Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7723)
Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng (48)

Bấy giờ đức Thế tôn bảo thọ thần của bồ đề đại thọ, rằng thiện nữ thiên, thiện nữ nên biết cái lý do bồ tát Diệu tràng mộng thấy trống hoàng kim xuất âm thanh lớn, ca tụng công đức Như laidiệu pháp sám hối. Như lai sẽ nói cho các người về lý do ấy. Các người hãy nghe kyլ hãy khéo nghĩ khéo nhớ. Quá khứ có một đế vương tên Kim long chủ, thường đem hoa sen làm ví dụ mà ca tụng chư vị Như lai. Đức Thế tôn liền thuật lại cho đại hội nghe những lời ca tụng này.

(1) Chư Phật quá khứ 
vị lai hiện tại
ở trong thế giới 
khắp cả mười phương
con nay chí thành 
cúi đầu kính lạy, 
nhất tâm ca tụng 
các đấng Tối thắng
(2) Đấng Đại mâu ni 
tối thượng thanh tịnh
ánh sáng thân thể 
rực như hoàng kim
Trong các thứ tiếng 
tiếng Ngài tối thượng
như tiếng Đại phạn 
như sấm rền vang. 
(3) Tóc Ngài thì như 
ong chúa đen huyền, 
đường nét uốn xoay 
ngời lên xanh biếc. 
Răng đều và sít 
trắng như tuyết, ngọc, 
rất bằng và thẳng 
và ngời sáng lên. 
(4) Mắt trong không gợn, 
cực đẹp, uy nghiêm
to lớn tựa như 
cánh hoa sen xanh
Tướng lưỡi rộng dài, 
cùng cực nhu nhuyến
đỏ như sen hồng 
từ nước trồi lên. 
(5) Giữa mày thường có 
ánh sáng bạch hào 
uốn xoay chiều phải 
với màu pha lê
Lông mày dài, mịn, 
sáng như trăng mới, 
ngời lên lóng lánh 
như thân ong chúa. 
(6) Mũi cao, dài, thẳng, 
tựa như đĩnh vàng, 
sạch sẽ, tươi sáng, 
không thiếu vẻ đẹp; 
mọi thứ hơi thơm 
trong thế giới này, 
mũi này ngửi thấy 
là biết ở đâu. 
(7) Thân màu hoàng kim 
siêu tuyệt bậc nhất, 
mỗi một đầu lông 
đẹp đẽ đồng đẳng, 
xanh biếc, mềm mại, 
uốn theo chiều phải, 
tinh tế ánh ngời 
khó có gì bằng. 
(8) Thân ấy mới sinh 
đã có ánh sáng, 
trải ra khắp cả 
thế giới mười phương
trừ được khổ não 
ba cõi chúng sinh
làm cho tất cả 
đều được yên vui. 
(9) Bất kể địa ngục
bàng sinh, ngạ quỉ
tô la, chư thiên
cùng với nhân loại
làm cho loại trừ 
các dạng khổ não
thường xuyên hưởng thụ 
cái vui tự nhiên
(10) Ánh sáng thân ấy 
thường chiếu khắp cả, 
tựa như vàng ròng 
tinh tế bậc nhất. 
Mặt thì sáng ngời 
tựa như trăng tròn. 
Môi thì đỏ tươi 
như trái tần bà
(11) Bước đi uy nghiêm 
như sư tử đi. 
Mình sáng in như 
mặt trời mới mọc 
Cánh tay thì dài, 
đứng quá đầu gối, 
thường buông thẳng xuống 
như nhánh sa la
(12) Vầng ánh sáng tròn 
một tầm, tỏa chiếu, 
rực rỡ tựa như 
trăm ngàn mặt trời
trải đến khắp cả 
quốc độ của Phật, 
tùy kẻ hữu duyên 
mà được thức tỉnh
(13) Ánh sáng trong suốt 
không chi sánh bằng
trải ra khắp cả 
trăm ngàn thế giới
và khắp mười phương
không gì trở ngại, 
mọi sự mờ tối 
đều tan biến cả. 
(14) Từ quang Thiện thệ 
ban cho yên vui, 
màu sắc trong suốt 
như núi vàng ròng
ánh sáng trải khắp 
trăm ngàn quốc độ
những ai gặp được 
cùng siêu thoát cả. 
(15) Vô biên thắng phước 
hoàn thành thân Phật, 
tất cả công đức 
trang sức Phật thân
vượt quá ba cõi
độc xưng Thế tôn
hơn hết thế giới 
thành bậc Vô đẳng
(16) Chư vị Thế tôn 
thuộc thì quá khứ 
nhiều như vi trần 
của cả đại địa
chư vị Thế tôn 
vị lại hiện tại 
cũng bằng vi trần 
của cả đại địa
(17) Đem thân miệng ý 
cùng cực chân thành 
con xin kính lạy 
tam thế Thế tôn
ca tụng biển cả 
công đức vô biên
hiến cúng đủ loại 
những hương và hoa. 
(18) Giả sử miệng con 
có cả ngàn lưỡi, 
ca tụng Thế tôn 
trong vô lượng kiếp
thì công đức Ngài 
bất tư nghị
tối thắng, cực sâu, 
vẫn khó diễn tả
(19) Giả sử lưỡi con 
có cả trăm ngàn 
khen một công đức 
của một đức Phật 
cũng vẫn khó được 
một phần chút ít, 
huống chi vô biên 
công đức chư Phật. 
(20) Giả sử đại địa 
cho đến chư thiên 
đến trời Hữu đảnh 
toàn là biển nước, 
đầu lông nhỏ giọt 
đếm biết hết cả, 
một đức một Phật 
cũng khó lường biết. 
(21) Đem thân miệng ý 
cực kỳ chân thành 
mà con lễ bái 
cùng với tán dương 
công đức vô biên 
của chư Phật đà
sự lễ tán ấy 
được bao thắng phước 
quả báo siêu việt
con xin hồi hướng 
cho cả chúng sinh 
chóng thành Phật đà. 

(22) Kim long chủ vương 
tán thán Phật rồi, 
tâm càng thâm thiết 
phát ra đại nguyện
nguyện con sau này 
trong thì vị lai 
sinh ra đến mấy 
đời kiếp đi nữa, 
(23) thường xuyên mộng thấy 
trống hoàng kim lớn, 
được nghe âm thanh 
diệu pháp sám hối
Công đức tán Phật 
thì như liên hoa
nguyện chứng Vô sinh 
thành bậc Chánh giác
(24) Thế tôn xuất thế 
lâu thay một lần
trăm ngàn đời kiếp 
cũng khó gặp được. 
Nên đêm thường mộng 
nghe tiếng trống vàng, 
ngày thì theo đó 
tu hành sám hối
(25) Con nguyện viên tu 
sáu ba la mật
cứu vớt chúng sinh 
ra khỏi biển khổ, 
sau con mới thành 
đấng Vô thượng giác
với một tịnh độ 
bất khả tư nghị
(26) Con đem trống vàng 
hiến lên chư Phật, 
tán thán chư Phật 
công đức chân thật
nguyện nhờ việc này 
sẽ gặp Thích tôn 
thọ ký cho con 
nối ngôi Pháp vương
(27) Kim long, Kim quang
là con của con, 
quá khứ đã làm 
bậc thiện tri thức
nguyện rằng đời đời 
vẫn sinh nhà con, 
cùng con tiếp nhận 
thọ ký bồ đề
(28) Với những chúng sinh 
không ai cứu giúp, 
trường kỳ luân hồi 
lãnh chịu khổ não
nguyện con đời sau 
làm nơi nương tựa 
cho họ thường được 
yên vui thích thú. 
(29) Cái khổ ba cõi 
con nguyện diệt trừ
làm cho tùy tâm 
ở nơi an lạc
Nguyện những đời sau 
tu hành bồ đề 
cũng như quá khứ 
các vị thành Phật
(30) Nguyện cầu cái phước 
trống vàng sám hối 
làm khô biển khổ 
loại trừ nghiệp chướng
nghiệp chướng hoặc chướng 
tan biến cả rồi, 
nguyện con chóng đạt 
quả báo trong sáng
(31) Biển cả phước trí 
giới hạn vô biên
trong suốt rất mực 
và sâu không cùng. 
Nguyện con thực hiện 
biển phước trí ấy, 
mau chóng thành đạt 
vô thượng bồ đề
(32) Sức mạnh sám hối 
của trống vàng này 
sẽ thể hiện được 
ánh sáng phước đức
Thể hiện ánh sáng 
nhiệm mầu như vậy, 
rồi đem trí quang 
chiếu soi khắp cả. 
(33) Nguyện cầu cho con 
thân thể, ánh sáng, 
phước đức, trí tuệ
đều như chư Phật, 
trong mọi thế giới 
độc xưng Thế tôn
uy lực tự tại 
không ai sánh bằng
(34) Nguyện cầu vượt qua 
biển khổ hữu lậu
nguyện thường du ngoạn 
biển vui vô vi
biển phước hiện tại 
nguyện thường dẫy đầy, 
biển trí tương lai 
nguyện được viên mãn
(35) Nguyện cõi của con 
siêu việt ba cõi
phẩm chất thù thắng 
không có số lượng, 
những ai liên hệ 
cùng sinh cõi ấy, 
cùng mau thành đạt 
trí giác thanh tịnh

(36) Diệu tràng nên biết 
Kim long chủ vương 
đã phát nguyện ấy 
bản thân ông. 
(37) Và hai người con 
Kim long, Kim quang 
thì nay chính là 
Ngân tướng, Ngân quang, 
sẽ cùng tiếp nhận 
Như lai thọ ký
Toàn thể đại hội nghe những lời này của đức Thế tôn, thì ai cũng phát tâm bồ đề, nguyện rằng hiện tạivị lai thường y theo những lời ấy mà tu hành diệu pháp sám hối.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33131)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6520)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11241)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30425)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7963)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12160)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12230)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11577)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12781)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34712)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9829)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52235)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10723)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10492)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10696)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10445)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13050)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16231)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21809)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9594)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7101)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10370)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12714)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12760)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16207)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16507)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13836)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16560)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12096)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13785)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14302)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9177)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11730)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16281)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14326)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16186)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12682)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12061)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11784)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15643)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11495)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14011)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11995)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12608)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14973)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11943)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13106)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14511)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20655)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13187)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10926)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20670)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14331)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20341)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17626)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13999)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31843)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12004)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant