,
Bên kia là gậy bên này là thân .
Kẻ mang gậy người mang thân ,
Vậy ta nên phải giận sân kẻ nào .

44. 

Tấm thân thương tích dạng người ,
Chút chi động đến cũng thời đớn đau .
Chính vì ngã ái mê ngu ,
Ta ôm giữ nó vậy giờ trách ai .

45. 

Kẻ ngu không muốn khổ đau ,
Mà sao cứ tạo nhân sầu khổ luôn .
Rồi khi hại đến bản thân ,
Do mình tự tác sao sân hận người .

46. 

Ví như quỷ sứ canh giữ ngục ,
Cùng núi đao rừng kiếm hỏa xa .
Đều do tự nghiệp mà ra ,
Gieo nhân gặt quả, đừng ta thán người .

47-48. 

Kẻ hung ác vì hại ta ,
Mà sa địa ngục chịu bao khổ nàn .
Còn ta nhờ nhẫn không sân ,
Tiêu trừ ác nghiệp phước tăng vô vàn .

49. 

Rốt cuộc ta mới là người hại ,
Kẻ ác nhân có lợi cho ta .
Sao còn sân hận người ta ,
Hỡi tâm thô bạo hồ đồ kia ơi .

50. 

Công phu Nhẫn nhục giúp ta ,
Khỏi sa địa ngục, phần ta đã đành .
Nhưng còn kẻ xấu hại mình ,
Số phần nào sẽ để dành cho y .

51. 

Nếu ta tác hại người gây hấn ,
Tội của y cũng vẫn không tan .
Mà ta lại mất bình an ,
Hạnh tu nhẫn nhục khó làm phải tiêu .

52. 

 Tâm ta đâu có dạng hình ,
Chẳng ai có thể tổn thương tâm này .
Nếu tâm chấp trước thân đây ,
Liền sinh đủ thứ ách tai khốn nàn .

53. 

Những lời thô ác khó nghe ,
Chẳng can hệ đến thịt da thân này .
Hỡi tâm ngu xuẩn kia ơi ,
Vì sao nó lại khiến ngươi khổ sầu .

54. 

Nếu ngươi bảo vì câu nói ấy ,
Làm người ta hết thấy ưa tôi. .
Nhưng dù ai ghét, thương ngươi ,
Có ai thay đổi nghiệp ngươi đâu mà .

55. 

Nếu vì thế mà ngươi mất lợi ,
Hãy nhớ như mây nổi, chiêm bao .
Chết không mang được gì theo ,
Ngoài ra ác nghiệp vẫn đeo bên mình .

56-58.

 Làm điều ác để nuôi thân ,
Cuối cùng cũng chết, sao bằng chết non .
Chiêm bao vui sướng trăm năm ,
Với trong khoảnh khắc tỉnh đồng hư vô .

59. 

Dù kẻ có rất nhiều tài sản ,
Hưởng thú vui sống trọn tuổi trời .
Nhưng khi chết vẫn đơn côi ,
Khác nào bị cướp , nước trôi , cháy nhà .

60. 

Nếu bảo nhờ tiền tài mới sống ,
Mới làm lành lánh dữ tu thân .
Nhưng ngươi vì lợi nổi sân ,
Phước bèn mất hết còn tăng tội nhiều .

61. 

Nếu vì sự sống nhu cầu ,
Chuyên làm ác nghiệp để sau đọa đày .
Một đời sống thật xấu xa ,
Thì đâu có lợi cho ta hay người .

62. 

Nếu sân hận “ Vì lời phỉ báng ,
Khiến người không tin tưởng nơi tôi ” .
Vậy sao không giận một người ,
Khi y cũng phỉ báng người khác kia . 

63. 

Người kia bị mất lòng tin ,
Không can hệ đến tôi nên chẳng phiền .
Lời thô ác bởi đảo điên ,
Sao không nhẫn được lại sinh oán hờn . 

64. 

Nếu nổi sân vì người phá tháp ,
Phá hại chùa , tượng , Pháp cao siêu .
Thật là vô lối xiết bao .
Vì chư Thiện thệ tơ hào chẳng suy .

65. 

Với ai làm hại bạn, thầy ,
Thân bằng quyến thuộc ta hay bậc hiền .
Hãy xem tất cả do duyên ,
Chẳng nên sân hận chuốc thêm đau lòng .

66. 

Thế gian đủ thứ hại mình ,
Do vô tình hoặc hữu tình gây nên .
Sao ta chỉ giận hữu tình ,
Hãy nên nhẫn chịu, chớ sinh oán cừu . 

