Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 7: Tinh Tấn

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 12235)
Chương 7: Tinh Tấn

Chương Bảy
Tinh Tấn

1. 
 
Kế nhẫn nhục cần tu tinh tấn,
Tâm bồ đề mới vững trú luôn .
Gió lay quả phúc tràn tuôn ,
Không siêng kh
ó động mạch nguồn tâm linh .

2. 

Siêng là hăng với việc lành ,
Không bao giờ tự bỉ thối lui .
Cũng không biếng nhác nằm dài ,
Hay là tham đắm việc đời lăng xăng .

3. 

Do ham hưởng thú vui làm biếng ,
Ưa ngủ nhiều thành tánh trong ta .
Luân hồi sinh tử khó ra ,
Vì không chán khổ, mê sa thói lười .

4. 

Sao chưa biết được lẽ này: ,
Lưới mê đã vướng khó ngày thoát ra. .
Bào thai ngục ấy lại sa ,
Để thêm tái diễn bi ca khổ sầu .

5. 

Không thấy sao bao người thân thích ,
Đã dần theo thần chết ra đi .
Vẫn tham say ngủ li bì ,
Như trâu bất động trước người đồ phu .

6-7. 

Niêm phong ngõ thoát không chừa, ,
Tử thần rình rập, đang chờ nạn nhân .
Đợi khi nước đã đến chân ,
Mới lo thì đã muộn màng ích chi .

8-9. 

Bất kể việc ta còn dang dở ,
Thần chết liền chiếu cố thân ta .
Bà con tuyệt vọng lân la ,
Đau buồn sưng mặt lệ sa đầm đìa .

10. 

Hãi hùng nghe tiếng âm ty ,
Cuống cuồng phóng uế lấp che thân mình .
Ăn năn tội lỗi bình sinh ,
Nhưng đà quá muộn trước tình thế nay .

11. 

Trước thần chết tâm này hoảng hốt ,
Như cá nằm trên thớt bất an .
Huống chi thống khổ muôn vàn ,
Ở trong địa ngục ác hành tạo nên .

12. 

Như thịt da trẻ sơ sinh ,
Nước sôi chạm đến, cực hình nào hơn .
Sao ta có thể an nhiên ,
Khi mình đã tạo tội khiên quá nhiều .

13. 

Tai họa đến cho người biếng nhác ,
Mong quả lành không quyết gắng công .
Khi thần chết đến bên hông ,
Miệng kêu khổ đến thiên thông thét gào .

14. 

Thân người như chiếc xuồng nan ,
Đưa ta vượt biển muôn vàn hiểm nguy .
Khó tìm khi đã mất đi ,
Chớ ham ngủ kẻ ngu si biếng lười .

15. 

Sao bỏ luống niềm vui chính pháp ,
Suối nguồn bao pháp lạc cao siêu .
Thú vui thấp kém đuổi theo ,
Chỉ đưa ngươi đến đủ điều rối ren .

16. 

Hãy can đảm trữ hành trang: ,
Tập thiền tự chủ thân tâm cho thường; .
Quán ta bình đẳng tha nhân ,
Đổi trao địa vị bản thân với người .

17. 

Đừng nên khiếp nhược thối lui ,
Nghĩ rằng ta chẳng có tài cán chi .
Làm sao giác ngộ được gì ,
Hãy nghe kinh giáo Như lai dạy rành .

18-19. 

Chỉ cần có đức siêng năng ,
Dù cho ruồi muỗi ( cũng ) chứng thành ngôi cao .
Huống là nhân loại như ta ,
Nếu không xả giới quyết là chứng nên .

20. 

Nếu ngươi sợ bỏ tay chân ,
Như trong Giới luật khuyên nên gắng làm .
Thật là lo sợ viễn vông ,
Kẻ ngu chưa biết biện phân chính tà .

21. 

