Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

05 Phẩm Phương Tiện, Thí Dụ, Tín Giải, Thọ Ký

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6324)
05 Phẩm Phương Tiện, Thí Dụ, Tín Giải, Thọ Ký

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Phương Tiện, Thí Dụ, Tín Giải, Thọ Ký

Chúng ta sẽ học đề cương các phẩm Phương Tiện, Thí Dụ, Tín GiảiThọ Ký. Chữ “đề” là nắm lên, chữ “cương” là cương lĩnh. Học đề cương kinh Pháp Hoa là nắm cho được phần cương lĩnh của kinh. Vì học đề cương, nên không dẫn giải kỹ trong văn từ, chỉ học những ý chính, để nắm cho vững mà áp dụng tu hành. Cách học này đòi hỏi chúng ta phải tự học, tự nghiên cứu thêm trong nguyên bản kinh Pháp Hoa. Quan trọng là làm sao nắm được pháp tu để hành trì, không luận nhiều đến văn nghĩa. 

1. PHẨM PHƯƠNG TIỆN 

Chữ Phương Tiện là dùng phương cách tiện lợi để chỉ cho người học thấy biết về cái gì đó. Nhớ rằng phương tiện chỉ tạm dùng trong một giai đoạn nào thôi, không phải là chỗ đến cuối cùng. Ở đây cũng vậy, điều chúng ta học là những phương tiện để nắm được yếu chỉ kinh Pháp Hoa, giúp chúng ta nhận ra tri kiến Phật của mình, chỉ thẳng bản lai xưa nay của mỗi người. Chúng ta đã có sẵn cái đó, nhưng bỏ quên nên bụi đời, lang thang theo dòng trôi giạt mãi. Bây giờ do túc duyên nào đó, ta lại có cơ quày đầu và được sự hướng dẫn của Phật, dù trong thời kiếp mạt, xa dần với chánh pháp nhưng vẫn có thể nghe chánh pháp, làm sống dậy chủng tử Phật từ xưa nay. Như vậy là có phúc duyên rất lớn! 

Người tu thường chú trọng tới công phu. Bởi thiếu công phu, dù chúng ta học giỏi bao nhiêu cũng chỉ là đếm của báu nhà người. Như nhân viên ngân hàng, đếm bạc từ sáng tới chiều mà bản thân không có một đồng. Ở đây cũng vậy, muốn nắm vững đề cương, phải có công phu hành trì. Tôi không phủ nhận kiến thức. Kiến thức rất cần nhưng không khéo chúng ta sẽ bị các thiền sư chê là vướng mắc. Có kiến thức thì mắc kẹt kiến thức, không kiến thức mắc kẹt không kiến thức. Tóm lại với người đắm trước, có kiến thức cũng chết mà không kiến thức cũng chết. Rõ ràng chỉ có công phu, may ra lóe lên trí tuệ giúp mình thoát khỏi lưới mê. 

Từ vô lượng đời, chúng ta trôi giạt, dính mắc bởi những duyên rườm rà, chúng bao phủ ta giống như tơ lưới con kén con tằm, không nhúc nhích cục kịch gì được. Cho nên bây giờ phải tháo gỡ. Người chưa có chủ lực, dễ bị những thứ bên ngoài dẫn đi, có khi nó dập chết mình tại chỗ luôn. Như bình thường chúng ta thế này, nhưng có bệnh là mất tự chủ liền. Khó tìm được một người nghe nói một tuần nữa chết mà cười bình thường. Hiếm hoi lắm. Nhà thiền cần loại người như thế.

Phương tiện thì không phải thật. Phật đưa ra hình ảnh ba xe rồi cuối cùng trở về một cổ xe lớn, để dụ cho ban đầu Thế Tôn nói ba thừa, sau đưa về Nhất Phật thừa. Phật thừa là chỉ Tri kiến Phật, tức nói đến tánh giác sẵn có của chúng ta. Người ham tu, quyết tâm tu thành Phật, không còn nghĩ đến những việc chung quanh. Lòng lúc nào cũng rỗng rang, cắt đứt tất cả các duyên để được giải thoát. Do chỗ mong mỏi đó nên nghe ai nói tu năm ba bữa thành Phật liền chạy theo. Trên thực tế của cuộc đời, người ta hay bị vấp ngã bởi những lối tẽ, bởi ngả tắt. Rõ ràng công phu phải được thực hiện từng bước một, khắc phục, chiến đấu can trường, dũng mãnhdứt khoát lắm mới gầy dựng được sự định tỉnh, sáng suốt. Việc gầy dựng này đòi hỏi một ý chí tu hành kiên cố, không thoái chuyển

Nói tới ý chí, chư huynh đệ thấy có người không nói gì hết mà làm, lằm lủi làm. Trong lúc làm, nếu có vấp ngã họ gầy dựng trở lại, tự họ tìm cách đứng vững, cương quyết khẳng tâm, phấn chấn tiến tới. Hạng người này dù chậm lụt hay quê mùa tới đâu, nhất định cũng sẽ thành tựu. Ngược lại người dù thông minh lanh lợi mà lười biếng, cuối cùng chẳng đi tới đâu. Nếu thấy công phutiến bộ, chúng ta sẽ cảm nhận niềm phấn khởi, toát mồ hôi hạn sau thời gian khắc phục, chịu đựng. Từ đó chúng ta phấn phát, thích thú trong việc tu hành. Ví dụ chiều hôm đó quí vị thấy mệt mỏi không muốn tụng kinh, không muốn ngồi thiền, nhưng rán theo chúng, hoan hỷ phấn chấn, nghiêm túc khắc phục. Gan hơn nữa là tăng giờ ngồi thiền, cho đến toát mồ hôi thì mọi lười biếng, tăm tối bu bám tan hết. Quí vị hân hoan đứng lên vững vàng. Một lần hai lần như vậy thì các thứ giải đãi, hôn trầm, vọng tưởng ngán mình lắm. Nếu không như thế, cứ xìu xìu ểnh ểnh, ba thứ tăm tối nó sẽ bám vào gỡ không ra. Niềm khinh an thật sự chỉ có trong quá trình công phu, không thể tìm ở đâu khác, không có trong ti vi, không có trong đi-quăn, không có trong sự lười nhát, trong điên đảo vọng tưởng. Cho nên thời gian còn khỏe mạnh, anh em quyết tâm tu hành, nhất định sẽ có những kết quả tốt đẹp.

Thiền viện chủ trương đào tạo những thiền sinh gạo cội, có bản lĩnh mới duy trì, mở mang, phát huy đúng tinh thần thiền tông. Những vị chạy theo ngôn ngữ văn tự, coi chừng cuối cùng sẽ bị thiền sư Minh Chánh quở “công phu luống uổng một đời ai!” Những hình ảnh bất diệt của các bậc đại tăng Việt Nam là nhục thân của các thiền sư như ngài Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường, Như Trí… còn để lại cho Phật giáo đồ Việt Nam cái linh hồn bất tử. Hay như quả tim của Bồ-tát Quảng Đức, không có tác phẩm thứ hai, làm rúng động hàng vạn vạn trái tim trên toàn thế giới. Đó là gì? Là công đức tu hành. Là chân tâm hiển bày

Tôi nhớ trước khi Hòa thượng Thiện Châu theo Phật, ngài có về thăm thiền viện chúng ta, ở đây chơi một ngày với Hòa thượng Ân sư và chư tăng. Hòa thượng là một tăng sĩ có học vị tiến sĩ đặc biệt nhất. Thế nhưng ngài đã nói về bằng cấp như sau: “Bằng cấp chỉ để treo mà chơi, nó không nói lên được điều gì. Chư tăng nhớ cho, bao nhiêu tinh huyết chúng ta tạo dựng được chỉ y cứ trên công phu thể nghiệm của mình, theo sự chỉ dạy của Phật, của Bồ-tát, chư vị tổ sư truyền lại”. Nếu đức Phật Thích Ca để lại cho chúng ta bằng tiến sĩ thì bây giờ chúng ta không tu được đâu. Hoặc Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền ban cho chúng ta bằng cử nhân, thì cũng chẳng mở được con mắt trí tuệ cho mình. 

Vậy các ngài để lại cái gì? Như tổ Bồ Đề Đạt Ma chín năm xoay mặt vào vách, không nói một lời, đợi đến khi Thần Quang đứng trong tuyết, chặt tay dâng lên hỏi pháp an tâm, ngài mới động môi “Đem tâm ra ta an cho”. Động môi mà chẳng nói lên điều gì. Nhờ vậy dòng thiền trực chỉ mới sống độnglưu truyền mãi trên đời. Chớ nếu tổ Bồ Đề Đạt Ma xuống núi mở pháp hội giảng giải nọ kia, người ta hoan nghinh nhiệt liệt “ông thầy giảng hay quá”, thì có lẽ sẽ không tìm được Nhị tổ Huệ Khả đứng dưới tuyết, chặt cánh tay cầu pháp an tâm rồi. Cho nên gốc của sự tu là ở chỗ thực hành, trải nghiệm đến tận xương tủy mới được.

Ở đây nói không học không có nghĩa là không biết giáo lý, không biết cách tu. Mà không học là không học trên chữ nghĩa. Học xong thì buông bỏ hết để tu. Thiền viện chủ trương học để tu chứ không thi lấy bằng cấp. Các anh em phấn phát lên. Buổi khuya vị nào có bệnh ngáp từ ba giờ tới năm giờ thì cố gắng cắt đứt cơn ngáp, cũng như cắt đứt cơn nghiện vậy. Nghe kiểng thức chúng là trổi dậy, không ngáp nữa, rửa mặt rồi uống một chung nước nóng vô, phấn chấn lên điện Phật. Chiêm ngưỡngđảnh lễ chân dung đức Thế Tôn, phát tâm ngồi thiền chết bỏ, đau chân mấy cũng không xả. Ngồi nghe như hai chân cháy rụi, cho nó cháy luôn. Đừng tưởng nó cháy rồi uốn éo, kéo ra kéo vô, kéo hoài nó cũng vậy thôi. Kéo bên đây nó đau bên kia, nhúng tới cũng đau mà ngã lui cũng đau. Kệ nó. Quên nó đi, tự nhiên sẽ không còn thấy đau nữa. Như vậy mới tăng tiến công phu được chứ! Có nhiều anh em ngã tới ngã lui một hồi, rồi kê cái đầu lên bồ đoàn…ngáy pho pho. Khỏe quá, hết đau. Tọa thiền kiểu đó thì nguy, vì đã chui vào hang quỷ rồi. 

2. THÍ DỤ

Phật nói phẩm Thí Dụ, những người có trí nhân thí dụnhận ra ý chánh Phật muốn nói. Tuy nhiên việc nhận ra yếu chỉ Phật dạy đòi hỏi nơi công phu của chúng ta nữa. Sự thể nghiệm luôn luôn đóng vai trò quyết định

3. TÍN GIẢI 

Tín là tin, giải là hiểu. Hiểu rồi mới nhận, cởi mở, giải bày. Phẩm cuối cùng ở đây, được thiền sư Minh Chánh nêu rất rõ trong đề cương. Đó là phẩm Thọ Ký.

4. THỌ KÝ

Từ phương tiện tới dẫn dụ, chúng ta nhận ra thì được ấn chứng. Thọ kýấn chứng đã được như thế. Nhưng trong kinh Pháp Hoa, không có vị Bồ-tát, vị đệ tử nào được Phật bảo: “Ta thọ ký cho ông, lát nữa ông thành Phật”. Nghe lời thọ ký của đức Thế Tôn , chúng ta le lưỡi luôn. Nghĩa là phải gặp bao nhiêu trăm ngàn muôn ức đức Phật phụng thờ, tu tập, được những tam muội gì, trải qua kiếp số tu hànhlợi ích chúng sanh không thể tính kể mới thành Phật

Thời gian kiếp số của người Ấn Độ thật là mênh mông bất tận. Hai ba mươi tiểu kiếp, hai ba mươi trung kiếp, ba bốn hay vô số đại kiếp… dài ơi là dài! Nói đến thời gian như thế là nói đến sự sống trải, gan dạ và công phu thể nghiệm của hành giả. Nhưng một điều lý thú nhất, chắc chắn nhất là chúng ta có phần. Do đó nghe nói tri kiến Phật mình nhận ra, tuy cái nhận của mình không bằng người xưa. Hồi xưa các vị có túc duyên đặc biệt, từ kim khẩu đức Thế Tôn chỉ bày, các ngài nhận ra dễ dàng. Chúng ta tuy kém hơn nhưng cũng nhận ra được mình có tánh Phật là điều vinh dự rồi. Nếu không nhận ra thì không biết mình ra ra sao, đi về đâu?

Phật nói chúng ta đâu có nghèo, cũng không phải thiếu, mà có của báu vô lượng. Không riêng chúng ta như thế mà tất cả chúng sanh đều có của báu vô lượng. Nhưng tại sao bây giờ mình nghèo thiếu, phải hiểu lời Phật như thế nào đây? Phật nói không sai, nhưng tại mình bụi đời. Nhìn lại chúng ta không vướng bên này cũng kẹt bên kia, cứ lao ra ngoài mà quên xoay lại mình. Người nặng về tổ chức, người thích khoa bảng, học vị, thuyết giảng, công tác từ thiện xã hội… số người ngồi yên nhìn lại chính mình để sửa đổi, chuyển hóa chưa nhiều. Cho nên chư huynh đệ chúng ta hãy dừng bước phong trần, trở về ngôi nhà xưa của mình. Trong thiền viện được chừng mười vị chuyên nhất, thắp sáng được ngọn đuốc trí tuệ của mình, cũng đủ làm sáng rực cả đạo tràng này. Phật dạy một vị sắp thành đạo, mười phương thế giới chấn động, trời đất rung chuyển, cung ma sụp đổ. Năng lực của sự tu tập to lớn như vậy đó. 

Ngày xưa đức Phật ngồi dưới cội Bồ-đề thành đạo, chuyển pháp luân làm long trời lở đất. Ngài tu trong rừng, thành đạo dưới cội cây, nhập diệt cũng dưới bóng đại thọ. Tự tại như thế. Chúng ta bây giờ bị vật chất bu bám thật khó tu. Ngài Qui Sơn nói ham hố lợi danh, lẩn thẩn theo đời, bèn thành quê kệch v.v… là quở chúng ta đó. Thật đáng xót xa cho mình! Sự an lạc trong đạo không phải miếng ăn ngon, không phải vị ngọt của các cảm giác, mà nó có từ sự phấn phát quyết liệt của hành giả, xoay lại nơi chính mình để nhận lại nguồn an vui miên viễn. Không thể tìm được niềm an vui từ các cảnh duyên sanh diệt bên ngoài.

câu chuyện thế này. Một nhóm người chuyên trình diễn về quỷ la sát. Họ nói năng, múa mai theo kiểu quỷ la sát. Sau thời gian trình diễn ở vùng ấy, khách xem đã chán, họ dọn đi nơi khác. Trên đường họ phải băng qua một cánh rừng nguy hiểm. Trong nhóm có người bảo không khéo gặp quỷ la sát thật, nó xơi tái bọn mình hết. Nói thì nói nhưng họ vẫn cứ đi. Đến giữa rừng vào ban đêm, họ đốt một đống lửa nghỉ. Đồ đạc trang phục quỷ la sát để cạnh đó, tất cả mọi người đều mệt mỏi, họ cùng nằm dài ra ngủ. Đến khuya lạnh quá, có anh dậy lấy đồ quỷ la sát mặc vô cho ấm. Lát sau anh bên cạnh lạnh quá, lò mò ngồi dậy, thấy anh mặc đồ la sát, tưởng quỷ la sát thật, liền hét lên “quỷ la sát”. Cả đám thức dậy thấy quỷ la sát thật, thế là cùng nhau chạy bạt mạng. Anh mặc đồ quỷ la sát cũng hoảng, tưởng có quỷ la sát thật nên tháo chạy theo các bạn. Chạy cho đến té nhào, quần áo xúc sổ, chạy hết nổi nữa, họ quay lại nhìn, té ra anh bạn mặc đồ la sát bây giờ hiện nguyên hình chính là bạn mình, chứ không phải quỷ. 

Câu chuyện làm mình thấy tức cười. Chúng ta cũng vậy, tự tạo ra bao nhiêu cảnh tượng rồi trở lại kinh sợ, thán oán những gì mình đã vẽ ra. Nào ngờ tất cả đều từ tâm sanh. Cho nên bây giờ cần phải tỉnh, phải buông xuống hết thì yên thôi. Chỉ có tu mới gánh vác nổi sự nghiệp trí tuệ, mở sáng tông phong. Phải có tu mới chiếu thông được điều mình học. Chính công phu tu hành mới thể nghiệm thực được những gì chúng ta hiểu thông qua kinh điển. Chư huynh đệ tụng Bồ-đề giải thoát trăm lần, ngàn lần mà không có chút công phu thì Bồ-đề giải thoát đó chỉ là văn tự, không dính dáng gì tới sự an lạc giải thoát. Cho tới chừng nào mình nhận ra được mặt mắt thật xưa nay thì mới bình yên, giống như mấy anh chàng giả quỷ la sát trong câu chuyện kia vậy.

Chúng ta tụng kinh không phải để Phật nghe, mà để tự xem lại mình rồi khắc phục, bỏ những nghiệp tập xấu dở đi. Đêm nào cũng quyết tâm như thế đâu lo gì không thành tựu. Ở thiền viện, giờ tụng kinh không tăng, giờ hành trì không tăng, nhưng phẩm chất bên trong phải được tăng lên. Tu như vậy mới tiến. Giờ tụng sám hối sáu căn, giờ tọa thiền, những giờ giấc khác, nếu chúng ta xoáy đúng vào chỗ thật thì sẽ được biến thông, sẽ hài hòa tăng tiến. Ngoài ra mỗi ngày chư tăng có thêm giờ học Phật pháp tức là giờ hun đúc nhắc nhở. Nhân ngón tay mà nhận ra mặt trăng. Chư huynh đệ tăng tiến vươn lên, không nên nằm ì một chỗ. Như vậy không xứng đáng là đệ tử của Phật, không xứng đáng là người xuất gia, cầu hạnh giác ngộ giải thoát.

CHÁNH VĂN

Thọ ký(1) là chỉ thẳng tâm bản lai thanh tịnh này, tức chân như Phật, tri kiến đạo. Dùng tâm này làm nền tảng tu nhân, tương lai chứng được quả vị trong sạch trang nghiêm cõi Phật. Chính trong kinh đã nói: “Nhân như thế, duyên như thế, quả như thế, báo như thế, rốt ráo trước sau đều như thế”.

Tổ Bá Trượng cũng nói: “Chẳng lầm nhân quả” là đấy!

GIẢNG 

Người công phu như thế, thể hiện như thế, sống như thế, làm như thế, quyết tâm như thế thì sẽ đến chỗ như thế. Chúng ta sống một đời sống đầy đủ phẩm chất của người có công phu, nhất định sẽ tới chỗ an vui thanh tịnh, không chạy đàng nào khác. Nên nhớ đừng đi ngả tẽ. Ở thiền viện học như thế, tu như thế, sinh hoạt như thế. Mai mốt gặp ai nói đừng theo Hòa thượng nữa, theo tôi chừng ba tháng là giải quyết hết tất cả nghiệp tập, liền đi theo. Đó là ma mị cám dỗ người. Kẻ yếu thì bị nó hốt hồn thôi. Không có nghiệp tập nào giải tỏa như thế đâu. Nghiệp tập do mình tạo, mình không giải tỏa được thì không ai giải tỏa cho. Chuyện trong bụng mình không nói ra thì không ai biết. Ngài Hoàng Bá nói: “Dù một ngàn đức Phật ra đời cũng không biết được chỗ bất động của ông”.

(1) THỌ KÝ: Đức Phật nói trước những việc sắp đến của vị đó một cách chắc chắn như: sau bao nhiêu năm sẽ thành Phật danh hiệu gì, ở cõi nào và tuổi thọ bao nhiêu v.v…

CHÁNH VĂN

Chư thiên mừng khen, là bởi các trời xưa ở trong chỗ tu hành do phước hữu lậu mà được sanh lên cõi trời, nhưng chưa thoát khỏi luân hồi và năm thứ tướng suy(2). Nay nghe được tâm trong sạch mầu nhiệm như hoa sen, đồng thời rõ được yếu chỉ xuất thế, mừng rỡ tự biết sẽ là Phật, nên cùng nhau khen ngợi vậy.

Trong phẩm Thí Dụ, nhà lửa là dụ cho ba cõi, sáu đường. Lửa là dụ cho sanh, già, bệnh, chết v.v… tám thứ khổ và vô lượng phiền não. Ông trưởng giả là dụ cho Phật. Các con ông trưởng giả là dụ cho đệ tử Phật. Ba xe là dụ cho lời dạy thuở xưa. Nhất thừa là chỉ cho cơ lớn vui thích. Chàng cùng tử bỏ cha chạy trốn là dụ chúng sanh mê căn nhận thức. Mà thức thì tản mạn theo sáu trần, chưa từng phản chiếu lại căn nguyên. Đã nhờ tiếp nhận, mà vẫn còn tự khi ta là phàm phu, lòng không chút hy vọng.

Than ôi! Đức Thế Tôn đành nhận tướng phàm phutùy nghi vì nói.

(2) Năm thứ tướng suy của chư thiên: Khi các Ngài hưởng hết phước trời sắp đi đầu thai thì năm thứ tướng này hiện ra:

1 - Quần áo thường dơ bẩn.

2 - Trên đầu tóc rối, hoa tàn tạ.

3 - Thân thể hôi nhơ.

4 - Dưới nách thường ra mồ hôi.

5 - Không thích chỗ ngồi của mình.

GIẢNG 

Đây là lời của ngài Minh Chánh, qua cảm khái về sự việc trước mắt của tất cả chúng sanh và chính bản thân mình, nên ngài làm đề cương này. 

Tất cả những dụ nói ở trên đều nằm trong phẩm ví dụ của kinh Pháp Hoa. Nhà lửa dụ cho sanh già bệnh chết, tám thứ khổ và vô lượng phiền não. Tại sao nói nó là lửa? Vì nó làm chúng ta khó chịu còn hơn lửa nữa. Như lửa đốt mình chỉ nóng thôi, nhưng hôm nào bị phiền não, chẳng những nóng bức mà còn mất ăn mất ngủ, buồn bực, tu tập không được. Tay chúng ta rủi bị đun trong lửa một cái xèo, nó đau nhức theo kiểu bị lửa đốt cháy, chỉ đau đớn trên thân phần này thôi. Trong khi lửa phiền não nguy hại hơn nhiều. Nó đốt tiêu những cơ hội tốt đẹp của mình, từ lửa phiền não chúng sanh tiếp tục tạo nghiệp thêm, luân chuyển dài lâu trong nhiều kiếp sống khổ đau. Nói tóm lại, trong tất cả các thứ lửa, lửa phiền nãođáng sợ nhất. 

Nhìn chung huynh đệ chúng ta ai cũng có một túi phiền não. Không biết nó ở đâu, chứa trong hộc trong đơn nào, mà có cơ hội là nó nhảy ra liền. Có loại phiền não tự tôn, có loại phiền não tự ti... Bây giờ muốn giải trừ phiền não, phải làm sao? Phải có trí tuệ sáng suốt, cụ thể là phải có công phu tu hành. Không có công phu tu hành, không làm sao giải trừ được phiền não. Người thiếu công phu tu hành, thiếu tỉnh lực, thiếu trí tuệ, thấy cái gì cũng phiền não, nghe cái gì cũng phiền não, ăn cái gì cũng phiền não, làm cái gì cũng phiền não hết. Quái lạ! Cái này đâu có sung sướng, đâu có thoải mái thích thú gì, mình cũng không muốn cất chứa nó làm chi, nhưng không hiểu sao nó cứ bày ra đó, ì ra đó. 

Bây giờ chúng ta cố gắng triệt tiêu. Nói triệt tiêu giống như chiến sĩ chiến đấu với hư không vậy. Biết nó ở chỗ nào mà đập cho một hèo? Ai biết được phiền não mình ở đâu? Ngồi thiền mò mẫm từ ngày này tới ngày kia, không biết nó ở đâu, mà hở chút là nó ló đầu ra liền. Bây giờ phải có trí, có công phu lắm mới thắng được nó, thắng nó rồi mới an lạc. An lạc rồi mới được thọ ký thành Phật

Kệ rằng: 

Thân Tử mong nhờ nhận trước tiên,

Hoa Quang cõi Phật quả y nhiên,

Các trời hớn hở vui đồng tánh,

Hai dụ tuyên dươngđốn viên,

Đầu hứa ba xe, sau tặng một,

Trước cho nhà cỏ cuối thêm kiên,

Trong đây quyền thật đều phô diễn,

Được ý quên lời mới là hiền.

Bài kệ thơ Đường này rất hay. Chỉ bài kệ này, chúng ta tu đủ thành Phật rồi.

Năm thứ tướng suy của chư thiên hiện ra khi các ngài hưởng hết phước trời, sắp đi đầu thai là:

1. Quần áo thường dơ bẩn.

2. Trên đầu tóc rối, hoa tàn tạ.

3. Thân thể hôi nhơ.

4. Dưới nách thường ra mồ hôi.

5. Không thích chỗ ngồi của mình. 

Chư thiên trên trời phước báu nhiều vô lượng, nhưng lúc gần hết phước thì năm tướng này hiện ra. Dưới nách thường ra mồ hôi, chúng ta bị rồi nghe. Không thích chỗ ngồi của mình, khi phiền não mình đi kiếm chỗ này chỗ kia tu, như vậy cũng hiện tướng suy này. Quần áo thường dơ bẩn. Thân thể hôi nhơ. Ta có luôn. Trên đầu tóc rối, hoa tàn tạ. Mỗi chư thiên do phúc báu của họ, trên đầu thường có hoa tươi xinh xắn. Khi nào phúc hết, các hoa này héo. Mà ở trên đó rớt, không chắc được rớt xuống đây. Chỉ những ai có duyên với Phật pháp mới rơi xuống cõi người, bằng không là đi thẳng xuống âm phủ luôn hay thọ sanh vào các đường dữ, chứ không phải chơi. Bởi vì suốt một quá trình thụ hưởng, không có cơ hội gầy dựng công phu cho định tuệ phát sinh. Một khi thụ hưởng hết phước rồi giống như cái thùng rỗng, rớt thì rớt tận xuống đáy luôn. 

Do đó đạo Phật không chủ trương sanh lên thiên giới. Được phước thì hưởng nhưng cứ hưởng hoài, hết phước rớt xuống rất nguy. Ở cõi người phước tuy không bằng chư thiên, nhưng nhờ thế chúng ta biết tu. Công phu là điều hết sức quan trọng. Chúng ta biết sợ tội, sợ nhân quả, biết tỉnh giác để tu là những cơ hội tốt. Cho nên các vị thánh, các vị tu Bồ-tát đạo phần nhiều thị hiện trong cõi người , vì chỉ có cõi này đủ điều kiện để tu tiến nhất. Nên biết được thân người là một phước báu rất lớn, chúng ta phải nỗ lực, phấn đấu giải trừ phiền não để thoát khỏi nỗi khổ lớn sanh tử

Chúng ta muốn được thọ ký, muốn sống với tri kiến Phật thì phải nhận hiểu lời Phật dạy và có công phu. Cụ thể chúng ta vâng giữ đúng thời khóa trong thiền viện, nâng cấp công phu ngày một cao hơn, không để nó loãng hay lệch lạc, không để mất thời gian. Việc này đòi hỏi huynh đệ chúng ta tự ý thức, tự nỗ lực.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33142)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6524)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11249)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30389)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30426)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7964)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12236)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11582)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12789)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34723)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9830)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52244)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10727)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10494)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10697)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10449)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13061)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16246)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21813)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9600)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7107)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10372)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12722)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12762)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16211)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16512)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13838)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16563)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13788)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14305)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9180)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11731)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16284)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12684)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11789)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15650)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11498)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12611)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14981)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11950)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13118)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14517)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20662)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13200)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10928)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20679)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14335)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20347)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17635)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31848)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12008)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant