Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 6 Danh Tự Công Đức

06 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7158)
Phẩm 6  Danh Tự Công Đức

ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Từ phẩm I đến phẩm XXIII
Pháp Sư Thích Từ Thông

 

PHẨM THỨ SÁU

DANH TỰ CÔNG ĐỨC

 Bấy giờ Phật bảo Ca Diếp Bồ tát:

 Ca Diếp ! Thầy nên khéo thọ trì danh tự chương cú của kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN này; nếu người nào được nghe tên kinh này sẽ không còn bị sanh vào bốn con đường ác. Bởi vì kinh này là chỗ nương tựa tu tập của vô lượng vô biên chư Phật. Nay Như Lai sẽ nói cho thầy biết về quả báo vượt bậc của người tu hành theo kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN có được.

 Phật dạy tiếp: Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN này, văn tự ngữ ngôn từ khởi đầu, đoạn giữa, kết thúc, tất cả đều lành, nghĩa thú rất sâu xa, lời lời phạm hạnh, hàng hàng thanh lương, đầy đủ ý vị của Kim Cang bảo tạng. Thầy hãy khéo mà lóng nghe.

 Này Ca Diếp ! ĐẠI BÁT NIẾT BÀN có nghĩa là THƯỜNG VẮNG LẶNG. Ví như sự ào ạt cuồn cuộn chảy của chín con sông đều đổ ra biển cả thản nhiên vô tư lự. Tu học kinh này, hàng phục hết các giống ma, thanh lọc trừ hết các kiết sử phiền não trong tam giới. Rồi Bồ tát ở nơi ĐẠI BÁT NIẾT BÀNbuông bỏ thân mạng. Vì vậy, có tên ĐẠI BÁT NIẾT BÀN.

 Ví như y sư tài giỏi, có diệu dược thần phương, gồm chứa nhiều bí phương trong đó. Cũng như vậy, bao nhiêu pháp thậm thâm bí mật đều có đủ trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Vì thế, nên gọi ĐẠI BÁT NIẾT BÀN.

 Ví như nông phu tháng mùa Xuân, gieo sạ giống, thường có hy vọng...lúa đã gặt xong, thì không hy vọng nữa. Cũng vậy, tất cả chúng sanh tu học các thứ kinh khác, thường có hy vọng mùi vị giải thoát, khi được nghe kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN rồi, sự hy vọng ước mơ kia dứt hết.

 Kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, có thể làm cho chúng sanh qua khỏi các dòng hữu lậu trong ba cõi.

 Này Ca Diếp ! Trong các thứ dấu chân, dấu chân voi là to hơn cả. Cũng vậy, kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN đệ nhất đối với thiền định, tam muội của các kinh khác.

 Trong các vị thuốc, vị đề hồ là đệ nhất, có khả năng trị bệnh nhiệt não bấn loạn tâm thần của chúng sanh. Cũng vậy, kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN là đệ nhất, đem lại sự giải thoát cho tất cả mọi người.

 Như chất "bơ" đủ cả tám vị. Cũng vậy, kinh này cũng có tám vị:

Thường 
Tương tục 
An 
Thanh lương 
Không già 
Không chết 
Không nhơ 
Khoái lạc 

 Vì có tám vị đặc điểm ấy nên gọi ĐẠI BÁT NIẾT BÀN.

 Này Ca Diếp ! Người nào muốn ở nơi ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, mà Niết Bàn thì phải tu học: Rằng NHƯ LAI THƯỜNG TRỤ. PHÁP THƯỜNG TRỤ. TĂNG THƯỜNG TRỤ.

 Bạch Thế Tôn ! Ca Diếp thưa. Công đức NHƯ LAI không thể nghĩ bàn. PHÁP và TĂNG không thể nghĩ bàn. ĐẠI BÁT NIẾT BÀN cũng không thể nghĩ bàn.

 Người tu học kinh điển này là người được pháp môn tu chân chính, có thể làm vị lương y trị lành bệnh khổ phiền não của chúng sanh trong ác thú. Nếu chưa tu học ĐẠI BÁT NIẾT BÀN, đối với chân lý, dù có mắt cũng như không, vì người đó bị màn đen vô minh luôn luôn che trước mắt.

TRỰC CHỈ

 Với kiến giải của Mã Minh Đại Sĩ, người đã từng dõng dạc tuyên bố: NHẤT THIẾT CHƯ PHÁP TÙNG BẢN DĨ LAI, LY VĂN TỰ TƯỚNG, LY DANH NGÔN TƯỚNG, LY TÂM DUYÊN TƯỚNG, TẤT CÁNH BÌNH ĐẲNG, BẤT KHẢ PHÁ HOẠI, DUY THỊ NHẤT TÂM, CỐ DANH CHÂN NHƯ..."

 Ấy thế mà ở đây Như Lai dạy: Rằng phải học DANH TỰ CÔNG ĐỨC. Người tu học DANH TỰ CÔNG ĐỨC của kinh này, là người rời khỏi bốn đường ác, không bị sanh vào bốn đường ác...Đó là vấn đề người Đại thừa cần tu học. Đặc biệt quan tâm !

 Nên lưu ý rằng: "Văn tự chương cú" hoặc viết thành bài, hoặc in thành trang hay đóng thành quyển, hẳn không phải thứ văn tự chương cú Phật muốn dạy ở phẩm kinh này. Đem các thứ văn tự chương cú đó ra đọc tụng theo nhịp nhàng ê a, theo cung bậc, lúc "oán", lúc "xuân", khi "ai", khi "hạ"....thì đó lại càng rời xa với ý nghĩa "thọ trì VĂN TỰ CHƯƠNG CÚ" của Phật dạy ở kinh Đại Bát Niết Bàn. Bởi lẽ dễ hiểu: Kiến giải của Như Lai Thế Tôn, không thể nào thấp kém hơn cái thấy biết của Mã Minh Đại Sĩ !

THỌ TRÌ DANH TỰ CHƯƠNG CÚ của kinh Đại Bát Niết Bàn, có nghĩa là phải học hiểu Niết Bàn là gì ? Đại Bát Niết Bàn là gì ? 

Rằng Niết Bàn không là cái gì hết ! Sống đúng, sống hợp, sống tùy thuận chân lý là sống trong Niết Bàn rồi vậy. 

Rằng Niết Bàn là sự thanh tịnh tịch tĩnh bản nhiên. Nó thường trú, hiện hữu bất đoạn trong không gian vô tận, thời gian vô cùng

Do những nghĩa như vậy, cho nên Niết Bàn có:
1. Tự tánh thanh tịnh Niết Bàn
2. Hữu dư y Niết Bàn 
3. Vô dư y Niết Bàn 
4. Vô trụ xứ Niết Bàn 

 Rằng Như Lai ĐẠI BÁT NIẾT BÀN đừng hiểu là Như Lai chết ! Mà phải hiểu là NHƯ LAI THƯỜNG TRỤ. Phải hiểu rằng PHÁP và TĂNG cũng TRƯỜNG TRỤ.

 Học như vậy gọi là học về DANH TỰ CHƯƠNG CÚ của kinh Đại Bát Niết Bàn.

 Hiểu như vậy mới gọi là hiểu DANH TỰ CHƯƠNG CÚ của kinh Đại Bát Niết Bàn

 Và như vậy mới đúng nghĩa là người "THỌ TRÌ DANH TỰ CHƯƠNG CÚ" kinh Đại Bát Niết Bàn.

 Như Lai dạy: Người tu học được như vậy là người có được pháp môn tu chân chính, sẽ đạt được thành quả giải thoát, thường ở trong Niết bàn, buông bỏ thân mạng trong ĐẠI BÁT NIẾT BÀN. Hạng người như vậy, Như Lai dạy: Đó là hạng người được VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN CÔNG ĐỨC./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32594)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6437)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30228)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12036)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12157)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11495)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12585)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34451)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9722)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52115)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10624)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10384)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10589)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10342)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16075)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9518)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12651)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16116)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11954)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9121)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11664)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11188)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11948)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15549)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11406)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12513)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14859)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20539)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31740)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant