- Tổng Quan
- Nghi Thức Sám Hối
- Ghi Chú
- Phẩm 1: Mở Đầu Pháp Thọai
- Phẩm 2: Thọ Lượng Thế Tôn
- Phẩm 3: Phân Biệt Ba Thân
- Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng
- Phẩm 5: Diệt Trừ Nghiệp Chướng
- Phẩm 6: Minh Chú Tịnh Địa
- Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng
- Phẩm 8: Minh Chú Kim Thắng
- Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không
- Phẩm 10: Mãn Nguyện Vì Không
- Phẩm 11: Thiên Vương Quan Sát
- Phẩm 12: Thiên Vương Hộ Quốc
- Phẩm 13: Minh Chú Ly Nhiễm
- Phẩm 14: Ngọc Báu Như Ý
- Phẩm 15: Đại Biện Thiên Nữ
- Phẩm 16: Cát Tường Thiên Nữ
- Phẩm 17: Tăng Trưởng Tài Vật
- Phẩm 18: Kiên Lao Địa Thần
- Phẩm 19: Dược Xoa Đại Tướng
- Phẩm 20: Vương Pháp Chính Luận
- Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương
- Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì
- Phẩm 23: Thọ Ký Thành Phật
- Phẩm 24: Chữa Trị Bịnh Khổ
- Phẩm 25: Truyện Của Lưu Thủy
- Phẩm 26: Xả Bỏ Thân Mạng
- Phẩm 27: Bồ Tát Tán Dương
- Phẩm 28: Diệu Tràng Tán Dương
- Phẩm 29: Thọ Thần Tán Dương
- Phẩm 30: Biện Tài Tán Dương
- Phẩm 31: Ký Thác Kinh Vua
KINH KIM QUANG
MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh
Phẩm 24: Chữa Trị Bịnh Khổ
Đức Thế tôn lại bảo Bồ đề thọ thần, hãy nghe cho kyլ hãy khéo nghĩ nhớ. Như lai nay nói cho thiện nữ nghe về bản nguyện của mười ngàn thiên tử.
Thiện nữ, quá khứ vô số kiếp, bấy giờ có đức Phật đà xuất hiện thế giới, danh hiệu Bảo kế như lai, đủ mười đức hiệu. Sau khi đức Như lai ấy nhập niết bàn, giáo pháp nguyên chất hết rồi, trong giáo pháp tương tự có một quốc vương tên Thiên tự tại quang, luôn luôn áp dụng chánh pháp mà hóa cải quốc dân, tựa như cha mẹ đối với con cái. Trong vương quốc có một trưởng giả tên Trì thủy, hiểu rành y học, thông suốt tám thuật. Ai bịnh khổ, tứ đại bất ổn, ông cứu chữa được cả.
Thiện nữ, Trì thủy trưởng giả có người con trai duy nhất, tên là Lưu thủy. Người đẹp, nghiêm chỉnh, ai cũng thích nhìn. Bẩm tính thông minh, quán triệt mọi luận thuyết và kyՠthuật. Bấy giờ trong vương quốc nhiều người bị bịnh truyền nhiễm, khổ sở đến nỗi không thích sống nữa. Thiện nữ, trưởng giả tử Lưu thủy thấy vậy thì sinh đại bi tâm, nghĩ như vầy. Bao nhiêu là người bịnh khổ! Cha ta rành y học, khéo tám thuật, chữa được mọi bịnh do tứ đại hoặc thêm hoặc bớt. Nhưng cha ta già yếu rồi. Đi đâu cũng phải đỡ, làm sao đến được những nơi làng xóm thành thị mà chữa bịnh. Thế thì bao người bịnh nặng mà không ai cứu chữa. Vậy ta hãy đến chỗ cha ta, vị đại lương y, hỏi bí quyết chữa bịnh. Biết được bí quyết ấy, ta sẽ đi đến thành thị làng xóm mà cứu chữa cho người, làm cho họ an lạc. Trưởng giả tử nghĩ rồi tức tốc đến chỗ cha, lạy ngang chân ông, chắp tay cung kính, đứng qua một bên, dùng lời chỉnh cú mà thỉnh cầu.
(1) Xin cha
thương tưởng con.
Con muốn cứu mọi
người.
Nay con hỏi y
thuật,
mong cha nói cho con.
(2) Tại sao thân
suy hỏng,
tứ đại có thêm
bớt?
Và ở vào lúc
nào
thì bịnh tật sinh
ra?
(3) Ăn uống như
thế nào
để hưởng được yên
vui?
Làm sao trong cơ
thể
nhiệt lực không
suy tổn?
(4) Bịnh con người
có bốn,
có bịnh phong,
nhiệt, đàm,
lại có bịnh hỗn
hợp,
làm sao trị liệu
được?
(5) Lúc nào nổi
bịnh phong?
lúc nào phát bịnh
nhiệt?
lúc nào động bịnh
đàm?
lúc nào bịnh hỗn
hợp?
Trì thủy trưởng
gia nghe con hỏi rồi, cũng nói lại bằng chỉnh cú.
(6) Y theo phép
chữa bịnh
của tiên nhân đời
xưa,
cha tuần tự nói
cho,
khéo nghe để cứu
người.
(7) Ba tháng là
mùa xuân,
ba tháng là mùa
hè,
ba tháng là mùa
thu,
ba tháng là mùa
đông.
(8) Ấy là theo một
năm
ba tháng một mà
nói.
Hai tháng một một
tiết
một năm thành sáu
tiết:
(9) giêng hai là
tiết hoa,
ba tư là tiết
nóng,
năm sáu là tiết
mưa,
bảy tám là tiết
thu,
(10) chín mười là
tiết lạnh
một chạp là tiết
tuyết.
Phải phân biệt như
vậy,
cho thuốc đừng sai
chậy
(11) Tùy theo mùa
tiết ấy
mà điều hòa ăn
uống,
vào bụng tiêu hóa
được,
mọi bịnh mới không
sinh.
(12) Khí hậu nếu
thay đổi
thì tứ đại biến
động,
bấy giờ mà không
thuốc
thì tất sinh bịnh
khổ.
(13) Thầy thuốc
biết bốn mùa,
lại biết về sáu
tiết,
biết bảy phần cơ
thể
thì cho thuốc
không sai.
(14) Bảy phần là
vị (97) , máu,
thịt, mỡ, xương,
tủy, não.
Biết bịnh nhập bảy
phần
lại biết chữa được
không.
(15) Bịnh thì có
bốn loại:
các loại phong,
nhiệt, đàm,
và loại bịnh hỗn
hợp,
nên biết lúc chúng
phát:
(16) mùa xuân phát
bịnh đàm
mùa hè phát bịnh
phong,
mùa thu phát bịnh
nhiệt,
mùa đông biểnh hỗn
hợp.
(17) Xuân ăn chất
nóng cay,
hè béo nóng mặn
dấm,
thu ăn lạnh ngọt
béo,
đông ăn chát béo
ngọt.
(18) Trong bốn mùa
như vậy,
dùng thuốc và ăn
uống
theo như mùi vị
ấy,
bịnh không lý do
sinh.
(19) Sau ăn bịnh
do đàm,
ăn tiêu bịnh do
nhiệt,
sau tiêu bịnh do
phong,
cứ thế nhận thức
bịnh.
(20) Nhận thức gốc
bịnh rồi,
tùy bịnh mà cho
thuốc.
Nếu bịnh trạng
khác đi,
cũng chữa cái gốc
trước.
(21) Phong thì
dùng dầu, kem,
nhiệt thì lợi đại
tiểu,
đàm thì hóa,
thông, thổ,
hỗn hợp thì cả
ba.
(22) Phong nhiệt
đàm cùng có,
thế gọi là hỗn
hợp.
Tuy biết lúc bịnh
phát,
cũng phải xét gốc
bịnh.
(23) Xét biết như
vậy rồi,
tùy lúc mà cho thuốc.
Ăn, uống, thuốc,
không sai,
mới gọi thầy thuốc
giỏi.
(24) Lại nữa biết
tám thuật
bao quát mọi cách
chữa.
Nếu hiểu rõ tám
thuật
hãy chữa bịnh cho
người.
(25) Tám thuật là
châm chích,
giải phẫu, chữa
thân bịnh,
chữa tâm bịnh,
trúng độc,
khoa nhi với khoa
lão,
sau hết là dưỡng
sinh,
[đó, tám thuật
chữa bịnh].
(26) Trước xem xét
hình sắc,
nói năng và tánh
tình,
sau hỏi đến chiêm
bao,
thì biết phong
nhiệt đàm.
(27) Khô ốm đầu ít
tóc,
tâm tính không ổn
định,
nói nhiều mộng bay
đi,
đó là thuộc loại
phong.
(28) Tuổi trẻ mọc
tóc trắng,
nhiều mồ hôi, hay
giận,
thông minh, mộng
thấy lửa,
đó là thuộc loại
nhiệt.
(29) Tâm ổn, thân
ngay thẳng,
nghĩ kyլ đầu nhờn, cáu,
mộng thấy nước,
vật trắng,
đó là thuộc loại đàm.
(30) Hỗn hợp thì
có chung,
chung hai hay
chung ba,
và hễ loại nào
nhiều
là tính bịnh hỗn
hợp.
(31) Biết gốc, đặc
tính bịnh,
chuẩn bịnh mà cho
thuốc.
Nhưng thấy không
tướng chết
mới rõ bịnh cứu
được.
(32) Giác quan thì
thác loạn,
khinh khi thầy
thuốc giỏi,
thấy bạn thân cũng
giận,
đó là hiện tượng
chết.
(33) Mắt trái biến
màu trắng
lưỡi đen, sống mũi
lệch,
vành tai không như
cũ,
môi dưới thì xệ
xuống (98)
(34) Ha lê lặc một
thứ
có đủ cả sáu
vị,
trừ được tất cả
bịnh,
là thuốc vua,
không kị.
(35) Lại ba trái
ba cay (99)
là thuốc dễ có
được,
đường cát, mật
ong, sữa,
cũng chữa được
nhiều bịnh.
(36) Ngoài ra,
dược liệu khác,
tùy bịnh mà thêm
vào.
Nhưng trước phải
từ tâm,
đừng mưu tính tài
lợi.
(37) Cha đã nói
những việc
cần cho sự chữa
bịnh.
Con đem ra cứu
người
thì phước sẽ vô
biên.
Thiện nữ, bấy giờ
trưởng giả tử Lưu thủy đích thân hỏi và nghe cha nói về tám thuật, về tứ đại
thêm bớt, về thời tiết bất đồng, về cách cho thuốc. Hiểu biết rành rẽ rồi,
trưởng giả tử tự xét kyՠmình đủ sức cứu chữa mọi bịnh. Bèn đi đến thành thị
thôn xóm, chỗ nào có bịnh nhân cũng đến, dịu ngọt an ủi, và rằng tôi là thầy
thuốc, tôi là thầy thuốc, tôi rành thuốc chữa bịnh. Tôi sẽ chữa cho các người
lành mạnh. Thiện nữ, bấy giờ người ta nghe trưởng giả tử an ủi, hứa chữa bịnh
cho, thì bao nhiêu bịnh nhân trầm trọng nghe lời ấy cũng phấn chấn thân tâm,
vui mừng hiếm có. Do vậy mà bịnh khổ tiêu tan, khí lực sung mãn, bình phục như
cũ. Thiện nữ, bấy giờ lại có bao nhiêu bịnh nhân trầm trọng mà khó cứu chữa,
tức thì đến chỗ trưởng giả tử xin chữa thêm. Trưởng giả tử tức thì cho thuốc,
bảo dùng, và ai cũng lành cả. Thiện nữ, cứ như thế, trưởng giả tử Lưu thủy chữa
lành cho bao nhiêu bịnh nhân ở trong vương quốc.