Ngươi đã trải qua vô số kiếp ,
Nào bị đâm bị đốt, xả cưa .
ngu si vẫn như xưa ,
Bồ đề vô thượng vẫn chưa viên thành .

22-23. 

Nay ta vì hạnh bồ đề ,
Như người chữa bệnh không nề đớn đau .
Chịu đau nhỏ trừ hại to ,
Khổ này có hạn, không lo kéo dài .

24. 

Phương pháp này Y vương chẳng dụng ,
Chữa lành vô số chứng nan y .
Dược phương ngài rất tinh vi ,
Không gây đau đớn chút gì chúng sinh .

25. 
Dạy tu bố thí trước tiên ,
Đem cho vật thực Phật khuyên nên hành .
Đã quen thí vật linh tinh ,
Dần cho cả máu thịt trên thân mình .

26. 
 
Khi đối tự thân mình đã rõ ,
Không khác gì cọng cỏ lá rau .
Thì không khó nhọc chi đâu ,
Xả thân bố thí mình đầu chân tay .

27.

 Ác hành khi đã cạn vơi ,
Thì không còn khổ, trọn đời an nhiên .
Dứt tà phân biệt, hết phiền ,
Thân tâm thanh tịnh tội khiên sạch làu .

28. 

Phước đức trang nghiêm thân tươi mát ,
Tuệ sáng ngời Bồ tát tâm an .
Vì đời nguyện trú tử sanh ,
Đâu còn chán ghét thế gian não phiền .

29. 

Bồ đề năng lực vô biên ,
Tiêu trừ ác nghiệp tiền khiên bao đời .
Lại tăng phước tận trùng khơi ,
So Thanh văn chúng chẳng ai sánh bì .

30. 

Hãy ngự trên bồ đề tuấn mã ,
Làm tiêu tan tất cả chán chường .
Chớ lùi hãy vững dây cương ,
Từ an vui đến vô vàn an vui .

31. 

Dục , tín , hỉ , xả không lơi ,
Khiến ta lợi lạc cho người thế gian .
Dục là mong thoát tai nàn ,
Việc làm thiếu dục không xong được nào .

32. 

Lực tinh tấn muốn tăng thêm mãi ,
Phải cố trừ giải đãi ươn hèn .
Mong cầu, hỉ, xả, tự tin ,
Tiến lên tự chủ cần chuyên thiện hành .

33. 

Nguyện trừ vô số tội khiên ,
Vì thân ta, lẫn vô biên hữu tình .
Dứt điều ác tận ngọn ngành ,
Phải bao đời kiếp tu hành mới xong .

34. 

Nhưng nếu ta chưa từng phát khởi ,
Một niệm trừ tội lỗi mầm tà .
Khổ nàn chắc sẽ đọa sa ,
Làm sao không khiến tim ta hãi hùng .

35. 

Vô biên công đức nguyền tu ,
Đem bao lợi ích cho ta lẫn người .
Chỉ duy một đức trong đây ,
Cũng cần vô số kiếp dày công tu .

36. 

Thế mà nay ta chưa có được ,
Chút phần nào công đức phải tu .
Một đời vô nghĩa luống qua ,
Lạ thay chẳng tiếc thân kia khó còn .

37. 

Ta chưa vì Phật hiến dâng, ,
Chưa bày yến tiệc mời từng chúng sinh .
Chưa theo giáo lý thực hành ,
Chưa tầng thỏa mãn hữu tình khát khao .

38.

Với người sợ, chưa bao che nổi ,
Chưa mang vui sướng tới kẻ sầu .
Riêng mình chắc phải khổ đau ,
Nhập thai , già chết , sầu ưu não nề .

39. 

Bao nhiêu thống khổ ê chề ,
Đều do tôi đã chưa hề ham tu .
Thuốc hay sao lại chối từ ,
Khi đà biết rõ ngục tù đớn dau .

40. 

Phật đã dạy mong cầu là gốc ,
Làm phát sinh bao đức tốt lành .
Muốn cầu diệu pháp quang minh ,
Tư duy khổ quả nghiệp nhân cho tường .

41. 

Bao nhiêu khiếp sợ, đau thương ,
Xa lìa ân ái, ghét thường kề bên .
Cầu không toại ở không yên ,
Đều do ta đã gây nhân bao đời .

42. 

Đến đâu cũng được thảnh thơi ,
Là do phúc trước chiêu vời quả son .
Việc lành ta đã vuông tròn ,
Mong người thoát khổ nỗi lòng ước ao .

43. 

Kẻ ác nhân mong cầu hạnh phúc ,
Vẫn gặp đầy nhung nhúc khổ đau .
Vì chưng khổ báo thường theo ,
Chân trời góc biển không đâu thoát nàn .

44a. 

Tu nhân tích chứa phúc lành ,
Hóa sinh vào đóa bạch liên thơm lừng .
Trong hoa mát mẻ thênh thang ,
Diệu âm pháp hỷ chứa chan thân mình .

44b. 

Thân tâm tràn ngập quang minh ,
Phật quang chiếu xúc hoa liền mở ra. .
Hân hoan kính lễ Di Đà ,
Tôi thành Con Phật trước tòa Như Lai .

45. 

Tạo nghiệp ác ghê thay thống khổ ,
Bị đọa vào những chỗ rên la .
Nước đồng sôi rưới tuột da ,
Giữa nền sắt nóng ngã ra nát nhừ .

46. 

Vậy nên ta phải chuyên tu ,
Mong cầu thiện pháp siêng lo việc lành .
Hãy đọc kinh Kim cang tràng ,
Dạy tu tự tín, thực hành điều hay .

47. 

Mỗi khi muốn bắt tay vào việc ,
Khả năng mình hãy xét trước tiên .
Không kham nên bỏ ngay liền ,
Làm thì cho đến vẹn tuyền mới thôi .

48. 

Bởi vì nếu cứ thối lui ,
Thói quen ảnh hưởng nhiều đời vị lai .
Khổ đau cứ thế nối dài ,
Việc lành dang dở quả thời dở dang .

49. 

Với thiện hành hãy nên tự tín ,
Nghĩ mình ta nhất định đảm đương .
Khả năng đoạn hoặc chứng chân ,
Trong ta có sẵn, chớ thường tự khinh .

50. 

Người đời khó đạt lợi mình ,
Xiết bao phiền não xích xiềng buộc thân .
Huống là lợi kỷ lợi nhân ,
Như ta đã được phúc phần xuất gia .

51. 

Thế nhân vẫn cần cù việc vặt ,
Sao ta đành ngoảnh mặt an thân .
Cho rằng việc chẳng tương ưng ,
Siêng năng thiện sự nhớ đừng kiêu căng .

52. 

Với con rắn độc chết nhăn ,
Quạ kia lẫm liệt uy phong đại bàng .
Đức tin yếu kém nơi lòng ,
Thì suy sụp bởi sai lầm nhỏ nhoi .

53. 

Kẻ yếu kém bỏ rơi nỗ lực ,
Khó giải trừ phước đức hiếm khan .
Với người cố gắng tinh chuyên ,
Dù bao trở ngại không phiền não chi .

54. 

Đức tin tôi sẽ kiên trì ,
Vượt qua đọa lạc tiêu trừ ác duyên .
Lỗi lầm nếu thắng lướt mình ,
Làm sao ra khỏi tử sinh luân hồi .

55. 

Phải chiến thắng não phiền tội ác ,
Đừng để cho tội ác thắng ta .
Như lai pháp tử giống nhà ,
Kiên trì tự tín mới ra con nòi .

56. 

Những người ngã mạn hợm mình ,
Là không có đủ tự tin nơi lòng .
Tự tin nên khỏi long đong ,
Như người ngã mạn khó hòng an tâm .

57. 

Trong ngã mạn ngoài kiêu căng ,
Sẽ sa đường ác gian nan lâu dài .
Mất toi phúc lạc kiếp người ,
Làm thân nô bộc trọn đời hẩm hiu .

58. 

Ngu si xấu xí hao gầy ,
Đến đâu cũng bị mọi người rẻ khinh. .
Kẻ tu khổ hạnh hợm mình ,
Không vào trong số tự tin thiện hành .

59. 

Ai muốn thắng quân thù ngã mạn ,
kiên trì tự tín trong tâm .
Chính là chiến thắng vẻ vang ,
Chóng thành nguyện ước thế gian mong chờ .

60. 

Giữa rừng phiền não bao vây ,
Trăm ngàn nhẫn chịu không hề nóng nôn .
Như sư tử giữa bầy chồn ,
Quyết không để giặc não phiền hại ta .

61. 

Kẻ lâm nạn giữ gìn đôi mắt ,
Giữa chợ đời dễ gặp khốn nguy .
Nếu ta mắt tuệ bảo trì ,
Ma quân phiền não chẳng hề đáng lo .

62. 

Thà bị thiêu đốt, chặt đầu ,
Còn hơn khuất phục giặc ngu não phiền .
Ở nơi đâu, mọi thời gian ,
Thề không làm việc bất ưng vô nghì . 

63. 

Như con trẻ trò chơi theo đuổi ,
Tôi cũng thề săn đuổi thiện hành .
Đam mê thích thú hết mình ,
Không bao giờ chán, nhiệt tình hăng say .

64. 

Thế nhân nỗ lực cầu vui ,
Mà không chắc được niềm vui mong cầu .
Lợi tha mang lại an vui ,
Nếu không làm chẳng có vui được nào .

65. 

Người đời không chán ham năm dục ,
Mãi ham mê liếm mật đầu gươm .
Dẫn sanh an lạc niết bàn ,
Thiện hành công đức đáng ham gấp mười .

66. 

Để viên thành phước cao thâm ,
Hãy siêng hành thiện với niềm hân hoan .
Như voi lao xuống đầm sen ,
Giữa trưa nóng bức ngâm mình khoái thay .

67. 

Khi thân tâm đã mệt nhoài, ,
Thì nên dưỡng sức, tạm thời xả buông .
Việc gì khi đã làm xong ,
Cũng nên xả để tính sang việc ngoài .

68. 

Như chiến sĩ sa trường lão luyện ,
Phản công ngay đường kiếm kẻ thù .
Trước gươm nhọn của si ngu ,
Khéo nên kềm chế giặc thù vô minh .

69. 

Khi đánh nhau lỡ làm rơi kiếm ,
Vội vàng ta sẽ lượm nhặt lên .
Mất đi chính niệm hiện tiền ,
Sợ sa hỏa ngục nên liền chính tri .

70. 

Độc khi đã thấm vào thân ,
Do tuần hoàn máu, sát nhanh thân này .
Độc phiền não cũng như đây ,
Làm cho tội ác lấp đầy bản tâm .

71-72. 

Hãy gìn giữ bản tâm chuyên chú ,
Như bưng dầu bị cổ kề gươm .
Hoặc như rắn độc bên lưng .
Xua tan biếng nhác bốc đồng nổi lên .

73-74. 

Mỗi khi lỡ phạm lỗi lầm ,
Hãy nên tự trách, thề không bao giờ .
Mọi thời chính niệm siêng tu ,
Mong thành đạo nghiệp, minh sư phải tầm .

75-76. 

Muốn năng lực để làm thiện sự ,
Không buông lung lời dạy nhớ ghi .
Như bông theo gió nhẹ bay ,
Tâm vui mọi việc khéo hay viên thành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32572)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12029)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12154)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12569)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34440)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10381)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21641)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9516)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10295)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12518)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12647)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16111)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13731)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16403)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11185)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16102)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12613)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11934)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11401)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12510)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14381)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13099)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10852)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14227)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20149)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13849)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant