NHỮNG HẠT NGỌCTRÍ TUỆPHẬT GIÁO Nguyên tác: Gems of Buddhist Wisdom Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996 Thích Tâm Quang dịch
I. QUAN ÐIỂM ÐẠI CƯƠNG PHẬT GIÁO
4. PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG VẤN ÐỀ CỦA THỜI ÐẠI
- Tiến Sĩ G.P. Malalasekera
Phật
Giáo đặt giải thoát hay Niết Bànhoàn toàn trong tầm tay con người. Tuy
nhiên, nó không đến với ta như một tặng phẩm từ bên ngoài ta; đó là điều tự ta phải đạt được. Không ai có thể tìm mình bên ngoài và chữa khỏi sự chán ghét mình từ những giá trị chủ yếu. Nói một cách khác, Phật
Giáo không có chỗ cho một Vị Cứu Thếchịu tội cho người khác để đạt được sự chuộc tội.
Chư Thiên
Phật Giáothừa nhận có nhiều loại thần được gọi là chư thiên hay vị trời. Tuy nhiên không một vị nào trong những chư thiên này thường còn và
bất diệt. Các chư thiên này được thấy tại nhiều cõi sống, một số có tuổi thọ lâu hơn chúng bạn. Tuy nhiên không một vị nào là toàn năng, một
số được coi như có thần thôngsiêu nhân và những ân huệ của họ ta có thể đạt được mặc dầu không phải bằng cầu nguyện và hy sinh. Theo Phật Giáo, những người mộ đạo có thể chia sẻ công đức và có thể truyền cảm tư
tưởngtừ ái đến chư thiên để cầu khẩn các vị này che chở cho họ.
Cuộc sống trong thế giớichư thiên và tuổi thọ của họ tùy thuộc vào những hành vi tốt làm trong đờiquá khứ và khi kho dự trữ các công đức cạn hết, thì các chư thiên sẽ biến mất từ cõi trời và sanh vào một nơi nào đó. Nhiều chư thiên, nếu không phải hầu hết, là tín đồ của Phật mà các đức hạnh được các chư thiên biết rõ. Họ không may mắn như chúng sanhloài người vì trong thế giớiloài người, có nhiều cơ hội làm những điều
thiện hơn cảnh giới của chư thiên. Con người có thể chia sẻ công đứcđạt được do hành động thiện đến chư thiên.
Hồi Hướng Công Ðức
Học thuyết 'hồi hướng công đức' là một phần giáo lý của Ðức Phật. hồi hướng như vậy được thực thi bởi người làm điều thiện quyết định là 'ai ' có thể cùng hưởng 'công đức' của hành vi thiện của mình. Việc hồi hướng trở nên thực sự hiệu quả khi người thọ nhận ý thức được điều thiện
và hoan hỉ trong trường hợp ấy. Ðiều này gọi là anumodana (hoan hỉ về việc đó). Việc hoan hỉ có thể thực thi không cần đến sự hiểu biết của người làm điều thiện. Cái hữu lý đàng sau điều đó là khi một người tìm thấy nguồn vui trong một hành vi thiện khác, dù có hay không có sự hiểu biết của người nhận, tâm của người đó trong sạch, và thanh tịnh và điều này tạo hiệu quảcông đức cho chính mình. Sự hoan hỉ có thể thực thi bởi
bất cứ ai như một hành động có ý thức và thận trọng. 'Hồi hướng công đức' chính nó là một hành vi thiện, thêm vào công đức của các việc thiện
đã làm. Người chia sẻ công đức không mất mát gì mà có thể tích lũy công
đức.
Có những chư thiênđặc biệt hay các vị trời có thần thôngquảng đại,
được coi những người bảo hộ của Phật Giáo. Mỗi xứ Phật Giáo có đền thờ riêng ảnh hưởng chủ yếu là địa phương, tuy cũng có một số ít được cầu khẩn tại bất cứ ở đâu. Có nhiều những chư thiên địa phương được mượn hay
áp dụng bởi những tín đồ của tôn giáo khác, nhất là Ấn Giáo trong trưòng hợp vùng đất của Theravada (Nguyên Thủy). Tại Myanmar, chẳng hạn,
người Phật Tử tìm ân huệ nơi (Thiên Vương ) Nats, chủ trì vận mệnh người tại nơi này. Tại Nhật Bản, mặt khác, nhiều Bồ Tát (Phật sẽ thành) được cầu khẩn.
Có nhiều những điện thờ các vị thần này, tại đây các người sùng đạo dâng cúng trái cây, hoa như biểu tượng sự tôn kính, cầu nguyện, tụng kinh và nguyện cầu xinân huệ. Không có súc vật bị cúng tế. Dạng thức của sự thờ phượng này có ảnh hưởngsâu rộng bởi những người tu tập theo tôn giáohữu thần. Việc này tương đồng với điều Ðức Phật nói khi Ngài tuyên bố lúc con người bị khủng hoảng hay lo âu, người dân sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu để được che chở. Những ân huệ mà họ nguyện cầu liên quan đến việc trần thế. Không có người Phật tử nào tin vào sự sùng bái các thần, dù thần thông mạnh me,õ có thể dẫn đến việc mở mang tinh thần.
Niềm Tin
Câu hỏi thường được nêu lên là niềm tin (Saddha) có vị trí như thế nào trong Phật Giáo. Tưởng cũng rất hữu ích nhớ lại trong các bản văn kinh điển nguyên thủy tiếng Pali, không có một từ ngữ nào tương đồng với chữ 'Phật Tử'. Dân chúng được phân chia ra làm nhiều hạng theo trình độ của sự phát triển tinh thần. Vây nên chúng ta có người bình thường, một trong số nhiều người trong dân gian (puthujjana), người lương hảo(kalyana-puthujjana), người quý phái(ariya) và người hoàn toàn(arahant).
Kinh điển nói đến những người tìm nương tựa nơi Ðức Phật, Giáo Pháp của
Ngài, và những đệ tử cao quý của Ngài (đoàn thể Tăng Già). Trong Phật Giáo, không có nghi thức 'rửa tội' tuy nhiên có một nghi thức rập khuôn áp dụng bởi người Phật Tử trong những nước Phật Giáo để bày tỏ hành động
'quy y' có nghĩa là người sùng đạo chấp nhận Ðức Phật là vị Ðạo Sư, Pháp là triết lý và Lối Sống và Tăng Già (Ðoàn thể các Thầy Tu) như những người gương mẫu về Lối Sống.
Ðúc tin Phật Giáo có nghĩa là chấp nhận trong niềm tin tưởng và kiến
thức những nơi nương tựa ấy rất đáng được chấp nhận. Không có 'niềm tin
mù quáng', không có trường hợp nào 'không tin thì bị đọa đầy'. Ðức Phật
đồng ý có nhiều thầy và nhiều Lối Sống được thuyết giảng bởi các vị thầy này, và có nhiều tín đồ của các vị thầy ấy và Lối Sống của họ. Mọi ngườihoàn toàntự do chọn lựa; không một hạn chế nào trên quyền tự quyết của môt cá nhân trong phương diện này. Thực ra có nhiều trường hợp
những tín đồ của các vị thầy khác thoái thác các vị thầy này và mong muốn chuyển lòng trung thành với Ðức Phật. Ngài làm họ nản lòng và yêu cầu họ hãy nghĩ kỹ vấn đề hơn nữa. Khi họ còn năn nỉ, Ðức Phật khuyên họ
nên tiếp tụcviệc thiện với những vị thầy cũ của họ.
Một đoạn nổi tiếng trong Kinh Kalama, thường được trích dẫn trong phương diện này, là một bằng chứng không bác được của sự tự do chọn lựa này. Ðoạn văn khẳng định không nên chấp nhận điều gì chỉ vì lý dotruyền
thống, quyền thế của vị thầy, hay vì nó là quan điểm của nhiều người, một nhóm người đặc biệt hay ngược lại. Mọi thứ đều phải được cân nhắc, quan sát, và phán xét xem đúng hay sai dưới ánh sáng nhận thức của chính
mình. Nếu là sai, không nên bác bỏ chúng ngay mà nên để lại xét thêm nữa. Không phải nghi ngờ được coi là tội ác ghê gớm mà nên được tích cực
khuyến khích.
Chánh Kiến và Tà Kiến
Phật Giáo không có sự định nghĩa rành mạch cho những thuật ngữSammaditthi (chánh kiến) và Micchaditthi (tà
kiến). Chúng dựa vàoquan điểmthực chất là sai hay đúng dù đó là theo người Phật Tử hay những người khác. Không quan điểm nào bị coi như không
được xâm phạm vì lý dotôn giáo và không được hỏi. Tự dotư tưởng là một vấn đềnhân phẩm. Cả đến tính giá trị của các lời tuyên bố của chính
Ðức Phật cũng được hỏi. Ðức Phật tuyên bố không có quyền hành gì về học
thuyết của Ngài ngoại trừ kinh nghiệmbản thân của chính Ngài.
Quyền hành thực sự là quyền hành mà tự nó có chân lý, chân lýchứng minh chính nó là xác thực. Chân lý như vậy có sức mạnh lớn, sức mạnh có thể làm phép lạ (saccakiriya), như được thấy nhiều trong kinh Jataka, một phần gia tàivăn hóa của người Phật Tử. Cho nên, saddha
(niềm tin) nên được giải nghĩa như tin cẩn, tin tưởng hay nhận thức hơn
là niềm tin, vì niềm tin có nghĩa rộng không tìm thấy trong khái niệm về Saddha.
Hạnh Phúc của Tất Cả Chúng Sanh
Lối sống Ðức Phật dạy, đôi khi gợi ý, không có nghĩa đặc biệt dành cho những người có đời sống trong tu viện. Ðúng ra, tinh thần không luyến ái phải được phát triển để đạt Niết Bàn có thể thành tựu nhanh bởi
nhà sư hơn là người cư sĩ. Nhưng, hoàn toàn là sai khi nói giải thoáthoàn toàn chỉ có thể đạt được bởi nhà sư và người cư sĩ sống tại gia không đạt được. Những bài thuyết giảng của Ðức Phật thu thập và hiệu đính bởi Hội Ðồng các Trưởng Lão sau khi Ðức Phật nhập diệt, gồm nhiều bài giảng cho các nhà sư vì các nhà sư là thính giảchính trực tiếp của Ngài. Nhưng cũng có nhiều bài Ngài giảng cho người cư sĩ. Ðôi khi Ngài giảng cho một người.
Trong bài thuyết pháp đầu tiên, gọi là Thiết lập nguyên tắc Chánh Pháp, Ngài phát triển khái niệm về phúc lợi và hạnh phúc của tất cả chúng sanh, không chút kỳ thị, phát xuất từ từ bi cho thế giới. Ðó là lần đầu tiên trong lịch sửloài người, như chúng ta biết, lý tưởng về việc thiện chung hay việc thiệnphổ thông được vạch ra, ảnh hưởng không những người bình thườngmà cả các dân tộc trên thế giới và tất cả những dân cư của vũ trụ. Bài này được mô tả như giáo lý mang kết quả đến ngay trong đời sống này, không chậm trễ, lúc nào cũng có giá trị, có thể kiểm
chứng và gây hứng thú cho việc điều tranghiên cứu.
Sự Ðoàn Kết Của Nhân Loại
Ðức Phật dạy không những cần có cuộc cách mạngnội tâm trong một cá nhân vì hạnh phúcnhân loại mà cũng cần có cuộc cách mạng bên ngoài trong đời sống xã hội. Cho nên, chẳng hạn, Ngài thuyết giảngcăn bảnhòa
hợp và đoàn kết của nhân loại, không kể đến mầu da, chủng tộc và những đặc điểmvật lý khác - như trong trường hợp của thú vật - và tạo một cuộc cách mạng hủy bỏ chế độ đẳng cấp đang lan tràn thời bấy giờ tại Ấn Ðộ. Ðể trình bày khái niệm về sự hòa hợpnhân loại, Ngài hoạt động không
chỉ với các vua chúa, các nhà tư bản và các phụ nữquý tộc mà Ngài cũng
hoạt động với người nghèo nhất của người nghèo, với người ăn xin, và những công nhân quét đường, kẻ trộm cắp và phụ nữ mãi dâm.
Ngài thâu nhận vào đoàn thể Tăng Già do Ngài thành lập, nam và nữ ở mọi từng lớp trong xã hội bất kể đến dòng dõi và nguyên quán. Ngài chăm sóc người bệnh và người cơ cực, an ủi kẻ bị ức hiếp và mang hạnh phúc đến người nghèo khổ. Ðược biết bệnh viện đầu tiên trong lịch sử được thành lập dưới sự lãnh đạo của Ngài. Ngài không xa lánh thế giới sau khi
Giác Ngộ, sống 45 năm trong cộng đồng, luôn luôn tìm đến những người cần đến sự giúp đỡ.
Dân Chủ
Ngài đề cao tự docá nhân, tự dotư tưởng và ngôn luận cùng những lý
tưởngdân chủ. Ðiều ràng buộc với Phật Giáo không mâu thuẫn với sự cởi mở. Ðoàn Thể Tăng Già được coi như một thể chế dân chủlâu đời nhất trên
thế giới và coi như một kiểu mẫu cho các nền móng cho các tổ chức, kể cả thể chế chính trị. Quốc gialý tưởng vạch ra bởi Phật Giáo là quốc giadân chủ, làm việc phúc lợivật chất và tinh thần của người dân, bảo đảmtự do chính trị, tôn giáo và cá nhân cũng như an ninh kinh tế với đầy đủ công vi?c làm.
Phúc Lợi Kinh Tế
Lập kế hoạch cho phúc lợi kinh tế được nhấn mạnhrõ ràng như một phần nhiêm vụ của nhà vua hay quốc gia. Ðức Phật nói: 'Nếu điều đó làm đúng, người dân, mỗi người theo nhiệm vụcủa riêng mình, không còn quấy rối vương quốc, thu nhập quốc gia sẽ tăng lên, xứ sở sẽ an bình, và dân chúng ai nấy đều vui và sung sướng, nhảy múa với con cái trong tay, sẽ an trú trong nhà cửa mở toang'. Kinh Mahavatsu nói: 'Thế giới dựa trên hai nền móng: sự đạt đượccủa cải và sự bảo tồn cái đã đạt được. Cho nên
muốn đạt đượccủa cải và bảo tồn cái mà bạn đạt được, cần nỗ lực mạnh mẽ, trong phạm vi chánh pháp'.
Quyền Sở Hữu
Nhân dân làm chủ tài sản được ủng hộ tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại những nơi xã hộichủ nghĩathống trị. Cho đến nay được biết sự áp dụng đầu tiên nguyên tắc tài sản chung trong một cộng đồng hay xã hội thấy có trong Luật Tạng quản trị Ðoàn Thể Tăng Già, nơi mà tất cả tài sản, chuyển động được hay bất động, hay bất cứ một thứ có giá trị kinh tế, thì được giữ như của chung, không có một loại ép buộc nào. Ðời sống trong Tăng Ðoàn là một đời sống đoàn thể căn cứ trên nguyên tắc tự nguyện đồng lao cộng tác.
Phật Giáo và Nhân Loại
Từ những gì đã nói, cho thấy rằng Phật Giáoquan tâm nhiều đến thế giới này và đời sống của nhân loại trong đó. Phật Giáotuyệt nhiên không
chối bỏ thế giới. Ðức Phật mô tảgiáo lý của Ngài như một Chúng sanh Sanditthika, chủ yếu quan tâm đến thế giới này, đến đời sống này. Ngay cả hạnh phúc cao nhất, đó là Niết Bàn, sự phấn đấu ngay trong kiếp này. Giáo lý này nhấn mạnh dến nhu cầu tuyệt đối để phát huy tốt nhất từ hiện
tại phù du để bảo đảm tương lai phải được kiểm soát vì hạnh phúc của chúng ta. Quá khứ đã qua không lấy lại được. Chỉ có hiện tại có thể cho chúng tađời sốngtốt đẹp. Tương lai chưa đến và tương lai tùy thuộchoàn toàn nơi chúng ta.
Người Phật Tử không coi thế giới này như một nhà tù mà con người phải đào thoát để lên thiên đường. Ðúng hơn là con ngườitìm kiếmxây dựngthiên đường ngay nơi đây. Người Phật tử không phải là một người duy
vậtchủ nghĩa, cũng không khinh khi những thuận lợi của văn minhvật chất. Vấn đề không phải là sự chọn lựa giũa cảm giác và tinh thần mà là sự chi phốitinh thần. Người Phật Tửlý tưởng phải thiết lập sự quân bình giũa bên ngoài và bên trong, giũa những trạng thái bên ngoài của thiên nhiên và thế giới chung quanh chúng ta, và tinh thầntiến bộ do sự
chiến thắng lòng vị kỷ. Với người Phật Tử, đời sống là một cuộc phiêu lưu vĩ đại, thường là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm. Vấn đề chính là làm sao cái vĩ đại nhất của tất cả các cuộc phiêu lưu có thể dẫn đến kết thúchạnh phúc.
Toàn Hảo
Người Phật Tửlý tưởng là bậc A La Hán, có nghĩa là toàn hảo. Muốn đạt đượclý tưởng này, tất cả những yếu tốchống lạihạnh phúc này phải bị loại bỏ không phải cho riêng mình mà cũng cho tất cả các sự vật có đời sống. Người Phật Tử không thể tìm phúc lợi cho cá nhân mình, mà không quan tâm đến người khác; phúc lợi của mình gắn bó với phúc lợi của
toàn thế giới. Vậy nên huấn thị của Ðức Phật là người thiện phải sabba-panabbhutahitanukampi, quan tâmsâu xa và hoạt độngtích cực vì hạnh phúc và phúc lợi không những chỉ cho con người mà cho tất cả các sinh vật.
Ở bất cứ nơi nào Phật Giáo đến, Phật Giáo khuyến khích sự phát triển
văn minh và văn hóa bằng khoan dung, nhân từ, cảm thông và hiểu biết, hai đức hạnh song đôi Karuna (từ bi) và Panna (trí tuệ), hai đức hạnh này hình thành hai cương lĩnh chính của học thuyếtPhật Giáo.
Thế GiớiTiên Tiến
Nét đặc thù phân biệt của thế giớihiện đại là độ lớn và tốc độ của tiến trình thay đổi. Ngày nay chúng tachứng kiến sự thay đổi hầu như không thể tin được trong sự biến đổihoàn toàn và mạnh mẽ của tất cả thể
chếnhân loại trong mọi lãnh vựchoạt động của con người. Ðúng là những
thuận lợihấp dẫn của khoa học và kỹ thuật đã phá hoại cái dây neo của một lối sống ổn định có đặc tínhđạo đức riêng, ném đa số người lênh đênh trong thế giớixa lạ và khó khăn. Thế giới thay đổi nhanh đến nỗi không kịp nhận ra.
Nhưng những tiến bộ này cũng mang sự giải phóng đến cho nhân loại trong nhiều phương diện. Chúng đã cho chúng ta những thành quả vĩ đại về
xã hội và tri thức và những phương tiện để diệt nạn đói và nghèo khổ. Xã hội đã liên kết với nhau chặt chẽ chưa từng có, và đáp ứng nhu cầu và
đòi hỏi của con người nhiều hơn. Sự lầm lỗi không phải ở những sản phẩm
của tiến bộ khoa học và kỹ thuật mà là sự thất bại của chúng ta trong việc sử dụng chúng thích đáng và khôn ngoan.
Trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta không thể ngưng thế giới; thế giới luôn thay đổi, vì thay đổi, như Ðức Phật nói, là sự thậtcăn bản của đời sống. Không có cuộc cách mạng nào có thể chấm dứt được sự tự nó thay đổi. Ðó là cái đẹp của thay đổi. Không có sự thay đổi liên tục, cách mạng ngày qua trở thành tập quán ngày nay, và tập quán ngày nay trở
thành chuyên chế ngày mai. Sự sống còn của chúng tagắn bó với thay đổi. Do đó người hiện đại phải thấy rằng Phật Giáođặc biệtthích hợp cho thời đạichúng ta. Phật Giáochấp nhận sự thay đổi; thực ra, thế giới được xây dựng trên chân lý về sự thay đổi không ngưng và liên tục. Chúng ta phải học hỏi, hiểu dòng sông lúc nước chảy.
Chúng ta phải trau dồi đặc tínhphục hồi nhanh sức mạnh, khả năng áp
dụng, thích nghi và linh động. Thời điểm chúng ta đi đến những kết luận
cứng rắn và từ chối xét các điểm dị biệt, chúng ta ngưng là người thông
minh. Quan điểm của chúng ta có khuynh hướng làm cho giáo điều cứng thêm và giáo điều làm chúng ta bướng bỉnh trong tính ngoan cố của chúng ta. Những thử thách mới đòi hỏi chúng tađáp ứng mới. Nếu mỗi cá nhâncẩn thận tránh giáo điều, toàn bộcộng đồng tr? thành một xã hội rộng mở
có thể đem đến một đời sống tốt đẹp
Những Khó Khăn Nhân Loại Phải Ðối Phó
Những khó khăn nhân loại phải đối đầu rất nhiều. Chúng ta có những khó khăn về lương thực, kỹ nghệ, nhân công, lương bổng, thất nghiệp, cơ hội bất bình đẳng, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, đó là một
vài việc đề cập đến. Những khó khăn này hình như phức tạp, đương nhiên phức tạp, nhưng điều mong mỏi của một người bình thường chỉ là một điều tầm thường. Người ấy chỉ mong muốn được sống trong hòa bình và hạnh phúc, với tự do được xây dựng cái thế giới nhỏ bé của mình, trong phẩm cách của con người.
Người ấy cũng cần đến tình bạn bè, hiểu biết, tình thương và điều hy
vọng cho mình và con cái, cả kiếp này và kiếp sau. Ở nhiều nơi trên thế
giới, những nhu cầu căn bản đó cũng không thể có được. Chẳng tìm thấyan ninh và công bằng thấy trên hoàn vũ. Sự bất trắc và bất antrở thành một tai họa chết người khắp hoàn vũ cả giữa những người giàu lẫn người nghèo, đôi khi đem lại thờ ơ và lãnh đạm, đôi khi lo âu, căng thẳng và đảo lộn. Khoa học thất bại trong việc tìm kiếmbí mật của hạnh phúc. 'Chinh phục thiên nhiên' không thành công trong việc đạt được sụ sung túc và hòa bình. Ðiều này không làm cho chúng tangạc nhiên vì Ðức Phật dạy chúng tahạnh phúc chỉ có thể đạt được khi sống hòa hợp với Pháp, tức với thiên nhiên, với cái đẹp và huy hoàng của nó. Chân lý là, là nhân loại, nói chung không hạnh phúc, hết sức khổ sở.
Cho nên tình hình hình như hết sứcphức tạp và có thể không có giải pháp. Tuy nhiên, nếu chúng tanghiên cứucẩn thậnvấn đề với kiến thức và hiểu biết, chúng tanhận thức rằng những khó khăn hiện đạicăn bản không khác biệt gì với những khó khăn kinh niên đã làm đau đớn người dân
trong tất cả các thời đại và ở mọi miền. Nếu những khó khăn hiện đại khác biệt những khó khăn của tổ tiênchúng ta, đó chỉ là cùng vấn đề nhưng lớn hơn về số lượng và nhiều loại hơn.
Vậy thì, giáo lý căn bản của Ðức Phật, như chúng ta đã thấy, là chẳng có gì xẩy ra ngoại trừ là kết quả của nguyên nhân. Một khi những nguyên nhân được điều tra và được hiểu, người ta sẽ tìm được giải pháp. Người ta thường cho rằng những giải pháp của các bậc hiền triếtđời xưa như Ðức Phật, quá đơn giản, không đủ hiệu quả để giúp đỡ chúng ta trong giải pháp trước những khó khăn cực kỳ phức tạp đang tác động lên cá nhân
và xã hộitrong đời sống hiện đại. Thông điệp của Ðức Phật đề cập đến tình trạngcăn bản khó khăn của con người khiến thông điệp này lúc nào cũng có giá trị và hợp thời. Thông điệp này hướng dẫn đến hành động về phương diệntư tưởng, lời nói và hành vi. Mỗi thế hệkế tiếp có thể và phải khám phá ra cái thích đáng của thông điệp này cho việc giải quyết khó khăn của mình.
Hạnh Phúc Cao Nhất
Giáo lý của Ðức Phật nói hạnh phúctối cao là hòa bình và không có hạnh phúc thực sự nếu không có hòa bình. Thế giới bị quẫn trí bởi sợ hãi
và đe dọa của chiến tranh. Những quốc giadính líu đến chiến tranh trở thành công xưởng đáng sợ làm vũ khí đạn dược cho quân sự, tiếp tục việc buôn bán và kiếm lời cho những lái buôn cái chết và phá hoại: đi theo sau lý tưởng đày mâu thuẫn không những chỉ binh lính quân đội mà còn hàng ngàn đàn ông, đàn bà, trẻ con vô tội bị thảm sát tàn nhẫn và các thiệt hại không kể siết làm hại đến đất đai và tài sản. Không có gì có thể thoát khỏi cái ác liệt và điên cuồng của trận chiến, và kết thúc đi đến đâu? 'Hận thù không thể chấm dứt được bằng hận thù' Ðức Phật tuyên bố 'chỉ có tình thương', và 'chiến thắng nuôi dưỡng ác tâm', 'và kẻ chiến bại chẳng hạnh phúc'. Trên nhiều nơi trên thế giới, những đám mây chiến tranh đe dọa, không khí đầy bạo động trong tư tưởng, lời nói và hành động.
Vây thì, đó là nhiệm vụ của tôn giáo - tất cả các tôn giáo. Chỉ có tôn giáo mới có thể ảnh hưởng đến sự chuyển hóacần thiết của tâm - tôn giáo không phải chỉ gồm cóthực hiện các nghi thức và các cuộc lễ nghi hay thuyết giảng các bài pháp, mà là đời sống có tính chấtthiêng liêng và nội tâman lạc mà kết quả giải trừ quân bị trong tâm, làm tâm nguôi giận, đó là sự giải trừ quân bị thật sự.
Gốc Rễ - Nguyên Nhân Chiến Tranh
Ðức Phật dạy chúng tacon đườngduy nhất để đạt hòa bình là loại bỏ gốc rễ - nguyên nhân chiến tranh: tham lam, sân hận và si mê. Ngày nay, thế giớiphân chia thành nhiều nhóm tư tưởng khác nhau, với khối sức mạnh, họ dành cả tâm trí và năng lực vào công việc chiến tranh tiêu cực,
vô ích. Thế giới không thể có hòa bình cho đến khi nào con người và quốc giatừ bỏham muốních kỷ, bỏ cái cao ngạo chủng tộc, và tẩy sạch cái thèm khátích kỷ muốn chiếm hữu và quyền hành. Lý tưởng chia rẽ đem đến xung đột. Lý tưởng mang nhiều dạng thức khác nhau: chính trị, tôn giáo, kinh tế, xã hội và giáo dục. Lý tưởng là một sự thoát lythực tế. Nó làm cho con người hung bạo và giam cầmõ con người trong cuồng tín và bạo lực.
Chính trong tâm con người những lý tưởngmâu thuẫn ấy phát sanh, dẫn
đến căng thẳng và chiến tranh, thì cũng chính nơi tâm con người nhửng xung đột ấy có thể diệt trừ để nhân loại có thể tràn đầy những tư tưởnghòa hợp và hòa bình. Ðức Phật tuyên bố tâm đứng đầu, kiến thâu của mọi việc, tốt hay xấu, khi tâm tẩy sạch các tội lỗi, hòa bình và hạnh phúc sẽ ngự trị.
Tôn giáo, nếu đúng là tôn giáo thực sự, phải lấy toàn bộcon người làm phạm vi của nó chứ không phải chỉ một vài khía cạnh cuộc sống con người. Người thiện, có nghĩa là người theo tôn giáo, hiểu không có hòa bình và hạnh phúc trên trái đất chừng nào còn có nghèo khổ và thiếu ăn, bất công và áp bức, pháp chế kỳ thị, phân biệtchủng tộc, bất lực xã hội
và bất bình đẳng, bị sợ hãigặm nhấm, ngờ vực và nghi kÿ lẫn nhau. Tự trọng cũng cần thiết cho hạnh phúc như thực phẩm, không có tự trọng nơi những người không có cơ hội để đạt được sự phát triển hoàn toàn về nhân cách.
Khó Khăn Của Thế Giới
Ngày nay những khó khăn mà nhân loại phải đương đầu, đe dọa tổng thể
cấu trúc của nhân loại là những khó khăn thế giới không phải chỉ cô lập
tại vùng địa dư này hay vùng địa dư kia. Cho nên, giải pháp phải được tìm kiếm ở cấp thế giới. Ðiều này liên quan đếnquan niệm mới, về phần chúng ta, về các quan hệ con người, không chỉ trong gia đình, tại nhà, thị trấn, làng mạc, hay xú sở của chúng ta, mà là trong bối cảnh thế giới. Phải có nhu cầu giáo dục đàn ông cũng như đàn bà về lãnh vực các tai hại của tinh thầnquốc gia hẹp hòi, chủ nghĩaphân biệtchủng tộc, màu da và tín điều. Bất khoan dung, kiêu căng và tin mù quáng - chúng cố
gắngphản đối và phỉ báng dân tộc khác, văn hóa khác, tôn giáo khác, lối sống khác - Những thứ ấy phải được loại bỏ nếu chúng ta muốn tìm hòa
bình.
Quá KhứTai Hại
Phải thừa nhận rằng tôn giáo trong nhiều phương diện, có một quá khứtai hại phải chuộc lại. Quá thường xuyên, nhiệm vụtôn giáo trước nhân loại đã phải chịu những đòi hỏi khẩn cấp của hoạt động chính trị quốc gia hay tỉnh lẻ và những âm mưu bất chính để bành trướng và chinh phục. Trong thời đại cổ xưa, hầu hết những cuộc chiến tranh quốc gia đều là chiến tranh tôn giáo. Tôn giáo đã chôn vùi hình ảnh của mình bằng tầng tầng lớp lóp lễ nghi và tín điềurườm rà, các nghi vấn về tổ chức giáo hội, và tính "không thể sai lầm" của các sách vở và nhân vật tôn giáo. Làm như vậy tôn giáo tự thu hẹp chính mình để trở thành một thứ nghề tu sĩ, thành chủ nghĩatăng lữthần quyền, chỉ còn chăm lo cho của cải và đặc quyền của Giáo Hội.
Thế Tục Hóa
Cho nên người hiện đại có quyền hỏi, tôn giáo dùng làm gì cho chúng tôi ở thời đại này. Họ sẽ lập luận rằng tôn giáo đó phục vụ cho mục đích
của tôn giáo đó, cho nên hãy để cho nó chết. Ðó là nguyên nhân chính mà
tôn giáo bất cứ ở chỗ nào cũng phải đương đầu. Vì vấn đề phát xuất từ thế tục hóa nhiều ít rất phổ thông cho tất cả các tôn giáothế giới, không cần phảiđặc biệtxem xétđặc biệt chúng tại đây.
Tuy nhiên cái nghiêm trọng của chúng là những vấn đềliên quan đến giới trẻ của thế giới mà những mối lo âu về chúng hiện hữu nơi những thế
hệ già và nhất là nơi các vị lãnh đạo của nhiều tôn giáo. Những nỗi lo âu này tập trung chủ yếu vào bạo lực đang lan tràn trong nhiều phong trà
thanh niên và việc dùng các chất say và ma túy bởi một số rất đông thanh thiếu niênnam nữ. Cả hai, những yếu tố này dường như là dấu hiệu của căn bệnh gốc rễ thâm sâu, giống như những bệnh khác, phải do kết quả
của những nguyên nhân nào đó. Ðó là những nguyên nhân mà chúng ta phải khám phá ra trước khi chúng ta có thể nghĩ cách chữa trị.
Các Tầng Lớp Văn Hóa
Trong hầu hết các quốc gia trong thế giớihiện đại, dường như có ba lớp văn hóa rõ rệt. Thứ nhất là văn hóatruyền thống của những đức tính đơn giản có quan điểmbảo thủ gọi là văn hóa trong trạng tháibình thường phấn đấu để duy trìgiá trị cổ xưa đã được tôi luyện trong thử thách khắc nghiệt của cuộc sống. Thứ hai là xã hội có tổ chức kỹ thuật tiên tiếnquan điểmphóng khoángcố gắngthích nghi với những thay đổi đang xẩy ra chung quanh với tốc độ chóng mặt. Thứ ba là cái gọi là 'phản
văn hóa', tượng trưng cho đầu óc bình dân của những người gọi là hyppies, tóc dài, bề ngoàicẩu thả, nghi ngờniềm tin và giá trị, sở thích của họ là nhạc rock, tự do nhục dục, ham mê các chất say và ma túy
với biểu tìnhrầm rộ, quay vềlối sống của công xã hay bộ lạc, trở về với Thiên Nhiên trong cái mà họ gọi là 'chủ nghĩa thẩm mỹ tuyệt đối'.
Nhóm chống lạivăn hóa này thường bị hai văn hóa kia nhìn bằng con mắt sợ hãi và khinh khi. Tuy nhiên cũng có những người, đã nghiên cứu kỹ
về nhóm chống văn hóa này, xác nhận rằng hình ảnh này là sai, nông cạn và chỉ có bề ngoài, và cách hành xử không chính thống của họ chỉ là phương tiệnchống lạixã hội đã được thiết lập mà chúng coi như hoàn toàn bị thúc đẩy bởi thành kiến và tư lợi.
Dưới ánh sáng của những gì đã nói, tôn giáo phải có thái độ thế nào với những người đó ở thời đạitiên tiến này mà người ta thấy họ ở khắp nơi, có chỗ nhiều chỗ ít? Chắc chắn, phải là một thái độ khoan dung và thông cảm, và trên hết, thái độ của sự hiểu biết, mềm dẻo và thích nghi.
Xin đừng quên một số các nhà lãnh đạotôn giáo chính họ cũng là người cách mạng. Ðức Phật, chẳng hạn, là một trong nhừng nổi dạy vĩ đại nhất trong lịch sửnhân loại. Ngài phủ nhận những điều được mệnh danh là
đúng mà ở thời Ngài tôn giáocăn cứ vào, và mang lại cho sự tìm kiếmtôn giáo một định hướng hoàn toàn mới. Ngài không chấp nhận tính thành thật của những người Vệ Ðà hay sức mạnh của chức danh thầy tu. Ngài bác bỏ cái ảo tưỏng cho rằng những khó khăn của con người có thể giải quyết bằng nghi lễthiêng liêng và bùa phép. Ngài là kẻ thù bị nguyền rủa của hệ thống đẳng cấp mà toàn bộ cấu trúc của xã hội Ấn Ðộ dựa vào. Ngài bị chế diễu và khủng bố và vài mưu hại đã xẩy ra trong đời Ngài.
Những Ðặc Tính Nổi Bật
Trong 2500 lịch sử, Phật Giáo đã đương đầu thành công trước các thử thách gặp phải. Mềm dẻo và khoan dung là những đặc tínhnổi bật nhất. Không có những thể chế cấp bậc và không có tín điều cứng nhắc. Ảnh hưởngôn hòa của Phật Giáo được chứng minh bởi văn hóa và văn minh phát triển
tại các quốc gia được tôn giáo này truyền đến. Bức thông điệpPhật Giáo
cho người hiện đại cũng mạnh mẽ như thời Ðức Phật. Phật Giáo không hứa hẹn những căn bệnh mà nhân loại phải chịu có thể giảm bớt trong bất cú một đường lối nào đó của xã hội. Trong khi bác bỏ bất cứ tội bẩm sinh nào của con người, Phật Giáotuyên bốsự giải thoát là vấn đềcá nhân và
chỉ có thể đạt được bằng hạnh kiểm đạo đức và giáo dụctinh thần. Toàn bộgiáo lý của Ðức Phật được chính Ðức Phật tóm tắt như sau:
"Tránh làm điều ác, làm điều thiện, thanh lọc tâm ý - đó là thông điệp của Ðức Phật".
Chủ Nghĩa Thực Dân
Trong bốn, năm thế kỷ vùa qua, Phật Giáo bị đau khổ vì chủ nghĩa thực dân tại nhiều quốc gia Á Châu, bởi ngoại chiến và nội chiến và nỗ lực có chủ tâm của những tín đồtôn giáo khác nhằm làm suy yếu và diệt trừ Ðạo Phật. Tăng Giàgìn giữgiáo lýtồn tại được hưởng sự bảo trợ của
những người có quyền lực, đã bị phá rối và suy yếu vì sức mạnh vượt qúa
sự kiểm soát của Phật Giáo.
Nhưng viễn cảnh lại một lầnsáng tỏ hơn. Sự thống nhất Phật Giáo đã được tạo dựng bởi những tổ chức như HộiÁi HữuPhật TửThế Giới và Hội Ðồng Tăng GiàThế Giới đã hợp nhất Ðại Thừa và Nguyên Thủy để cùng theo một chương trình hành động. Mù chữ và nghèo khổ là vấn đề quan trọng mà những người Phật Tửcần phảivượt qua. Tăng Già phải được giáo dục để dáp ứng với nhu cầu hiện đại. Phật Giáo không bao giờ là một tôn giáotiêu cực và dễ sai khiến. Phật Giáo là một trong những lực lượng văn minh vĩ đại của thế giới.
“Nói Thiền tôngViệt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêm và tọa thiền tại Chánh điện.
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đíchtu hoặcxuất gia là cầu giải thoátsinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
Sống Trong Từng Sát Na là phương phápthực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tậpdựa trêntinh thần Kinh Bốn Lãnh VựcQuán Niệm.
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhụcthành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giảthành tựutừ tâmgiải thoát và bi tâmgiải thoát.
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tửthân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhận là giáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích NữTrí Hải dịch
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duysáng tạo mà là đọc những chứng tíchlịch sửthời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giảxuyên qua những chặng đường thời gian...
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.