67-68. 

Kẻ do ngu sitác hại ,
Người do ngu chấp ngã nổi lên .
Đều do oan nghiệt gây nên ,
Vậy ai có lỗi ai không trong này .

69. 

Khi đà thấy biết vậy rồi ,
Hãy nên nỗ lực tiến tu hạnh lành .
Đãi nhau bằng tấm chân tình ,
Từ tâm giải thoát, chớ hành khổ nhau .

70. 

Ví như khi mái nhà bốc lửa ,
Hãy mau tìm cách chữa cháy lan .
Như là rút bớt cỏ tranh ,
Hoặc là những thứ dễ thành mồi ngon .

71. 

Những gì do bởi tâm tham ,
Làm cho lửa giận lan tràn đến nơi .
Đốt kho công đức tơi bời ,
Chóng nên trừ khử kịp thời tâm kia .

72. 

Như kẻ bị trói tay chờ chết ,
Chịu đứt tay để được thoát nguy. .
Ta nhờ các khổ lúc tu ,
Mà may thoát khỏi ngục tù Diêm vương .

73. 

Nếu hiện tại ta không chịu được ,
Những khổ đau nhỏ nhặt hàng ngày .
Sao không sợ thói sân si ,
Cái nhân địa ngục A tỳ gớm ghê .

74. 

tham dục chẳng chán chê ,
Mà ta luống chịu trăm bề khổ đau .
Nhưng chưa được lợi ích nào ,
Cho bản thân hoặc cho bao nhiêu người .

75. 

Cái khổ này thực không đáng kể ,
Nhưng viên thành lợi ích vô biên .
Là trừ khổ hại chúng sinh ,
Vậy khi nhẫn chịu còn nên vui mừng .

76. 

Có người rất đỗi sướng vui ,
Ngợi ca công đức kẻ ngươi đang thù .
Vậy này tâm ý ta ơi ,
Hãy cùng ca ngợi cho vơi khổ sầu .

77. 

Sự tùy hỷ phát sinh như thế ,
Là suối nguồn an lạc thanh cao .
Được chư Phật cùng khen lao ,
Cách hay thu phục biết bao nhiêu người .

78. 

Nếu ngươi bảo “ Nó được khen ,
Nhưng tôi không muốn nó nên anh hào ” . ,
Vậy thì chớ trả thù lao ,
Rồi ngươi sẽ chuốc xiết bao não phiền . 

79. 

Ngươi khoái chí chúc lành kẻ khác ,
Khi họ khen công đức của ngươi .
Nhưng sao ngươi lại không vui ,
Khi nghe khen ngợi kẻ ngươi oán thù .

80. 

 Phát tâm vô thượng bồ đề ,
Là mong tất cả mọi người an vui .
Vậy nay chúng được thảnh thơi ,
Sao ngươi trở lại giận sôi trong lòng .

81. 

Lúc đầu ngươi phát tâm mong ước ,
Cho hữu tình được phước lớn lao .
Cớ sao nay lại khổ sầu ,
Thấy người hưởng chút tơ hào lợi danh .

82. 

Chúng sinh vốn cha mẹ mình ,
Đáng ngươi cấp dưỡng tận tình lo toan .
Họ nay tự lực bình an ,
Đã không mừng lại đem tâm ghét hiềm .

83. 

Không mong chúng được niềm vui nhỏ ,
Nói gì mong giác ngộ toàn vui .
Tâm bồ đề ấy còn đâu ,
Nơi người ganh ghét kẻ giàu hơn ta .

84. 

Quà kia được biếu kẻ thù ,
Hoặc đang còn ở trong kho nhà người .
Thì đâu có phải phần ngươi ,
Không chi can hệ khiến ngươi phải rầu .

85. 

Sao tự phá phước cùng công đức ,
Còn khiến cho kẻ khác mất tin .
Gia tài công đức không gìn ,
Chính ngươi đáng tự giận mình là hơn .

86. 

Ngươi không sợ những ác hành ,
Do mình đã tạo, nên thành kém may .
Thế mà còn nổi sân si ,
Vì ganh tị với phúc người hay sao .

87. 

Giả như kẻ thù ngươi bị hại ,
Có gì đâu trong ấy để vui .
Kẻ kia do đến vận xui ,
Không do ngươi muốn mà người tổn suy .

88. 

Dù người khổ như ngươi mong muốn ,
Thì cũng không đáng để vui mừng .
Không gì là địa ngục nhân ,
Cho bằng cái sự ăn mừng khổ đau .

89. 

Đấy là một cái lưỡi câu ,
Vô minh phiền não buông câu hại người .
Nếu ai mắc phải mồi này ,
Đồng sôi địa ngục khó ngày thoát ra .

90. 

Sự vinh quang cùng lời ca tụng ,
Không khiến cho kẻ nhận bình an .
Không đem trường thọ, kiện khang ,
Không làm hết bệnh đa mang chút nào .

91. 

Nếu rõ biết thế nào thật lợi ,
Thì những lời khen ngợi ích chi .
Còn như muốn đỡ sầu bi ,
Chỉ cần uống rượu trau tria giải buồn .

92. 

Nếu vì muốn được nổi danh ,
tài sản, tính mạng mình mất luôn .
Thì khi chết được tiếng thơm ,
Còn ai ở đó mà buồn với vui .

93. 

Khi sụp đổ lâu đài trên cát ,
Kẻ ngu cùng trẻ nít khóc than .
Cũng như khi mất tiếng tăm ,
Tâm ta điên đảo giống tuồng trẻ ngu .

94. 

Âm thanh đã biết vô thường ,
Thì nghe khen ngợi cũng dường như không .
Nếu vì người ấy vui lòng ,
Trong khi khen ngợi, nên lòng ngươi vui .

95-96. 

Thế thì sao lại không vui ,
Nghe ai khen ngợi kẻ ngươi oán cừu .
Dù khen ngươi hoặc kẻ thù ,
Người khen vui vẻ ngươi nào liên can .

97-98. 

Khi tâm nghĩ “ Ta được ngợi khen ” ,
Thật không thích đáng để sinh vui mừng .
Ngợi khen làm tán loạn tâm ,
Phá nhiều thiện pháp, hết tâm chán lìa .

99. 

Nếu hiện tại có người bôi bác ,
Muốn phá cho tan nát danh ta .
Chính là người đã cứu ta ,
Khỏi sa địa ngục đường tà đấy thôi .

100.

Đã cầu giải thoát luân hồi ,
Thì không trói buộc bởi đời lợi danh .
Sao còn giận tức hữu tình ,
Những người cởi mở cho mình trói trăn .

101. 

 Khi ta đến một nơi nguy khốn ,
Mà bị người đóng cổng chận ngăn .
Ấy là Phật tổ gia ân ,
Sao còn giận tức kẻ ngăn can mình .

102. 

Nếu ngươi bảo kẻ thù tác hại ,
Trở ngại bao công đức của ngươi .
Hạnh tu nhẫn nhục cao vời ,
Sao không nhân đấy tu ngay một lần .

103. 

 Nếu ta có lắm ưu phiền ,
Nên không chịu nổi kẻ hiềm khích ta .
Ấy mình tự chướng hạnh tu ,
Bao nhân phước đức nhẫn là tối cao .

104. 

 Không tổn hại, nhẫn nào sinh khởi ,
Nhẫn kẻ thù công đức phát sinh .
Vậy thù địch chính ân nhân ,
Cho ta tu phước đâu ngăn ngại gì .

105. 

Khi cho mà gặp kẻ xin ,
Thì sao gọi đấy chướng duyên cho mình .
Cũng vô lý như bảo rằng ,
Giới sư trở ngại cho mình xuất gia .

106. 

Thế gian đầy dẫy người xin ,
Cho ta bố thí gieo duyên phước lành .
Nhưng thù nghịch lại hiếm khan ,
Ta không sinh sự, ai màng hại ta .

107. 

 Thù nghịch cũng như là báu vật ,
Ta chẳng tìm mà được đến tay .
Giúp ta giác ngộ là đây ,
Hãy nên ưa mến kẻ hay hại mình .

108. 

Muốn tu nhẫn nhục cho thành ,
Kẻ thù hợp tác với mình mới xong .
Vậy bao phước đức thành công ,
Hãy nên phụng hiến kẻ từng hại ta .

109. 

Nếu bảo “ Kẻ thù đâu muốn giúp ,
Cho ta thành quả phúc thanh cao ” .
Vậy thì thánh pháp cao siêu ,
Cũng đâu muốn giúp nương theo tu hành .

110. 

 Nếu bảo : “ Thù chỉ chuyên tác hại ,
Đâu muốn gì ích lợi cho tôi ” .
Hại kèm thiện ý cứu đời ,
Thì như y sĩ, đâu thời nhẫn kham .

111. 

Nhờ một kẻ sân si tột độ ,
Nhẫn nhục thành kiên cố nơi ta .
Kẻ thù nhân tốt cho ta ,
Nên cung dưỡng họ như là Pháp thân .

112. 

Đức Mâu ni có dạy rằng ,
Chúng sinh với Phật cũng ngang phước điền .
Muốn thành lục độ vô biên ,
Hãy gieo giống phước lên trên ruộng này .

113. 

Kể bao đối tượng ta nương ,
Để tu chứng đạo , chúng sinh Phật đồng. .
Chỉ tôn Phật chẳng chúng sinh ,
Là lời chẳng có ở trong kinh nào .

114. 

Xét trên trí đức cao sâu ,
Dĩ nhiên Phật, chúng sinh nào giống nhau .
Chúng sinh giúp chứng đạo mầu ,
Nên đồng với Phật, ấy do quả lành .

115-116. 

Cúng dường tất cả chúng sinh ,
Với tâm từ mẫn, vô biên phước tồn .
Vì là nhân của quý tôn ,
Cũng như kính Phật Thế tôn vô lường .

117. 

Hằng sa công đức nan lương ,
Đồng quy nơi một kim thân Phật ngài .
Một công đức nhỏ trong đây ,
Đủ cho ba cõi quay về cúng dâng .

118. 

Nhờ chúng sinh Phật thành chính đạo ,
Nên hữu tình có tạo phần công .
Vì hai đức ấy tương đương ,
Cho nên thực đáng cúng dường chúng sinh .

119. 

Như lai đấng nói lời chân ,
Ban vui tất cả thiết thân hữu tình .
Cách nào báo Phật thâm ân ,
Cho bằng giúp chúng sinh hằng an vui .

120. 

Phật từng xả thân vào hỏa ngục ,
Cứu chúng sinh lăn lóc tam đồ .
Nhớ ân đức Phật sâu xa ,
Con nguyền tu hạnh lợi tha báo đền .

121. 

Phật xưa không tiếc thân mình ,
Đem cho tất cả hữu tình an vui .
Ngu si kiêu mạn là tôi ,
Nếu không làm kẻ tôi đòi chúng sinh .

122. 

Phật vui khi chúng sinh an ,
Chúng sinh tổn hại Phật tan nát lòng .
Hữu tình sướng, Phật an tâm ,
Làm cho chúng khổ tổn thương Phật ngài .

123. 

Như thân thể quấn trong lửa rực ,
Dù ai cho ngũ dục không màng .
Phật đà không thể hân hoan ,
Nếu ta tổn hại chúng sinh con Ngài .

124-125. 

Khi xưa con hại hữu tình ,
Khiến đau lòng Phật, nay xin sám chừa .
Từ nay con nguyện dứt trừ ,
Dù ai chà đạp xin thề nhẫn kham .

126. 

Phật với tâm đại bi vô ngại ,
Trong hữu tình thấy tánh Như lai .
Sao không kính trọng tánh này ,
Ở trong tất cả muôn loài chúng sinh .

127. 

Hãy làm cho chúng sinh vui ,
Thì ta sẽ khiến Như lai vui lòng .
Lại còn lợi lạc bản thân ,
Bao nhiêu đau khổ xóa tan trên đời .

128. 

Ví như có kẻ làm quan lớn ,
Hại dân lành, tán tận lương tâm .
Nhưng người dũng sĩ khôn ngoan ,
Dù dư sức cũng chẳng ham báo thù .

129. 

Vì quan ấy chẳng đơn cô ,
Sau ông còn có ô dù lớn lao : .
Phật đà bi mẫn gồm thâu ,
Và bao ngục tốt, lẽ nào coi khinh .

130-131. 

Hãy làm cho chúng sinh hoan hỉ ,
Như bề tôi phụng thị ác vương .
Ta không đọa bởi vua sân ,
Mà sa địa ngục nếu sân hữu tình .

132. 

Và dù bạo chúa hân hoan ,
Cũng không thể biếu niết bàn cho ta .
Quả do đức tính nhân hòa ,
Ban vui cứu khổ mọi nhà chúng sinh .

133. 

Kết quả làm hữu tình vui sướng ,
Là đời này được hưởng vinh quang .
Đời sau thoát khỏi khổ nàn ,
Hãy luôn ghi nhớ lời vàng chớ quên .

134. 

Trong vòng sinh tử liên miên ,
Sống lâu vô bệnh dung nhan tuyệt trần .
Tiếng thơm nhờ đức vô sân ,
Và bao hạnh phúc sánh bằng Luân vương.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6439)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30315)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7886)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12590)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34460)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10629)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10388)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10595)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21646)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12533)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16407)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16108)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12619)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11952)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12517)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14386)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20543)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13113)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20567)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14233)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17469)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13858)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant