CHÚ GIẢI KINH
PHẬT THUYẾT
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
(Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán,
Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 (1992))
Vận Thành Hạ Liên Cư hội tập
Hoàng Niệm Tổ chú giải - Như Hòa dịch Việt
Quyển Thứ Tư
Những điểm chính trong quyển này là:
a. Tiếp nối ý của phẩm hăm tám và hăm chín trong quyển trước, trần thuật nguyện lực và công đức tu trì chơn thật của các vị Bồ Tát cõi Cực Lạc. Các vị Bồ Tát ấy hạnh đức viên mãn nên chư Phật đều khen ngợi. Đồng thời chỉ rõ cõi Cực Lạc là nơi an vui, thanh tịnh, là nơi thọ mạng lẫn niềm vui đều vô cực để khuyến dụ chúng sanh vãng sanh.
b. Đem cõi uế đặt tương phản với cõi tịnh, quở trách nặng nề sự ác khổ của cõi đời ô trược hòng khiến cho chúng sanh bỏ năm việc ác, dứt năm nỗi đau, lìa năm điều thiêu đốt, siêng tu việc lành thế gian. Kinh nhiều lần khuyên lơn, khuyến khích chúng sanh vâng giữ kinh giới để được độ thoát.
Kinh giảng cặn kẽ: Do chúng sanh đã tạo những nghiệp tam độc, ngũ ác nên sẽ lần lượt chiêu cảm quả báo đau đớn, thiêu đốt. Kinh còn chỉ bày chi ly nguyên do của các nỗi khổ, đồng thời chỉ dạy phương cách thoát khổ để chúng sanh hiểu sâu lý nhân quả, dứt ác, làm lành, lợi lạc hữu tình, tạo phước cho nhân gian. Dùng những điều ấy hồi hướng cùng sanh Cực Lạc.
c. Trần thuật sự kiện lễ Phật, quang minh hiện ra, bốn chúng trong hội đều thấy thế giới Cực Lạc và A Di Đà Phật để khiến cho tất cả những người được thấy đều được lợi ích, kẻ nghe sanh lòng tin.
d. Giảng về biên địa nghi thành: Dạy rõ chỗ sẽ thác sanh về của những kẻ niệm Phật, tu thiện, nguyện sanh Cực Lạc nhưng chẳng đoạn nổi nghi hoặc.
e. Phần lưu thông của kinh này: khen ngợi Niệm Phật, khuyên nên coi kinh này như bậc đạo sư. Đời tương lai kinh sách diệt hết, chỉ còn mỗi kinh này được lưu lại. Nếu thường niệm tụng kinh này chẳng dứt thì sẽ chóng đắc đạo (pháp mầu nhiệm như thế nay ta may mắn được nghe thì phải nên thường niệm Phật, sanh lòng vui mừng), khuyên làm phước, tu đủ các việc lành, niệm Phật phát nguyện vãng sanh cõi tịnh.
30. Bồ Tát tu trì
Từ phẩm 28 đến phẩm 32 của kinh này đều nói về diệu đức của Bồ Tát cõi Cực Lạc.
Phẩm này chú trọng đến diệu hạnh tự giác, giác tha của hàng Bồ Tát: độ khắp các chúng sanh, diễn thuyết chánh pháp; dùng vô ngại từ, vô ngại huệ để hiểu pháp là Như Như; bình đẳng tu hành siêng năng trong tam giới, các hạnh thù thắng rốt ráo Nhất Thừa, đạt tới bờ kia…
Hai phẩm 31 và 32 giảng về công đức và diệu quả của những hàng Bồ Tát ấy. Phật thuyết ra pháp này là muốn cho chúng sanh trong mười phương sanh lòng hân hoan, hâm mộ, cầu sanh Cực Lạc hòng được cùng ở chung một chỗ với những bậc thượng thiện nhân như vậy để tu tập viên mãn những công đức như vậy.
Chánh kinh: Lại này A Nan! Thiền định, trí huệ, thần thông, oai đức của hết thảy Bồ Tát trong cõi Phật kia không thứ gì chẳng viên mãn. Họ đều hiểu rõ rốt ráo mật tạng của chư Phật, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyễn, thâm nhập chánh huệ, chẳng còn sót các tập khí. Nương theo Thất Giác, Thánh Đạo mà đức Phật đã hành, tu hành ngũ nhãn, chiếu chơn, đạt tục. Nhục nhãn phân biệt, chọn lựa; thiên nhãn thông đạt; pháp nhãn thanh tịnh, huệ nhãn thấy chơn; Phật nhãn đầy đủ, giác ngộ trọn vẹn pháp tánh.
Giải: Phẩm này nói về đại hạnh của các Bồ Tát cõi ấy, gồm có ba loại chính:
a. Hạnh đức tự lợi.
b. Hạnh đức lợi tha.
c. Hạnh đức viên mãn.
Đoạn kinh văn trên đây nói đến hạnh đức tự lợi của bậc đại sĩ.
‘Thiền định, trí huệ’: Thiền Định là độ thứ năm trong Lục Độ, Trí Huệ là độ thứ sáu. Trong Lục Độ, hai độ này đóng vai trò quan trọng nhất nên được nêu lên trước hết. Hơn nữa, phải vâng giữ cân bằng cả Định lẫn Huệ như sách Hội Sớ viết: ‘Nếu chỉ có Định mà thiếu Huệ thì khác gì Nhị Thừa trầm trệ nơi Không. Có Huệ nhưng thiếu Định thì khác nào ngoại đạo nghĩ tưởng sằng bậy. Do đó, kinh luôn nói Định đi đôi với Huệ’.
‘Thần thông’ là lục thông: thiên nhãn, thiên nhĩ… ‘Oai’ là oai thần, nghĩa là oai thế dũng mãnh, không lường biết nổi. ‘Đức’ là công đức như bản Ngụy dịch ghi: ‘Vô Lượng Thọ Phật oai thần công đức chẳng thể nghĩ bàn’. Các vị Bồ Tát trong cõi Cực Lạc đều thành tựu viên mãn hết thảy các thứ Thiền Định, thần thông, trí huệ như trên nên kinh mới nói: ‘Không thứ gì chẳng viên mãn’.
Sách Nhị Giáo Luận, quyển thượng giảng chữ ‘mật tạng’ như sau: ‘Những lời giảng của Pháp Thân Phật thì gọi là “mật tạng”, ý nói [đó là] những lời nói sâu xa, bí mật, chơn thật’; nghĩa là: những lời chơn thật, sâu xa, uyên áo, huyền diệu do Pháp Thân Phật nói ra thì gọi là ‘mật tạng’.
Sách Tăng Sử Lược lại bảo: ‘Mật tạng là pháp đà-ra-ni. Pháp ấy bí mật, chẳng phải là cảnh giới của Nhị Thừa, chỉ có chư Phật Bồ Tát mới có thể dạo bước trong đó nổi’; ý nói: Mật tạng chính là đà-ra-ni. Giáo pháp ấy bí mật chẳng phải là giáo pháp dành cho hàng Nhị Thừa, chỉ có chư Phật, Bồ Tát mới hiểu thấu, thực hành nổi.
Đối với điều kinh dạy: hàng đại sĩ cõi Cực Lạc ‘hiểu rõ rốt ráo mật tạng của chư Phật’; ta có thể tổng hợp hai thuyết trên để hiểu là đối với những mật ý bí áo sâu xa vượt ngoài ngôn ngữ, các giáo pháp khó suy tưởng nổi và các đà-ra-ni, các bậc đại sĩ cõi ấy đều có thể lãnh hội một cách rốt ráo, hiểu thấu trọn vẹn thông suốt.
Chữ ‘điều phục’ được sách Thám Huyền Ký giảng như sau: ‘Điều là điều hòa, “phục” là chế phục; nghĩa là điều hòa, kiềm chế nghiệp thân, khẩu, ý, dẹp yên, trừ diệt các ác hạnh’. Ý nói: giữ yên tịnh, chế ngự được ba nghiệp, xa lìa được ác hạnh. ‘Các căn’ là sáu căn: tai, mắt…‘Điều phục các căn’ là chế ngự thân tâm, xa rời trần cấu, tà ác.
‘Nhu nhuyễn’ là tâm nhu hòa, tùy thuận theo đạo. Nếu chẳng như vậy thì là ương ngạnh, hễ ương ngạnh thì khó lòng giáo hóa. Kinh Pháp Hoa nói: ‘Chúng sanh đã tin phục, chất trực, ý nhu nhuyễn’. Đó chính là ‘thân tâm nhu nhuyễn’.
‘Chánh huệ’ là trí huệ chơn chánh. ‘Chơn’ là chơn thật; ‘chánh’ là không tà, lìa điên đảo là Chánh. Khế chơn nhập thật cũng là Chánh. Vậy thì lìa khỏi phân biệt hư vọng, soi tỏ trí huệ nơi chơn tâm thì gọi là ‘chánh huệ’.
‘Dư tập’ là những thói quen còn sót lại sau khi phiền não đã đoạn thì gọi là “dư tập”. Dư tập còn gọi là ‘tàn tập’, đôi chỗ còn gọi là ‘tập khí’. Nhị Thừa chẳng đoạn trừ nổi dư tập, chỉ mình Phật mới đoạn sạch hết nổi. Đại Trí Độ Luận nói:
‘A La Hán, Bích Chi Phật tuy phá được tam độc nhưng khí phận chưa hết. Ví như hương đặt trong đồ đựng, dẫu bỏ hương đi mùi thơm vẫn còn. Lại giống như lấy cỏ cây làm củi, khói lửa hết rồi, than tro vẫn còn vì sức lửa còn yếu. Đức Phật vĩnh viễn đoạn sạch ba độc, ví như ngọn lửa lúc kiếp tận thiêu sạch cả núi Tu Di, hết thảy cõi đất đều cháy sạch, không có khói, chẳng còn than.
Chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất còn dư tập là nóng giận, ngài Nan Đà còn dư tập là dâm dục, ngài Tất Lăng Già Bà còn dư tập là kiêu mạn. Ví như người bị trói lúc mới được tháo ra, đi đứng còn khó khăn’.
Bậc đại sĩ cõi Cực Lạc ‘chẳng còn sót các tập khí’ tức là đã đạt tới chỗ thực hành của Phật hạnh. Vì thế, bản Ngụy dịch chép các vị đại sĩ cõi ấy ‘rốt ráo hết thảy sở hạnh của Bồ Tát, đầy đủ thành tựu vô lượng công đức’.
‘Thất giác’ là Thất Giác Chi, còn gọi là Thất Giác Phần. Giác có hai nghĩa: giác liễu và giác sát. Giác pháp chia ra thành bảy thứ nên gọi là ‘chi’ hoặc ‘phần’. Bảy thứ đó là: Niệm, Huệ (còn gọi là Trạch Pháp), Tinh Tấn, Khinh An, Hỷ, Định, Hành Xả. Ý nghĩa của bảy giác pháp ấy như sau:
a. Trạch pháp giác chi: dùng trí huệ phân biệt, nhận định pháp là chơn hay ngụy.
b. Tinh tấn giác chi: dùng tâm dũng mãnh xa lìa tà hạnh, hành chơn pháp.
c. Hỷ giác chi: tâm được thiện pháp liền sanh hoan hỷ.
d. Khinh an giác chi: Đoạn trừ những điều thô trọng nơi thân tâm khiến cho thân tâm nhẹ nhàng, thư thái.
e. Niệm giác chi: thường nhớ rõ định huệ chẳng quên mất, luôn giữ cho định và huệ được cân bằng.
f. Định giác chi: khiến tâm trụ vào một cảnh, chẳng để tán loạn.
g. Hành xả giác chi: Bỏ các lầm lẫn, bỏ hết thảy pháp, giữ lòng bình thản, chẳng để ý tưởng rong ruổi.
Sách Hội Sớ lại nói: ‘Thất Giác Chi là:
a. Trạch pháp giác phần: Lúc trí huệ quán sát các pháp thì khéo có thể phân biệt là chơn hay ngụy; chẳng chọn lầm các pháp hư ngụy nên gọi là “trạch pháp”.
b. Tinh tấn giác phần: Lúc tinh tấn tu các đạo pháp thì khéo hiểu rõ, chẳng thực hành lầm các khổ hạnh vô ích, thường siêng hành chơn pháp nên gọi là “tinh tấn”.
c. Hỷ giác phần: nếu tâm được pháp hỷ thì khéo hiểu rõ niềm vui ấy, chẳng sanh lòng vui theo pháp điên đảo, trụ vào pháp hỷ chơn thật nên gọi là Hỷ.
d. Trừ giác phần (tức là khinh an giác chi): Lúc trừ được các kiến hoặc phiền não thì khéo hiểu rõ, trừ khử những hư ngụy, chẳng tổn hại thiện căn chơn chánh nên gọi là Trừ.
e. Xả giác phần (tức là hành xả giác chi): Như lúc xả những cảnh mà mình nghĩ nhớ hay thấy biết thì khéo hiểu rõ cảnh bị xả là cảnh hư ngụy chẳng thật, vĩnh viễn chẳng nghĩ nhớ tới nữa nên gọi là Xả.
f. Định giác phần: Nếu lúc phát khởi các thiền định thì khéo hiểu rõ các Thiền Định là hư giả, chẳng sanh ý tưởng kiến giải, yêu mến một cách hư vọng nên gọi là Định.
g. Niệm giác phần: Nếu lúc tu đạo xuất thế thì khéo hiểu rõ, thường giữ cho Định và Huệ cân bằng. Nếu tâm chìm đắm thì bèn nghĩ cách dùng ba giác phần: Trạch Pháp, Tinh Tấn và Hỷ để quan sát. Nếu tâm chao động thì bèn dùng ba giác phần Trừ, Xả, Định để nhiếp tâm. Vì thế, Niệm giác phần thường khiến cho Định và Huệ được đầy tròn, giữ cho Niệm đúng mức, thích đáng. Đấy gọi là Niệm.
Bảy thứ này gọi chung là Giác Phần, là một phần để đạt đến Bồ Đề’.
Chữ ‘Thánh Đạo’ chỉ Bát Thánh Đạo, còn gọi là Bát Chánh Đạo, tức là: một là Chánh Kiến, hai là Chánh Tư Duy, ba là Chánh Ngữ, bốn là Chánh Nghiệp, năm là Chánh Mạng, sáu là Chánh Tinh Tấn, bảy là Chánh Niệm, tám là Chánh Định. Sách Di Đà Sớ Sao nói:
‘Một là Chánh Kiến. Kinh Tạp Tập nói: “Như lúc giác chi thì dùng huệ để an lập cái chơn giác mình đắc được đó, đế lý phân minh, không có lầm lạc”.
Hai là Chánh Tư Duy: lúc thấy lý ấy bèn tư duy, suy lường tương ứng với tâm vô lậu để tăng trưởng nhập Niết Bàn.
Ba là Chánh Ngữ: chẳng những chỉ tâm không suy nghĩ bậy mà còn dùng vô lậu trí gìn giữ bốn nghiệp nơi miệng, trụ nơi bốn thứ thiện ngữ.
Bốn là Chánh Nghiệp: dùng trí vô lậu trừ hết thảy tà nghiệp và ba thứ nghiệp nơi thân để thân nghiệp được thanh tịnh.
Năm là Chánh Mạng: dùng trí vô lậu trừ hết tất cả năm thứ tà mạng nơi tam nghiệp.
Sáu là Chánh Tinh Tấn: dùng trí vô lậu để siêng năng tu hành tinh tấn, thẳng tiến đạo Niết Bàn.
Bảy là Chánh Niệm: dùng trí vô lậu để nghĩ nhớ chánh đạo pháp và trợ đạo pháp, tâm chẳng lay động.
Tám là Chánh Định, dùng trí vô lậu tương ưng để chánh trụ nơi lý, quyết định không dời.
[Những đạo này] đều gọi là “chánh”, vì chẳng ngả theo tà vạy nên gọi là ‘chánh’. Do có thể đạt đến Niết Bàn nên gọi là Đạo.
Trong phẩm Ly Thế Gian của kinh Hoa Nghiêm, Bát Chánh Đạo được gọi là Bát Chánh Câu Bồ Tát Đạo. Chánh Kiến là xa lìa hết thảy các tà kiến. Chánh Tư Duy là bỏ tâm vọng phân biệt, tùy thuận Nhất Thiết Trí… cho đến Chánh Định là khéo nhập Bồ Tát bất tư nghị giải thoát môn: Trong một tam muội có thể xuất nhập các tam muội. Cứ lấy những kinh văn này làm chứng thì [bát chánh đạo] chẳng phải là rất sâu xa ư?’
Ý nói: Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo v.v... nói rộng ra là Ba Mươi Bảy Pháp Trợ Đạo tuy là pháp Tiểu Thừa, nhưng thông cả Đại Thừa.
Trí Độ Luận bảo: ‘Ba mươi bảy phẩm không gì chẳng nhiếp nên vô lượng đạo phẩm cũng thuộc vào đấy’. Kinh Tịnh Danh nói: ‘Đạo phẩm là nhân của Pháp Thân’. Kinh Niết Bàn cũng dạy: ‘Nếu kẻ nào quán nổi Bát Chánh Đạo thì thấy được Phật Tánh, đáng được gọi là Đề Hồ’. Vì thế, Di Đà Sớ Sao mới viết: ‘Đạo phẩm tuy chỉ một nhưng do quán trí là Đại thừa hay Tiểu thừa mà thành ra không nhất định’. Nay kinh này nói: ‘Nương theo Thất Giác, Thánh Đạo mà đức Phật đã hành’ là có ý nói: Bồ Tát cõi ấy dùng quán trí của Phật để thâm nhập các đạo phẩm.
‘Tu hành ngũ nhãn’: Phật có ngũ nhãn. Bồ Tát chí cầu Phật đức mà Phật đức vô lượng nên kinh chỉ tạm nêu ngũ nhãn để đại diện cho tất cả những đức khác. Ngũ nhãn này có thể ‘chiếu chơn, đạt tục’:
Do thấy được Chơn Không và Thật Tánh Bất Không trong Như Lai Tạng nên bảo là ‘chiếu chơn’; lại còn thấy được vô số hình sắc của các thế giới, căn tánh của chúng sanh và việc họ chết đây sanh kia trong những thế giới ấy nên bảo là ‘đạt tục’. Do chiếu chơn nên hạnh tự giác viên mãn, thông đạt cứu cánh. Do đạt tục nên thuận theo căn cơ, đặt bày cách giáo hóa, độ sanh vô lượng.
Nay một pháp Tịnh Độ này chính là pháp chiếu chơn đạt tục đến mức tột cùng nhất. ‘Chiếu chơn’ để hiển lộ Chơn Đế, ‘đạt tục’ nhằm tỏ rõ Tục Đế; nêu lên cả hai đế ấy để hiển thị Trung Đế. Tam Đế viên dung chẳng thể nghĩ bàn. Lại do ‘chiếu chơn’ nên đúng như thật, ‘đạt tục’ nên rộng độ. Bởi thế thâu trọn vạn loại, rốt ráo độ thoát.
a. ‘Nhục nhãn’ tức là con mắt nơi cái thân xác thịt của con người, chỉ thấy được sắc tướng hiện tiền nên bảo là ‘phân biệt, chọn lựa’.
b. ‘Thiên nhãn’ là con mắt của chư thiên. Đại Trí Độ Luận nói: ‘Thiên nhãn thấy được chúng sanh, các vật thuộc tự địa (cõi mình đang ở, chẳng hạn đối với chư thiên Sắc giới thì Sắc giới là tự địa) và hạ địa (hạ địa là những cõi thấp hơn cõi mình đang sống, chẳng hạn như Dục Giới đối với trời Sắc giới) các sắc dù xa hay gần, dù thô hay tế không thứ gì chẳng thấy rõ’. Tịnh Ảnh Sớ lại ghi: ‘Hết thảy Thiền Định gọi là thiên trụ. Do Thiền đắc nhãn nên gọi là thiên nhãn, thấy được chúng sanh chết đây sanh kia’. Như vậy, thiên nhãn có cả hai nghĩa như trên vừa nói.
Lại có hai thứ thiên nhãn: một là thiên nhãn có được do quả báo, hai là do tu chứng. Thiên nhãn như Tịnh Ảnh Sớ giảng là do tu chứng mà có. Chư thiên sanh trong Sắc giới tự nhiên có được tịnh nhãn; đó là do quả báo mà có, chẳng cần phải tu chứng.
Theo Trí Độ Luận, mức độ ‘thông đạt’ của hai loại mắt ấy như sau: ‘Nhục nhãn thấy gần chẳng thấy xa, chỉ thấy [vật ở] trước [mắt] không thấy được phía sau lưng, chỉ thấy bên ngoài chẳng thấy nổi bên trong, chỉ thấy được ban ngày, chẳng thấy được ban đêm; chỉ thấy phía trên chẳng thấy phía dưới. Do vì những điều ấy nên cầu thiên nhãn. Đắc thiên nhãn thì xa gần đều thấy cả, trước, sau, trong, ngoài, trên, dưới đều thấy vô ngại’. Bởi vậy, gọi là ‘thông đạt’.
Hơn nữa, mức thấy của thiên nhãn trong uế độ chẳng thể vượt khỏi tam thiên đại thiên thế giới; còn thiên nhãn của hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc thấy suốt cả mười phương hằng sa thế giới và những chúng sanh chết đây sanh kia trong những thế giới đó.
c. Ngài Vọng Tây giảng chữ ‘Pháp nhãn’ như sau: ‘Duyên vào Tục Đế Trí, chiếu soi được pháp thì gọi là Pháp Nhãn’. Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Pháp nhãn lấy Hữu Trí làm thể, thấy được tâm dục tánh của chúng sanh và các Phật pháp nên gọi là Pháp Nhãn’. Sách Tiên Chú nói: ‘Thấy thông suốt các pháp duyên sanh sai biệt một cách phân minh nên gọi là Pháp Nhãn’. Bản Ngụy dịch ghi: ‘Pháp nhãn quán sát rốt ráo các đạo’.
Nay kinh đây nói: ‘Pháp nhãn thanh tịnh’ thì chính là giống như sách Tam Tạng Pháp Số bảo: ‘Pháp nhãn: Bồ Tát vì độ sanh nên dùng pháp nhãn thanh tịnh xem khắp hết thảy các pháp, pháp nào đáng biết, đáng hành, tức là: do hành pháp ấy thì sẽ chứng đạo ấy; cũng biết hết các môn phương tiện [thích ứng với] hết thảy chúng sanh khiến cho họ tu, chứng’. Như vậy, đối với hết thảy pháp, Bồ Tát biết được, hành được; cũng như biết các pháp để hành và đạo để chứng. Ngài còn biết được các thứ phương tiện môn để phổ độ chúng sanh. Đó gọi là pháp nhãn thanh tịnh. Pháp nhãn của hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc cũng giống như vậy nên kinh nói ‘pháp nhãn thanh tịnh’.
d. Sư Vọng Tây giảng ‘huệ nhãn’ là: ‘Duyên vào Chơn Đế Trí, soi thấu Không lý (Chơn Không) nên gọi là Huệ Nhãn’. Ngài Cảnh Hưng bảo:‘Huệ nhãn lấy Không Trí làm thể, chiếu lý Chơn Không’. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương lại nói: ‘Huệ nhãn: Xem thấy tỏ tường là “huệ”; do huệ thấy thông suốt nên gọi là “huệ nhãn”.
Ngài Tịnh Ảnh lại giảng chữ ‘thấy chơn’ là: ‘Thấy được Chơn Không nên gọi là thấy chơn’. Trí Độ Luận nói: ‘Huệ nhãn có thể thấy được lý Không nơi tướng và thấy được Chơn Không’. Luận còn nói: ‘Vì Thật Tướng nên cầu huệ nhãn. Do đắc huệ nhãn nên chẳng thấy chúng sanh, diệt sạch dị tướng, bỏ lìa các chấp trước, chẳng thọ hết thảy pháp, trí huệ tự diệt bên trong nên gọi là huệ nhãn’. Kinh Tư Ích cũng chép:
‘Huệ nhãn thấy được pháp nào?
Đáp: Nếu còn có cái để thấy thì chẳng gọi là huệ nhãn. Huệ nhãn chẳng thấy pháp hữu vi, chẳng thấy pháp vô vi, vì sao vậy? Pháp hữu vi đều là hư vọng phân biệt. Không hư vọng phân biệt thì gọi là huệ nhãn. Pháp vô vi là không, vô sở hữu, vượt ngoài sự lãnh hội của mắt. Vì vậy, huệ nhãn cũng chẳng thấy pháp vô vi’.
Trong những kinh, luận vừa được dẫn trên để giải thích câu ‘huệ nhãn thấy chơn’ thì cách giải thích của kinh Tư Ích và Đại Luận là tinh diệu nhất vì thấy rõ ràng nhưng không có gì để thấy, chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô vi thì mới gọi là ‘thấy chơn’. Ý nghĩa câu ‘trí huệ tự diệt bên trong’ giống hệt câu ‘chẳng có trí, cũng chẳng có gì để đắc’ của Tâm kinh; đấy mới là hiểu rõ những gì đã được hiểu rõ bởi Phật tánh vậy.
e. ‘Phật nhãn’: Con mắt của Như Lai được gọi là Phật nhãn, tức là con mắt thấy hiểu thông suốt thật tướng của các pháp.
Ngài Cảnh Hưng giảng chữ ‘đầy đủ’ như sau: ‘Do Nhất Thiết Chủng Trí làm thể nên không pháp gì chẳng chiếu thấu. Bởi thế nói là đầy đủ’.
Sách Pháp Hoa Văn Cú giảng: ‘Phật nhãn viên thông, bổn thắng kiêm liệt, bốn loại nhãn kia thuộc trong Phật nhãn, đều gọi là Phật nhãn’. Ý nói: Phật nhãn vốn là vô thượng thù thắng nên bảo là ‘bổn thắng’, nhưng Phật nhãn cũng chứa đựng đủ cả những loại mắt kém hơn nên bảo là ‘kiêm liệt’. Những loại mắt kém hơn tức là bốn loại mắt còn lại. Bổn thắng thì thấy được Phật tánh, còn kiêm liệt là có đủ công dụng của bốn loại mắt kia nên có thể chiếu soi hết thảy pháp thuộc cả Chơn Đế lẫn Tục Đế.
Nếu có kẻ ngờ rằng Phật đã xả nhục thân sao lại còn có nhục nhãn, xin mượn lời đáp của Trí Độ Luận như sau: ‘Huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn tuy thù thắng nhưng chẳng thấy chúng sanh pháp. Muốn thấy chúng sanh thì chỉ đành phải dùng nhục nhãn’. Ngài Nghĩa Tịch cũng bảo: ‘Có nhục nhãn thì biết được chướng nội sắc’ (xin xem lại lời giải thích về chướng nội, chướng ngoại ở cuốn trước). Vì hóa độ chúng sanh, hiện có tướng Phật nên phải có cả nhục nhãn.
Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ ‘hiểu rõ pháp tánh’ như sau: ‘Phật nhãn thấy đuợc bất không thật tánh trong Như Lai Tạng một cách chơn thật nên gọi là “hiểu rõ pháp tánh”. Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Tương ưng với Nhất Thiết Chủng Trí, hiểu rõ Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa nên gọi là hiểu rõ pháp tánh’. Ngài còn bảo: ‘Cũng thấy Phật tánh nên bảo là hiểu pháp tánh’.
Như vậy, do Phật nhãn hiểu rõ được pháp tánh cho nên sách Pháp Hoa Văn Cú mới bảo Phật nhãn ‘bổn thắng’, các thứ nhãn khác không sánh bằng nổi. Nói như vậy là để hiển thị khả năng thấu triệt của Phật nhãn; còn bảo Phật nhãn đầy đủ là để hiển thị tánh viên dung của Phật nhãn: có đầy đủ các công dụng của những con mắt khác.
Nếu có ai vặn rằng trong các kinh khác, huệ nhãn được kể là con mắt thứ ba, pháp nhãn là con mắt thứ tư; sao kinh này lại nói ngược lại? Ngài Nghĩa Tịch và Vọng Tây cùng giảng như sau:
- Kinh này nói về nhãn cảnh của pháp nhãn. Hai thứ nhãn trên (huệ nhãn và pháp nhãn) đều thuộc về Tục Đế, nhưng huệ nhãn bắt đầu thấy được Chơn Đế. Do Chơn cao hơn Tục nên kinh này xếp pháp nhãn thứ ba, huệ nhãn thứ tư.
- Nếu bàn về thứ tự khởi tu thì trước hết phải thấu đạt Chơn rồi mới có thể dẫn dắt kẻ tục nên các kinh khác xếp pháp nhãn vào vị trí thứ tư như sách Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa Sao viết: ‘Để trưởng dưỡng chúng sanh thì trước hết phải tu nhục nhãn. Nhục nhãn thấy được sự thô, chẳng thấy được những gì vi tế. Kế đó, tu thiên nhãn. Thiên nhãn thấy được sắc nhưng chưa thấy được chơn cảnh nên phải tu huệ nhãn. Huệ nhãn thấy Lý nhưng chưa thấy được Sự nên phải tu pháp nhãn. Pháp nhãn chưa viên dung nên phải tu Phật nhãn’.
Trí Độ Luận cũng nói: ‘Bồ Tát Ma Ha Tát lúc sơ phát tâm dùng nhục nhãn thấy chúng sanh trong thế giới chịu khổ nạn, tâm sanh từ bi nên cầu huệ nhãn để cứu vớt. Đạt được huệ nhãn rồi lại thấy chúng sanh có các thứ tâm tưởng bất đồng, làm cách nào để khiến chúng sanh chứng đắc được thật pháp này? Vì vậy cầu pháp nhãn để dẫn dắt chúng sanh’.
Thấu đạt Chơn rồi mới có thể dẫn dắt Tục; đó là thứ tự được dùng trong các kinh khác. Còn trong kinh này lại coi Chơn thù thắng hơn Tục nên xếp huệ nhãn vào cấp độ thứ tư. Do đó, trật tự của pháp nhãn và huệ nhãn trong kinh này khác hẳn những kinh khác.
Trong đoạn kinh này, câu ‘không gì là chẳng viên mãn’ chính là lời khen chung tất cả những điều trên. Tiếp đó, kinh chỉ rõ nguyên nhân tại sao hết thảy đều viên mãn:
Trước hết là do hiểu rõ rốt ráo mật tạng của Phật, khác nào theo dòng nước tìm được nguồn, lần theo cành tìm thấy gốc. Đã tìm thấy cội gốc rồi, chẳng đếm xỉa đến cành nhánh nữa. Cổ đức nói: ‘Đạt được một thì muôn việc xong’. Nếu có thể thường biết rõ ràng bản thể của Phật thì tự nhiên điều phục được các căn, khác nào tay vung gươm báu kim cang, cái gì xáp đến cũng bị chém phăng. Tự đã chẳng còn, gươm cũng chẳng phải là gươm nên khéo điều phục, thân tâm hòa thuận ‘thâm nhập chánh huệ’. Thân lẫn tâm đều đã điều hòa, đã hiểu rõ chánh huệ thì phiền não dư tập chẳng cần đoạn liền tự dứt, chí nguyện vô thượng, tùy thuận Như Lai, theo lời Phật dạy hành hạnh của Phật.
Bởi thế, thực hành thông suốt Thất Giác, Thánh Đạo; tu tập đủ ngũ nhãn của Phật, chiếu chơn, đạt tục, thung dung Trung Đạo. Vì tinh tấn chẳng ngơi nên mở sáng Phật nhãn của chính mình, hiểu rõ pháp tánh, rốt ráo chứng nhập mật tạng của Như Lai.
Rõ ràng là hết thảy diệu đức không một đức nào chẳng bắt nguồn từ mật tạng của Phật; mỗi một diệu đức không thứ nào chẳng quy về mật tạng ấy.
Chánh kinh: Biện tài tổng trì tự tại vô ngại, khéo hiểu vô biên phương tiện thế gian, lời nói thành khẩn, chơn thật. Thâm nhập nghĩa vị, độ các hữu tình, diễn nói chánh pháp vô tướng, vô vi, chẳng trói buộc, chẳng giải thoát, không các phân biệt, xa lìa điên đảo.
Với những thứ thọ dụng đều chẳng chấp lấy, dạo khắp các cõi Phật, không ưa, không chán, cũng chẳng có ý tưởng mong cầu hay chẳng mong cầu, cũng chẳng có ý tưởng ta - người thù ghét.
Vì sao vậy? Các vị Bồ Tát đó đối với hết thảy chúng sanh có tâm đại từ bi lợi ích, bỏ lìa hết thảy chấp trước, thành tựu vô lượng công đức, dùng vô ngại huệ hiểu pháp như như, khéo biết âm thanh, phương tiện Tập, Diệt, chẳng ưa bàn luận việc đời, chỉ thích chánh luận.
Giải: Đoạn kinh này nói về hạnh lợi tha của bậc đại sĩ, gồm có ba điều chính:
a. Diễn thuyết diệu pháp
b. Dạo trong các cõi Phật.
c. Phổ lợi chúng sanh.
Ba điều này dung nhiếp lẫn nhau.
Từ chữ ‘biện tài’ cho đến ‘xa lìa điên đảo’ nói về tánh đức trí huệ và biện tài của Bồ Tát. Chữ ‘biện tài, tổng trì’ được bản Ngụy dịch ghi là ‘đủ các biện tài’. Như vậy, “tổng trì” có nghĩa là đầy đủ các thứ. Câu kinh này ý nói bậc đại sĩ cõi ấy đầy đủ các thứ biện tài. Tổng trì còn có nghĩa là đà ra ni nên ta còn có thể hiểu là: các ngài đã đắc biện tài đà ra ni.
Tiếp đó, kinh nói ‘tự tại vô ngại’ ngụ ý: Bồ Tát đã đắc biện tài vô ngại, hay nói gọn là vô ngại biện. Vô ngại biện có thể chia thành bốn hay chín loại. Tứ vô ngại biện còn gọi là tứ vô ngại trí, tứ vô ngại giải. Đó là trí huệ biện tài xét về mặt thuyết pháp của Bồ Tát. Do từ phương diện ý nghiệp mà nói nên gọi là Giải hoặc là Trí. Nếu nói theo phương diện khẩu nghiệp thì gọi là Biện.
Kinh Niết Bàn giảng về tứ vô ngại biện như sau: ‘Bồ Tát có thể đạt được bốn vô ngại như sau: pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại, nhạo thuyết vô ngại’.
Còn theo kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, có đến chín thứ biện tài là: ‘Vô sai biện, vô tận biện, tương tục biện, bất đoạn biện, bất khiếp nhược biện, bất kinh bố biện, bất cộng dư biện, vô biên tế biện, nhất thiết thiên nhân sở ái trọng biện’. Chín thứ này cũng được gọi là vô ngại biện.
Đại sĩ cõi Cực Lạc có đầy đủ các thứ biện tài mầu nhiệm vô ngại như thế chẳng hề bị chướng ngại nên kinh bảo: ‘Biện tài tổng trì tự tại vô ngại’.
‘Khéo hiểu vô biên phương tiện của thế gian’ là Sai Biệt Trí. Phương tiện là thiện xảo. Do khéo biết căn tánh và ý thích của hết thảy chúng sanh, khéo léo thuyết pháp tùy theo cơ nghi nên khế hợp căn cơ.
‘Lời nói thành khẩn, chơn thật, thâm nhập nghĩa vị’: Do Căn Bản Trí khế hợp lý Thật Tướng, đắc Sai Biệt Trí, hiểu biết căn cơ của chúng sanh nên nói ra pháp ‘thâm nhập nghĩa vị’. [Vì thuyết pháp] khế lý, khế cơ khiến cho tất cả những người nghe lãnh hội được nghĩa lý, hiểu sâu pháp vị nên họ đều được độ thoát. Do đó, kinh bảo: ‘Độ các hữu tình’.
Do khế lý nên pháp nào nói ra cũng là chánh pháp. ‘Chánh pháp’ là đạo pháp chơn chánh. Sách Thắng Man Bảo Quật nói: ‘Phật đem chánh pháp trao cho chúng sanh’. Chánh pháp như thế ‘vô tướng, vô vi, không trói buộc, không giải thoát, không có các phân biệt, xa lìa điên đảo’.
Ngài Tịnh Ảnh bảo ‘vô tướng’ là: ‘Các pháp đều là không nên gọi là vô tướng’. Kinh Niết Bàn cũng dạy: ‘Niết Bàn gọi là vô tướng. Do nhân duyên nào lại gọi là vô tướng? Này thiện nam tử! Do vì không có mười tướng. Những gì là mười? Chính là sắc tướng, thanh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sanh tướng, trụ tướng, hoại tướng, nam tướng, nữ tướng. Đấy là mười tướng. Vì thế gọi là vô tướng’.
Đối với khái niệm hữu tướng, vô tướng, Mật giáo lại có hai cách giải thích: cạn cợt sơ lược và sâu xa bí mật.
a. Nghĩa cạn cợt sơ lược là các pháp thuộc về sắc và tâm mà chúng sanh thấy được, có sự tướng rõ ràng, hiện hành ngay nơi tâm dễ biết, dễ thấy thì gọi là hữu tướng. Thể tánh của các pháp vô sắc, vô hình, chẳng có một tướng tồn tại thì gọi là vô tướng.
b. Nghĩa sâu xa, bí mật là: Hữu tướng là trụ một cách phân minh vào tướng của từng pháp trong hết thảy pháp. Vô tướng là trong một tướng có đủ cả hết thảy tướng, nhưng chẳng giữ lại tướng nào. Tuy đủ hết thảy tướng nhưng chẳng hề thấy có một tướng nên gọi là vô tướng, chứ chẳng phải là vô sắc, vô hình.
Không có nhân duyên tạo tác thì gọi là ‘vô vi’, đồng nghĩa với ‘vô tác’; xin xem lời giải thích chi tiết chữ ‘vô tác’ trong phẩm mười bảy.
‘Không trói buộc, không giải thoát’: thế nhân thường xem phiền não, vô minh là trói buộc; coi đoạn hoặc hiển chơn là độ thoát, nhưng chẳng biết là vô minh và pháp tánh vốn cùng một thể. Pháp tánh như nước, vô minh như băng, hiện ra tướng trạng khác nhau, nhưng xét đến bản thể thì toàn thể của băng vô minh lại chính là nước pháp tánh. Sách Pháp Hoa Huyền Nghĩa bảo vô minh và phiền não ‘như băng là nước, như nước là băng’. Do băng và nước là một nên không trói buộc, không giải thoát.
‘Không có các phân biệt’ chính là Bất Nhị, chính là Như Thị. Lý thể của pháp giới là bất nhị, bình đẳng nên bảo là Như. Chư pháp đều như nên bảo là ‘như như’. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương nói: ‘Cái này, cái kia đều như nên bảo là như như. Như vốn chẳng hư vọng nên trong kinh còn gọi là Chơn Như’. Do cái này lẫn cái kia đều Như thì tự nhiên ‘không có các phân biệt’.
Kinh Văn Thù Bát Nhã còn dạy: ‘Nếu tin hết thảy pháp đều là Phật pháp thì chẳng sanh sợ hãi, cũng chẳng nghi hoặc. Nhẫn được như vậy thì mau chứng đắc A Nậu Bồ Đề’. Kinh Đại Bảo Tích còn dạy: ‘Thậm chí bản tánh của các pháp bình đẳng với Phật tánh cho nên các pháp đều là Phật pháp’. Nếu tin chắc chắn hết thảy pháp đều là Phật pháp thì cũng chẳng còn phân biệt.
Chữ ‘xa lìa điên đảo’ như trên đã giải thích. Xét về cội gốc, vạn pháp đều khế hợp Thật Tướng nên không điên đảo. Trong bản chú giải kinh Tịnh Danh, ngài La Thập đã giảng chữ ‘điên đảo’ như sau: ‘Thấy là có, không, trái nghịch với pháp tướng nên gọi là điên đảo’. Ý nói: Thấy là có hay thấy là không thì đều là còn chấp trước, đều là trái nghịch với tướng bình đẳng của chư pháp nên gọi là điên đảo.
Bốn câu từ chữ ‘vô tướng, vô vi’ cho đến ‘xa lìa điên đảo’ cùng mô tả chánh pháp được giảng bởi bậc đại sĩ cõi Cực Lạc.
* Đoạn kinh từ chữ ‘với những thứ thọ dụng’ cho đến ‘chẳng có ý tưởng mong cầu’ nói rõ Bồ Tát cõi ấy bình đẳng dạo khắp mười phương cõi nước. Đối với những thứ thọ dụng, họ đều chẳng chấp trước: đến các cõi thanh tịnh vẫn không yêu thích, vào trong các uế độ cũng chẳng ghét bỏ.
‘Cũng chẳng có ý tưởng mong cầu, hay chẳng mong cầu’: Theo kinh Kim Cang Tam Muội: ‘Có nhiều đường nhập đạo nhưng cốt yếu không ngoài hai thứ: một là lý nhập, hai là hạnh nhập’.
Có bốn thứ hạnh nhập, trong ấy điều thứ ba là: ‘Tâm không mong cầu. Thế nhân mê muội lâu ngày, tham cầu khắp nơi nên gọi là “cầu”. Bậc trí ngộ chơn, an tâm vô vi, vạn hữu đều không, không mong cầu gì. Thật là chơn vô cầu, thuận theo đạo mà hành nên gọi là Vô Sở Cầu Hạnh’.
Do vậy, ‘không có ý tưởng mong cầu’ chính là Vô Sở Cầu Hạnh, ‘cũng không có ý tưởng chẳng mong cầu’ chính là ngay cả cái ‘không mong cầu’ cũng chẳng có. Chẳng lập một pháp chính là vô cầu một cách chơn thật. Chẳng mong cầu lại chính là vô vi. Chẳng không mong cầu chính là chẳng chấp vào vô vi, chẳng chấp hữu vi. Chẳng trụ vào vô vi thì mới khế hội Trung Đạo (đó là lý nhập). Những điều như vậy chính là diệu đức vào trong các cõi Phật một cách bình đẳng của các Bồ Tát cõi Cực Lạc.
* Tiếp đó, kinh nói đến đức tánh độ sanh bình đẳng của các vị đại sĩ. Các vị Bồ Tát cõi ấy có lòng đại từ bi, nguyện làm lợi lạc hết thảy hữu tình nên đối với hết thảy chúng sanh chẳng nệ là thân hay sơ, là kẻ oán hay người thân, cũng không phân biệt là mình hay người, cũng không có ý tưởng kẻ khác là oán thù hay kẻ chống trái mình, xem tất cả đều như con một, bình đẳng phổ độ. Vì thế, kinh mới nói: ‘Cũng chẳng có ý tưởng ta, người, thù ghét. Vì cớ sao? Các Bồ Tát ấy đối với hết thảy chúng sanh có tâm đại từ bi lợi ích’.
Những câu kinh tiếp đó nói thêm về cả hai hạnh tự lợi, lợi tha và đức hạnh bình đẳng thuyết pháp. Các Bồ Tát đi qua khắp các cõi nước thuyết pháp chẳng ngoài mục đích độ sanh, mà muốn thuyết pháp thì tự mình phải giác ngộ trước đã, nên kinh mới nói: ‘Bỏ lìa hết thảy chấp trước, thành tựu vô lượng công đức, dùng vô ngại huệ hiểu pháp như như’. Đó là hạnh tự lợi được viên mãn.
Trong bốn ý vừa nêu trên, ý đầu tiên là bỏ lìa chấp trước vì đây chính là mấu chốt để nhập đạo. Đức Thế Tôn thấy sao Mai liền triệt ngộ bổn tâm; ngay câu giảng đầu tiên, ngài đã khẳng định hết thảy chúng sanh đều có đủ trí huệ, đức tướng như Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên chúng sanh chẳng chứng đắc nổi. Do vậy, bỏ lìa được vọng tưởng chấp trước thì ngay khi ấy liền đầy đủ trí huệ, đức tướng của Như Lai. Vì thế, kinh mới bảo: ‘Thành tựu vô lượng công đức’.
‘Vô ngại huệ’ là trí huệ thông đạt viên dung của Phật; bản Ngụy dịch ghi là ‘vô ngại trí’. Kinh Đại Tập nói: ‘Trí huệ vô ngại chẳng có ngằn mé, khéo hiểu các sự của chúng sanh trong ba đời’. Phẩm Hóa Thành Dụ trong kinh Pháp Hoa cũng có câu: ‘Như Lai vô ngại trí biết Phật kia diệt độ và như hiện nay thấy Thanh Văn và Bồ Tát diệt độ’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Hiểu pháp như như là hiểu theo Lý… Giống như hư không nên gọi là Như. Hiểu biết hết thảy muôn pháp đều như thì gọi là “hiểu pháp như như”.
Như Như chính là một trong năm pháp được dạy trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Lý thể của pháp tánh là bất nhị, bình đẳng nên gọi là Như. Pháp này lẫn pháp kia đều “như” nên mới bảo là Như Như, tức là lý thể khế hợp với Chánh Trí. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 3 cũng nói:
‘Như Như là lý được khế hội bởi Chánh Trí. Các pháp có cùng một thể nên gọi là Như. Trong thể của Nhất Như có đủ cả Phật pháp như số cát sông Hằng trong trần sa cõi nước. Nếu xét theo từng pháp để biện định Như thì Như nghĩa là chẳng phải một. Đây, kia đều như nên gọi là Như Như’.
Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Như Như nghĩa là chẳng một, chẳng khác, chẳng không, chẳng có. Đấy là tướng của Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế’.
Tổng hợp hai cách giải thích trên, thì Như Như chính là ‘đây, kia đều như’. Do đây, kia đã như nên ‘chẳng khác’. Nhưng vì nói là ‘đây, kia’ nên ‘chẳng một’. Vì thế mới bảo là ‘nghĩa của Như chẳng phải là một’.
Câu ‘khéo biết âm thanh, phương tiện Tập Diệt’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Tập là Tập Đế, ý nói kèm cả Khổ. Diệt là Diệt Đế, ngụ ý tính cả Đạo. Do nhân quả ảnh hưởng lẫn nhau nên nói giáo nghĩa Tứ Đế chính là “âm thanh phương tiện”.
Sách Hội Sớ cho rằng Tập Diệt chính là hai đế Tập và Diệt trong Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo nên mới bảo là trong Tập có kèm cả Khổ, trong Diệt tính cả Đạo. Nay chỉ nói Tập, Diệt chứ thật ra là muốn nói đến cả Tứ Đế. Lại do nhân thuộc trong biển quả, quả tột cùng nguồn nhân, nhân quả ảnh hưởng lẫn nhau; Tiểu, Đại, Thiên, Viên đồng quy pháp Nhất Thừa. Vì vậy, nói ra giáo pháp Tứ Đế chính là phương tiện mà nói nên mới gọi là ‘âm thanh phương tiện’.
Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘Khéo hiểu Tập, Diệt… là giáo giải (hiểu trên phương diện giáo nghĩa). Lời dạy tích tập việc lành gọi là Tập âm thanh. Lời dạy diệt ác được gọi là Diệt âm thanh. Bồ Tát đều hiểu rành những điều ấy nên bảo là “khéo biết”. Biết những điều ấy một cách khéo léo nên gọi là “phương tiện”.
Gia Tường Sớ lại nói: ‘Khéo biết âm thanh Tập Diệt là Từ Vô Ngại’.
Ta có thể hiểu câu ‘khéo biết các âm thanh phương tiện Tập Diệt’ theo cả hai cách giải thích trên.
Câu ‘chẳng thích bàn việc đời, chỉ ưa chánh luận’ trong đoạn cuối được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Ý nói lìa lầm lỗi, tức là chẳng ham bàn luận những việc thế gian vô ích, chỉ thích nói liễu nghĩa rốt ráo xuất thế của Đại Thừa’. Liễu nghĩa Đệ Nhất Nghĩa Đế rốt ráo được gọi là ‘chánh luận’.
Chánh kinh: Biết hết thảy pháp đều là không tịch. Nhị dư: sanh thân và phiền não cùng hết sạch. Trong tam giới, bình đẳng siêng tu đệ nhất thừa rốt ráo, đạt tới bờ kia, quyết đoạn lưới nghi, chứng vô sở đắc. Dùng Phương Tiện Trí để tăng trưởng liễu tri. Từ đầu đến nay an trụ trong thần thông, đắc đạo Nhất Thừa, chẳng do cái gì khác mà khai ngộ.
Giải: Đoạn này nói rõ hạnh đức viên mãn của hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc.
‘Biết hết thảy pháp đều là không tịch’: Không là như trong phẩm Đệ Tử của kinh Duy Ma đã nói: ‘Các pháp rốt ráo vô sở hữu, đó là nghĩa của chữ Không’, và cũng như sách Đại Thừa Nghĩa Chương bảo: ‘Không là xét theo Lý mà đặt tên. Lý vắng lặng nên gọi là Không’.
Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Bát Nhã diệu huệ chứng tịch diệt bình đẳng nên bảo là “biết hết thảy pháp đều là tịch diệt” (chữ ‘không tịch’ được bản Ngụy dịch ghi là ‘tịch diệt’).
Sách Vạn Thiện Đồng Quy Tập ghi: ‘Kinh giáo gọi “Không” là Không vì nó bất khả đắc, vì nó chẳng có thật tánh, đó là cái Không chẳng bị đoạn diệt’.
Tổng hợp những cách giải thích vừa dẫn, ta có thể nói một cách giản yếu như sau: Bồ Tát cõi Cực Lạc do trí huệ Bát Nhã mầu nhiệm nên biết rõ hết thảy các pháp đều rốt ráo là vô sở hữu, bất khả đắc, bình đẳng không tịch; tuy biết chắc hết thảy pháp là không nhưng chẳng đoạn diệt. Cái không tịch này là Thật Tế lý thể chứ không phải là Đoạn Không. Nó là Đệ Nhất Nghĩa Không, là cái Không chẳng bị đoạn diệt. Khế nhập được Tịch Diệt bình đẳng như thế nên kinh mới nói: ‘Biết hết thảy pháp đều là không tịch’.
Chữ ‘sanh thân’chỉ chung cái thân phần đoạn sanh tử và cái thân biến dịch sanh tử (ở đây, chữ ‘sanh thân’ chỉ cái thân biến dịch sanh tử của Bồ Tát (1)). Sanh thân chính là một pháp trong ‘nhị dư’.
‘Nhị dư’ chính là khổ báo nơi sanh thân và tàn dư phiền não. Sanh thân là khổ quả, phiền não là nhân của các hoặc chướng. Cả hai thứ tàn dư này đều hết sạch nên kinh mới nói: ‘Nhị dư: sanh thân và phiền não cùng hết sạch’.
Sách Hội Sớ bảo: ‘Sanh thân là khổ quả vướng vào thân, nó chính là Khổ Đế. Phiền não là kiến hoặc, tư hoặc. Nó chính là Tập Đế’.
‘Nhị dư’ chính là tàn dư của Khổ và Tập. Bồ Tát đoạn được chánh sử và tập khí (2) nên chẳng còn tàn dư, vượt khỏi tam giới, không còn phải do cha mẹ sanh ra mới có thân, đoạn sạch tất cả triền phược thuộc hữu lậu quả nên kinh nói là ‘cùng hết sạch’.
Ngài Cảnh Hưng lại bảo: ‘Sanh thân là báo, phiền não là nhân tạo khổ. Cả hai thứ nhân lẫn quả đều đã hết sạch’.
Ngài Tịnh Ảnh lại bảo: ‘Sanh thân là khổ báo. Phiền não là cái nhân gây hoặc chướng. Hai thứ tàn dư này đều đã diệt sạch’. Bởi thế mới bảo là: ‘Nhị dư: sanh thân và phiền não cùng hết sạch’.
‘Nhất Thừa’ là con đường duy nhất để thành Phật, là giáo pháp tối cực viên đốn. ‘Thừa’ là cỗ xe, thường được ví với giáo pháp của Phật. Giáo pháp có khả năng chuyên chở hành nhân đến được bờ kia Niết Bàn nên gọi là Thừa.
Sách Thắng Man Bảo Quật, quyển thượng nói: ‘Nhất Thừa: Đạo cùng tột, không hai nên gọi là Nhất. Vận dụng tự tại nên gọi là Thừa’.
Kinh Thắng Man cũng dạy: ‘Nhất Thừa chính là Đệ Nhất Nghĩa thừa’. Ngài Cảnh Hưng lại bảo: ‘Nhất Thừa chính là trí, tuy có ba nhưng xét đến cùng cực thì chẳng có hai nên gọi là Nhất Thừa’.
Kinh Pháp Hoa chuyên dạy về lý Nhất Thừa, phẩm Phương Tiện của kinh ấy có câu: ‘Trong cõi Phật mười phương chỉ có pháp Nhất Thừa, cũng chẳng có hai hay ba thừa, trừ phi Phật phương tiện nói như vậy’.
Kinh còn dạy: ‘Chỉ có một sự thật này, hai thứ kia chẳng phải là chơn’. Tịnh Ảnh Sớ cũng giảng: ‘Thừa là hạnh dụng. Hạnh có khả năng chuyển tải nên gọi là Thừa. Do hóa độ nên có nhiều thừa, nhưng thật sự [những thừa ấy] chẳng khác. Bởi vậy mới nói là một. Chỗ tận cùng của Nhất Thừa ấy gọi là cứu cánh’. Ý lời sớ là: Chỗ tột cùng của lý Nhất Thừa được gọi là ‘cứu cánh Nhất Thừa’. Các vị đại Bồ Tát cõi Cực Lạc bi thệ sâu rộng, tuy sống trong Cực Lạc nhưng vì thương xót chúng sanh nên bèn thị hiện trong tam giới sanh tử, trụ bình đẳng huệ, siêng gắng tu tập. Bởi vậy, kinh mới nói: ‘Trong tam giới, bình đẳng siêng tu’.
Họ hiểu thấu lý Thật Tướng Nhất Thừa một cách rốt ráo, đạt đến bờ kia Niết Bàn nên kinh bảo: ‘Đạt tới bờ kia’. Sách Hội Sớ nói: ‘Bờ kia là Niết Bàn diệu quả’. Tịnh Ảnh Sớ ghi: ‘Đạt tới bờ kia là [đạt tới] Niết Bàn cực quả’. Chữ ‘Niết Bàn cực quả’ chỉ quả tột cùng của Niết Bàn, tức là vô thượng quả giác chí cao, rốt ráo thành Phật vậy.
Câu ‘quyết đoạn lưới nghi’ được hiểu nhiều cách khác nhau:
- Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trừ vọng hiển chơn gọi là đoạn lưới nghi’. Sách Hội Sớ cũng giảng giống vậy: ‘Đoạn trừ lưới nghi, trí huệ tự sanh’. Cả hai bộ sớ này đặt nặng việc đoạn trừ lưới nghi của chính mình.
- Gia Tường Sớ lại giảng: ‘Quyết đoạn lưới nghi là đoạn được mối nghi của chúng sanh’.
Hai thuyết tuy khác, nhưng chẳng mâu thuẫn nhau vì muốn trừ được mối nghi cho chúng sanh thì trước hết chính mình đã phải không còn nghi ngờ gì. Hơn nữa, khi tự mình đã xé tan lưới nghi thì chơn trí tự sanh, ắt sẽ khởi đại hạnh khiến cho khắp các chúng sanh cũng đoạn nghi, chứng chơn. Bởi đó, ‘quyết đoạn lưới nghi’ gồm đủ cả hai nghĩa (tự mình đoạn nghi và đoạn nghi cho chúng sanh).
‘Vô sở đắc’ còn gọi là ‘vô sở hữu’ tức là Không huệ hay còn được gọi cách khác là Vô Sai Biệt Trí. Thấu hiểu chơn lý vô tướng, tự tâm không chấp trước vào đâu cả, không còn có các phân biệt thì là ‘vô sở đắc’. Tâm kinh dạy: ‘Vô trí cũng vô đắc’. Trí Độ Luận giảng: ‘Do trong Thật Tướng của các pháp chẳng thể có được tướng quyết định nên gọi là vô sở đắc’. Kinh Niết Bàn cũng dạy: ‘Vô sở đắc được gọi là huệ. Hữu sở đắc thì gọi là vô minh’. Kinh còn nói: ‘Hữu sở đắc thì gọi là sanh tử luân. Hết thảy phàm phu sanh tử luân hồi nên có sở kiến. Bồ Tát vĩnh viễn đoạn hết thảy sanh tử cho nên Bồ Tát được gọi là vô sở đắc’.
Lời dạy của kinh Niết Bàn thật là lời giảng liễu nghĩa về cứu cánh chơn thật. Theo bản sớ giải kinh Nhân Vương của ngài Lương Phần, ‘vô sở đắc’ được hiểu như sau: ‘Tâm vô sở đắc là Vô Phân Biệt Trí’.
Trong tác phẩm Duy Ma Kinh Sớ, ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn lại giảng: ‘Bồ Tát phá tan tình, tướng, đạt đến chỗ vô đắc thì gọi là vô sở đắc’. Như vậy, ‘vô sở đắc’ tức là đạt đến chỗ vô đắc.
‘Phương Tiện Trí’ còn gọi là Quyền trí, tức là trí hiểu rõ pháp phương tiện, trí thực hành phương tiện. Quyền trí và Thật trí là hai mặt hỗ tương. Thấu đạt Thật Tướng của các pháp thì gọi là Như Lai Thật Trí. Hiểu rõ các thứ sai biệt là Như Lai Quyền Trí. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển mười chín giảng: ‘Biết pháp Nhất Thừa chơn thật thì gọi là Thật Trí. Biết rõ pháp quyền nghi để hóa độ ba thừa thì gọi là Phương Tiện Trí’.
Ngoài ra, Thật trí là thể, Quyền trí là dụng. Bản thể sự thành Phật của Như Lai là Thật trí, diệu dụng giáo hóa suốt cả một đời của ngài thuộc về Quyền trí.
Mật giáo lại lấy Tâm Liên Hoa Đài của Thai Tạng Mạn Đồ La làm Thật trí, tám cánh hoa nở (của Liên Hoa Đài) làm Quyền trí. Kinh Đại Nhật, quyển hai chép: ‘Chư Phật rất hy hữu, Quyền trí chẳng nghĩ bàn’. Do đó, ta thấy rõ Phương Tiện Trí cũng chẳng thể nghĩ bàn. Diệu dụng độ sanh, phương pháp quyền biến hóa độ toàn là từ trí này phát khởi.
Hơn nữa, dùng Thật trí để cầu Quyền trí, cũng chính là từ Căn Bản Trí đạt được Sai Biệt Trí nên kinh mới nói: ‘Tăng trưởng liễu tri’. Ta có thể dùng hình ảnh hoa sen nở tung để ví ‘tăng trưởng’, búp sen hàm tiếu ví cho ‘liễu tri’. Tám cánh của đóa sen nơi tâm xòe nở trọn vẹn thể hiện ý nghĩa ‘tăng trưởng liễu tri’ (hoa sen tám cánh trong viện Liên Đài bát diệp của Thai Tạng mạn đồ la của Mật giáo chính là đóa sen nơi tâm của chúng sanh (3)) vì cánh sen nở tung phơi bày đài sen khác nào Phương Tiện Trí khai minh, hiển lộ trọn vẹn nguồn tâm.
Hơn nữa, việc độ sanh chẳng thể không dùng đến thần thông, mà từ xưa đến nay, Bồ Tát vốn đã tự nhiên an trụ trong các thần thông; các thần thông ấy chẳng phải có tự bên ngoài, đúng như kinh Viên Giác nói: ‘Vốn đã thành Phật’ nên kinh đây mới bảo: ‘Từ đầu đến nay an trụ trong thần thông’.
Thật trí lẫn Quyền trí cùng chiếu tỏ thì tự nhiên an trụ trong thần thông, trọn vẹn diệu đức, nhập vào Thật Tướng, chứng vô sở đắc. Do vô sở đắc nên ‘đắc đạo Nhất Thừa’.
Ý ‘chẳng do cái gì khác để khai ngộ’ được bản Đường dịch ghi như sau: ‘Đắc đạo Nhất Thừa, chẳng có nghi hoặc. Với giáo pháp của Phật chẳng do cái gì khác để khai ngộ’; còn bản Ngụy dịch ghi là: ‘Huệ do tâm xuất’. Tịnh Ảnh Sớ giải thích: ‘Chơn giải phát trung, danh huệ tâm xuất’. Ý nói: Sự giải ngộ chơn thật phát xuất từ tự tâm nên bảo là ‘huệ do tâm xuất’.
Trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, ngài Vọng Tây viết: ‘Lưới nghi đã đoạn, chợt chứng Thật lý. Cái năng chứng trí ấy chẳng phát sanh từ cái nào khác mà chính là phát sanh từ nơi tâm’. Ý nói: Ngay cả mối nghi nhỏ nhiệm cũng đã vĩnh viễn đoạn sạch thì hiển nhiên đại ngộ, đốn chứng Thật lý, đắc Nhất Thừa đạo. Cái trí chứng được đạo Nhất Thừa ấy phát xuất từ tự tâm, quyết chẳng từ cảnh nào khác phát sanh.
Hội Sớ viết: ‘Đoạn trừ lưới nghi thì trí huệ tự sanh. “Do tâm” nghĩa là Vô Sư Tự Nhiên Trí, chẳng cần phải do sự nào khác mà ngộ’. Ý nói: Trí huệ phát sanh ấy chính là Vô Sư Trí và Tự Nhiên Trí. Đã là Vô Sư Trí thì chẳng do người nào khác mà đắc. Trí ấy lại là Tự Nhiên Trí thì chẳng cần phải do sự nào khác mà sanh. Vì vậy, kinh mới nói: ‘Huệ do tâm xuất’ và ‘chẳng do cái gì khác để khai ngộ’.
Ta có thể hiểu theo câu kinh này theo các cách giải thích của cả ba bộ sớ trên. Nói chung là đại ngộ rạng rỡ, chứng nhập Thật Tướng, các diệu trí như Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí v.v… cùng hiện rạng ngời, chứng ngộ phát sanh từ tự tâm, chẳng phải do từ cái gì bên ngoài phát sanh.
Vật gì đem từ ngoài cửa vào thì có phải đâu là của báu nhà mình sẵn có. Lục Tổ Huệ Năng đại sư nói: ‘Mật ở tại nơi ngươi!’. Rõ ràng, mật tạng của chư Phật ta vốn sẵn đủ, hễ ngộ thì nó hiển hiện sáng lòa, chẳng từ cái khác mà có nên kinh mới dạy: ‘Đắc đạo Nhất Thừa, chẳng do cái khác mà khai ngộ’.
31. Chơn thật công đức
Phẩm này tiếp nối phẩm trước, tiếp tục nói về những diệu đức tự lợi, lợi tha của bậc Bồ Tát cõi Cực Lạc. Phẩm này gồm ba phân đoạn chính:
a. Dùng thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa.
b. Trình bày công đức của Thật Tướng.
c. Được Phật tán thán.
Chánh kinh: Trí họ sâu rộng ví như biển cả. Bồ Đề cao rộng ví như Tu Di. Oai quang nơi thân mình vượt xa mặt trời, mặt trăng. Tâm họ khiết bạch ví như núi Tuyết. Nhẫn nhục như đất, hết thảy bình đẳng. Thanh tịnh như nước rửa các trần cấu. Hừng hực như lửa thiêu củi phiền não. Chẳng vướng mắc như gió: không chướng, không ngại. Pháp âm sấm rền giác ngộ kẻ chưa giác. Mưa pháp cam lồ để nhuần thấm chúng sanh. Rộng dường hư không vì đại từ bình đẳng. Như hoa sen sạch vì lìa nhiễm ô. Như cây Ni Câu vì tỏa bóng mát lớn lao. Như kim cang xử vì phá tà chấp. Như núi Thiết Vy vì chúng ma ngoại đạo chẳng động nổi.
Giải: Đây chính là phân đoạn thứ nhất: dùng các thí dụ để minh thị hạnh đức tự lợi, lợi tha của hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc.
Trước hết lấy biển cả để ví trí huệ Bồ Tát rộng sâu. ‘Rộng’ tức là lớn lao như kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Xin nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển’.
Tiếp đó dùng núi Tu Di để ví với quả Bồ Đề cao tột chót vót của Bồ Tát. Núi Tu Di chính là trung tâm của một thế giới. Tu Di dịch sang tiếng Hán là núi Diệu Cao. Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa giảng: ‘Hán dịch là Diệu Cao sơn. Do bốn thứ báu hợp thành nên gọi là Diệu. Cao hơn các ngọn núi khác nên gọi là Cao. Hoặc còn dịch là Diệu Quang sơn vì bốn thứ báu màu sắc, quang minh khác nhau chiếu ngời thế giới’.
Tu Di còn được dịch là An Minh sơn, Minh đã hàm ý ‘diệu quang’, lại còn kiêm cả nghĩa thanh tịnh, vô cấu. An là định, là bất động. Vì thế, bản Tống dịch ghi: ‘Kiên cố bất động như núi Tu Di’.
Nay kinh dùng núi Tu Di để ví vì:
a. Núi Tu Di do bốn báu hợp thành, ngụ ý: Bồ Đề của Bồ Tát do vạn đức trang nghiêm.
b. Núi Tu Di cao nhất trong các ngọn núi. Cũng vậy, không có gì cao hơn Bồ Đề được cả.
c. Núi tỏa quang minh nhiệm mầu. Cũng thế, huệ quang thường chiếu thế gian.
d. Núi an tịnh, sáng ngời. An tịnh biểu thị diệu định, như như bất động. Sáng ngời nhằm ví Bồ Đề khiết tịnh như chất báu vô cấu.
‘Oai quang’ là ánh sáng oai đức. Bản Ngụy dịch ghi là: ‘Huệ quang sáng sạch vượt xa mặt trời, mặt trăng’. Hội Sớ giảng: “Vượt xa mặt trời, mặt trăng” ý nói: mặt trời, mặt trăng còn có lúc tròn, khuyết, chứ huệ quang chẳng vậy. Mặt trời, mặt trăng có lúc hiện ra, có khi biến mất; huệ quang thường sáng tỏ. Mặt trời, mặt trăng chẳng soi được nội tâm, huệ quang soi thấu. Mặt trời, mặt trăng chẳng trọn khắp, huệ quang trọn khắp’. Bởi vậy, kinh mới nói: ‘Oai quang nơi tự thân vượt xa mặt trời, mặt trăng’.
‘Núi Tuyết’ chính là Đại Tuyết Sơn (Hymalaya). Trong Nam Thiệm Bộ Châu, ngọn núi này cao nhất, dù Đông hay Hè đều có tuyết phủ nên gọi là Tuyết Sơn. Tuyết Sơn trắng sạch nên được ví với giới đức và định thanh tịnh.
Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Định thanh tịnh, đức viên mãn như núi Tuyết’. Sách Hội Sớ cũng bảo: ‘Đem giới đức ví với Tuyết Sơn vì giới đức thanh tịnh như Đại Tuyết sơn thường trắng sạch, chiếu soi chúng sanh khiến họ được thanh lương’. Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘[Lấy] Tuyết Sơn để hiển thị định thanh tịnh. Các đức đều tịnh nên gọi là bình đẳng thanh tịnh, nhất như’.
Tâm Bồ Tát vốn tịnh nên tâm họ trắng sạch như núi Tuyết. Tâm họ nhất như nên giống như núi Tuyết bất động. Tâm họ bình đẳng nên cả ba thứ (thanh tịnh, bình đẳng, nhất như) không sai biệt, chỉ một màu trắng tinh thuần.
‘Nhẫn nhục như đất’ là dùng cõi đất để ví lòng nhẫn nhục bình đẳng. Bình đẳng chính là lìa các phân biệt. Vãng Sanh Luận Chú giảng về tâm nghiệp vô phân biệt như sau: ‘Như đất mang chở, nặng nhẹ không khác’. Đại địa nâng đỡ vạn vật, dù vật nặng hay nhẹ vẫn mang đỡ như nhau, chẳng hề chọn lựa, chẳng hề phân biệt. Do vậy, kinh dùng cõi đất để ví cho đức nhẫn nhục của Bồ Tát, xa lìa hết thảy phân biệt ta - người, ân - oán, trái - thuận.
‘Thanh tịnh như nước’: Bồ Tát thanh tịnh giống hệt như nước sạch, rửa sạch các thứ trần lao cấu nhiễm nên kinh mới nói: ‘Rửa các trần cấu’.
‘Hừng hực như lửa thiêu củi phiền não’: Trí huệ ví như lửa, phiền não ví như củi. Trí huệ của Bồ Tát sắc bén, mạnh mẽ, hừng hực như lửa; trừ diệt phiền não như lửa đốt củi.
‘Chẳng vướng mắc như gió’: Tánh của gió là lưu chuyển, chẳng trụ vào đâu cả, cũng không chấp trước. Do Bồ Tát không chấp trước nên đi trong các thế giới một cách tự tại vô ngại như gió thổi trên không.
‘Pháp âm sấm rền’: Kinh nói: ‘Phật ngữ phạm lôi chấn’. Tiếng sấm rền vang xa, rúng động thế gian nên được ví với pháp âm có khả năng giác ngộ quần mê. ‘Giác ngộ kẻ chưa giác’ là khiến cho phàm phu chưa giác ngộ được tỉnh giác.
‘Mưa pháp cam lộ’: Dùng cam lộ ví cho giáo pháp của đức Phật. Cam lộ có thể làm cho người cải tử hoàn sanh. Giáo pháp của đức Phật khiến ta vĩnh viễn dứt khỏi sanh tử, đắc đại Niết Bàn; vì vậy gọi là pháp cam lộ.
‘Mưa’: giống như trời tuôn mưa nhuần thấm cả ba căn, nên kinh mới nói: ‘Nhuần thấm cả ba căn’.
Kinh Pháp Hoa có câu: ‘Ta làm Thế Tôn, không ai bằng nổi. Vì an ổn chúng sanh nên hiện trong đời. Vì đại chúng nói tịnh pháp cam lộ. Pháp ấy một vị giải thoát Niết Bàn’.
Phật Địa Luận cũng ghi: ‘[So] với các pháp thế gian tà kiến, kém cỏi của các ngoại đạo, giáo pháp của Như Lai là chơn thật nhất, thù thắng, thanh tịnh giống như đề hồ, cũng như cam lộ, khiến [chúng sanh] đắc Niết Bàn’.
Những lời kinh, luận vừa được dẫn trên đã tỏ rõ ý ‘mưa pháp cam lộ vì nhuần thấm chúng sanh’.
‘Rộng như hư không vì đại từ bình đẳng’: Dùng hư không để sánh ví lòng đại từ bình đẳng của Bồ Tát. Như hư không thật là bao la không bờ mé nên bảo là ‘rộng’. Dùng hư không để ví tâm Từ mênh mông. Hư không không vướng mắc như bản Ngụy dịch ghi: ‘Ví như hư không, đối với hết thảy cõi chẳng có chấp trước’. Sách Hành Sự Sao Tư Trì Ký viết: ‘Không chấp trước gì vì lìa trần nhiễm’. Do vậy, kinh dùng ngay tánh chất không vướng mắc của hư không để biểu thị tánh bình đẳng của tâm Từ.
‘Như hoa sen sạch’: Hoa sen mọc lên từ bùn nhơ nhưng chẳng bị nhiễm bẩn. [Dùng hình ảnh] hoa sen mọc trong bùn để biểu thị ý chẳng bỏ chúng sanh. Hoa sen vượt lên mặt nước rồi nở hoa ví như Bồ Tát ly cấu thanh tịnh nên kinh bảo: ‘Vì lìa nhiễm ô’.
‘Như cây Ni Câu’: Ni Câu (nigrodha) là tiếng Phạn, là tên một loài cây. Trung Hoa không có loại cây này, thường dịch là Vô Tiết Thọ (cây không có đốt), Tung Quảng thọ (cây to rộng).
Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa, quyển mười lăm nói: ‘Cây này thẳng thớm, không có mấu đốt, tròn trịa đáng yêu, mọc lên cao đến hơn ba trượng mới trổ cành lá. Hạt của nó bé xíu như hạt cây liễu. Trung Hoa không có loại cây này’.
Kinh Tội Phước Báo Ứng lại bảo: ‘Cây Ni Câu Đà cao hai mươi dặm, cành mọc đều đặn xoay tròn, rợp bóng đến mười sáu dặm. Cây này có hạt nhiều đến vài muôn hộc’.
Kinh A Duy Việt Trí Già bảo: ‘[Cây Ni Câu] có thể tỏa bóng rợp đến năm mươi dặm’.
Vì vậy, kinh mới bảo ‘vì tỏa bóng mát lớn lao’. Dùng hình ảnh này để ví Bồ Tát rộng làm bóng mát che chở hết thảy chúng sanh.
‘Như kim cang xử’: kim cang xử, tiếng Phạn là Phạt Triết La (vajra); nguyên là một thứ binh khí của Ấn Độ. Mật tông dùng nó làm pháp khí để biểu thị trí huệ kiên cố, bén nhạy.
Đại Nhật Kinh Sớ, quyển một chép: ‘Phạt triết la là kim cang trí ấn của Như Lai’. Sách còn viết: ‘Ví như Đế Thích tay cầm kim cang phá quân Tu La, nay các vị Chấp Kim Cang cũng giống như vậy’.
Sách Nhân Vương Kinh Tụng Niệm Nghi Quỹ, quyển thượng cũng bảo: ‘Tay cầm kim cang xử để biểu thị phát khởi Chánh Trí tựa như kim cang’.
Sách Chư Bộ Yếu Mục còn nói: ‘Chẳng cầm kim cang xử niệm tụng thì không cách chi thành tựu. “Kim cang xử” nghĩa là Bồ Đề tâm, phá hoại cả hai thái cực: Đoạn và Thường, khế hợp Trung Đạo. Chính giữa kim cang xử là mười sáu tòa Bồ Tát tượng trưng cho mười sáu thứ Không hợp thành Trung Đạo. Mỗi đầu xử đều có năm nhánh, biểu thị ngũ trí của Phật, đồng thời biểu thị mười ba la mật phá tan mười thứ phiền não, thành tựu mười thứ Chơn Như, chứng ngay lên Thập Địa’.
Như vậy, kim cang xử là biểu tượng của Kim Cang Chánh Trí, đẩy lui ma quân, đoạn phiền não, đắc thành tựu. Đấy chính là ý nghĩa ‘phá tà chấp’ được nói trong kinh đây. Ở đây, kinh dùng kim cang xử để ví diệu trí Kim Cang Bát Nhã của các Bồ Tát phá trừ hết thảy tình chấp bất chánh.
‘Như núi Thiết Vy’: Một tiểu thế giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, phía ngoài có tám núi, tám biển. Dãy núi ngoài cùng hết được gọi là núi Thiết Vy, hay còn gọi là Kim Cang Vy sơn. Do sắt có tánh chất kiên cố nên gọi là kim cang. Kim cang phá hoại hết thảy, nhưng không thứ nào phá tan nổi nó. Vì vậy, kim cang được dùng để ví đức tánh bất hoại, ‘chúng ma ngoại đạo’ đều không phá hoại được.
Về chữ ‘chúng ma’ xin xem lại lời giải thích chữ ‘phiền não’ trong phẩm mười một.
‘Ngoại đạo’ là những đạo được thành lập không xuất phát từ lời Phật dạy. Do thực hành những điều không thuộc về chơn lý tối cực nên đều gọi là ngoại đạo.
Sách Tư Trì Ký nói: ‘Gọi là ngoại đạo vì chẳng nhận lấy sự giáo hóa của Phật, riêng hành tà pháp’.
Bản sớ giải kinh Tịnh Danh của ngài Thiên Thai ghi: ‘Hiểu sai lầm ra ngoài giáo pháp thì gọi là ngoại đạo’.
Sách Viên Giác Kinh Tập Chú còn nói: ‘Tâm hạnh không đúng với Lý nên gọi là ngoại đạo’.
Sách Câu Xá Huyền Nghĩa lại bảo: ‘Học sai trái với Chơn Lý, rong ruổi theo vọng tình của mình, chẳng biết xoay về giác ngộ bề trong thì gọi là ngoại đạo’.
Kinh Đại Trang Nghiêm Pháp Môn cũng nói: ‘Văn Thù Sư Lợi hỏi Kim Sắc Nữ: “Ai là ngoại đạo?” Cô ta bảo: ‘Tùy thuận, nhẫn thọ tà thuyết của kẻ khác thì gọi là ngoại đạo’.
Các kinh nói chẳng đồng nhất về số lượng các ngoại đạo. Kinh Đại Nhật liệt kê ba mươi thứ, kinh Niết Bàn lại bảo có chín mươi lăm thứ. Kinh Hoa Nghiêm và Đại Trí Độ Luận cùng bảo có chín mươi sáu thứ. Đấy là vì kinh và luận trên dùng quan điểm Đại Thừa bài xích Tiểu Thừa, tức là: trong chín mươi sáu thứ được có kể cả Thanh Văn đạo. Bách Luận ghi: ‘Thuận theo đạo Thanh Văn thì đều là tà’. Thanh Văn tuy thuộc trong chánh giáo của Như Lai, nhưng là quyền pháp nên cũng bị tính gộp vào chín mươi lăm thứ ngoại đạo thành ra có đến chín mươi sáu thứ.
Dùng kim cang xử để ví trí huệ Bồ Tát kiên cố, hết thảy ma tà, ngoại đạo chẳng thể lay động nổi.
Chánh kinh: Tâm họ chánh trực, thiện xảo quyết định, luận pháp chẳng chán, cầu pháp chẳng nhọc. Giới tợ lưu ly, trong ngoài sáng sạch. Lời lẽ nói ra khiến mọi người vui vẻ, tin phục. Đánh trống pháp, dựng pháp tràng, chói rực mặt trời trí huệ phá si ám. Thuần tịnh ôn hòa, tịch định, minh sát; làm đại đạo sư, điều phục cả mình lẫn người, dẫn đạo quần sanh phá các ái trước, vĩnh viễn lìa khỏi ba cấu, du hý thần thông.
Giải: Phần trên, kinh đã dẫn các thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa. Phần này, kinh giảng rõ công đức chơn thật của các vị Bồ Tát cõi ấy. Đó là đức tự giác, giác tha, hoằng pháp lợi sanh.
‘Chánh trực’: Chánh là chẳng tà, trực là chẳng cong vạy. Kinh Tịnh Danh dạy: ‘Trực tâm là đạo tràng’. Sách Vãng Sanh Luận Chú ghi: ‘Chánh trực là ngay thẳng. Do chánh trực nên sanh tâm thương xót hết thảy chúng sanh’.
Phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa cũng có câu: ‘Ở giữa các vị Bồ Tát, chánh trực xả phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng’. Sách Pháp Hoa Văn Cú giảng câu trên như sau: ‘Ngũ thừa còn cong quẹo nên chưa phải là trực. Thông giáo, Biệt giáo còn thiên lệch nên chẳng phải là chánh. Nay bỏ cả lệch lạc lẫn cong quẹo ấy, chỉ nói một đạo Nhất Thừa chánh trực’.
Có nhiều cách hiểu ‘ngũ thừa’, nhưng chữ ‘ngũ thừa’ được dùng trong sách Văn Cú nghĩa là: nhân thừa, thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa.
Thông giáo, Biệt giáo là thiên lệch, cả năm thừa: nhân, thiên v.v… đều cong vẹo; cho nên Nhất đạo chánh trực chính là Nhất Thừa của Viên giáo.
Vì vậy, câu ‘tâm họ chánh trực’ hàm ý tâm các Bồ Tát đã xa lìa các giáo pháp lệch lạc, cong vạy, chỉ thuần là Nhất Thừa viên pháp, như cỗ xe to lớn, ngay ngắn, được trâu trắng kéo chạy vùn vụt như gió.
Phật Địa Luận giảng chữ ‘thiện xảo’ như sau: ‘Xứng thuận cơ nghi nên gọi là thiện xảo’. Sách Văn Cú cũng bảo: ‘Hiển lộ thiện quyền phương tiện, tỏ rõ phương tiện tinh vi’. Câu trên nói đến đức giác tha, khéo quán căn cơ để dạy pháp thích hợp, hành quyền phương tiện. Câu dưới nói về tự giác: khéo nhập quán hạnh đến mức tinh vi. Tự giác như vậy nên mới có thể dùng phương tiện giác ngộ người khác, tùy cơ ứng duyên, nên kinh khen là ‘thiện xảo’.
Kinh Hoa Nghiêm có nói đến mười trí thiện xảo: Trí thiện xảo hiểu rõ Phật pháp rất sâu, trí thiện xảo xuất sanh Phật pháp rộng lớn, trí thiện xảo tuyên nói các thứ Phật pháp, trí thiện xảo chứng nhập Phật pháp bình đẳng, trí thiện xảo hiểu rõ Phật pháp sai biệt, trí thiện xảo ngộ giải Phật pháp không sai biệt, trí thiện xảo trang nghiêm Phật pháp, trí thiện xảo một phương tiện nhập Phật pháp, trí thiện xảo vô lượng phương tiện nhập Phật pháp, trí thiện xảo vô biên Phật pháp chẳng sai biệt.
Ta thấy rằng mười trí thiện xảo đều vốn là do đã thâm nhập quán hạnh một cách tinh vi, thấu triệt tột cùng nguồn tâm, từ Căn Bản Trí hiện thành Sai Biệt Trí nên có thể hiểu thấu các trí thiện xảo: xuất sanh, ngôn thuyết, chứng nhập v.v…
‘Quyết định’ có nghĩa là việc đã nhất định, không thay đổi nữa. Sách Thắng Man Bảo Quật nói: ‘Quyết định là tín’. Như vậy thì ‘thiện xảo’ là tùy cơ ứng duyên, ‘quyết định’ là chơn thật bất biến. ‘Thiện xảo quyết định’ nghĩa là tùy duyên thiện xảo nhưng thảy đều chơn thật.
‘Luận pháp chẳng chán, cầu pháp chẳng nhọc’: Câu trên nói về giác tha, câu dưới nói đến tự giác.
Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Chuyên thích cầu pháp, tâm không chán đủ là phương tiện tự lợi… Thường muốn rộng nói, chí không mệt mỏi chính là lợi tha’.
Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Bồ Tát cầu pháp để lợi người, đắc được pháp nào ắt giảng cho người khác. Vì hết thảy chúng sanh trải vô lượng kiếp chẳng hề chán mỏi’.
‘Giới tợ lưu ly’: Giới là giới luật, tức là môn đầu tiên trong ba vô lậu học: Giới, Định, Huệ. Phụng trì giới luật trong sạch, thanh khiết để tự trang nghiêm. Trì giới khiết tịnh khác nào ngọc lưu ly. Kinh Phạm Võng nói: ‘Giới như nhật, nguyệt sáng, cũng như anh lạc châu’. Vì vậy, kinh mới nói: ‘Giới tợ lưu ly’.
‘Trong ngoài sáng sạch’: “Trong” là tâm ý, ý nghiệp thanh tịnh; khởi tâm, động niệm thảy đều lìa khỏi cấu nhiễm. Ngoài là oai nghi đầy đủ, đó là đức thể hiện ra bên ngoài. Trong, ngoài đều thanh khiết nên nói ra điều gì cũng khiến cho người nghe lòng vui thích, kính phục thật sự. Do đó, kinh nói: ‘Lời lẽ nói ra khiến mọi người vui vẻ, tin phục’.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘đánh trống pháp, dựng pháp tràng, chói rực mặt trời trí huệ’ như sau: ‘Pháp âm vang dội khác nào tiếng trống. Oai đức dẹp tà khác nào thắng tràng. Huệ nhật chiếu mê khác nào mặt trời sáng ngời’. Ý nói: ‘Tiếng trống pháp’ là ví pháp âm của Bồ Tát vang xa cảnh tỉnh mọi người.
Dùng ‘pháp tràng’ để ví oai đức của Bồ Tát dẹp tan tà ác như Gia Tường Sớ viết: ‘Kiến lập là dáng vẻ chiến thắng ví như thuyết pháp hàng ma đắc thắng vậy’. Đem ‘mặt trời trí huệ’ ví cho trí huệ Bồ Tát chiếu phá si ám, lay tỉnh quần mê.
Tịnh Ảnh Sớ lại dùng ba huệ Văn, Tu, Tư để giảng ba ví dụ này. Sớ viết: “Đánh trống pháp” là Văn Huệ pháp. Do tiếng trống vang xa nên nói là “đánh trống pháp”. “Dựng pháp tràng” là Tư Huệ pháp. Thành lập nghĩa là “kiến” (tạo dựng), nghĩa lý được tỏ bày ra được gọi là “tràng” (ý nói: dựng bày pháp nghĩa rồi chỉ bày rõ ràng cho chúng sanh thì gọi là ‘dựng pháp tràng’). “Rực chiếu mặt trời trí huệ” là trừ si ám. Đó chính là Tu Huệ pháp khai hóa chúng sanh’.
Si ám chính là vô minh ám hoặc. Kinh Hoa Nghiêm, quyển 2 nói: ‘Trí huệ của Như Lai là vô biên duyên, hết thảy thế gian chẳng thể thấu đạt nổi. [Trí huệ ấy] diệt trừ vĩnh viễn tâm si ám của chúng sanh’. Đó chính là ý nghĩa của câu ‘phá si ám’ trong kinh này vậy.
‘Thuần tịnh ôn hòa’: Tịnh là thanh khiết. ‘Thuần tịnh’ là nội tâm trong lặng, lìa cấu. Ôn là tốt đẹp, an hòa. Hòa là bình hòa. Như vậy, chữ ‘ôn hòa’ diễn tả dáng vẻ, phong cách ôn nhu, hòa dịu, đẹp đẽ.
‘Tịch định minh sát’: Tịch định chính là Thật Tế lý thể, minh sát là công dụng chiếu soi của trí huệ. Sách Tông Kính Lục viết: ‘Lấy nhất tâm làm tông, chiếu vạn pháp như tấm gương’. Tịch định có tánh chất như tấm gương, có công năng chiếu soi như gương rành rành phân minh, chẳng bỏ sót mảy may nên bảo là ‘minh sát’. ‘Tịch định minh sát’ chính là tịch mà thường chiếu vậy.
Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ ‘đạo sư’ trong câu ‘làm đại đạo sư’ như sau: ‘Dùng trí huệ để khai hóa người khác thì gọi là đại đạo sư’. Sách Hội Sớ bảo: ‘Vì kẻ lạc đường chỉ con đường đúng nên gọi là đạo sư’. Làm được như bậc đại sĩ Phổ Hiền, mười đại nguyện vương dẫn dắt về Cực Lạc, thật là pháp tối cực viên đốn phổ lợi chúng sanh trong cửu giới nên được gọi là đại đạo sư.
‘Điều phục cả mình lẫn người’: Điều là điều hòa, điều thuận, chế ngự cái tâm mình; phục là hàng phục, chế phục, hàng phục những tâm sai trái. Kinh Kim Cang chép: ‘Nên trụ như thế nào, nên hàng phục cái tâm như thế nào?’ Ý của lời hỏi ấy là hỏi về cách điều phục.
Nếu giảng rộng ra thì khai hiển bổn tâm chính là ‘điều’; hàng phục tâm sai trái chính là ‘phục’. Hễ làm bậc đại đạo sư thì ắt phải điều phục được tâm mình lẫn tâm người khác, tự thân nhập đạo thì cũng khiến khắp các chúng sanh nhập đạo; tự tâm đại giác thì cũng khiến khắp các chúng sanh nhập giác đạo.
Vì thế, tiếp đó, kinh chép: ‘Dẫn dắt quần mê xả các ái trước’. ‘Trước’ là chấp trước, nhiễm trước. ‘Ái’ là tham ái, hỷ ái, ân ái. Cổ đức bảo: ‘Ái chẳng nặng, chẳng đọa Sa Bà’. Chúng sanh nhiễm chấp khó xả, nhưng diệu đức của Bồ Tát có thể khiến họ vĩnh viễn lìa được nhiễm chấp nên kinh bảo: ‘Vĩnh viễn lìa khỏi ba cấu’ (ba cấu là tham, sân, si).
Bồ Tát lại có thể khiến cho chúng sanh du hý trong thần thông. ‘Du’ là thông suốt như nước chảy, ‘hý’ là an vui, nhàn hạ. Như vậy, ‘du hý’ nghĩa là tùy ý sử dụng thần thông một cách tự tại vô ngại nên mới nói là ‘du hý thần thông’.
Ý của toàn bộ đoạn kinh này là:
- Bồ Tát nhất tâm chánh trực, an trụ trong pháp Nhất Thừa, lại có đầy đủ phương tiện thiện xảo, siêng gắng cầu pháp, lại còn giảng cho khắp mọi người không biết chán nhàm. Bồ Tát giới đức thanh tịnh nên nói năng gì cũng khiến cho người nghe vui lòng, tin phục. Đấy chính là đánh trống pháp, giương cao tràng pháp, phóng ánh sáng trí huệ lớn lao, phổ biến rộng rãi diệu pháp, phá trừ vô minh si ám của chúng sanh.
- Bồ Tát nội tâm thuần tịnh; dáng vẻ, phong cách ôn hòa, không những chỉ thanh tịnh trong nội tâm mà còn thể hiện ra ngoài, trong ngoài như một. Bồ Tát ‘tịch định minh sát’, Định lẫn Huệ đều quân bình, tịch chiếu đồng thời. Vì thế, các ngài làm đại đạo sư cho chúng sanh, tự giác, giác tha, khiến khắp chúng sanh thảy đều trừ ác sanh thiện, thuận theo Phật pháp, hàng phục tâm sai bậy, xả các chấp trước ái kiến, vĩnh viễn dứt ba độc, khai hiển bổn tánh, an trụ thần thông tự tại vô ngại.
Chánh kinh: Nhân duyên nguyện lực xuất sanh thiện căn, dẹp tan hết thảy ma quân, tôn trọng, thừa sự chư Phật. Làm đèn sáng soi thế gian, [làm] phước điền tối thắng, cát tường thù thắng, đáng được cúng dường, rạng rỡ hoan hỷ, hùng mãnh, vô úy. Thân sắc, tướng hảo, công đức biện tài đầy đủ không ai bằng nổi.
Giải: Đoạn kinh này giảng rộng về công đức chơn thật của Bồ Tát.
Chữ ‘nhân duyên’ được bản Ngụy dịch ghi là ‘nhân lực, duyên lực’.
Ngài Tịnh Ảnh giảng: ‘Nhân lực, duyên lực là môn thứ nhất để dựa vào đó mà khởi tu. Hết thảy hạnh lành đã tu trong quá khứ sanh ra điều lành trong hiện tại thì gọi là “nhân lực”. Gần thiện tri thức, lắng nghe chánh pháp là “duyên lực”.
Ngài Vọng Tây bảo: ‘Căn lành từ những đời trước gọi là “nhân lực”. Thân cận thiện tri thức là “duyên lực”. Do nhân duyên hòa hợp nên có thể khởi hạnh’.
Hai thuyết trên tương đồng, nhưng sách Hội Sớ lại giảng hơi khác. Sách viết: ‘Nhân lực là Bồ Đề tâm, đây chính là cái nhân gốc của Phật đạo, xuyên suốt thập phương tam thế khiến cho chúng ma kinh hãi lớn. Duyên lực là rộng cầu tri thức, những điều lành của đại chúng. Duyên này có đại oai lực chuyển phàm nhập thánh’.
Xét về văn tự, thuyết này khác với hai thuyết trên, nhưng thật chẳng mâu thuẫn nhau! Ngài Tịnh Ảnh lấy điều lành từ quá khứ làm cái nhân cho hiện tại; sách Hội Sớ coi cái tâm Bồ Đề hiện tại là cái nhân để thành Phật. Thật ra, nếu chẳng có hạnh lành trong nhiều kiếp quá khứ thì chẳng thể phát khởi nổi cái tâm Bồ Đề trong hiện tại. Nếu chẳng phát khởi nổi tâm Bồ Đề thì không có cái nhân thành Phật!
Như vậy, hai thuyết trên chỉ bổ sung lẫn nhau; nhưng trong hai thuyết trên, thuyết của sách Hội Sớ gần với ý chỉ kinh này hơn vì phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm chính là tông chỉ của kinh này.
Tịnh Ảnh Sớ giảng ‘nguyện lực’ như sau: ‘Nguyện để khởi hạnh thì gọi là nguyện lực’. Ngài Vọng Tây bảo: ‘Cầu Bồ Đề Tâm là nguyện lực’. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Nguyện lực là tứ hoằng thệ nguyện để nghiêm tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sanh’. Tổng hợp cả ba thuyết trên thì dùng tứ hoằng thệ nguyện để trang nghiêm cõi nước, thành tựu chúng sanh, mong cầu tâm Bồ Đề mình sẵn có, tất cả đều là từ nguyện khởi hạnh nên gọi là nguyện lực. Có nguyện mà không hạnh thì chỉ là nguyện suông nên chẳng có công lực.
Nhân duyên hòa hợp như vậy, lại đầy đủ nguyện lực nên tự nhiên ‘xuất sanh thiện căn’. Ngài La Thập giảng ‘thiện căn’ như sau: ‘Tâm lành kiên cố sâu chẳng thể nhổ trốc được nên gọi là căn’. Tỳ Bà Sa Luận cũng bảo: ‘Thiện căn là chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Hết thảy thiện pháp đều từ ba điều ấy mà sanh’. Vì vậy, điều lành sanh ra diệu quả, lại còn sanh ra các điều thiện khác nên gọi là ‘thiện căn’.
Sách Di Đà Yếu Giải nói: ‘Bồ Đề chánh đạo gọi là thiện căn, tức là cái nhân gần’. Bồ Đề chánh đạo chính là phát Bồ Đề tâm, một dạ chuyên niệm. Đấy chính là cái nhân gần để thành tựu Bồ Đề.
Nhân có nghĩa là hột giống, ý nói: Phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm là hột giống để thành tựu quả Bồ Đề nên gọi là ‘thiện căn’. Kinh Đại Bi cũng dạy: ‘Một phen xưng danh hiệu Phật, dùng thiện căn ấy để nhập Niết Bàn giới chẳng thể cùng tận’. Ta thấy rõ thiện căn chính là cái nhân gần. Từ nhân được quả, quả có đầy đủ chủng tử nên lại trở thành cái nhân thù thắng. Cứ xoay vần như thế nên thiện căn vô tận. Do đó, Bồ Tát có đầy đủ những diệu đức như sẽ được nói sau đây:
- ‘Dẹp tan hết thảy ma quân’: ‘Dẹp tan’ là phá trừ và hàng phục. Xin xem lại lời giải thích về chữ ‘ma’ ở phần trước. Trí Độ Luận lại bảo: ‘Đoạt huệ mạng, phá hoại gốc lành đạo pháp công đức nên gọi là Ma’. Loại quỉ thần này có đại thần lực, có khả năng gây chướng nạn cho người tu pháp xuất thế. Quân lính của ma được gọi chung là ma quân.
- ‘Tôn trọng, phụng sự chư Phật’: trong phẩm bốn mươi mốt của kinh này có nói kẻ vãng sanh về biên địa ‘ở trong hoa sen chẳng được xuất hiện’, ‘trong năm trăm năm, chẳng thấy Tam Bảo, chẳng được cúng dường, phụng sự chư Phật’. Vì vậy, chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được thấy Phật và phụng sự chư Phật. Nay các vị Bồ Tát được phụng sự chư Phật chính là do có nhiều thiện căn phước đức nhân duyên.
- ‘Làm đèn sáng soi thế gian’: Trí huệ của Bồ Tát được ví như đèn sáng, chiếu tan sự tăm tối của chúng sanh, khiến chúng sanh khai giải chánh đạo. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Tự đủ trí huệ lại làm cho chúng sanh giải ngộ, nên gọi là đèn sáng soi thế gian’. Do tự đủ trí huệ nên như đèn sáng. Ánh đèn tỏa sáng hiện rõ các sắc ví như trí huệ khiến cho chúng sanh khai phát tín giải. Do vậy, kinh bảo: ‘Làm đèn sáng soi thế gian’. Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Soi tỏ thế gian mê ám nên bảo là đèn sáng soi thế gian’. Ý nói: Bồ Tát chiếu tan sự si ám và hôn mê của thế gian nên giống như đèn sáng vậy.
‘Phước điền’: Điền là mảnh ruộng, hàm nghĩa sanh trưởng. Tạo phước nơi bậc đức hạnh đầy đủ thì sẽ được phước báo. Gieo phước thì được quả phước, do đó, gọi là gieo trồng phước điền. Bậc đáng nên cúng dường được gọi là phước điền. Sách Thám Huyền Ký nói: ‘Sanh phước cho ta nên gọi là phước điền’. Theo kinh Ưu Bà Tắc Giới, có ba thứ phước điền:
a. Báo ân phước điền tức là cha mẹ, sư trưởng.
b. Công đức phước điền là Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo.
c. Bần cùng phước điền là những hạng người bần cùng, khốn khổ.
Cúng dường ba hạng trên đều có phước nên gọi là phước điền.
Chữ ‘phước điền tối thắng’ trong kinh này hàm ý: Trong các thứ phước điền, các Bồ Tát là thù thắng nhất. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Có thể phát sanh điều lành cho chúng sanh nên gọi là phước điền tối thắng’. Do có thể khiến cho chúng sanh xuất sanh thiện căn nên gọi là phước điền tối thắng vì từ thiện căn lại sanh ra vô lượng các quả phước và nhân lành.
Hai câu ‘làm đèn sáng soi thế gian, làm phước điền tối thắng’ nên đọc liền một mạch với hai câu ‘cát tường thù thắng, đáng được cúng dường’ ở phần sau thì dễ thấy trọn ý nghĩa.
‘Cát tường thù thắng’ chính là ý nghĩa sâu xa của thánh hiệu Văn Thù đại sĩ. Văn Thù tức là Văn Thù Sư Lợi. Chữ Văn Thù có thể dịch là Thắng, Diệu, Đệ Nhất; chữ Sư Lợi có thể dịch là Đức, Cát Tường v.v… Kinh Đại Nhật gọi ngài Văn Thù là Diệu Cát Tường.
Văn Thù biểu trưng Căn Bản Trí. Ngài là thầy của bảy đức Phật nên Văn Thù tốt lành nhất. Nay các hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc có đầy đủ trí đức của Văn Thù đại sĩ, thấy tự tánh rõ ràng nên họ là phước điền tối thắng, nhận lãnh nổi sự cúng dường của hết thảy trời người. Trí huệ của họ lại ‘rạng rỡ’, tức là sáng suốt chói lọi.
Đối với chữ ‘hùng mãnh’, phẩm Thọ Ký kinh Pháp Hoa cũng có câu: ‘Đại hùng mãnh Thế Tôn’. Thế Tôn đoạn sạch hết thảy phiền não, đại hùng chẳng khiếp nhược, dũng mãnh, tinh tấn nên được gọi là ‘hùng mãnh’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trong thế gian, Phật là hùng mãnh nhất’.
‘Vô úy’ là đức tánh ở giữa đại chúng thuyết pháp không hề hãi sợ, kinh khiếp. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương lại bảo: ‘Tâm giáo hóa chẳng khiếp nên gọi là vô úy’. Đối với việc hóa độ chúng sanh chẳng hề có tâm khiếp hèn nên bảo là vô úy.
‘Tướng hảo’ là băm hai tướng tốt, tám mươi tùy hình hảo.
Như vậy, chữ ‘rạng rỡ’ diễn tả oai quang của Bồ Tát chói ngời, chữ ‘hoan hỷ’ diễn tả nội tâm tự tại, hình dung vui vẻ, an hòa. Chữ ‘hùng mãnh vô úy’ diễn tả thật đức của Bồ Tát: dũng mãnh, tinh tấn, thuyết pháp vô úy; đồng thời mô tả phong thái, oai thần khôn sánh: đại hùng chẳng khiếp nhược. Chữ ‘tướng hảo’ chuyên chỉ thân sắc.
Tiếp đó, kinh nói: ‘Công đức biện tài’ ngụ ý: Bồ Tát có đầy đủ các công đức khác và có đủ các thứ biện tài vô ngại. Chữ ‘đầy đủ trang nghiêm’ chính là câu tổng tán nhằm kết lại những lời khen ngợi ở phần trên: Như Lai dùng phước đức, trí huệ trang nghiêm thân mình. Các hàng Bồ Tát này có đầy đủ phước trí trang nghiêm, vượt xa hết thảy thế gian.
Đoạn kinh này cực lực tán dương công đức chơn thật của Bồ Tát, thật là hy hữu.
Chánh kinh: Thường được chư Phật cùng khen ngợi, rốt ráo các Bồ Tát ba la mật, nhưng thường an trụ trong các tam ma địa bất sanh bất diệt. Hạnh khắp đạo tràng, xa lìa cảnh Nhị Thừa.
A Nan! Ta nay nói đại lược: công đức chơn thật của các Bồ Tát sanh trong thế giới Cực Lạc kia thảy đều như vậy. Nếu nói rộng ra thì trăm ngàn vạn kiếp chẳng thể hết được nổi.
Giải: Đây là ý chính thứ ba: Chư Phật cùng khen ngợi để chứng minh, chư Phật đồng thanh ca ngợi tỏ rõ đại sĩ đức hạnh rất sâu.
Chữ ‘bất sanh bất diệt’ trong câu ‘rốt ráo các Bồ Tát ba la mật nhưng thường an trụ trong các tam ma địa bất sanh bất diệt’ nên hiểu như kinh Đại Niết Bàn đã dạy: ‘Niết là bất sanh, Bàn là bất diệt. Bất sanh bất diệt thì gọi là Đại Niết Bàn’. Kinh Duy Ma cũng dạy: ‘Pháp vốn chẳng sanh nên nay chẳng diệt’.
Tiểu Thừa dựa vào lý Hữu Dư Niết Bàn để quán bất sanh bất diệt nên nghiêng về Thiên Không. Đại Thừa từ Không nhập Giả nên ngay nơi cái có sự tướng mà hiển thị lẽ bất sanh bất diệt; ngay nơi tướng chính là đạo, ngay nơi sự chính là chơn. Vì vậy nên có thể suốt ngày độ sanh mà suốt ngày chẳng độ, suốt ngày tiếp xúc vạn duyên mà nhất tâm không tịch; lại có thể thực hành rốt ráo cả sáu độ: bố thí, nhẫn nhục… mà vẫn an trụ trong các tam muội bất sanh bất diệt, chẳng đánh mất định ý.
‘Hạnh khắp đạo tràng’ là đối với những chánh hạnh đạo tràng không chút khuyết thiếu.
‘Xa lìa cảnh Nhị Thừa’ là chỉ nương theo một pháp Nhất Thừa, rốt ráo đạt tới bờ kia. Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận cũng bảo: ‘Nếu đắm trong [cảnh giới của] địa vị Thanh Văn và địa vị Bích Chi Phật thì gọi là Bồ Tát chết, là mất hết thảy cái lợi. Dù đọa vào địa ngục cũng chẳng sợ hãi đến thế. Nếu sa vào địa vị Nhị Thừa thì là điều sợ hãi lớn’. Vì vậy, Bồ Tát ‘xa lìa cảnh Nhị Thừa’.
Từ chữ ‘A Nan’ trở đi là lời đức Thế Tôn tổng kết: công đức chơn thật của hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc chẳng thể nói trọn hết nổi.
32. Thọ lạc vô cực (thọ mạng và niềm vui vô cực)
Phẩm này nói đến tuổi thọ và sự vui sướng nơi cõi Cực Lạc đều vô cực. Trước hết, kinh nói đến chúng hội thù thắng nơi cõi ấy, khuyến dụ chúng sanh nên thân cận. Tiếp đó, kinh miêu tả những điều vi diệu trong cõi Cực Lạc để khuyến dụ vãng sanh.
Chánh kinh: Phật bảo Di Lặc Bồ Tát [và] các hàng trời người rằng:
- [Trong] nước Phật Vô Lượng Thọ, công đức trí huệ của Thanh Văn, Bồ Tát chẳng thể nói kể. Cõi nước ấy lại vi diệu, an lạc, thanh tịnh như thế. Sao không ra sức làm lành, niệm đạo tự nhiên?
Giải: Đoạn kinh này nêu lên cả thánh chúng lẫn cõi nước để khuyến dụ chúng sanh.
Câu ‘Phật bảo Di Lặc’ ngụ ý: từ phẩm này trở đi, ngài Di Lặc là đương cơ chính, A Nan chỉ đóng vai phụ. Trong phẩm bốn mươi tám, Phật bảo ngài Di Lặc: ‘Ta nay đúng như lý tuyên nói pháp môn vi diệu rộng lớn như thế ấy, [là pháp] được hết thảy chư Phật khen ngợi, phó chúc các ông thực hiện sự thủ hộ lớn lao’. Như vậy Di Lặc Bồ Tát đương lai hạ sanh ắt sẽ tuân lời phó chúc của Phật mà diễn thuyết kinh này.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘vi diệu, an lạc, thanh tịnh’ như sau: ‘Trang nghiêm siêu tuyệt nên bảo là “vi diệu”. Chẳng có khổ não nên bảo “an lạc”. Tướng vô lậu, tướng vô tướng nên bảo là “thanh tịnh”. Ý nói: Hết thảy sự tướng cõi Cực Lạc đều là diệu tướng vô lậu. Hơn nữa Thật Tướng chẳng phải là vô tướng, cũng chẳng phải là bất tướng nên mọi thứ hiện ra đều là Thật Tướng. Do mọi tướng hiện hữu trong cõi Cực Lạc đều là tướng vô lậu, tướng Thật Tướng nên Phật bảo là ‘thanh tịnh’.
Hai câu cuối của đoạn chánh kinh trên được Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau: ‘Sao chẳng tận hết sức làm lành để cầu sanh nên bảo là “gắng sức làm lành”. Niệm đạo thì tự nhiên vãng sanh nên bảo là “tự nhiên”.
Sách Hội Sớ giảng: ‘Hai chữ “sao chẳng” là lời khích lệ, dẫn đến hai nghĩa: có hai điều lành.
Thứ nhất là xưng danh niệm Phật, đây chính là điều lành căn bản.
Hai là rộng hành các điều thiện, hồi hướng vãng sanh.
Niệm đạo gồm hai nghĩa: Niệm là năng niệm, đạo là điều được niệm.
Đạo cũng có hai thứ:
- Thứ nhất là Di Đà bổn nguyện, đây là tha lực đại đạo; chẳng cậy vào tự lực để tu thiện, nhất siêu trực nhập nên gọi là tự nhiên.
- Thứ hai là đạo được chứng bởi tam thừa vô vi tự nhiên, tánh chẳng tạo tác nên cũng gọi là tự nhiên.
Tuy có hai nghĩa, nhưng chủ yếu là nghĩa thứ nhất’.
Tịnh Ảnh Sớ dùng ý ‘làm lành cầu được vãng sanh’ để giảng chữ ‘gắng sức làm lành’, coi tự nhiên vãng sanh là ý nghĩa chữ ‘niệm tự nhiên’. Nói như vậy là nói vắn tắt. Ý ngài Tịnh Ảnh là dùng công đức của việc lành để hồi hướng Tịnh Độ, tận lực cầu vãng sanh thì gọi là ‘gắng sức làm lành’. Giảng như vậy rất hay.
Tiếp đó, ngài nói: tự nhiên vãng sanh chính là ‘niệm đạo tự nhiên’. Giảng như vậy quá vắn tắt, cách giải thích của Hội Sớ hay hơn: trực chỉ xưng danh niệm Phật là cội gốc của điều lành và đó là chánh hạnh. ‘Rộng làm các điều thiện, hồi hướng cầu được sanh’ cũng là ‘làm lành’ nhưng chỉ là trợ hạnh. Nêu lên cả chánh hạnh lẫn trợ hạnh, chánh phụ phân minh chính là ưu điểm của Hội Sớ.
Đến ý ‘niệm đạo tự nhiên’, sách Hội Sớ càng giảng hay hơn nữa. Sách nêu lên hai nghĩa: Một là dùng tha lực để vượt thẳng [khỏi tam giới] cho nên là tự nhiên; hai là do vô vi vô tác nên là tự nhiên. Nghĩa thứ nhất là chánh yếu. Thuyết này cực hay, vì điểm mầu nhiệm của Tịnh tông thật đúng như sách Yếu Giải nhận định: ‘Từ sự trì đạt lý trì’ nên chỉ cần ròng rặt niệm Phật thì tự nhiên đạt được những điều như ‘vô tác, vô vi’…
Cả hai thuyết vừa nêu trên đều là lập luận dựa trên bản Ngụy dịch (câu kinh trước câu ‘niệm đạo tự nhiên’ chỉ thấy trong bản Ngụy dịch); trong hai bản Ngô dịch và Hán dịch, tiếp ngay sau câu ‘niệm đạo tự nhiên’ là cả một đoạn văn dài thuật chi tiết về công đức của Bồ Tát cõi Cực Lạc và cõi nước tự nhiên tối thắng. Hội bản chọn lấy, ghép thành phẩm này.
Do đó, trong hội bản đây, ngay sau chữ ‘niệm đạo tự nhiên’ ta thấy có đến tám chữ ‘tự nhiên’ như ‘tự nhiên nghiêm chỉnh’, ‘tự nhiên vô vi’, ‘tự nhiên gìn giữ’, ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’, ‘tự nhiên có căn bổn’, ‘tự nhiên quang sắc hòa lẫn vào nhau’, ‘tự nhiên lôi kéo’; đủ thấy hai chữ ‘tự nhiên’ rất trọng yếu.
Ở đây, ‘tự nhiên’ chẳng có nghĩa là tự nhiên không do nhân gì như ngoại đạo thường nói, mà ‘tự nhiên’ có nghĩa là pháp vốn như vậy. ‘Tự’ là tự tánh, ‘nhiên’ được hiểu là ‘thanh tịnh bản nhiên’ (vốn sẵn thanh tịnh như vậy) như trong kinh Lăng Nghiêm nói. Như vậy, chữ ‘tự nhiên’ bao hàm ý nghĩa tự tánh bản nhiên; mà tự tánh bản nhiên chính là Chơn Như, Thật Tướng. Như vậy, ‘niệm đạo tự nhiên’ chính là trì danh niệm Phật, cũng chính là niệm Thật Tướng như Di Đà Yếu Giải đã giảng:
‘Thật Tướng vô nhị mà cũng vô bất nhị. Vì thế, toàn thể làm y báo, chánh báo, làm pháp thân, làm báo thân, làm tự, làm tha, cho đến người nói, pháp được nói, kẻ độ, người được độ, người tin, vị Phật được tin, người phát nguyện, điều phát nguyện, người trì danh, danh hiệu được trì, người vãng sanh, cõi được vãng sanh về, người khen ngợi, vị Phật được khen ngợi. Không gì là chẳng được chánh ấn Thật Tướng in vào’.
Vì vậy, sách Hội Sớ coi đạo vô vi vô tác là đạo tự nhiên; lại còn xem tha lực pháp môn nhất siêu trực nhập là tự nhiên. Giảng như vậy đều nói lên ý chỉ chánh yếu của Trung Đạo. So ra, tuy lời văn có khác với lời giảng của Yếu Giải, nhưng ý chỉ tương đồng. Nương theo tín nguyện trì danh, nương vào tha lực đại đạo liền được vãng sanh Cực Lạc. Trì danh chính là niệm Thật Tướng, là con đường trang nghiêm để nhất siêu trực nhập. Con đường như vậy, pháp tánh của nó vốn sẵn tự nhiên.
Chánh kinh: Từ lâu đã ưa thích tu tập xuất nhập cúng dường, xem kinh, hành đạo. Trí huệ, tài năng bén nhạy.
Tâm chẳng nửa chừng sanh hối hận, ý không lúc nào biếng nhác. Bề ngoài thong thả, bên trong luôn gấp rút. Tâm thênh thang như hư không, khế hội Trung Đạo. Trong, ngoài tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh, kiềm chế, thâu liễm, đoan nghiêm, chánh trực.
Thân tâm khiết tịnh, chẳng có tham ái. Chí nguyện an định chẳng tăng, chẳng giảm. Cầu đạo, hòa chánh, chẳng lầm lạc, khuynh tà. Tuân theo những ước thúc, giáo lịnh trong kinh như giữ thừng mực chẳng dám sai sảy. Đều vì mộ đạo, trọn không có niệm khác, chẳng có lo nghĩ.
Giải: Đoạn kinh này nói về công đức thù thắng của hội chúng cõi Cực Lạc.
Chữ ‘xuất nhập cúng dường’ trích từ hai bản Hán dịch và Ngô dịch. Nguyên văn ghi: ‘Đều theo nhau bay đi, lần lượt ra vào, cúng dường vô cực’. Ý nói: Các vị Bồ Tát, A La Hán từ cõi Cực Lạc bay đến mười phương, hưng khởi đủ các sự cúng dường lớn lao. Đấy là tu phước. ‘Xem kinh, hành đạo’ là tu huệ. Thánh chúng cõi ấy đối với hai thứ phước huệ trang nghiêm này đều ‘ưa thích’ nên ‘từ lâu đã tu tập’.
Tiếp đó, chữ ‘tài mãnh’ nên hiểu như trong phẩm Pháp Tạng Nhân Duyên đã ghi: ‘Tài cao dũng triết, siêu dị hơn đời’. Tài năng dũng mãnh là do trí huệ. Vì vậy, ‘trí huệ tài mãnh’ (tạm dịch: ‘trí huệ, tài năng bén nhạy’) nghĩa là huệ căn bén nhạy, tài năng hơn đời.
‘Nửa chừng hối hận’ là đang giữa đường tu bỗng thối chuyển. Sở dĩ thối chuyển là do lòng tin chẳng vững, gặp duyên liền thối thất. Thánh chúng cõi Cực Lạc trí huệ bén nhạy, đoạn nghi, sanh tín kiên cố chẳng lay động như núi Kim Cang nên ‘tâm chẳng giữa chừng hối hận’, thẳng tiến một lèo.
‘Ý không lúc nào biếng nhác’: Biếng nhác là vì nguyện chẳng sâu. Nguyện chẳng sâu xa, khẩn thiết thì không sức hành trì.
‘Thong thả’ là an nhàn, trầm ổn, chẳng khẩn trương, gấp gáp. ‘Bề ngoài thong thả, bên trong luôn gấp rút’ là nói vẻ ngoài thong dong, nhàn hạ, tựa hồ vô sự, nhưng trong nội tâm luôn tinh tấn chẳng ngơi, niệm niệm tiếp nối, tâm tâm chẳng gián đoạn, chẳng để lỡ một sát na nào mà chẳng quán chiếu nên kinh mới nói: ‘Trong luôn gấp rút’.
Tâm thánh chúng giống như hư không. Do hư không không có bờ mé nên tự tâm cũng không có bờ mé. Hư không chẳng có một vật nên tự tâm cũng chẳng có một vật. Do hư không rỗng không nên sum la vạn tượng, mười phương cõi nước đều nương vào hư không mà sanh. Hư không tạo dựng vạn vật nên tự tâm cũng tạo lập vạn vật. Do không có một vật nên chẳng rơi vào hữu biên. Do dung chứa vạn vật nên không bị rơi vào không biên. Chẳng có một vật mà lại dung chứa muôn vật nên chiếu được cả Không lẫn Hữu. Chứa đựng vạn vật mà không hề có một vật nào cả nên cả Không lẫn Hữu đều mất, thung dung Trung Đạo nên mới bảo là ‘khế hội Trung Đạo’.
Kinh Kim Cang dạy: ‘Nên không trụ vào đâu mà sanh cái tâm mình’. Vô trụ chính là sanh tâm, sanh tâm chính là vô trụ, đấy nghĩa là Trung Đạo.
‘Trong ngoài tương ưng’ (trung biểu tương ưng); ‘trung’ là nội tâm, ‘biểu’ là những cái được biểu hiện ra ngoài. Tâm Bồ Tát khế hợp Trung Đạo, vừa đạt được trong tâm vừa biểu hiện ra ngoài nên cả trong lẫn ngoài như một, tự nhiên tương ưng, chẳng cần phải an bài tạo tác nên ‘tự nhiên nghiêm chỉnh’.
Từ chữ ‘tự nhiên nghiêm chỉnh’ cho đến chữ ‘chẳng có lo nghĩ’ là cả một đoạn lớn. Những diệu đức của Bồ Tát được nêu trong đoạn này toàn là do ‘khế hội Trung Đạo’ tạo thành.
‘Nghiêm chỉnh’ là nghiêm túc, chỉnh tề, chữ này diễn tả oai nghi của thánh chúng.
‘Kiềm giữ, thâu liễm, đoan nghiêm, chánh trực’ (kiểm liễm đoan trực) chính là nội dung của oai nghi ‘nghiêm chỉnh’. ‘Kiểm’ là kiềm giữ chẳng để phân tán. ‘Liễm’ là thâu liễm, thu gom lại.
Như vậy, ‘kiểm liễm’ chính là như kinh đã nói ‘thảy đều tự đoan chánh mắt, tai, miệng, lưỡi’. Gìn giữ cái nghe, kiềm chế cái nhìn để tuyệt các ý ngoại duyên.
Thêm nữa, ‘đoan’ là đoan chánh, ‘trực’ là chẳng cong quẹo, là chánh trực. Vì thế, chữ ‘đoan trực’ ngoài chỉ vẻ oai nghi nơi thân trang nghiêm, trong chỉ tâm ý chánh trực. Đấy là cả thân lẫn tâm đều đoan nghiêm.
‘Thân tâm khiết tịnh, chẳng có lo nghĩ’ là vì khế hội Trung Đạo nên Sắc chẳng khác Không, Không nào khác Sắc, chiếu phá khách trần, tự nhiên ly ái, chẳng có tham nhiễm, thân tâm tự nhiên khiết tịnh.
‘Chí nguyện an định chưa từng khuyết giảm’: Chữ ‘an’ gồm có các nghĩa tịch tĩnh, định, chỉ, yên ổn, vui vẻ, tốt lành, không mong cầu. ‘Định’ là quyết định, kiên định, chẳng hề lay động, biến đổi. Các thệ nguyện đã phát của thánh chúng cõi kia tự nhiên kiên định, chẳng hề chợt tăng, chợt giảm, chợt bỏ qua, hay chợt bị khuyết thiếu, đúng như kinh nói: ‘Ví dù thân ở trong các khổ, nguyện tâm như vậy mãi mãi chẳng thối thất’. Đấy chính là khuôn phép cho ‘chí nguyện an định, chẳng hề tăng giảm’.
‘Cầu đạo hòa chánh, chẳng lầm lạc, khuynh tà’: Chữ ‘hòa’ bao gồm các nghĩa: điều hòa, hài hòa, ôn hòa, bình ổn, hòa kính, hòa hợp, vui vẻ, tương ưng. ‘Chánh’ là như một, luôn giữ như một. Chánh gồm đủ các nghĩa: đúng đắn, không thiên lệch, thường, ngưng dứt, hạnh không lệch lạc, tà vạy, thẳng thắn, chẳng khuất khúc. Thánh chúng cõi Cực Lạc hòa bình, trung chánh, vì cầu vô thượng đạo nên chẳng bị những điều nghiêng lệch, tà vạy làm lầm lẫn. ‘Khuynh’ là nghiêng lệch, lật úp; ‘tà’ là tà ác, tà ngoại.
Thánh chúng cõi ấy chẳng bị những thứ khuynh tà làm lầm lạc là vì họ ‘tuân theo những ước thúc, giáo lịnh trong kinh như giữ thừng mực, chẳng dám sai sảy’. ‘Lịnh’ là mạng lịnh, pháp luật, giáo lịnh. ‘Thừng mực’ là như khi thợ mộc thao tác, dùng sợi dây làm mực [căng ra] búng dây đánh dấu, rồi cứ theo dấu ấy mà làm chẳng dám sai chạy chút nào nên khỏi bị hư hao, chẳng bị cong vạy, lệch lạc.
Trong phẩm Siêng Tu Giữ Vững của kinh này, những câu như: ‘Tùy thuận lời dạy của ta là hiếu với Phật’, ‘chẳng được làm xằng, tăng giảm kinh pháp’ cũng mang cùng ý nghĩa như vậy. Đấy chính là ‘rời ngoài một chữ trong kinh thì giống như lời ma nói’. Những hành nhân trong đời phải nên lấy thánh ngôn làm chỗ y chỉ vậy.
‘Đều vì mộ đạo, tâm thênh thang, trọn không có niệm khác, chẳng có lo nghĩ’: Câu thứ nhất ý nói những điều mong cầu trong tâm đều là lẽ đạo tột cùng. Câu thứ hai ý nói: tâm mênh mông, chẳng còn vọng niệm. Ý câu ba là tín tâm kiên định, trí huệ rõ suốt không nghi nơi pháp, nên chẳng còn có ý tưởng lo nghĩ.
Nếu hiểu theo quan điểm của Tịnh tông thì ‘tâm thênh thang, trọn không còn niệm khác’ chính là buông bỏ vạn duyên, ‘đều vì mộ đạo’ là chỉ đề cao nhất niệm, ‘không còn lo nghĩ’ chính là ngay trong một niệm là Phật.
Một tiếng niệm Phật hiệu muôn mối lo nghĩ đều tiêu tan, linh quang độc diệu, thoát khỏi căn trần, chỉ còn lại mỗi cái tâm đã hết sạch phiền não nên còn có gì là vui, gì là buồn nữa. Vì thế, kinh mới bảo ‘chẳng có lo nghĩ’.
Chánh kinh: Tự nhiên vô vi, hư không chẳng lập. Đạm bạc, an tịnh, vô dục tạo thành thiện nguyện. Tận tâm gắng gỏi, xót thương từ mẫn, đều hợp lễ nghĩa. Sự lý viên dung, quá độ giải thoát.
Giải: Hai chữ ‘tự nhiên’ xuyên suốt toàn đoạn kinh này, ấy là do ‘khế hội Trung Đạo’ nên tự nhiên như thế.
‘Tự nhiên vô vi’ là chẳng do tạo tác, tự nhiên an trụ trong pháp vô vi. Đấy là vô vi chơn thật. Nếu là do tạo tác thì đã trở thành hữu vi rồi.
Chữ ‘hư không’ ngụ ý tâm như hư không, rộng mở vô hạn, ly cấu vô nhiễm, chẳng nhận chứa mảy trần. ‘Chẳng lập’ nghĩa là chẳng lập một pháp nào cả.
‘Đạm’ là đạm bạc, ‘an’ là an tịnh. Chữ ‘đạm an’ còn dùng để mô tả trạng thái nước tuôn chảy êm đềm, đầy tràn. Sóng nước liên tục tựa như luôn tiếp nối nhau nên được dùng để ví cái tâm lìa khỏi Đoạn lẫn Thường. Dòng nước êm đềm, tràn đầy ví như cái tâm bình đẳng, viên mãn.
Sách Đại Thừa Nghĩa Chương giảng chữ ‘dục’ trong ‘vô dục’ như sau: ‘Nhiễm ái trần cảnh gọi là dục’. Sách còn bảo: ‘Muốn nhận lấy duyên thì gọi là dục’. Câu Xá Luận lại bảo: ‘Dục là mong cầu làm ra sự nghiệp’.
Theo đó, những điều như ‘bỏ các chấp trước ái kiến’ và ‘cũng chẳng có ý tưởng mong cầu hay chẳng mong cầu’ được nói trong kinh này đều là ‘vô dục’ cả.
Ba câu vừa giảng trên đều thể hiện ý ‘về mặt lý chơn thật Thật Tế, chẳng nhận lấy mảy trần’; nhưng đối với muôn hạnh môn lại ‘chẳng bỏ một pháp nào’ nên kinh mới dạy tiếp: ‘Tạo thành thiện nguyện, tận tâm gắng gỏi’, hiển thị rõ ràng diệu nghĩa sự lý vô ngại, viên dung tự tại.
Trong phẩm Đức Tuân Phổ Hiền đã nói: các đại Bồ Tát trong hội ‘nhập không, vô tướng, vô nguyện pháp môn’, nhưng các vị ‘đều cùng tuân tu đức hạnh của Phổ Hiền đại sĩ, đầy đủ vô lượng hạnh nguyện’. Điều ấy thật tương đồng với sự kiện các Bồ Tát lại do vô vi, vô nguyện, vô lập, vô dục mà ‘tạo thành thiện nguyện, tận tâm gắng gỏi’ được nói ở đây. Ta thấy rõ, thánh chúng cõi Cực Lạc đều tôn thờ Di Đà, tu tập chuyên gắng, trụ chơn thật huệ để cầu thành tựu.
Tiếp đó, chữ ‘xót thương’ chỉ tâm đại bi. ‘Từ mẫn’ là tâm đại từ. Do đại từ bi nên dẫu biết rõ thật không có chúng sanh để độ, nhưng hạnh nguyện độ sanh vẫn chẳng cùng tận. Bởi thế ‘tâm thường trụ chắc nơi đạo độ thế’, ‘muốn cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chơn thật’. Cái đại nguyện được kết thành ấy tự nhiên khế lý khế cơ, chiếu chơn, đạt tục; do khế lý chiếu chơn nên đại nguyện ấy lấy Thật Tướng làm thể, liễu nghĩa rốt ráo, lực dụng vô lượng. Do khế cơ và thấu hiểu thế gian nên khéo phù hợp cơ nghi.
‘Đều hợp lễ nghĩa’: Lễ nghĩa chính là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, tức là đạo đức thế gian. Hai chữ này chẳng những để chỉ đạo đức của xã hội đương thời hay thời cổ Ấn Độ mà còn chỉ chung tất cả các chuẩn mực, quy luật đạo đức của xã hội trong các thời đại mai sau. Đại nguyện đã phát phải phù hợp với đạo đức xã hội thì mới được xã hội đương thời chấp nhận; có như vậy mới có thể hoằng dương giáo nghĩa, lợi khắp các chúng sanh được.
‘Sự lý viên dung’ (nguyên văn là ‘bao la biểu lý’): ‘Bao’ là chứa đựng; ngài Gia Tường giảng: ‘La là thâu tóm’. Như vậy, ‘bao la’ nghĩa là bao dung, hàm chứa. ‘Biểu’ (bên ngoài) chỉ sự tướng; ‘lý’ (bên trong) chỉ lý thể. Do đó, ‘bao la biểu lý’ chính là Sự lẫn Lý cùng viên mãn, chơn lẫn tục cùng chiếu, trọn thâu các điểm nhiệm mầu, nhiếp khắp muôn loại: thượng trí hạ ngu đều được độ thoát. Thế gian, xuất thế gian đều dung thông vô ngại.
‘Quá độ’: Bản Ngô dịch ghi tựa đề kinh này là ‘Quá Độ Nhân Đạo Kinh’; quá độ nghĩa là tự mình thoát khỏi sanh tử lại còn khiến cho người khác cũng thoát sanh tử.
‘Giải thoát’ là cởi bỏ những trói buộc của hoặc nghiệp, thoát khỏi cái khổ tam nghiệp. Sách Duy Thức Thuật Ký nói: ‘Giải là rời khỏi triền phược, thoát là tự tại’.
Sách còn bảo: ‘Nói giải thoát đó thì thể của nó là viên tịch. Các hữu tình do bị phiền não chướng ngại, trói trăn nên luôn ở trong sanh tử. Chứng được viên tịch rồi thì xa lìa được những trói trăn đó nên gọi là giải thoát’.
Ý nói: đại nguyện của thánh chúng là không những chỉ nhằm khiến tự thân thoát khỏi sanh tử mà còn làm cho hết thảy hữu tình cùng thoát khỏi sanh tử, vĩnh viễn được giải thoát nên mới bảo là ‘quá độ giải thoát’.
Chánh kinh: Tự nhiên chẳng thay đổi, chơn thật tuyệt đối, khiết bạch, chí nguyện vô thượng, tịnh định an lạc. Một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt tướng tự nhiên của tự nhiên, tự nhiên tự có căn bổn, tự nhiên quang sắc nhập lẫn vào nhau, chuyển biến tối thắng. Uất Đan thành thất bảo. Tự nhiên từ hư không hiện ra vạn vật, quang minh tinh diệu sáng sạch cùng xuất hiện, tốt lành thật khôn sánh, soi tỏ nơi không trên dưới, thông suốt không bờ mé.
Giải: ‘Tự nhiên bảo thủ’ (tạm dịch là ‘tự nhiên chẳng thay đổi’) chính là như nhà Thiền thường nói là ‘bảo nhậm’. Nhậm là nhậm vận (tùy ý), cần đi thì đi, muốn ngồi cứ ngồi. Bảo là niệm niệm chẳng sai khác. Tự nhiên nghĩa là tùy ý. Vì thế, ‘tùy ý giữ gìn chẳng thay đổi’ là bảo nhậm vậy.
‘Chơn’ là nhất chơn pháp giới, là thể tánh Chơn Như, là chơn tâm diệu minh, ý nghĩa giống như chữ ‘chơn’ trong ‘chơn thật tế’ được nói trong kinh này. Ở đây kinh ghi là ‘chơn chơn’ (tạm dịch là ‘chơn thật tuyệt đối’) hàm ý: Đây chẳng phải là chơn do so với vọng mà nói, mà là lẽ chơn thật đã dứt bặt mọi đối đãi, là lẽ chơn thật trong Chơn Đế.
‘Khiết’ là vô cấu, ‘bạch’ là vô nhiễm, tức là như Lục Tổ bảo: ‘Nào ngờ tự tánh vốn thanh tịnh’, cũng tức là như tổ Bách Trượng dạy: ‘Tâm tánh vô nhiễm vốn tự viên thành’. Cái được ta tùy ý gìn giữ chính là cái chơn tâm vô nhiễm vốn sẵn thanh tịnh dứt tuyệt mọi đối đãi này.
‘Vô thượng’ là như Vãng Sanh Luận Chú giảng: ‘Vô thượng là đạo này cùng tột lý, cùng tận tánh, không còn có gì hơn nổi’. Lấy đó làm chí nguyện nên bảo là ‘chí nguyện vô thượng’.
‘Tịnh định’ là tâm thanh tịnh, vắng lặng, bất động.
‘An lạc’ là an nhiên tự tại, tùy ý thường vui sướng.
‘Một mai’ (nhất đán) là chỉ trong một sát na nào đó.
Ấy là vì ‘vô thượng’ chính là chỗ đi chẳng đến được nên không thể tính được hành trình, chẳng thể nói nổi kỳ hạn, chỉ trong vô tâm tam muội (như lời dạy của Cao Phong thiền sư) đột nhiên sờ phải, va nhằm, mò đúng cái chốt hướng thượng, trong sát na tương ưng, thấu suốt nguồn tâm, khế nhập lý nhất tâm nên mới bảo là ‘một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt’ (nguyên văn: nhất đán khai đạt minh triệt).
‘Khai’ là tâm khai ngộ, ‘đạt’ là hiểu rõ, ‘minh’ là minh bạch như Tín Tâm Minh nói: ‘Minh bạch thấu suốt’. ‘Triệt’ là thấu triệt, cũng có nghĩa là triệt ngộ.
Ngộ được gì? Chỉ là ngộ được ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’. Như kẻ cuồng trong kinh Lăng Nghiêm mê mờ tưởng đầu mình bị mất, chạy cuồng đi tìm là chẳng tự nhiên. Một khi hết cuồng thì hết cuồng chính là Bồ Đề, đầu mình vẫn y đó, chẳng phải là ‘tự nhiên’ hay sao?
Lại như lúc cổ đức chứng ngộ đã bảo: ‘Sư cô vốn là đàn bà’, lại cũng như câu nói: ‘Sớm biết đèn là lửa, cơm đã chín mấy dạo’. Tỳ kheo ni là đàn bà, đèn tức là lửa, đều là những ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’.
Lại như lúc chưa ngộ, bảo núi là núi, sông là sông. Người ngộ bảo núi chẳng phải là núi, sông chẳng phải là sông. Bậc triệt ngộ bảo núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Cao Phong thiền sư bảo: ‘Đi, về vẫn là người khi xưa, chỗ đi về năm xưa vẫn chẳng thay đổi!’. Chỉ vẫn là như cũ nên chẳng phải là tự nhiên hay sao?
Thêm nữa, ‘tướng tự nhiên’ chính là Thật Tướng vốn sẵn của tự tánh. Vì vậy, núi, sông, nam, nữ, thời nay, thời xưa… không thứ nào chẳng được chánh ấn Thật Tướng in vào, ngay nơi tướng chính là Đạo, ngay nơi sự chính là chơn, thứ nào cũng đều vốn sẵn thanh tịnh, thứ nào cũng là ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’.
‘Căn bổn’ chính là bổn thể, là tự thể căn bổn của hết thảy các pháp. Kinh Đại Nhật nói: ‘Một thân, hai thân cho đến vô lượng thân đều thuộc trong bổn thể’. Câu kinh này đã giảng rõ ý nghĩa chữ ‘căn bổn’. Bổn còn là bổn tâm, tức là nguồn cội tự tâm. Bổn còn có nghĩa là bổn tánh, tức là tánh đức cố hữu.
Chữ ‘có’ trong câu ‘tự có căn bổn’ rất thiết yếu. ‘Có’ là như kẻ cuồng sẵn có cái đầu, quyết định là có, chẳng từ bên ngoài mà có. Trong Tâm Vương Minh, Phó Đại Sĩ đã viết: ‘Nước có vị mặn, sắc vẫn trong veo, quyết định là có, nhưng chẳng thấy hình. Tâm vương cũng vậy, ngụ trong thân thể, ứng dụng ra ngoài, tùy theo tình huống thích ứng, hoàn thành các việc’. Bốn chữ ‘quyết định là có’ đã mở toang mật tạng của chư Phật, nghĩa là tâm vương của con người quyết định là có, giống như vị mặn trong nước. Vị mặn ấy chắc chắn là có, nhưng chẳng thấy được hình dáng của vị mặn đó. Ngài Tào Sơn (sư tổ tông Tào Động) cũng nói: ‘Chỉ cần biết có là được, chẳng luận là còn đang trong phiền não, vô minh’. Như vậy, muôn phần chẳng thể coi thường cái chữ ‘có’ này được.
Câu ‘tự nhiên tự có căn bổn’ có hai ý nghĩa:
a. Thể tánh của vạn tượng sum la là không hai. Ngàn con sóng đều là nước, muôn thứ vật dụng đều là vàng. Trong tự nhiên tự có bổn thể. Cái bổn thể ấy chính là căn bổn.
b. Hai là chẳng do tạo tác, nhất niệm đốn ngộ nên bảo là tự nhiên. Hiểu rõ vạn pháp đều nằm gọn trong tự tâm, thấy ngay được Chơn Như tự tánh. Tự tánh của tự tâm chính là căn bổn nên bảo là ‘tự nhiên có căn bổn’.
Kinh Tịnh Danh nói: ‘Ngay lập tức rỗng rang, lại đạt được bổn tâm’. ‘Rỗng rang’ chính là ‘một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt’. Cái bổn tâm lại tìm được ấy chính là ‘tướng tự nhiên trong tự nhiên, tự nhiên tự có căn bổn’.
Kinh Bồ Tát Giới còn bảo: ‘Tự tánh của ta vốn thanh tịnh. Nếu hiểu biết tự tâm, thấy được tánh thì đều thành Phật đạo’, đủ chứng tỏ câu nói của tổ Tào Sơn: ‘Chỉ cần biết có là được’ chính là tâm ấn mà chư Phật đã truyền cho nhau. Trạm Ngu lão nhân nói: ‘So với Lục Tổ, Tào Sơn chỉ nắm được cái chuôi này’.
‘Tự nhiên quang sắc hồi tham, chuyển biến tối thắng’ (tạm dịch: ‘Tự nhiên quang sắc xoay chuyển nhập lẫn vào nhau, chuyển biến tối thắng’): Tham là nhập vào, các ánh sáng chập vào nhau. Hồi là xoay chuyển, chuyển vần trọn khắp không ngừng, biến hóa không trở ngại vậy. Thể của Thật Tướng là chẳng tịch, chẳng chiếu, nhưng lại thường tịch, thường chiếu. Tịch nhưng thường chiếu, chiếu nhưng thường tịch nên từ pháp thân lưu xuất báo thân, hóa thân; từ lý thể sanh ra vô lượng tướng dụng vi diệu. Do đó, từ căn bổn của tự nhiên ấy tự nhiên sanh ra vô lượng quang minh, sắc tướng nhập lẫn vào nhau, xoay vần biến hóa, vượt xa mười phương nên kinh bảo là ‘tối thắng’.
Trong kinh thường hay dùng bảo châu để ví cái tâm. Quán kinh nói: ‘Mỗi một bảo châu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có tám vạn bốn ngàn kim sắc khác nhau. Mỗi một kim sắc chiếu khắp cõi báu biến thành các tướng khác nhau: hoặc biến thành đài kim cang, hoặc biến thành lưới chơn châu, hoặc biến thành mây nhiều màu. Khắp mười phương tùy ý biến hiện thực hành Phật sự’.
Kinh còn nói: ‘Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi tùy hình hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi một quang minh chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ. Quang minh, tướng hảo ấy và các hóa Phật [hiện ra trong các quang minh ấy] chẳng thể nói trọn’.
Những đoạn kinh trên đã tả thật rõ quang minh, sắc tướng vi diệu khó nghĩ lường, tùy ý biến hiện. Trong quang minh có màu sắc, trong màu sắc lại hiện tướng. Các tướng đẹp mầu nhiệm như lưới châu v.v… đều chỉ là từ một sắc biến hiện. Lại như Phật có đủ các tướng hảo, trong mỗi tướng hảo lại phóng quang. Trong quang minh lại có Phật hiện. Đấy đều là những điều đã thể hiện cùng tột ý ‘xoay chuyển, nhập lẫn vào nhau’ trong đoạn kinh này; còn ‘thực hành Phật sự’ và nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới chẳng bỏ; ấy chính là những sự ‘tối thắng’.
Tham chiếu những kinh văn vừa được trích dẫn trên đây, ta thấy các thứ y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc đều là từ căn bổn của tự nhiên biến hiện ra. Đó chính là như Vãng Sanh Luận nói: ba thứ trang nghiêm đều nhập trong một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú, tức là chơn thật trí huệ vô vi pháp thân. Vì vậy, ‘căn bổn của tự nhiên’ chính là một thanh tịnh cú như Vãng Sanh Luận đã bảo.
‘Uất Đan thành thất bảo’: Uất Đan nói đủ là Uất Đan La Cứu Lưu, hoặc còn phiên là Uất Đan Việt, Câu Lô v.v… ở đây, chỉ gọi tắt là Uất Đan. Đó chính là tên của một trong bốn đại châu ở phương Bắc, dịch nghĩa là Cao Thượng Tác, Thắng Thượng Sanh, Cao Thắng.
Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa nói: ‘Tàu dịch là Cao Thượng Tác, nghĩa là cao trỗi hơn các phương khác, cũng có nghĩa là thù thắng hơn cả’. Sách viết thêm: ‘Câu Lô châu, Tàu dịch là Thượng Thắng, hoặc dịch là Thắng Sanh’. Kinh Khởi Thế Nhân Bổn bảo châu này ‘ở dưới trời Tứ Thiên (tức là trong thế gian này). So với ba châu kia, châu này tối thượng tối thắng, tối diệu’.
Bản Ngô dịch ghi ý ‘Uất Đan thành thất bảo’ như sau: ‘Tự nhiên như Uất Đan, tự nhiên thành thất bảo’.
Theo như Hoa Nghiêm Sớ Sao, quyển mười ba thì: ‘Uất Đan Việt, Tàu dịch là Thắng Sanh vì [ở đó] quyết định thọ đến một ngàn tuổi, cơm áo tự nhiên vậy’. Nhân dân sống nơi châu ấy không cần phải cày bừa, dệt vải, làm lụng mà cơm áo tự nhiên dư dật. Câu ‘tự nhiên như Uất Đan’ trong bản Ngô có ý nói đến sự tự nhiên này.
Bản hội tập trích theo bản Hán dịch nên ghi là ‘Uất Đan thành thất bảo’, chính là gộp cả hai ý của câu văn trong bản Ngô dịch, hàm ý: [Cõi Cực Lạc] giống như châu Uất Đan tự nhiên sanh ra đầy đủ, tràn ngập các thứ cơm áo, vật dụng; lại còn tự nhiên sanh ra bảy báu thắng thượng.
‘Hoành lãm thành vạn vật’ (dịch ý là: ‘Tự nhiên từ hư không hiện ra vạn vật’): Chữ ‘hoành’ chỉ không gian, ‘lãm’ là nắm giữ, rút lấy, dẫn dắt, ‘vạn vật’ là hết thảy các vật. Do vậy, ‘hoành lãm thành vạn vật’ có nghĩa là tự nhiên từ mười phương hư không hiện ra vạn vật. Hết thảy vạn sự, vạn vật đều sanh từ căn bổn tự nhiên, mà ‘căn bổn tự nhiên’ chính là như kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: ‘Vốn là cái thể mầu nhiệm, sáng sạch của Bồ Đề’. Tức là: vạn vật đều từ trong Đại Quang Minh Tạng xuất hiện.
Trong cõi Cực Lạc cũng giống như thế: tất cả đều do đại nguyện của đức Di Đà tạo thành, tất cả đều là cái sẵn có trong cái tâm thanh tịnh của chúng sanh. Vì thế kinh chép: ‘Vạn vật trong nước nghiêm tịnh sáng đẹp, hình sắc đẹp đẽ lạ lùng, cùng vi cực diệu không thể tính kể nổi’.
‘Quang tinh minh câu xuất’ (tạm dịch là: ‘Quang minh tinh diệu sáng sạch cùng xuất hiện’): ‘Quang’ là quang minh, ‘tinh’ là tinh diệu, ‘minh’ là minh tịnh (sáng sạch), ‘xuất’ là xuất hiện. Tự tâm vốn đủ cả vạn đức, đã sạch bụi vô minh thì nó trở thành thanh tịnh trang nghiêm, quang minh vi diệu, đẹp đẽ, khiết tịnh, hết thảy diệu tướng cùng hiện ra cả nên kinh bảo: ‘Quang minh tinh diệu sáng sạch cùng xuất hiện, tốt đẹp thật khôn sánh’.
Phần trên, kinh đã nói: ‘Quang sắc chói ngời, trang nghiêm, đẹp đẽ đến cùng cực’ và ‘thanh tịnh trang nghiêm, vượt trỗi hết thảy thế giới trong mười phương’. Do vậy, mười phương thế giới thật chẳng thể sánh nổi những điều đẹp đẽ tốt lành nơi cõi Cực Lạc.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘soi tỏ nơi không trên dưới, thông suốt không bờ mé’ (nguyên văn: ‘Trước ư vô thượng hạ, đỗng đạt vô biên tế’) như sau:
‘Cái lý được chứng nhập ấy là pháp bình đẳng, chẳng có cao, thấp nên gọi là “không trên dưới”. Theo bề dọc thì sâu xa, theo bề ngang thì rộng rãi, chẳng có ranh giới nên gọi là ‘không bờ mé’. Ấy tức là những điều được quán chiếu bởi Phật trí. “Trước” (tạm dịch là ‘soi tỏ’) có nghĩa là sáng tỏ, “đỗng đạt” nghĩa là chứng nhập’.
Theo đó, câu đầu (tức câu ‘soi tỏ nơi không trên dưới’) là nói đến lý thể được Bồ Tát chứng nhập, lý thể ấy là Như Như. Câu thứ hai (tức câu ‘thông suốt không bờ mé’) nói đến Phật trí luôn soi chiếu, Phật trí ấy chính là Như Như trí.
Nghĩa là: lý thể được nói ở đây chính là ‘căn bổn tự nhiên’. Phật trí thông suốt vì từ căn bổn ấy phát sanh cái tướng trí huệ tự nhiên. Bản thể và công dụng giống hệt nhau: Lý và Trí chẳng hai, Năng lẫn Sở cùng mất, dứt bặt đối đãi một cách viên dung; ngôn ngữ lẫn tư duy đều chẳng thể diễn tả nổi. ‘Không trên dưới’ là bản thể của cái Lý được chứng nhập ấy vốn sẵn bình đẳng. Những câu kinh như ‘Pháp này bình đẳng chẳng có cao, thấp’ và ‘Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba thứ không sai biệt’ đều nói lên ý nghĩa bình đẳng. Do bình đẳng nên không có cao, thấp.
‘Trước’ (tạm dịch là ‘soi tỏ’) là ‘hiển trước’ (làm sáng tỏ), ‘chiếu trước’ (chiếu soi), đều có nghĩa là hiển lộ cho nên sách Hội Sớ mới giảng: ‘Chữ “trước” là sáng tỏ’. Sách Hội Sớ thật khéo dùng chữ ‘minh’ (sáng tỏ) để giải thích chữ ‘trước’ vì chữ ‘minh’ ấy chính là ‘minh tâm kiến tánh’ vậy. Điều được ta thấu tỏ chính là cái lý thể bình đẳng không trên dưới tức là cái tâm này của ta.
Về chữ ‘đỗng đạt’ (tạm dịch là ‘thông suốt’) thì ‘đỗng’ là rõ ràng, minh bạch, ‘đạt’ là hiểu thấu cái tâm, rõ thấu đến tận nguồn cội. Hiểu rõ cùng tận nguồn tâm nên bảo là ‘đỗng đạt’. Do vậy, Hội Sớ dùng chữ ‘chứng nhập’ để giải thích chữ ‘đỗng đạt’.
‘Không bờ mé’ là [như không gian] xét theo chiều dọc thì tột cùng cả trên lẫn dưới; theo chiều ngang thời cả tám phương đều chẳng hề có bờ mé, chẳng thể cùng tận. Khả năng chiếu soi của Phật trí cũng giống như thế nên sách Hội Sớ mới giảng: ‘Ấy tức là những điều được quán chiếu bởi Phật trí’.
Ngài Gia Tường giảng: ‘Chứng quả chẳng có hình sắc tốt xấu sai khác. “Đỗng đạt” là trí, “vô biên tế” là cảnh Chơn Đế’. Ý nói: Quả giác được chứng ấy không có những hình tướng sai khác, đó là ‘không trên dưới’. Trí khế hợp với cảnh Chơn Đế nên ‘không bờ mé’. Như vậy, ngài Gia Tường đồng quan điểm với sách Hội Sớ.
Còn ngài Tịnh Ảnh lại giải thích theo cách khác, ngài viết: ‘Chỉ nghĩ nhớ đến đạo, hạnh đức tỏ rõ, chẳng phân biệt là thượng căn hay hạ căn đều cùng được vãng sanh nên bảo là “trước ư vô thượng hạ”. Như đã được vãng sanh rồi thì thấu suốt cùng tột các thần thông không giới hạn nên bảo là ‘đỗng đạt vô biên tế’. Ý ngài nói: Ba bậc thượng, trung, hạ đều được vãng sanh nên bảo là ‘không trên dưới’. Do nhân dân cõi Cực Lạc đều có thần thông vô hạn nên bảo là ‘không bờ mé’. Ta nên vận dụng cả ba thuyết này.
Chánh kinh: Ai nấy đều nên siêng tinh tấn, nỗ lực tự cầu lấy thì ắt được siêu tuyệt, vãng sanh cõi Phật A Di Đà thanh tịnh vô lượng, chặt ngang năm đường, ác đạo tự đóng lấp. Đạo thù thắng vô cực dễ đi mà chẳng có người theo! Cõi ấy chẳng trái nghịch, tự nhiên lôi kéo theo. Lắng lòng dường hư không, siêng hành cầu đạo đức ngõ hầu được trường sanh cùng cực, thọ lạc chẳng có cùng cực. Sao lại mê đắm sự đời, nhao nhác lo chuyện vô thường?
Giải: Những đoạn kinh trước đoạn kinh này đều nói về công đức trí huệ của thánh chúng cõi Cực Lạc; còn trong đoạn này là lời đức Thế Tôn nhắc nhở đại chúng trong pháp hội phải siêng năng tu tập cầu sanh Cực Lạc.
Trước đó, ngài đã khai thị: chơn tâm thường trụ ai ai cũng có, ai cũng có thể thành Phật. Tâm vốn tự thanh tịnh sanh ra muôn pháp. Ngộ thì khế hợp ngay với bổn Phật, mê thì chìm mất trong sanh tử.
Ngay khi ấy, đức Thế Tôn còn xót thương, buông lời khuyên dụ từ bi: đại chúng đã biết ‘tâm này là Phật’ thì phải tinh tấn để ‘tâm này làm Phật’. Vì thế Phật mới nói: ‘Ai nấy đều nên siêng tinh tấn…’. Chữ ‘ai nấy’ không những chỉ để chỉ những người trong pháp hội lúc ấy mà còn kiêm chỉ hết thảy những ai trong đời sau nghe được pháp này: Ai nấy đều phải tuân theo lời dạy từ bi của đức Phật, tin nhận, phụng hành, niệm Phật vãng sanh nhằm thể hiện phương tiện rốt ráo ‘tâm này làm Phật’.
‘Ai nấy đều nên siêng tinh tấn, nỗ lực tự cầu lấy’ là lời đức Phật khuyên đại chúng ai nấy đều phải nên tinh tấn siêng tu, nỗ lực tự thực hành cầu sanh Tịnh Độ, chứng triệt để nguồn tâm, viên mãn Phật trí.
Luận Câu Xá giảng chữ ‘siêng’ như sau: ‘Siêng là khiến cho tâm dũng mãnh trở thành tánh’. ‘Siêng’ cũng có nghĩa là tinh tấn. ‘Cầu’ là cầu đạo, mà cũng chính là cầu sanh Tịnh Độ. Phẩm Chí Tâm Tinh Tấn trong kinh này có câu: ‘Người chí tâm cầu đạo tinh tấn chẳng ngơi ắt sẽ đắc quả’. Vì thế, tiếp theo ngay câu ‘ai nấy nên siêng tinh tấn…’ kinh nói tiếp: ‘Ắt được siêu tuyệt’.
Chữ ‘tự’ trong câu ‘nỗ lực tự cầu lấy’ rất quan trọng. Những chữ ‘tự’ trong các câu như ‘ông nên tự biết’, ‘ông nên tự nhiếp’ được ghi trong kinh này cũng đóng vai trò quan trọng như vậy. Sách Hội Sớ nói: ‘Vui cầu nơi chính mình, mà cái “chính mình” đó chính là tự tâm. Vì thế nói là “tự cầu”. Ý nói: Tịnh tông tuy là tha lực pháp môn, nhưng tự tâm hành nhân nếu chẳng tinh tấn, đoạn trừ nghi hoặc, sanh lòng chánh tín sâu xa, khẩn thiết nguyện cầu được vãng sanh thì trọn chẳng được vãng sanh. Bởi thế, Phật căn dặn ‘nỗ lực tự cầu lấy’.
‘Tâm này là Phật’ là tánh đức; ‘tâm này làm Phật’ là tu đức. Có công tu đức thì tánh đức mới được hiển hiện. Vì thế, nỗ lực tự cầu thì ‘ắt được siêu tuyệt’. ‘Siêu’ là siêu thoát, ‘tuyệt’ là diệt sạch, trừ dứt. Do đó, ‘siêu tuyệt’ là vượt thoát luân hồi, đoạn trừ sanh tử.
Sách Hội Sớ viết: ‘Ngay trong một lúc nhanh chóng vượt khỏi tam giới, đoạn tuyệt các nghiệp buộc ràng trong bao kiếp nên bảo là “siêu tuyệt”, mà cũng là do đã đoạn tuyệt [nghiệp chướng] nên được siêu thoát vậy’. Thánh, phàm, trí, ngu, chín phẩm muôn loài ai nấy đều được ‘siêu tuyệt’ toàn là nhờ vào Di Đà Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, từ quả khởi tu, chỉ trong một đời được thành tựu nên đều được sanh về ‘cõi Phật A Di Đà thanh tịnh vô lượng’.
Hễ được vãng sanh thì do nương vào sức gia hộ của Di Đà bổn nguyện sẽ chẳng bị đọa vào ba ác đạo nữa nên kinh mới nói: ‘Ác đạo tự đóng lấp’. Ai nấy đều đạt bất thối cho mãi đến khi thành Phật nên kinh mới bảo: ‘Chặt ngang năm đường’. Năm đường (ngũ thú) là ba ác đạo và cả hai nẻo: nhân, thiên. Do A Tu La được tính gộp vào thiên thú nên ‘năm đường’ cũng chính là ‘sáu nẻo’. Nhân thú, thiên thú vốn được gọi là ‘thiện thú’ (đường lành) nhưng vẫn bị coi là ‘ác thú’ là do so sánh với Cực Lạc mà nói.
Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Ba ác đạo gọi là “ác thú”, hai đường nhân, thiên gọi là “thiện thú”. Nay đem sánh với cõi thanh tịnh của Phật Di Đà thì cả năm đường trong cõi Sa Bà đều được gọi là “ác thú”.
Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều là chỗ kẻ thuần ác hướng đến nên gọi là “ác thú”. Cõi trời, cõi người của Sa Bà là chỗ kẻ tạp ác hướng đến nên cũng gọi là “ác thú”.
Nếu theo như phương này thì phải tu tập đoạn trừ, trước hết đoạn Kiến hoặc, lìa khỏi cái nhân tạo ra tam đồ, diệt cái quả tam đồ. Sau đấy, đoạn Tu hoặc, lìa khỏi cái nhân sanh trong nhân, thiên, tuyệt quả nhân thiên. Do có đoạn trừ dần dần nên chẳng gọi là chặt ngang”.
Còn nếu được vãng sanh về Tịnh Độ của Phật Di Đà thì bỏ ngay một lúc cả năm đường trong Sa Bà nên gọi là chặt ngang’.
Sách Hội Sớ cũng bảo: ‘Ắt được siêu tuyệt, chẳng phải đoạn trừ theo thứ tự nên bảo là chặt ngang’.
Do đó, ‘chặt ngang’ có nghĩa là hoành xuất, hoành siêu (vượt khỏi tam giới theo chiều ngang; các pháp môn khác phải theo thứ tự đoạn trừ dần từng lớp phiền não để thoát khỏi sanh tử nên gọi là vượt khỏi tam giới theo chiều dọc (thụ siêu, thụ xuất)). Sách Gia Tường Sớ lại bảo: ‘Tu nhân Bồ Đề, dứt ngang sự chuyển vần trong năm đường nên ‘ác đạo tự đóng lấp’. Chữ ‘tự’ ở đây là ‘tự nhiên’.
Sách Hội Sớ giảng chữ ‘vô cực’ trong câu ‘đạo vô cực thù thắng’ như sau: ‘Phàm phu sanh về đó liền chóng tiến lên quả địa nên bảo là vô cực’. Bản Ngụy dịch ghi là ‘vô cùng cực’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Câu “thăng lên đạo vô cực” diễn tả cái sở đắc. Đắc đạo sâu rộng nên bảo là vô cực’.
Như vậy, sách Hội Sớ cho rằng phương tiện khiến cho phàm phu nhanh chóng chứng được quả vị là phương tiện tột cùng, chẳng thể thấu hiểu đến cùng cực được nên phương tiện đó được xưng tụng là ‘vô cực’; còn Tịnh Ảnh Sớ lại coi tánh đức sâu rộng khó nghĩ lường của quả vị là ‘vô cực’. Còn theo Gia Tường Sớ thì: ‘Người sanh về nhiều nên bảo là vô cực’, tức là ngài Gia Tường hiểu do đạo ấy khiến vô lượng người được vãng sanh nên đạo ấy được gọi là ‘vô cực’.
Thế thì: người vãng sanh nhiều vô cực, đắc quả nhanh chóng là phương tiện vô cực. Tánh đức thù thắng của quả đức rộng sâu vô cực khiến ta thấy được rằng: ân đức của Phật Di Đà là rốt ráo vô cực nên kinh mới chép là ‘đạo vô cực thù thắng’.
Câu ‘dễ đi mà chẳng có người theo’ được Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau: ‘Tu nhân liền được sanh về nên gọi là “dễ đi”. Không có kẻ tu nhân, ít người vãng sanh nên bảo là “chẳng có người theo”. Ngài Gia Tường bảo: ‘Chỉ tu mười niệm thành tựu liền được vãng sanh, mà ít người thực hành nên mới bảo là “dễ đi mà chẳng có người theo”.
Ở trên, ngài Gia Tường vừa bảo nhiều người được vãng sanh, ở đây lại nói ít kẻ vãng sanh, tựa hồ mâu thuẫn, nhưng thật sự hai lời nói trên chẳng hề trái nghịch nhau. Vì nếu xét theo số người được vãng sanh trong mười phương mà nói thì đúng là rất nhiều; còn nếu chỉ luận theo uế độ đây thì người tín nguyện vãng sanh rất là hiếm hoi. Vì thế, Phật bảo là ‘chẳng có người theo’.
‘Cõi ấy chẳng trái nghịch, tự nhiên lôi kéo theo’: Câu đầu ý nói cõi ấy chẳng nghịch, chẳng trái đối với những người được vãng sanh; còn câu kế đó được cổ đức giải thích theo hai cách:
a. Ngài Tịnh Ảnh cho rằng: ‘Cõi ấy chẳng trái nghịch’ thể hiện ý “dễ đi”. “Tự nhiên lôi kéo” thể hiện ý “chẳng có người”. Chúng sanh cõi Sa Bà mang triền cái từ lâu nên tự nhiên bị lôi kéo, trói buộc, chẳng thoát được nên “chẳng có người”. Ý nói: Cõi Cực Lạc đối với những người vãng sanh chẳng hề trái nghịch mảy may, nên trước hết bảo là ‘dễ đi’. Hiềm vì người cõi Sa Bà vốn từ lâu đã bị buộc ràng che lấp bởi phiền não nên tự nhiên bị chúng lôi kéo, chẳng sanh lòng nhàm chán thì làm sao vãng sanh nổi nên kinh mới bảo là ‘chẳng có người’.
b. Ngài Pháp Trụ bảo: ‘Tự nhiên lôi kéo là nhân viên mãn, quả chín muồi, chẳng nhọc dụng công mà tự nhiên chiêu cảm’. Ngài Gia Tường nói: ‘Tu nhân ắt sẽ chiêu cảm quả nên bị quả ấy lôi kéo’. Quan điểm của hai vị Pháp Trụ và Gia Tường giống nhau, cùng cho rằng tu nhân đắc quả, tự nhiên do quả ấy sẽ được vãng sanh.
Những thuyết trên tuy khác nhau, nhưng đều phù hợp ý kinh.
Trong câu ‘quyên chí nhược hư không, cần hành cầu đạo đức’ (tạm dịch: ‘Lắng lòng dường hư không, siêng hành cầu đạo đức’), ‘quyên’ là dứt bỏ, tâm chán lìa tột bực, không mong cầu chuyện đời, tấm lòng rỗng không, tịch tĩnh, thanh tịnh, không cấu nhiễm, khác nào hư không nên kinh mới bảo là ‘quyên chí nhược hư không’. Câu này cũng có nghĩa là buông bỏ muôn duyên.
‘Đạo đức’: Chánh pháp gọi là ‘đạo’; đắc đạo chẳng để mất là ‘đức’. ‘Siêng hành cầu đạo đức’ chính là chỉ giữ lấy một niệm.
‘Ngõ hầu được trường sanh cùng cực, thọ lạc chẳng có cùng cực’: Thế gian chẳng có pháp trường sanh chơn thật, chỉ có vãng sanh thì mới được trường sanh. Kinh dạy: ‘Cõi ấy Thanh Văn, trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng’. Trong cõi ấy chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui: thấy Phật, nghe pháp, tùy ý tu tập thẳng đến khi thành Phật nên kinh bảo là ‘thọ, lạc vô cùng cực’.
Cõi ấy có tên là Cực Lạc, An Lạc, An Dưỡng, đức Phật cõi ấy hiệu là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, thắng diệu như vậy rất đáng ưa thích, mong cầu; uế độ Sa Bà thật đáng nhàm chán. Cớ sao vẫn cứ tham đắm chuyện thế tục, nhao nhác lo chuyện vô thường? ‘Niểu niểu’ (tạm dịch là ‘nháo nhác’) là huyên náo, tranh đua. Ở đây, chữ ‘niểu niểu’ diễn tả trạng thái giành giật, ồn ào. Người đời tham đắm những thứ mình có, muốn luôn giữ mãi, nhưng những thứ ấy thật sự là vô thường nên đâm ra lo lắng. Nhưng dẫu lo cũng chẳng làm gì được! Bởi thế mới có phẩm Khuyến Dụ Sách Tấn tiếp ngay theo phẩm này.
Phẩm này nêu rõ diệu đức của cõi Tịnh Độ, khuyên lơn, dẫn dụ chúng sanh; phẩm sau sẽ chỉ ra những thứ ác khổ của uế độ để chúng sanh biết mà nhàm lìa.
33. Khuyến dụ sách tấn
Phẩm trên đã chỉ rõ những điểm thù thắng siêu tuyệt, tịnh định, an lạc của cõi Cực Lạc nhằm làm cho chúng sanh ưa thích, hâm mộ, phát nguyện cầu sanh; phẩm này nói lên những điều tệ ác cõi Sa Bà:
- Chúng sanh chướng nặng, ba độc lừng lẫy
- Do si hoặc nên tạo nghiệp, khổ báo vô tận, chìm đắm trong biển khổ, đau đớn không cách gì diễn tả nổi.
Vì thế, Phật thương xót khuyên bảo nên chán lìa. Phật dạy răn, khuyên lơn chúng sanh nên dứt ác làm lành, tinh tấn hành đạo, cầu sanh An Lạc.
Chánh kinh: Người đời cùng nhau đua chen những chuyện không cần gấp. Ở ngay trong chốn kịch ác cực khổ, vất vả làm lụng, lo toan để tự nuôi thân. Sang, hèn, nghèo, giàu, trẻ, già, trai, gái lo toan chồng chất, bị cái tâm sai khiến. Không ruộng lo ruộng, không nhà lo nhà. Có hay không có tài vật quyến thuộc đều lo cả. Có một phần lại thấy thiếu một phần, lo muốn cho bằng được người. Vừa được chút ít lại lo vô thường, nước, lửa, đạo tặc, oan gia, chủ nợ đốt, trôi, cướp đoạt, tiêu tan mòn diệt. Tâm keo, ý chắc, chẳng buông bỏ nổi. Mất mạng là mất hết, đem theo được thứ gì? Giàu nghèo đều vậy, lo lắng, ưu khổ muôn bề!
Giải: Trong đoạn kinh này, trước hết đức Phật chỉ rõ: toàn bộ chúng sanh cõi này đều bị phiền não, khuyên lơn chúng sanh nên nhàm lìa.
‘Người đời cùng nhau đua chen những chuyện không cần gấp’: người đời cùng tranh cạnh nhau những chuyện thế tục không quan trọng, khẩn yếu, chẳng trọng đại sự cấp bách nơi bản thân, chẳng biết vô thường nhanh chóng, sanh tử là việc lớn; chỉ tham danh lợi nên sầu khổ muôn bề, chẳng biết lúc nào thoát khỏi.
Sách Hội Sớ nói: ‘Phàm vật thì có gốc, ngọn; việc có gấp, hoãn. Chỉ nên coi một đại sự là nhiệm vụ cấp bách trước hết. Ví như người vào trong tòa thành lớn, trước tiên phải kiếm chỗ ở yên, rồi sau mới ra tay làm lụng. Đến khi chiều tà tăm tối, còn có chỗ nghỉ đêm. “Trước hết kiếm chỗ ở yên” chính là tu Tịnh Độ; “đến khi chiều tà tăm tối” chính là đại hạn xảy đến (chết). “Có chỗ nghỉ đêm” là sanh trong hoa sen, chẳng lạc vào nẻo ác. Vậy mà người ta cứ lơ là đối với việc gấp như lửa cháy, hối hả lo liệu việc chẳng gấp rút gì. Khi mạng người sắp hết, dẫu hối ích gì?’
‘Kịch ác cực khổ’: “kịch” là rất, hết mức. Phẩm Trược Thế Ác Khổ có câu: ‘Chỉ có mỗi thế gian có năm sự ác này là khổ sở nhất’ và: ‘Năm sự ác, năm sự đau đớn, năm sự đốt cháy như thế ví như lửa lớn thiêu đốt thân người’. Ác là nhân, khổ là quả. Giết chóc, trộm cắp, nói dối, uống rượu là những điều rất ác. Hễ tạo ác ắt phải chịu quả ác nên những điều ấy được gọi là ‘năm thứ đau đớn, năm thứ đốt cháy’ như lửa đốt thân nên bảo là ‘cực khổ’ (khổ sở cùng cực).
Sách Hội Sớ còn nói: ‘Hừng hực nung người đời như đống lửa nên bảo là “kịch ác cực khổ”.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘vất vả làm lụng, lo toan để tự nuôi thân’ (nguyên văn: ‘cần thân doanh vụ, dĩ tự cấp tế’) như sau:
‘Doanh là lo toan, đổ sức vào việc gì gọi là “vụ”. Thân siêng năng, vất vả làm những điều ấy gọi là ‘cần thân’. ‘Cấp’ là làm cho đủ; khiến cho đồ vật được đầy đủ, dư dả là ‘cấp’. ‘Cấp’ còn có nghĩa là cung cấp. ‘Tế’ là qua’.
Do đó, câu ‘cần thân doanh vụ, dĩ tự cấp tế’ có nghĩa là: nhọc nhằn, vất vả cái thân, toan tính, làm lụng để mình được đầy đủ, no ấm cho qua khỏi cái kiếp này.
Câu ‘sang, hèn, nghèo, giàu, trẻ, già, trai, gái’ chỉ hết thảy các loại người trong đời. Người có địa vị cao quý trong đời là ‘sang’, địa vị thấp là ‘hèn’. Lắm của là ‘giàu’, ít của là ‘nghèo’. Lớn tuổi là ‘già’, nhỏ tuổi là ‘trẻ’. Trai, trai, gái, gái bao hạng sai khác nhưng chẳng ai lại không cùng ôm tấm lòng ngu si, tham dục, lao tâm khổ tứ, lo nghĩ chất chồng, bôn ba, nhọc nhằn chẳng lúc nào yên. Bởi thế Phật mới bảo: ‘Lo toan chồng chất, bị cái tâm sai khiến’.
Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Lo mãi chuyện đã qua, lo hoài chuyện chưa tới nên bảo là “lo toan chồng chất”. Thường bị dục tâm lôi kéo khiến chộn rộn, bôn ba nên bảo là “bị cái tâm sai khiến”. Vì thế, tâm niệm ấy chẳng lúc nào an vì hễ tâm có điều mong muốn thì thân phải nhọc nhằn theo. Ví dụ như: lòng muốn sắm sửa vật mình yêu thích thì nào ngại bưng bê, khuân vác bề bộn, bôn ba sửa soạn; cho nên kinh mới nói là: ‘Bị cái tâm sai khiến’; chỉ vì tâm ham muốn mà phải bôn tẩu.
Ngài Gia Tường dùng câu ‘tâm chất chứa tài sản chẳng buông bỏ’ để giảng câu ‘lo toan chồng chất’, dùng câu ‘siêng cầu chẳng ngơi’ để giảng câu ‘bị cái tâm sai khiến’. Ý ngài nói: Những điều canh cánh trong tâm niệm chỉ toàn là tài vật, cho nên ‘lo toan chồng chất’. Chăm chăm mong cho có nên thân tâm chẳng an, đấy gọi là ‘bị cái tâm sai khiến’.
Ngài Cảnh Hưng lại giảng: ‘Bị tâm sai khiến là như con dê khát nước chạy đuổi theo bóng nắng gợn, kẻ mắt kéo màng thấy hoa đốm lăng xăng trên không, đều do cái tâm thấm đẫm nước ái, chẳng rõ hoa đốm là bệnh nên cứ đuổi quàng theo’. Bóng nắng gợn (dương diệm) chính huyễn ảnh xuất hiện trong sa mạc, nhìn xa tưởng là chỗ có nước. Những con nai, con ngựa bị khát, tâm thèm nước thiết tha nên cứ đuổi theo tìm uống nhưng chỉ phí công. Lại như người mắt bệnh kéo màng, ngỡ trên hư không có những đốm sáng bay lẩn vẩn toan chụp bắt, chẳng biết vốn chẳng có hoa đốm, nên mới bảo là ‘bị cái tâm sai khiến’.
Cả một đoạn dài từ câu ‘có ruộng lo ruộng’ cho đến ‘ưu khổ muôn bề’ là để giảng rõ ý ‘lo toan chất chồng’. ‘Quyến thuộc’ là người trong nhà, thân thuộc, tôi tớ v.v… ‘Tài vật’ là gia tài, sản nghiệp, các vật dụng để sinh sống. Những thứ nói trên đều là những điều khiến ta phải lo lắng. Chưa có thì muốn, lo sao cho có; nhưng có rồi lại sợ mất đi, nên lại lo hơn nữa. Bể dục khó lấp bằng, lo được, lo mất nên mới nói: ‘Có hay không có đều lo cả!’.
‘Có một phần lại thấy thiếu một, lo muốn cho bằng được người’: Ví như kẻ đã có được tài khoản một vạn đồng, thấy người khác có đến hai vạn, liền nghĩ cách sao cho có được một vạn nữa. Đã có một cái ti vi, thấy người ta có hai cái liền muốn mình có thêm cái nữa cho bằng người ta. Muốn mà chưa được thì lại sanh lo buồn. Thỏa nguyện rồi cũng chẳng hết lo nghĩ; bởi ham muốn không cùng nên vĩnh viễn lo lắng không dứt.
Vừa mới có được một chút lại toan khư khư giữ lấy, sợ gặp tai biến, lo mất mát đi, nên kinh mới nói: ‘Vừa được chút ít lại lo vô thường’.
‘Vô thường’ chính là những tai họa bất thường được kinh nêu tiếp ngay sau câu trên (tức là câu ‘vừa được chút ít lại lo vô thường’) như: nước trôi, lửa cháy, đạo tặc cướp đoạt… ‘Nước, lửa’ là thủy tai, hỏa tai, ‘đạo tặc’ là cái họa cướp đoạt, trộm cắp. ‘Oan gia’ là những kẻ kết oán với mình. ‘Chủ nợ’ là những người mình thiếu nợ chưa trả.
Các điều như trên đều là những tai họa thình lình phát sanh, như lửa có thể đốt cháy rụi, nước cuốn trôi mất, kẻ cướp cướp đoạt, kẻ trộm cuỗm mất, oan gia báo cừu, chủ nợ xiết nợ. Thậm chí trong khoảnh khắc chẳng còn một thứ gì là của mình nữa. Cái giàu sang ngày trước đột nhiên chẳng còn sót lại chút gì nên bảo là ‘đốt, trôi, cướp đoạt, tiêu tan, mòn diệt’. Sách Hội Sớ nói: ‘Đốt là đốt cháy, là các nạn như chiến tranh tàn phá, hỏa tai bất ngờ… Trôi là cuốn trôi, là các nạn như nước lũ, sóng gió… Cướp đoạt là nạn đạo tặc. Bị oan gia làm cho tiêu tan, bị chủ nợ làm cho mòn diệt’.
Người đời ‘tâm keo, ý chắc’ nghĩa là người đời tấm lòng keo kiệt đến mức ngoan cố. Tài vật mà bị mất thì trong lòng càng thêm phẫn hận, lo buồn, oán hận, sầu khổ, không rảnh trí nổi nên kinh mới nói: ‘Chẳng buông bỏ nổi’.
Bốn câu từ ‘mất mạng là mất hết’ trở đi phiếm chỉ hết thảy người đời. Lúc lâm chung, hết thảy tài vật quyến thuộc yêu dấu, tiếc nuối đều phải buông bỏ hết; một mình mình đến, một mình mình đi, không ai bầu bạn. Dẫu người mình thương yêu nhất cam chịu chết cùng lúc với mình thì cũng chẳng thể đến cùng một chỗ! Nghiệp nhân bất đồng, quả báo sai khác ngàn lần nên mỗi người sẽ sanh về một chỗ khác nhau. Bởi thế kinh dạy: ‘Đem theo được thứ gì?’
Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có dạy: ‘Người ấy lúc lâm chung, trong sát na cuối cùng, hết thảy các căn thảy đều tan hoại, hết thảy thân thuộc đều lìa bỏ, hết thảy oai thế thảy đều tan mất. Phụ tướng, đại thần, cung thành trong ngoài, voi, ngựa, xe cộ, kho tàng của báu, hết thảy những thứ như vậy chẳng có thứ nào theo mình’. Đoạn kinh ấy có cùng ý nghĩa với đoạn kinh ở đây.
Thường nghe: ‘Mọi thứ đều bỏ hết, chỉ còn nghiệp theo thân’; bất luận giàu nghèo, không ai là chẳng giống vậy, ai nấy ưu khổ vô tận nên kinh mới nói là: ‘Ưu khổ muôn bề!’
Chánh kinh: Nhân dân trong thế gian: cha con, anh em, vợ chồng, thân thuộc phải nên kính ái nhau, chẳng nên ganh ghét nhau. Kẻ có chia xẻ cho người không chẳng nên tham tiếc. Lời lẽ, vẻ mặt thường hòa hoãn, chớ nên chống trái nhau. Nếu có lúc tâm tranh chấp nhau, sanh ra giận dữ thì đời sau càng chuyển thành nặng nề đến nỗi thành mối oán hận lớn. Sự trong thế gian càng thêm tai hại tuy chẳng thấy ngay lập tức. Phải gấp nghĩ cách phá đi!
Giải: Đoạn kinh này khuyên dạy người đời đối với thân thuộc phải nên hòa kính, vì nếu chẳng hòa kính sẽ trở thành oán thù.
‘Kính ái’ là cung kính và từ ái, ‘ganh ghét’ là ghét bỏ và ganh tị. Sách Hội Sớ nói: ‘Giọng vui vẻ chẳng nóng giận, lời lẽ chẳng chống trái, gay gắt, ôn hòa, khiêm cung. Mặt chẳng cau có thì gọi là thường hòa hoãn’. Như vậy, ‘vẻ mặt, lời nói thường hòa hoãn’ chính là như ở phần trên kinh đã dạy ‘hòa nhan ái ngữ’ vậy.
Trên đây, Phật đã khuyên thường hòa hoãn, tiếp theo, Phật dạy nếu bất hòa sẽ kết thành đại oán. Chữ ‘tranh’ trong câu ‘nếu có lúc tâm tranh chấp nhau’ nghĩa là kèn cựa. Sách Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa giảng ‘tranh’ là ‘kiện tụng’.
Sách Hội Sớ bảo: ‘Thói đời lúc bình thường vốn chẳng phẫn hận, chợt gặp cảnh trái nghịch nên bất thình lình tranh chấp nhau nên mới bảo là ‘nếu có lúc’. Có lúc chợt khởi lên cái tâm đấu đá, kiện cáo, tranh chấp nhau nên mới nói là ‘nếu có lúc tâm tranh chấp’.
‘Giận dữ’ (sân khuể) là nóng nảy, phẫn nộ. Giận dữ là một trong tam độc. Một khi tâm sân lên thì tạo thành mối hận nhỏ, oan oan tương báo không lúc nào thôi. Kẻ oán ghét thường chạm mặt nhau, sát hại lẫn nhau, càng lúc thêm dữ dội nên kinh mới bảo: ‘Đời sau càng chuyển thành nặng nề đến nỗi thành mối oán hận lớn’ (như vua Lưu Ly vì muốn báo thù cái oán đời trước mà giết hại cả dòng họ Thích).
‘Sự trong thế gian càng thêm tai hại’ là những sự báo oán trong thế gian tạo thành họa hại. Đã tạo nghiệp nhân, ắt kết thành ác quả. Vì sự báo ứng chẳng lập tức hiển hiện ngay trong hiện tại nên kinh mới nói ‘tuy chẳng thấy ngay lập tức’, nhưng nhân quả chẳng hư, quyết sẽ báo ứng trong đời sau nên kinh mới nói: ‘Phải gấp nghĩ cách phá đi’. Chúng sanh sợ quả, Bồ Tát sợ nhân là vậy!
Chánh kinh: Trong ái dục, con người sanh một mình, chết một mình. Mình mình đến, mình mình đi, khổ vui tự chịu lấy, chẳng ai thế cho. Thiện, ác biến hóa theo đuổi đến từng kiếp sống. Đường lối bất đồng, không dịp gặp gỡ. Sao chẳng ngay trong lúc còn khỏe mạnh, nỗ lực tu thiện, còn muốn đợi đến khi nào?
Giải: Đoạn này, Phật khuyến dụ người đời bỏ ác tu thiện.
‘Ái dục’ là tình ái và tham dục; ái dục chính là cội gốc sanh tử. Ái chẳng nặng chẳng đọa Sa Bà. Toàn thể thế nhân chìm đắm trong ái dục cho nên chết đây sanh kia, lưu chuyển vô cùng. Dẫu cho quyến thuộc đầy nhà nhưng lúc sanh tử: sanh thì trơ một thân đi đến, chết thời riêng một mình mình ra đi, chẳng có ai theo, không ai thay được. Vì thế, kinh nói: ‘Sanh một mình, chết một mình; mình mình đến, mình mình đi’.
Câu ‘khổ vui tự chịu lấy, chẳng ai thế cho’ ý nói: quả báo sướng hay khổ đều do tự mình tạo, tự mình hưởng, cũng không ai khác thay thế được. Ngài Cảnh Hưng nói: ‘Tự chịu lấy tức là tự mình nhận lấy’.
Câu ‘thiện ác biến hóa’ được ngài Cảnh Hưng giảng như sau: ‘Thiện biến hóa chính là quả báo trong đường lành. Ác biến hóa là quả báo trong đường ác’.
Sách Hội Sớ nói: ‘Đời này tuy là thiện quả, nhưng tạo nghiệp nhân ác thì đời sau sẽ chiêu cảm, biến thành tai ương. Đời này tuy là ác quả nhưng làm lành thì đời sau sẽ hưởng phước báo. Thiên biến vạn hóa chẳng thể nói trọn’. Đây lại là một cách giải thích khác của chữ ‘biến hóa’. Ngài Gia Tường lại giảng: ‘Nhân ác chịu khổ, nhân lành hưởng vui. Quả báo nhanh chóng’.
‘Theo đuổi đến từng kiếp sống’ nghĩa là sanh về đâu quả báo cũng đuổi theo ngay đó, chẳng hề bỏ rời. Tùy theo nghiệp nhân mà cảm được quả báo thiện hay là ác.
Gia Tường Sớ giảng câu ‘đường lối bất đồng’ như sau: ‘Làm lành thì quả báo chốn thiên đường chờ sẵn. Làm ác thì núi đao rừng kiếm đón chờ’. Nhân quả mỗi người sai khác nên sẽ sanh về những nơi khác xa nhau. Bởi vậy, lúc lâm chung chia tay nhau trọn thành vĩnh biệt. Một phen chịu báo trong tam đồ là cả năm ngàn kiếp, trôi lăn trong sáu nẻo, biết ngày nào gặp lại nhau. Dẫu có trùng phùng cũng chẳng hề nhận biết nổi nhau nên mới nói: ‘Không dịp gặp gỡ’.
Bởi đấy, đức Thế Tôn xót thương cảnh tỉnh khuyên lơn người đời sao chẳng ngay lúc mạnh khoẻ ‘nỗ lực tu thiện’ chứ còn đợi đến khi nào nữa? Người già thể xác suy yếu, khó bề siêng tu như kinh Niết Bàn đã bảo: ‘Này Ca Diếp! Ví như cây mía đã bị ép rồi, bã mía chẳng còn vị gì. Tuổi trẻ sắc đẹp cũng giống như thế, khi bị tuổi già ép thì chẳng còn có ba thứ vị: một là vị xuất gia, hai là vị đọc tụng, ba là vị tọa thiền’. Tuổi già mất cả ba thứ vị như vậy nên phải gấp rút nỗ lực, chớ nên chần chừ.
Chánh kinh: Người đời chẳng thể tự thấy thiện ác, cát, hung, họa, phước, tranh nhau mà làm. Thân ngu dốt, tinh thần tối tăm, đâm ra tin nhận các giáo lý khác, điên đảo tiếp nối. [Do] căn bổn vô thường [nên] mù mịt, tối tăm, càn rỡ, chẳng tin kinh pháp, tâm chẳng lo xa. Ai nấy chỉ muốn khoái ý, mê man nóng giận, tham lam tài sắc, trọn chẳng ngừng nghỉ.
Ôi! Đáng thương thay! Người đời trước chẳng lành, chẳng biết đạo đức; [cha ông] không bàn đến [thì con cháu chẳng biết gì] thật chẳng có gì là lạ! Nẻo sanh tử, đường thiện ác đều chẳng tin tưởng, nói là đời nào có! Hãy quan sát xem để tự thấy biết lấy: nào cha khóc con, hoặc con khóc cha. Anh, em, chồng, vợ khóc thương lẫn nhau.
Giải: Cả phẩm kinh này chỉ rõ chúng sanh trong uế độ này ba độc lẫy lừng, tạo ác đáng sợ. Đoạn đầu tiên nói về tham độc ‘giàu nghèo đều vậy, ưu khổ muôn bề’; đoạn kế đó nói về sân độc ‘đến nỗi thành mối oán hận lớn’. Đoạn này giảng về si độc: ‘Thân ngu dốt, tinh thần tối tăm’, ‘chẳng tin kinh pháp’, ‘đường thiện ác đều chẳng tin tưởng’.
Cái họa si độc làm thương tổn huệ mạng của con người. Si độc chính là cái gốc của cả ba độc, vì thế nó gây hại rất sâu.
Đoạn kinh này ý nói: Người đời ngu si, chẳng biết thế nào là thiện, thế nào là ác, cứ theo ý mình càng phân biệt sai quấy thêm; chẳng thể tin nổi quy luật thường hằng nhân quả thiện ác trong ba đời nên kinh nói: ‘Người đời chẳng thể tự thấy thiện ác’. Đã chẳng biết nhân lại chẳng sợ quả, chỉ cốt khoái ý chốc lát, chẳng sợ hậu hoạn vô cùng. Phóng túng càn rỡ, mặc sức làm ác, đua nhau gây nhân ác, chẳng đoái hoài hung họa tương lai nên kinh mới bảo: ‘Cát, hung, họa phước tranh nhau mà làm’.
Ngài Gia Tường lại giảng: ‘Người đời cho rằng: lúc chết, vì cúng tế mà sát sanh là hung, những dịp như cưới gả v.v… là cát. Đối với hai việc này, người đời đua nhau mà làm’. Ý nói: Cát, hung là nhân; họa phước là quả. Sát sanh để cúng tế là hung, sát nghiệp cảm lấy quả báo trong tam đồ nên là họa. Người đời cho rằng cưới gả là cát, nhưng chẳng biết do vui mừng mà sát sanh thì lại trở thành hung sự, chiêu cảm cái họa vô cùng trong tương lai. Ấy là vì thế nhân chẳng hiểu dù thiện hay ác đều chiêu cảm quả báo.
Sách Gia Tường Sớ giảng câu ‘thân ngu dốt, tinh thần tối tăm’ như sau: ‘Do thân tạo ác nên bảo là thân ngu dốt, tâm chẳng tin nên bảo là tinh thần tối tăm’. Còn Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘Thân ngu dốt, tinh thần tối tăm là tâm ý bế tắc, chẳng thể tự thấy nổi chuyện thiện ác sanh tử’. Như vậy, ngu dốt, tối tăm chính là si độc.
Do ngu si nên tâm ý bế tắc chẳng thể chánh tín nhân quả, chẳng tin nhận nổi kinh pháp hòng nhập chánh đạo. Ngược lại, càng dễ đâm ra tin thờ các tà thuyết ngoại đạo. Bởi thế, kinh nói: ‘Đâm ra tin nhận các giáo lý khác’. Thấy biết điên đảo như thế liên tục chẳng dứt, chìm đắm mãi mãi trong sanh tử; nhưng nguồn gốc của những tà kiến ấy lại chính là si nghiệp. Sanh tử vô thường là do si làm cội gốc. Kinh gọi đó là: ‘Căn bổn vô thường’.
‘Mông minh để đột’ (tạm dịch: Mù mịt, tối tăm, càn rỡ): ‘Mông’ là dẫu có tròng mắt mà chẳng thấy gì. Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Mù mịt lại càng thêm mù mịt. Mù mịt là vì bị che lấp nên chẳng sáng suốt. Tối tăm là do ám muội chẳng hiểu biết’. ‘Để’ là như con thú dùng sừng húc các vật, ‘đột’ là xông thẳng vào.
Ngài Nghĩa Tịch giảng câu ‘mông minh để đột’ như sau: ‘[Câu này] ý nói chẳng hiểu biết gì, đụng việc là làm càn như đứa trẻ đi đêm, như chó dại chạy quàng, không điều gì không làm’. Do ngu muội, tăm tối nên chẳng hiểu nghĩa kinh; quen tánh hung hăng, thích xung đột nên chẳng tin nhận nổi kinh pháp. Do vậy, ‘tâm chẳng lo xa, chỉ cốt khoái ý’. Sách Hội Sớ viết: ‘Chẳng quan tâm đến đời sau, chỉ cầu cái vui hiện tại nên bảo là “chỉ cốt khoái ý”. Ôm lòng giận dữ, tham tài hiếu sắc chẳng lúc nào ngơi nên Phật mới than: ‘Ôi! Đáng thương thay!’.
Câu ‘người đời trước chẳng lành, chẳng biết đạo đức’ ngụ ý: Đời cha ông ngu si. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trọn chẳng làm thiện” nghĩa là vô hạnh. “Chẳng biết đạo đức” là chẳng hiểu biết’. Đã không hiểu biết lại còn vô hạnh thì thật là ngu si cùng cực. Đời này tiếp nối đời kia, những lời cha dạy con toàn là tà thuyết, chẳng bàn đến quả báo thiện ác nên kinh mới bảo: ‘Chẳng nói gì đến’. Cha ông si độn, ngoan cố thì con cháu vô tri là chuyện tất nhiên nên kinh mới bảo: ‘Thật chẳng có gì là lạ!’.
Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘nẻo sanh tử, đường thiện ác’ như sau: ‘Chẳng thể tự thấy nẻo sanh tử là chẳng biết quả. Chẳng thể tự thấy đường thiện ác là chẳng hiểu nhân. Tự tâm chẳng biết cả nhân lẫn quả, lại không ai bảo cho nên trọn chẳng hiểu biết’. Bởi thế mới ‘đều chẳng tin nổi, nói là chẳng có’.
Nếu chẳng biết việc sanh tử thì cứ tự xem đi: cha con, anh em, chồng vợ bị cái chết chia lìa, thương khóc lẫn nhau, có ai tránh khỏi đâu!
Chánh kinh: Một sống, một chết, bịn rịn, luyến tiếc nhau. Ưu khổ thắt buộc, không lúc nào tháo nổi. Nghĩ tưởng [những niềm] ân ái, yêu mến, chẳng lìa tình dục, chẳng thể suy sâu nghĩ chín, chuyên ròng hành đạo. Tuổi thọ chớp mắt là hết, biết làm sao đây!
Giải: Người đời ngu si, tham ái, chẳng biết muôn sự trong đời đều như huyễn mộng, như hoa đốm trên không, lầm tưởng thật có; nào hay vô thường vùn vụt, chẳng giữ mãi nổi. Lúc sanh càng thêm yêu mến, lúc chết bội phần xót xa. Lúc sanh tử: kẻ còn thương xót thân nhân từ nay vĩnh biệt; kẻ chết thương mình ra đi vĩnh viễn, lưu luyến nhau khó bỏ nổi, như mũi dao xoáy vào tim. Bởi thế, kinh nói: ‘Một sống, một chết, bịn rịn, luyến tiếc nhau’.
Những ân ái xưa kia nay thành ưu khổ, hai điều này trói buộc thân tâm như dây thắt chặt mối, chẳng thoát ra nổi nên kinh bảo: ‘Ưu khổ thắt buộc, chẳng lúc nào tháo ra nổi’. Mà ‘thắt buộc’ (kết phược) chính là phiền não. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương chép: ‘Phiền não, ám hoặc trói buộc hành nhân nên gọi là “kết”. Nó lại ràng buộc cái tâm nên gọi là “kết” vì nó kết tập hết thảy sanh tử’. Như vậy, vướng vít vào tình ái thì liền bị sanh tử buộc ràng, chẳng có lúc nào thoát khỏi.
‘Nghĩ tưởng [những điều] ân ái, yêu thích’: Xét tận cội nguồn, những điều người đời yêu quý thật sự là do tình dục (4) mà chẳng biết rằng ‘dục là cội khổ’, ‘thuần tình ắt đọa’. Nếu đối với những điều ấy, ta chẳng thể ‘suy sâu nghĩ chín’ để nhất tâm tu đạo hòng cầu giải thoát thì nháy mắt vô thường xộc đến, thọ mạng chấm dứt, đến lúc ấy, làm sao bươn bả, kêu van gì nổi!
Mạng người trong hơi thở nên kinh mới bảo: ‘Tuổi thọ chớp mắt là hết’ (niên thọ toàn tận). ‘Toàn tận’ là nháy mắt đã hết.
Chánh kinh: Kẻ lầm lẫn nơi đạo rất nhiều, kẻ ngộ đạo lại ít. Ai nấy ôm lòng sát hại, độc ác, ác khí mịt mù, làm chuyện sái quấy trái nghịch thiên địa, mặc tình phóng túng tạo tội cùng cực; tuổi thọ chợt bị đoạt mất, lọt xuống ác đạo chẳng có kỳ ra.
Giải: Đoạn kinh này giảng về cái họa do từ si mê mà khởi lên sân hận.
Trong ba ác nghiệp, sân nghiệp là nhân của địa ngục. Có câu: ‘Một đốm lửa sân tâm thiêu trụi rừng công đức’. Thế nhân ít kẻ tỉnh ngộ chánh đạo, lắm kẻ mê hoặc nên lòng luôn ôm ấp ý giết hại, độc địa, tàn hại mạng người khác. Ác khí hừng hực, từ chỗ tối vào trong chỗ tối nên kinh mới nói ‘ác khí mịt mù’.
‘Mịt mù’ lại có nghĩa là tối tăm, vô tri, đêm tối. Làm cái gì cũng sai lầm nên kinh bảo ‘làm chuyện sái quấy’, bởi thế mới ‘trái nghịch thiên địa’. Ngài Gia Tường bảo: ‘Trên chẳng thuận lòng trời, dưới nghịch ý Diêm La vương’. Mặc lòng tạo ác như thế nên kinh bảo là ‘mặc tình phóng túng’. Suốt ngày tạo tội ngập trời nên bảo là ‘tạo tội cùng cực’. Bởi đó, bị tội nghiệp lôi kéo nên chẳng đợi đến khi tuổi thọ hết đã bị mất mạng ‘rớt xuống ác đạo’.
‘Đoạt’ là cưỡng lấy, làm cho mất hẳn đi. Mạng sống đột ngột bị mất đi nên mới nói là: ‘Tuổi thọ chợt bị đoạt mất’. Ngài Tịnh Ảnh bảo: ‘Do si khởi sân, tàn hại lẫn nhau, ai nấy ôm lòng giết chóc. Ác độc, ác khí mù mịt, làm các điều quấy’. Ngài lại bảo: ‘Kẻ tạo tội ác do sức túc nghiệp sẽ tự nhiên chiêu cảm ác duyên phi pháp, thuận theo [những ác duyên ấy] mặc sức tạo tội. Cho đến khi tội tới mức cùng cực sẽ đọa ác đạo, chịu khổ vô cực’.
Ý nói: Người đời do ngu si nên sanh tâm sân hận mà giết chóc, tàn hại lẫn nhau, mặc tình làm ác; ôm lòng độc ác, chỉ làm các điều xằng bậy. Kẻ tạo tội như thế do nghiệp lực tội ác của đời trước sẽ mặc sức làm ác. Tới khi sự ác ngập đầu, quả báo ắt sẽ hiển hiện nên đột nhiên bị chết mất đi, đọa lạc trong ba ác đạo, chịu lấy quả báo chẳng có cùng cực, không biết khi nào mới thoát nổi nên kinh nói: ‘Chẳng có lúc ra’.
Chánh kinh: Các ngươi nên suy nghĩ chín chắn, xa lìa các ác, chọn lựa điều thiện để siêng thực hành. Ái dục, vinh hoa chẳng giữ mãi được, đều sẽ biệt ly, chẳng thể vui nổi. Phải nên siêng tinh tấn sanh cõi An Lạc. Trí huệ minh đạt, công đức thù thắng. Đừng chạy theo điều ham muốn trong tâm mà khiếm khuyết kinh giới, tụt hậu sau người khác.
Giải: Đoạn cuối này là lời khuyên chung: dứt ác làm lành, cầu sanh Cực Lạc. ‘Suy nghĩ chín chắn’ là như ta thường nói: suy sâu nghĩ chín.
Toàn đoạn kinh từ chữ ‘ái dục, vinh hoa’ đến ‘chẳng thể vui nổi’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Vinh hoa chẳng giữ nổi, hội hợp rồi nhất định ly tán. Ái dục chẳng thường còn, thạnh rồi ắt có suy. Điên đảo lầm tưởng là vui nên [những điều ấy] chẳng đáng ưa thích’.
Ông Bành Tế Thanh bảo: ‘Hết thảy người đời coi dục là vui, chẳng biết đó là khổ. Người trí xem thấy chỉ toàn là khổ, không chút vui nào. Vì sao vậy? Cứ coi ‘có’ là vui, ‘không’ là khổ, nào hay ‘có’ chính cái nhân của ‘không’. Xem ‘được’ là vui, coi ‘mất’ là khổ, nào hay ‘được’ chính là cái nhân của ‘mất’. Coi tụ tập là vui, tan lìa là khổ, nào hay tụ tập là cái nhân của tan lìa. Coi sanh là vui, coi diệt là khổ, nào hay sanh chính là cái nhân của diệt’.
Ý nói: Những điều chúng sanh tưởng là vui thật ra chính là cái nhân tạo khổ. Từ cái nhân tạo khổ ấy ắt phải sanh ra quả khổ nên bảo là ‘chẳng thể vui nổi’.
Tiếp đó, Phật khuyên nên tinh tấn cầu sanh Cực Lạc. Được sanh về cõi ấy rồi thì ai nấy ắt đều ‘trí huệ minh đạt, công đức thù thắng’. ‘Minh’ là hiểu rành rẽ, ‘đạt’ là thông đạt. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trí huệ minh đạt là đạt được trí huệ thù thắng. Công đức thù thắng là được phước thù thắng’. Trí lẫn phước đều thù thắng nên Phật khuyên người đời siêng năng cầu vãng sanh.
Ngài còn răn dạy: ‘Đừng chạy theo điều ham muốn trong tâm mà khiếm khuyết kinh giới, tụt hậu sau người khác’. Kinh là kinh giáo, Giới là giới hạnh. Ở đây, Phật đặc biệt khuyên ta nên trì giới bởi giới là nền tảng của muôn hạnh.
‘Đừng chạy theo cái tâm’ là như kinh Niết Bàn dạy: ‘Làm thầy của cái tâm chớ để cái tâm làm thầy mình’, nghĩa là: Nếu để cho cái tâm sai khiến được mình thì hành nhân mắc sai lầm lớn. Ấy là vì cái vọng tâm này chính là cội rễ sanh tử, tuân theo cái vọng tâm này thì khác nào nhận giặc làm con, toan nấu cát thành cơm, làm sao ăn nổi? Lẽ đâu rong ruổi theo tâm tánh làm điều càn quấy hay sao? Câu kinh sau đây trong kinh Tứ Thập Nhị Chương: ‘Cẩn thận đừng tin tâm ý của ngươi, tâm ý ngươi không thể tin nổi!’có cùng một ý nghĩa với câu kinh ở đây. ‘Tụt hậu lại sau người khác’ là thua người khác vậy.
34. Tâm được khai minh
Trong phẩm này, ngài Di Lặc lãnh hội được ý chỉ của Phật, tâm được khai minh. Phật lại ban lời dạy: một là đoạn hoặc chướng niệm Phật, biết khổ tu thiện; hai là tự lợi, lợi tha, lần lượt cứu vớt nhau; ba là lại dạy về quả báo thù thắng của cõi Cực Lạc; bốn là đoạn trừ nghi ngờ để khỏi bị sanh vào biên địa.
Chánh kinh: Ngài Di Lặc bạch rằng: ‘Lời Phật dạy răn rất sâu, rất lành, [chúng con] đều được nhờ từ ân giải thoát ưu khổ. Phật là pháp vương, tôn quý, cao siêu hơn các thánh, quang minh chiếu tột, thấu suốt vô cực, làm thầy của khắp hết thảy trời người. Nay được gặp Phật, lại nghe danh hiệu đức Vô Lượng Thọ, không ai chẳng hoan hỷ, tâm được khai minh.
Giải: Ngài Di Lặc lãnh ngộ lời Phật, tự mừng vui sâu xa, tỏ bày lời tán tụng bằng cách bạch rằng: ‘Lời Phật dạy răn rất sâu, rất lành’.
Hai chữ ‘giáo giới’ (dạy răn) được sách Câu Xá Giới Phẩm Tụng Sớ giảng: ‘Giáo là dạy dỗ khiến người tu thiện; Giới là răn đe khiến người đoạn ác. Đoạn ác tu thiện nên gọi là giáo giới’.
Sách Hội Sớ lại nói: ‘Giáo là lời người trên bảo kẻ dưới. Giới là ngăn chặn, ước thúc. Lời nói thấu triệt thật lý nên bảo là “rất sâu”, chuyển phàm thành thánh nên bảo là “rất lành”.
Pháp âm thấm nhuần rộng rãi, khiến cho khắp mọi người nghe ‘đều được nhờ từ ân giải thoát ưu khổ’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Giải thoát ưu khổ là được nghe pháp yếu dứt bặt những nỗi lo trôi nổi, no say pháp lạc, thoát khổ sanh tử’. Ý nói: Được nghe pháp yếu nên dứt được nỗi lo bị trôi nổi trong sáu đường; nếm no nê pháp lạc nên trừ được cái khổ sanh tử.
‘Phật là pháp vương’ là như kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương đã chép: ‘Như Phật là vua của các pháp’. Như Lai tự tại nơi pháp nên được xưng tụng là ‘pháp vương’. Phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa có câu: ‘Ta làm pháp vương tự tại nơi pháp’. Ta là lời đức Thích Ca tự xưng. Chữ ‘các thánh’ chỉ các bậc thánh nhân đã đoạn hoặc, chứng lý từ Sơ Quả của Tiểu Thừa trở lên và từ Sơ Địa của Đại Thừa trở lên. Phật là đạo sư của cả chín cõi, là bậc tôn quý nhất trong các thánh nên ngài Di Lặc bảo Phật ‘tôn quý, cao siêu hơn các thánh’.
Quang minh của Phật chiếu tột, suốt thấu chẳng có ngằn hạn nên bảo là ‘quang minh chiếu tột, suốt thấu vô cực’. Ngài Tịnh Ảnh lại giảng là: ‘Quang minh chiếu tột là tự phước thù thắng, thấu suốt vô cực là tự trí thù thắng’. Ngài lại giảng chữ ‘vô cực’ như sau: ‘Danh cảm động mười phương, nhiếp thọ kẻ có duyên nên bảo là vô cùng cực’.
Tổng hợp cả hai cách giải thích này thì hiểu thấu cái Không đến mức vô cực chính là tự trí rốt ráo thông đạt Đệ Nhất Nghĩa Không, chứng ngộ triệt để lý thể chính là đại trí, cho nên bảo là ‘thù thắng’. Phổ độ chúng sanh hữu duyên trong mười phương chẳng có ngằn hạn thì chính là đại bi. Như Lai từ thể khởi dụng, vận dụng cả Bi lẫn Trí nên diệu dụng vô tận. Như vậy là ngài Di Lặc đã khen ngợi Phật đức: phước lẫn trí đều siêu việt, thù thắng.
Thêm nữa, một trong mười hiệu của Phật là Thiên Nhân Sư. Trên trời, dưới thế chỉ có mình đức Phật là tôn quý. Ngài dạo khắp mười phương làm đại đạo sư nên bảo là: ‘Làm thầy của khắp hết thảy trời, người’.
Kinh dạy: ‘Thân người khó được, Phật khó gặp’ nên ‘nay được gặp Phật’ là điều vui mừng lớn lao.
‘Lại được nghe danh hiệu đức Vô Lượng Thọ’ là như kinh dạy: ‘Tín, huệ, nghe pháp là điều khó nhất trong các điều khó’; huống hồ lại được nghe diệu pháp bất khả tư nghì: sáu chữ hồng danh, Nhất Thừa nguyện hải tối cực viên đốn. Sách Di Đà Yếu Giải cũng nói: ‘Chẳng luận chí tâm, tán tâm, hữu tâm, vô tâm, hoặc hiểu hay chẳng hiểu, chỉ một phen danh hiệu Di Đà thoảng qua tai thì dẫu cho ngàn vạn kiếp sau cũng nhờ đó mà được độ thoát’.
Vì thế, pháp này khiến cho hội chúng hoan hỷ, mừng rỡ, khai phát Phật trí, hiểu rõ tự tánh. Bởi vậy, ngài Di Lặc mới bảo: ‘Tâm được khai minh’. Sách Hội Sớ bảo: ‘Khai phát Phật trí, đoạn diệt vô minh nên bảo là khai minh’. ‘Không ai chẳng hoan hỷ’ nghĩa là cả đại hội đều hoan hỷ.
Chánh kinh: Phật bảo ngài Di Lặc:
- Tôn kính đức Phật là đại thiện. Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi, nhổ trừ ái dục, lấp các nguồn ác. Du bộ tam giới chẳng hề ngăn ngại. Khai thị chánh đạo, độ kẻ chưa độ. Các ông nên biết mười phương nhân dân từ bao kiếp đến nay xoay vần trong ngũ đạo, ưu khổ bất tuyệt. Lúc sanh ra khổ sở, đớn đau; lúc già cũng khổ sở đớn đau; lúc bịnh khổ sở đớn đau tột bực; lúc chết khổ sở đớn đau tột bực. Xấu ác, hôi thối bất tịnh, có chi đáng vui? Hãy tự quyết đoạn, tẩy trừ tâm cấu, ngôn hạnh trung tín, trong ngoài tương ưng.
Giải: Phật lại dạy bảo ngài Di Lặc lần nữa; trước hết ngài dạy nên tự độ.
Cả hai câu: ‘Tôn kính đức Phật là đại thiện. Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi’ là cương yếu của toàn bộ giáo lý trong Đại Tạng. ‘Kính’ là cung kính.
Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ ‘kính Phật’ như sau: ‘Kính trọng, gánh vác Phật ân thì gọi là kính Phật’.
‘Gánh vác’ nghĩa là đảm đương, nhận lãnh.
Như Lai vạn kiếp huân tu, nhập Phật tri kiến, rồi dùng tri kiến ấy khai thị bọn chúng ta để tất cả đều được ngộ nhập. Dùng Quả Giác của Phật để làm cái nhân tâm của chúng ta thì chẳng phải tốn công suốt cả ba a tăng kỳ, chứng nhập ngay được Phật trí. Đấy chính là thâm ân của Phật. Bọn chúng ta phải theo đúng lời Phật khai thị, nương vào văn tự Bát Nhã mà quán chiếu hòng chứng nhập Thật Tướng. Đấy gọi là ‘kính trọng, gánh vác Phật ân’.
Tuân theo những điều Phật dạy răn trong kinh này hầu đoan tâm chánh hạnh, dứt ác tu thiện, phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm A Di Đà Phật, sanh ngang qua bốn cõi Tịnh Độ, chứng trọn vẹn bất thối thì mới là tôn kính Phật một cách chơn thật.
Chữ ‘đại’ (trong ‘đại thiện’) phải hiểu như chữ ‘đại’ được dùng trong từ ngữ ‘đại phương quảng’: dứt bặt các đối đãi nên cưỡng gọi là ‘đại’. Ở đây, kinh nói ‘đại thiện’ nghĩa là điều lành vô thượng. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Tam nghiệp kính phụng mới là “tôn kính”. Dùng cả ba nghiệp thân, khẩu, ý của chính mình để cung kính, phụng sự Như Lai: thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh thì mới gọi là ‘kính Phật’. Chẳng phải như thế tục cứ nghĩ đốt hương, sụp lạy mới là ‘kính Phật’.
Mật tông thường nói: ‘Thanh tịnh tam môn tin Thượng Sư’, ‘dùng thân, khẩu, ý cúng dường Thượng Sư’ cũng là do nghĩa này. Kính Phật như vậy mới thật là ‘đại thiện’. Sách Hội Sớ còn nói: ‘Phật như thuốc Thiện Kiến, thấy nghe đều được lợi ích nên gọi Phật là đại thiện’.
‘Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi’: Niệm Phật mới chính là tôn kính, gánh vác Phật ân bởi vì Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh chính là cái ân tối thượng trong những Phật ân.
Lại vì niệm Phật chính là ‘tam nghiệp kính phụng’, thâu nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối; cả ba nghiệp thân, khẩu, ý đều chuyên chú nơi Phật thì mới là quy kính một cách chơn thật.
Nếu muốn chơn thật niệm Phật thì trước hết phải ‘cắt đứt hồ nghi’. Tánh của loài cáo hay nghi ngờ nên mới bảo là ‘hồ nghi’. Hành nhân chẳng dứt nổi nghi thì chẳng dám dũng mãnh tiến lên nên bảo là ‘còn hồ nghi’. Nên biết rằng: Khi chưa đoạn nổi cội nghi thì sẽ khi tin, khi ngờ, nửa tin, nửa ngờ, hoặc miễn cưỡng niệm thử nhưng tâm ý chưa yên; hoặc là miệng tuy niệm Phật mà tâm vẫn hâm mộ tông khác. Đấy đều chẳng phải là chơn thật niệm Phật.
Nói tóm lại, nghi tình chưa đoạn, chánh tín khó sanh. Tín nguyện khiếm khuyết thì tư lương khiếm khuyết. Vì thế, Phật dạy phải ‘cắt đứt hồ nghi’, ròng rặt niệm Phật, hâm mộ, hăm hở niệm, dốc trọn cả tính mạng mà niệm cho tới chết! Hoa nở gặp Phật ngộ vô sanh nhẫn. Như vậy mới là ‘đại thiện’!
Trên đây, Phật đã dạy đoạn nghi niệm Phật; tiếp đó, ngài lại dạy niệm Phật có thể đoạn nghi. Sách An Lạc Tập viết: ‘Nếu có thể thường tu niệm Phật tam muội thì trừ được tham, sân, si. Chẳng luận hiện tại, quá khứ, tương lai, hết thảy các chướng đều trừ được cả!’. Ngu si kém trí nên tâm hồ nghi. Niệm Phật trừ nghi nên nghi tình tự đoạn. Hai vị đại sư Liên Trì, Linh Phong đều dạy: ‘Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể chẳng thành Phật’. Đấy chính là ý nghĩa của câu ‘thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi’ vậy.
Đối với câu ‘nhổ trừ ái dục’, ngài Cảnh Hưng giảng như sau: ‘Nhổ dục là khiến lìa phiền não’. Trong các nhân của những nỗi khổ, tham dục chính là cội rễ nên Phật khuyên phải đoạn trừ ái dục.
‘Lấp các nguồn ác’: Lấp là ngăn bít. Tịnh Ảnh Sớ ghi: ‘Lấp các nguồn ác là khiến lìa ác nghiệp. Lấp cũng như bít. Ác nghiệp chính là nguồn gốc của ác đạo, nó được gọi là nguồn của các điều ác. Dạy phải đoạn ác nên bảo là lấp’. Ý nói: Dạy ‘lấp các nguồn ác’ là dạy lìa các ác nghiệp vì ác nghiệp khiến người ta phải đọa ác đạo. Ác nghiệp chính là căn cội của các đường ác nên được gọi là ‘nguồn ác’. Bởi thế, phải nên đóng lấp nó.
Ngài Vọng Tây cũng giảng giống vậy: ‘Lấp các nguồn ác là khiến đoạn ác nghiệp. Trôi lăn trong sanh tử là do ác nghiệp làm nguồn cội nên gọi là “nguồn”.
Sách Hội Sớ lại giải thích cách khác: ‘Trong các phiền não, nóng giận là nặng nề nhất nên bảo là “nguồn”; chữ “nguồn” cũng chỉ cho nguồn vô minh. Phật đều đoạn hết cả chẳng để thừa sót gì!’ nên bảo ‘lấp các nguồn ác’.
Ta có thể áp dụng cả hai cách giải thích này chẳng trở ngại gì. Sách Hội Sớ đứng về phía Phật mà giảng, còn những thuyết của ngài Tịnh Ảnh, Vọng Tây… là căn cứ trên việc hành nhân hạ thủ công phu mà luận.
Câu ‘du bộ tam giới chẳng hề ngăn ngại’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Thần thông biến hóa chẳng phải suy tính gì, thường thể hội tánh Không nên bảo là du bộ’. Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Trên trời dưới thế, chỉ mình Phật là tôn quý cho nên ngài du bộ tam giới, biến hóa tùy ý chẳng bị ngăn ngại’.
Chữ ‘quái’ trong ‘quái ngại’ (ngăn ngại) có nghĩa là trở ngại, ngăn đón. Trong bản Ngụy dịch của Đại Tạng Cao Ly, chữ ‘quái ngại’ được ghi là ‘câu ngại’ (chữ Ngại thuộc bộ Môn), còn các bản Ngụy dịch phổ biến ghi là ‘câu ngại’ (chữ Ngại thuộc bộ Thạch) nên các tác phẩm sớ giải của ngài Tịnh Ảnh, Cảnh Hưng cũng như Hội Sớ đều chép là ‘câu ngại’. Ngài Cảnh Hưng giảng: ‘Vô sở câu ngại tức vô sở quái ngại’ (“Chẳng bị kềm giữ, trở ngại” chính là “chẳng bị ngăn ngại”).
Như trên đã nói, tác giả Hội Sớ và ngài Cảnh Hưng đứng về phía Phật để bàn luận là vì họ dùng bản Ngụy dịch để giải thích kinh. Nay căn cứ trên bản hội tập thì ta có thể hiểu là: Người kiêm cả phát Bồ Đề tâm, niệm Phật được vãng sanh thì nương vào oai thần của Phật sẽ đi hóa độ khắp cả tam giới. Kinh nói: ‘Trong khoảng một niệm, đi qua cả ức na do tha trăm ngàn cõi Phật’. Kinh còn dạy: ‘Tùy ý tu tập, không gì là chẳng viên mãn’. Bởi thế mới ‘chẳng hề ngăn ngại’. Người được vãng sanh sẽ du hành mười phương tuyên thị diệu pháp Di Đà viên đốn: Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, nhằm dẫn dắt kẻ chưa được độ quy hướng Cực Lạc. Vì thế, Phật bảo: ‘Khai thị chánh đạo, độ kẻ chưa độ’.
Trong đoạn kinh này, nửa đoạn trước, Phật khuyên dụ chúng sanh đoạn hoặc niệm Phật; còn nửa đoạn sau Phật lại khuyên chúng sanh nên biết khổ để tu thiện.
‘Bao kiếp’ tức là thời gian kiếp số lâu xa dằng dặc. Nay bảo là ‘bao kiếp’ là hàm ý: vĩnh cửu của vĩnh cửu, vĩnh cửu vô cực vậy.
‘Ngũ đạo’ tức là năm đường: trời, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục như đã giải thích trong câu ‘chặt ngang năm đường’ ở phần trên.
Theo Hội Sớ, cả đoạn: ‘Các ông… ưu khổ bất tuyệt’ ý nói: ‘Từ bao kiếp đến nay tuy gặp nhiều đức Phật, phát đại tâm, nhưng tu thánh đạo khó được thành tựu nên thường bị chìm đắm, lưu chuyển, mãi đến nay vẫn chưa thoát khỏi sanh tử’.
Theo đó, người gặp được Phật vẫn còn nhiều kiếp trầm luân sanh tử, ưu khổ bất tuyệt thì người chẳng gặp được Phật, ưu khổ còn hơn thế nữa! Bởi đó, kinh dạy: ‘Mười phương nhân dân bao kiếp đến nay’ xoay vần trong năm đường, thường đọa vào tam đồ, đau đớn tột bực, không lúc nào hết.
Ấy là vì sanh, chết, già, bịnh đều rất đau khổ, đều là thuần khổ không vui. Cái thân nghiệp báo của phàm phu ‘xấu ác, hôi thối, bất tịnh’ nào đáng vui chi. ‘Ác’ là xấu ác, hung ác. ‘Thối’ là mùi vị khó ngửi. ‘Bất tịnh’ là chẳng sạch sẽ. Kinh Tâm Địa Quán dạy: ‘Tự xem thân mình: ba mươi sáu thứ xấu ác rỉ ra chẳng sạch’.
Đại Luận kể ra năm thứ bất tịnh: chủng tử, y xứ, đương thể, ngoại tướng và cứu cánh. Chủng tử chính là tinh cha, huyết mẹ. Y xứ là bào thai. Đương thể là toàn thân. Ngoại tướng là hình hài. Cứu cánh là rốt ráo. Năm thứ đều bất tịnh.
Thập Nghi Luận lại kể ra bảy thứ bất tịnh: một là chủng tử, hai là tánh thọ nhận, ba là trụ xứ, bốn là ăn uống, năm là sơ sanh, sáu là toàn thân, bảy là cứu cánh. Cả bảy thứ ấy đều bất tịnh.
Vì thế, cả thân mình lẫn thân người khác đều chẳng có chỗ nào đáng yêu nổi, thuần khổ không vui, lẽ nên phải chán lìa!
Bởi thế, tiếp đó, Phật dạy: ‘Hãy tự quyết đoạn’. ‘Quyết’ là tâm quyết định. ‘Đoạn’ là cắt đứt nhân ác. Nhân ác chính là như câu tiếp đó nói rõ: ‘Tâm cấu’. Sách Hội Sớ nói: ‘Tham sân si là tâm cấu (bụi nhơ nơi tâm), trái với ba thứ ấy là tam thiện’. ‘Tẩy’ là rửa sạch. ‘Trừ’ là dứt bỏ. Vì thế, Phật dạy: ‘Tẩy trừ tâm cấu’.
‘Ngôn hạnh trung tín’: Ngôn là lời lẽ; Hạnh là hành động. Sách Tiên Chú viết: ‘Làm đúng như lời nói, lời nói đúng như việc làm thì gọi là trung tín’.
Theo ngài Tịnh Ảnh, trong câu ‘trong ngoài tương ưng’, chữ ‘ngoài’ chỉ lời nói, chữ ‘trong’ chỉ cái tâm. Tịnh Ảnh Sớ ghi: ‘Lời nói là ngoài, tâm là trong. Lời nói chẳng trái với tâm nên bảo là tương ưng’, nghĩa là: tâm, khẩu đồng nhất chính là ‘trong ngoài tương ưng’ (biểu lý tương ưng).
Lời sớ còn giảng rộng: ‘Biểu là biểu hiện, những gì hiển hiện ra ngoài thì đều gọi là biểu’. ‘Hạnh’ cũng là ‘biểu’. ‘Lý’ là nội tâm, trong ngoài như một nên gọi là ‘tương ưng’. Đấy chính là trực tâm như kinh Tịnh Danh dạy: ‘Trực tâm là đạo tràng’.
Chánh kinh: Người [ấy] đã có thể tự độ lại còn cứu vớt người khác. Chí tâm cầu nguyện, tích lũy cội lành. Tuy một đời tinh tấn siêng khổ cũng chỉ như khoảnh khắc mà thôi! Thân sau sanh vào cõi Vô Lượng Thọ, khoái lạc vô cực! Vĩnh viễn nhổ được cái gốc sanh tử, chẳng còn cái nạn khổ não, thọ ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý.
Giải: Đoạn trên đã giảng rõ sanh tử lưu chuyển ưu khổ chẳng ngớt, khuyên ta phải xuất ly. Đấy là nhàm chán Sa Bà. Còn đoạn này lại khuyên cầu sanh Tịnh Độ, chính là ham cầu Cực Lạc.
Sách Di Đà Yếu Giải lấy ‘chán lìa Sa Bà, vui cầu Cực Lạc’ làm nguyện, lại lấy ‘tín nguyện trì danh’ làm ‘cái nhân chơn thật của Nhất Thừa’. Bởi đó, ta thấy rằng: đức Thế Tôn khuyên dụ chính là vì vãng sanh rất thiết yếu.
Câu ‘người đã có thể tự độ’ nghĩa là độ được chính cái thân mình. Đây là lời tiếp nối ý câu ‘tẩy trừ tâm cấu, trong ngoài tương ưng’ của đoạn trên. Đó chính là hạnh tự lợi.
Tiếp đấy, ‘lại cứu vớt người khác’ là hạnh lợi tha. Đây chính là điểm thứ hai trong lời khai thị của Phật. ‘Cứu’ là cứu độ, tức là lần lượt cứu độ những người khác, hay nói cách khác là ‘chúng sanh vô lượng thệ nguyện độ’.
Phát được cái tâm to lớn ‘tự giác, giác tha’ niệm danh hiệu Phật thì mới khế hợp được tông thú của bản kinh này ‘phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm’.
Đã phát đại tâm thì phải dùng tâm chí thành ‘tích lũy cội lành’ để cầu được diệu quả của bổn nguyện. ‘Cội lành’ có nghĩa như ‘thiện căn’. Kinh Thắng Man quyển thượng dạy: ‘Thiện bổn: bổn cũng là nhân. Muốn dùng cái thiện ấy để làm Bồ Đề căn nên gọi là thiện bổn’.
Sách Hội Sớ lại viết: “Cầu nguyện” là cái tâm nguyện đuợc vãng sanh. “Thiện bổn” là tên chung của các điều lành, mà cũng chỉ riêng việc xưng danh niệm Phật’ bởi vì xưng danh niệm Phật chính là cội lành của việc vãng sanh Cực Lạc. ‘Tích lũy cội lành’ chính là một bề chuyên niệm.
Tiếp đó, đức Thích Tôn trùng tuyên sự thắng diệu của cõi Cực Lạc, khuyến dụ vãng sanh. ‘Khoảnh khắc’ là một phần bốn tám của một phút, tức là một khoảng thời gian rất nhỏ. Phật khuyên người đời: một đời siêng năng vất vả cũng chỉ như trong khoảnh khắc. Thân sau sanh về Cực Lạc thì cái vui ấy không cùng tận. Sự vui mầu nhiệm vô biên vượt trỗi mười phương, chẳng hề chấm dứt nên bảo là ‘vô cực’.
Trong tác phẩm Khuyến Tâm Vãng Sanh Luận của sa môn Nhẫn Không thuộc tông Thiên Thai có câu: ‘Một trận vinh hoa đời này kết thành khổ quả ức kiếp. Đời này siêng tu trong khoảnh khắc, nở nhụy giác tam minh’. Ấy là nhân nhỏ quả to, thọ báo dài lâu. Hễ được vãng sanh thì như kinh dạy: ‘Vĩnh viễn nhổ dứt cái gốc sanh tử, chẳng còn cái nạn khổ não, thọ ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý’.
Ngài Linh Chi đã giảng về cõi Cực Lạc như sau: ‘Tịnh độ Di Đà cảnh giới lạ lùng tuyệt diệu. Thánh hiền cùng hội, nghe pháp ngộ đạo, thọ mạng vĩnh cửu, bất thối Bồ Đề, chẳng còn có nỗi vui nào khác hơn được niềm vui này. Chỉ không có cái khổ vô thường đã đáng vui rồi, huống là còn có các sự thù thắng, những sự vui ấy chẳng cùng tận!’. Bởi thế, Phật mới khuyên chúng sanh cầu sanh về đó.
Chánh kinh: ‘Ai nấy nên tinh tấn, cầu tâm sở nguyện, chẳng được nghi hối, tự tạo thành ương họa: sanh vào biên địa cõi ấy, nơi thành thất bảo. Trong năm trăm kiếp chịu các tai ách’.
Di Lặc bạch rằng: ‘Tuân lời giảng dạy tường tận của Phật, chuyên ròng, siêng năng tu học. Phụng hành đúng như lời dạy, chẳng dám có nghi’.
Giải: Thế Tôn rủ lòng từ đã khuyên đại chúng nên yêu thích cầu sanh Cực Lạc, lại khuyên chúng sanh nên bỏ nghi hoặc để khỏi sanh trong biên địa. Đấy là điểm thứ tư trong lời khai thị của Phật.
Kinh dạy: ‘Ai nấy nên tinh tấn cầu tâm sở nguyện’, nghĩa là: chúng sanh phải thành kính chuyên tu, nhất tâm tịnh nghiệp.
‘Chẳng được nghi hối, tự tạo thành ương họa’: Sách Đại Thừa Nghĩa Chương giảng chữ ‘hối’ như sau: ‘Hối là nghĩ ngược lại’, tức là nghĩ trái lại rồi đâm ra thụt lùi. ‘Quá cữu’ (tạm dịch là ‘ương họa’): Quá là tội, Cữu là ác, là tai họa. Ý Phật khuyên chúng sanh chớ nên nghi hoặc để tự tạo ra tai ương cho chính mình ngõ hầu khỏi phải ‘sanh vào biên địa cõi ấy… chịu các ách nạn’.
‘Biên địa’ còn gọi là ‘nghi thành’ hay Giải Mạn quốc. Sách Tịnh Độ Lược Luận viết: ‘Trong năm trăm kiếp thường chẳng thấy nghe Tam Bảo và cõi An Lạc thì gọi là biên địa hoặc là thai sanh’. Gia Tường Sớ ghi: ‘Ở đây, trước hết răn dạy phải đoạn nghi hoặc, dạy rõ: hoài nghi sẽ sanh biên địa, chẳng được gặp Phật, suốt cả năm trăm năm hoa chẳng nở. Hoa chẳng nở thì chẳng thể đến mười phương cúng dường chư Phật’.
Sách Hội Sớ nói: ‘Trước sau chẳng lui sụt thì gọi là tinh tấn. “Cầu tâm sở nguyện” là nguyện cầu vãng sanh. “Nghi hoặc” là chẳng hiểu rõ Phật trí. “Hối” là ác tác: trước tin, sau ngờ, đối với lòng tin hiểu khi trước sanh lòng hối hận, nửa đường bỏ lửng. “Tự tạo thành ương họa” là dẫu “nước ấy chẳng trái nghịch” [gì mình] mà tự cam sanh trong biên địa. “Các ách nạn” là chẳng thấy Tam Bảo, chẳng nghe kinh pháp’. Lời giải thích của Hội Sớ rất tường tận.
Đối với vấn nạn biên địa có thuộc vào ba bậc vãng sanh hay không, sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao đã bàn rất tỉ mỉ. Sách viết:
‘Các kinh nói chẳng giống nhau. Theo như Giác kinh (tức bản Hán dịch) và Đại A Di Đà kinh (tức bản Ngô dịch), biên địa thuộc vào trung bối và hạ bối (ý nói: cả trung bối lẫn hạ bối đều có biên địa); còn kinh này (chỉ bản Ngụy dịch) chẳng những không giống thế mà lại còn dạy khác đi. Bởi thế, các sư cũng hiểu khác nhau.
Chẳng hạn như ngài Đàm Loan, ngài Nguyên Hiểu, ngài Pháp Trụ, ngài Như Trạm… đều cho rằng biên địa chẳng thuộc trong tam bối.
Ngài Nghĩa Tịch, ngài Cảnh Hưng, ngài Long Hưng, ngài Nhân Nhạc… lại nghĩ biên địa gộp trong các bối.
Mỗi vị căn cứ vào một khía cạnh nên các ý kiến ấy chẳng trái nghịch nhau. Nhưng kinh này là bản phiên dịch chính và đại sư Đàm Loan lại là cao tổ của tông ta nên nay phải thuận theo ý ngài, tức là như ngài đã viết trong sách Lược Luận: “Lại có một thứ vãng sanh cõi An Lạc chẳng thuộc vào trong ba bậc”.
Phàm ba bậc đều là do tín tâm vãng sanh; ấy chính là điều nên khuyên bảo. Biên địa là do tâm nghi mà vãng sanh; ấy chính là điều phải răn dè. Tin, ngờ, khuyên, răn khác nào như trời với đất, lửa với nước làm sao dung được nhau!’
Lời luận của sách rất hay: người đầy đủ tín tâm thì thuộc vào ba bậc vãng sanh, kẻ ôm lòng nghi thì rớt vào biên địa. Do hai tâm chẳng đồng, tất nhiên chỗ sanh về phải khác. Bởi đó, trong hội bản này, ngoài ba bậc vãng sanh ra, kinh dạy rõ về ‘biên địa nghi thành’. Trong phẩm bốn mươi ở phần sau sẽ giảng rõ điều này.
Ngài Di Lặc lãnh thọ lời Phật nên hướng về Phật bạch rằng: ‘Thọ Phật minh hối’ (vâng lãnh lời dạy rõ ràng của Phật). ‘Minh’ tức là trí huệ, hoàn bị, rõ ràng, khai phát. ‘Minh hối’ tức là lời răn dạy có tác dụng khiến đại trí được hiển lộ, khai phát, là lời dạy minh bạch, hoàn bị. ‘Chuyên’ là chuyên nhất, ‘tinh’ là tinh tấn (trong phần chánh kinh chữ ‘chuyên tinh’ được dịch ý là chuyên ròng, siêng năng). ‘Tu’ là tu hành, ‘học’ là học đạo. Kinh Pháp Hoa dạy: ‘Dần dần tu học ắt đều thành Phật’.
‘Phụng hành đúng như lời dạy’: ngài Di Lặc lãnh thọ lời Phật giáo huấn, quyết định tuân hành. Câu ‘Chẳng dám có nghi’ ngụ ý khuyên chúng sanh vâng lãnh lời Phật, dứt bỏ lòng ngờ. Nghi là căn nguyên phát sanh muôn mối lầm lạc nên phải đoạn nghi.
35. Trược thế ác khổ
Chánh kinh: Phật bảo Di Lặc:
- Các ông nếu như có thể trong đời này đoan tâm chánh ý, chẳng làm các điều ác thì thật là đại đức. Vì sao vậy? Mười phương thế giới thiện nhiều ác ít, dễ bề khai hóa. Chỉ có thế gian ngũ ác này là khổ sở nhất. Ta nay làm Phật trong cõi này, giáo hóa quần sanh khiến bỏ năm sự ác, trừ năm sự đau, lìa năm sự đốt; hàng phục, giáo hóa tâm ý của họ, khiến họ vâng giữ năm điều lành, đạt được phước đức. Những gì là năm?
Giải: Phẩm này giảng rõ sự ác khổ trong cõi đời ô trược này. Ác là ngũ ác, khổ là năm điều đau đớn, năm điều thiêu đốt. Phật khuyên dạy chúng sanh bỏ ác làm lành hầu lìa khổ, được vui.
Tịnh Ảnh Sớ chép: ‘Năm giới để ngăn ngừa năm sự ác là giết chóc, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Tạo năm điều ác ấy thì hiện đời bị vương pháp trị tội, thân gặp ách nạn nên bảo là năm sự đau đớn. Do năm điều ác đó trong đời vị lai sẽ chịu quả báo trong tam đồ nên gọi là năm sự đốt’. Ngũ ác là nhân của sự ác. Năm điều đau đớn là hoa báo, năm điều thiêu đốt là quả báo.
Gia Tường Sớ lại giảng năm điều ác như sau: ‘Vì sao chỉ nói đến năm điều này? Do thế nhân thích gây tạo [năm điều ấy] nên mới riêng nêu lên’.
‘Đoan tâm chánh ý’ là tâm chơn chánh, ý chơn thành, khéo giữ gìn ý niệm của mình, xa lìa ba độc, chẳng tưởng đến việc tà ác. Ngài Nghĩa Tịch lại giảng: ‘Hướng đến Bồ Đề là đoan tâm, chẳng cầu việc khác là chánh ý’. Hiểu như vậy là hiểu ở mức độ càng sâu hơn nữa bởi chỉ có hướng đến Bồ Đề mới là ‘đoan tâm’, chẳng hề cầu mong điều gì khác là ‘chánh ý’. Nếu có thể đoan chánh thân tâm như vậy thì tự nhiên chẳng làm các điều ác nên bảo là ‘thật là đại đức’. ‘Đại đức’ là đức đến cùng tột.
Ngài Gia Tường giảng câu ‘thiện nhiều, ác ít, dễ khai hóa nổi’ như sau: ‘Trong các cõi khác có nhiều duyên thù thắng, thiện báo càng mạnh mẽ, thù thắng hơn nên dễ làm lành. Cõi này chẳng có hai duyên ấy. “Khai hóa” là Phật khai ngộ, giáo hóa vậy’. Tiếp đó, ý nghĩa của cả đoạn từ câu ‘chỉ có cái thế gian’ đến ‘lìa năm sự đốt’ đã quá rõ.
Gia Tường Sớ giảng câu ‘hàng phục, giáo hóa tâm ý của họ, khiến họ vâng giữ năm điều lành’ như sau: ‘Hàng phục, giáo hóa tâm ý của họ nhằm làm cho tâm họ nhập đạo, vâng giữ năm điều lành, thuận theo lời dạy tu hành’.
Ngài Tịnh Ảnh và ngài Gia Tường đều cho rằng ‘ngũ thiện’ chính là ngũ giới. ‘Phước đức’ là phước lợi đạt được bởi thiện hạnh. Gia Tường Sớ ghi: “Đạt được phước đức” là nêu lên cả hai quả gần và xa để thành cái hạnh’.
“Quả gần” là như Tịnh Ảnh Sớ bảo: ‘Do trì ngũ giới nên trong đời hiện tại thân yên ổn không khổ’.
“Quả xa” là được sanh về Cực Lạc, quyết định chứng Niết Bàn như Tịnh Ảnh Sớ bảo: ‘Đời sau gặp Di Đà, rốt cuộc chứng Niết Bàn’. Đời này an lạc, thân sau vãng sanh nên bảo là ‘đạt được phước đức’.
Chánh kinh: Thứ nhất là các loài chúng sanh trong thế gian muốn làm các điều ác: kẻ mạnh hiếp yếu, chế ngự, giết chóc lẫn nhau, tàn hại, sát thương, ăn nuốt lẫn nhau, chẳng biết làm lành, sau chịu ương phạt. Bởi thế có kẻ nghèo cùng, ăn mày, cô độc, điếc, mù, câm, ngọng, si ác, dặt dẹo, cuồng dại; đều là do đời trước chẳng tin đạo đức, chẳng ưng làm lành. Những kẻ tôn quý, giàu sang, hiền minh, trưởng giả, trí dũng, tài năng thông đạt đều là do đời trước từ hiếu, tu thiện, tích đức cảm thành. Thế gian có những chuyện sờ sờ trước mắt như thế.
Sau khi hết tuổi thọ, vào chốn u minh, chuyển sanh thọ thân, thay hình đổi nẻo nên mới có Nê Lê, cầm thú, các loài: ngọ nguậy, bay bổng, bò, trườn. Thí như chốn tù ngục theo pháp luật thế gian, cực hình thật khổ. Hồn thần, mạng tinh theo tội mà hướng về, chịu lấy thọ mạng hoặc dài hay ngắn, theo nhau cùng sanh để báo đền lẫn nhau. Ương ác chưa hết trọn chẳng thoát nổi.
Xoay vần trong ấy bao kiếp khó ra, khó được giải thoát, đau đớn không nói nổi! Trong vòng trời đất, tự nhiên có như thế, tuy chẳng báo ứng rầm rộ ngay lập tức mà thiện ác rồi sẽ quy kết cả.
Giải: Trong những điều ác, trước hết, Phật dạy về cái ác sát sanh. Thái Hiền nói: ‘Điều thế gian sợ hãi nhất là chết, điều tổn hại người khác nhất là đoạt mạng’. Cái người ta sợ nhất là chết, cái người ta quý nhất là mạng. Bởi đó, sát hại mạng kẻ khác là điều ác lớn nhất. Chẳng phải chỉ mình Phật giáo mà các tôn giáo khác cũng cấm giết người.
Đầu tiên, kinh văn nói đến sự ác giết chóc. Kinh chép: ‘Kẻ mạnh hiếp yếu, chế ngự, giết chóc lẫn nhau, tàn hại, sát thương, ăn nuốt lẫn nhau’. Sách Hội Sớ viết: ‘Kẻ mạnh hiếp yếu: Kẻ giết chóc là “kẻ mạnh”, kẻ bị giết là “yếu”. Người hay thú cũng thế. “Chế ngự, giết chóc lẫn nhau”: Như chim sẻ nuốt bọ ngựa, người lại giết chim nên bảo là “lẫn nhau”.
‘Tàn hại’ là hung tàn, làm thương tổn. ‘Sát thương’ là giết cho chết hay làm cho thân kẻ khác bị thương tích. Rắn nuốt cóc, cóc lại ăn giun đất nên bảo là ‘ăn nuốt lẫn nhau’. Những câu trên đây đều nói đến điều ác sát sanh.
Cả đoạn kinh từ ‘chẳng biết làm lành’ cho đến ‘chẳng ưng làm lành’ đều nói lên lỗi hại của việc tạo ác. Đã làm đủ mọi điều ác lại còn sát hại sanh mạng nên phải chịu quả báo ‘nghèo nàn, ăn xin… cuồng dại’. ‘Ăn xin’ là kẻ ăn mày xin cơm sống qua ngày.
Sách Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa giảng chữ ‘cô độc’ như sau: ‘Không cha là cô, không con là độc’. Ngài Cảnh Hưng nói: ‘Cô là không cha mẹ, độc là không con cái’.
‘Điếc’ là tai không nghe được tiếng; ‘mù’ là mắt chẳng thấy được. ‘Câm’ là miệng chẳng phát ra tiếng được. ‘Ngọng’ là tuy phát ra tiếng, nhưng lưỡi chẳng động nên chẳng thể nói ra tiếng được. ‘Si’ là ngu si, si ngốc. ‘Ác’ là hung ác chẳng lành. ‘Dặt dẹo’ là yếu đuối, tật nguyền, choắt cheo. ‘Cuồng dại’ là điên khùng. Đấy đều là những ‘ương phạt’ do ‘chẳng tin đạo đức, chẳng ưng làm lành’. Ương là tai họa, ‘phạt’ là tội lệ.
Tiếp đó, kinh nói những điều như giàu sang, trí dũng... để biểu thị những điều đạt được do làm lành nhằm càng làm rõ thêm những tổn thất do ác nghiệp gây ra.
‘Tôn quý, giàu sang’ là người phú quý trong thế gian. ‘Hiền minh, trí dũng, tài năng thông đạt’ là bậc hiền trí trong loài người.
Chữ ‘trưởng giả’ là tiếng gọi chung để chỉ bậc đủ cả hai thứ: tài sản và đức hạnh. ‘Trưởng giả’ cũng là tiếng để gọi bậc cao tuổi giàu có. Người hiền trí, phú quý trong đời đều do trong đời quá khứ từng từ ái, tận hiếu ‘tu thiện, tích đức’ nên đạt được như thế.
Trên đây, kinh đã nói đến nhân quả chẳng hư dối, là những điều thế gian có thể thấy được.
Những thứ ương phạt như ‘nghèo cùng, ăn mày’ cho đến ‘dặt dẹo, cuồng dại’ là những loại dễ thấy trong đời, nhưng mấy ai biết rằng ‘sau khi tuổi thọ hết’, nỗi khổ sở còn nặng nề hơn nữa. Từ câu ‘vào chốn u minh’ trở đi, kinh nói thẳng vào những tội khổ.
‘U minh’ còn thường gọi là “minh đồ” (đường tăm tối), “minh giới” (cõi tối tăm) là danh từ chỉ chung cả ba đường ác, cũng là chữ để chỉ riêng quỷ giới và địa ngục; chẳng hạn như sách Hội Sớ ghi: ‘U minh tức là minh đồ, suối vàng’.
Câu ‘chuyển sanh thọ thân, đổi hình thay nẻo’ được sách Hội Sớ giảng: ‘Thoát thân người, chịu thân quỷ, súc sanh v.v… nên bảo là “chuyển sanh thọ thân”. Chuyển biến trong tứ sanh nên bảo là “đổi hình”. Sống chết trong sáu đường nên bảo là “thay nẻo”.
“Tứ sanh’ là noãn, thai, thấp, hóa, chẳng hạn như: bỏ thân chim sẻ mang thân chó nên gọi là ‘đổi hình’. Lại như bỏ thân người khoác thân chó, tức là từ nhân đạo chuyển sanh vào súc sanh đạo nên gọi là ‘thay nẻo’. Chúng sanh xoay vần trong sáu đường. ‘Nê Lê’ chính là địa ngục.
Ngài Gia Tường giảng câu: ‘Thí như chốn lao ngục theo pháp luật thế gian cực hình rất khổ’ như sau: “Ví như pháp vua” là dẫn thí dụ để so sánh: Trước là báo nhẹ, sau là khổ nặng, giống như pháp vua trị tội: trước hết là gông xiềng, sau hạ chỉ giết đi. Trước là hiện báo, sau vào địa ngục nên bảo là “cực hình”.
Ý ngài nói: Làm ác chịu báo, trước là thọ quả báo nhẹ trong hiện đời; thân sau lại chịu trọng báo giống như phép vua trừng trị tội phạm: Trước hết nhốt vào ngục, thân bị gông xiềng, chịu đựng các khổ lớn. Những điều ấy ví như chịu các khổ báo nơi thân hiện tại. Tối hậu mới dùng đến cực hình, giết mất sanh mạng. Chữ ‘cực hình’ để ví cõi địa ngục. Nỗi khổ trong địa ngục như lửa nung đốt thân. Lại sau khi chết đi, đọa vào tam đồ bèn có Nê Lê, cầm thú, côn trùng… Địa ngục khổ nhất nên gọi là ‘cực hình’.
Chữ ‘hồn thần, mạng tinh’ trích theo bản Hán dịch, bản Ngụy dịch ghi là ‘hồn thần tinh thức’.
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao giảng: ‘Có thuyết nói thức thứ sáu gọi là hồn thần, thức thứ tám gọi là tinh thức’. Như vậy, ở đây chữ ‘mạng tinh’ chỉ thức thứ tám, tức là A Lại Da thức.
Do nó làm vị chủ nhân đi sau đến trước (khứ hậu lai tiên tác chủ nhân) nên gọi là ‘mạng tinh’. Thức thứ tám này dường như luôn tiếp nối. Lúc xả mạng hễ chỗ nào nghiệp nặng hơn thì nó bị lôi vào đó nên bảo là ‘theo tội hướng về’: theo tội báo vào trong ác thú.
Nếu hãm vào ngục Vô Gián thì muôn kiếp khó ra nên bảo là ‘[chịu lấy thọ mạng] hoặc dài’; hoặc sanh làm loài vi khuẩn chết sống trong mỗi sát na nên gọi là ‘hoặc ngắn’. Sách Hội Sớ nói: ‘Như [sanh trong] tám đại địa ngục và loài quỷ trường thọ thì gọi là “hoặc dài”. Như các loài thiêu thân, phù du v.v… thì là “hoặc ngắn”. Trong đó, vô lượng thọ mạng sai khác đều do túc nghiệp cảm vời. Trong đường lành, coi sống lâu là phước, nơi nẻo ác coi sống lâu là họa lớn.
‘Theo nhau cùng sanh để báo đền lẫn nhau’ nghĩa là: oan oan tương báo chẳng có cùng tận. Sách Hội Sớ nói: ‘Những kẻ sát sanh đời đời cùng sanh ra cùng lúc với nhau, người này giết hại người kia để báo đền nỗi oán hận’. Chẳng hạn như: kẻ bị giết vì muốn đòi nợ mạng nên ắt theo đuổi kẻ oán đối, phải đồng thời xuất hiện trong thế gian thì mới mong báo oán nổi. Bởi thế, oan gia trái chủ ‘theo nhau cùng sanh’.
Đời này người giết dê, tương lai người chết thành dê, dê chết thành người. Lại như mèo chết thành chuột, chuột chết thành mèo, đời đời cùng sanh với nhau, đoạt mạng để đền nợ nên kinh nói: ‘Báo đền lẫn nhau’.
Lại do kẻ đòi nợ qua thật nhiều đời báo oán, lại kết thành kẻ oán, người thân nên chẳng biết lúc nào xong. ‘Ương ác chưa tận, trọn chẳng thoát nổi’: “Ương” là họa, là tội, là hình phạt. Những ương ác đã tạo chưa đền trả hết thì ắt cứ xoay vần mãi trong đường ác chẳng có lúc ra, đau đớn không nói nổi.
Ngài Nghĩa Tịch giảng câu ‘tự nhiên có như thế’ như sau: ‘Làm ác thì dẫu chẳng muốn chịu quả khổ, quả khổ vẫn tự đến. Tu thiện dẫu chẳng mong cầu quả vui, quả vui vẫn tự đến khác nào như bóng theo hình, như tiếng vọng theo âm thanh. Nhưng kinh đây bảo là “tự nhiên” là ý nói nhân quả là pháp quyết định thế đó’.
Sách Hội Sớ cũng nói: ‘Nhân quả tất ứng nên bảo là tự nhiên’.
‘Bạo’ là mạnh gấp, đột nhiên, chữ ‘ứng’ là báo ứng. Kẻ ác làm ác ắt chịu quả báo, nhưng quả báo hoặc là chẳng ứng hiện ngay lập tức trong hiện tại nhưng nhân quả chẳng dối, ắt trong đời sau phải chịu khổ báo nên kinh dạy: ‘Thiện ác rồi sẽ quy kết cả’.
Chánh kinh: Thứ hai là nhân dân trong thế gian chẳng thuận pháp độ, xa xỉ, dâm dật, kiêu căng, phóng túng, mặc tình thỏa ý.
Kẻ trên bất minh, kẻ có địa vị bất chánh, hãm người oan uổng, tổn hại trung lương. Lòng và miệng khác nhau, cơ mưu, trá ngụy đa đoan; khinh dối hết cả tôn, ty, trong ngoài. Nóng giận, ngu si, ham hậu đãi mình, tham muốn có nhiều. Lợi hại thắng bại, kết phẫn thành thù, phá gia vong thân, chẳng quản trước sau.
Giàu có thì keo tiếc, chẳng chịu cho ra, càng thích giữ rịt, càng tham nặng hơn. Tâm nhọc thân khổ cho đến khi chết đi, không đem theo được gì! Thiện, ác, họa, phước theo mạng mà sanh: hoặc ở chỗ vui, hoặc vào nơi khổ độc.
Lại hoặc là thấy người lành thì ghét gièm, chẳng khởi lòng hâm mộ, bắt chước. Thường ôm lòng trộm cắp, mong mỏi hưởng cái lợi của người khác để cung cấp cho mình. [Của cải ấy rồi lại] tiêu tán, lại bị [kẻ khác] lấy mất. Thần minh ghi biết.
Rốt cuộc vào trong ác đạo, tự có tam đồ vô lượng khổ não, xoay vần trong đó bao kiếp khó ra, đau đớn chẳng nói nổi.
Giải: Điều thứ hai là tội ác trộm cắp. Đối với vật có chủ, dù ít hay nhiều, nếu chẳng cho mà lấy thì đều là trộm cắp. Hạnh trộm cắp vốn bắt nguồn từ tam độc. Tham dục, keo kiết thì dễ sanh tâm trộm cắp. Các ác hỗ trợ nhau thành ra tội trộm cắp.
Từ chữ ‘chẳng thuận pháp độ’ đến ‘chẳng tính trước sau’, kinh nói đến tội lỗi trộm cắp.
Trong câu ‘chẳng thuận pháp độ’, “pháp” là khuôn phép, pháp tắc, “độ” là quy củ, những quy định thông thường.
‘Dâm dật’ là như sách Đẳng Bất Đẳng Quán Tạp Lục nói: ‘Trong kinh, đa phần là chữ “dâm” có liên quan đến người nữ. Chữ “dâm” chuyên chỉ việc trai gái’. Hành dâm không chừng mực nên bảo là ‘xa xỉ, dâm dật’.
‘Kiêu’ là kiêu căng, hợm mình, khinh người. Nam nữ ở chung chẳng tuân theo lễ nghĩa, tình dục phóng túng, chỉ cốt khoái ý, chẳng sợ tội lệ nên bảo là ‘mặc tình thỏa ý’.
Câu ‘kẻ trên bất minh, người có địa vị bất chánh’ ý nói: kẻ có địa vị lợi dụng quyền thế lươn lẹo, chiếm đoạt, vơ vét, tổn người lợi mình, hại nước, hại dân… tạo đủ các thứ ác nghiệp. Gia Tường Sớ nói: ‘Quan tể tướng dung túng thuộc hạ bắt muôn dân đút lót, đoạt ngang của người’. Đấy là ‘kẻ trên bất minh’.
Ăn hối lộ đã thuộc về hạnh trộm cắp, huống hồ là còn ‘hãm người oan uổng, tổn hại trung lương’.
‘Hãm’ là vu hãm, hãm hại. ‘Oan’ là oan khuất. ‘Uổng’ là tà vạy. ‘Trung’ là làm việc thận trọng, hạnh ngay thẳng, vì việc công quên việc tư. ‘Lương’ là hiền lành.
Kẻ ác như thế ganh ghét người hiền, hãm hại người trung lương. Kẻ đó ắt lời nói xảo ngụy chẳng trung, a dua cầu lợi, phỉ báng người lương thiện, vu tội cho người, tâm khẩu bất nhất nên kinh bảo: ‘Lòng, miệng khác nhau, cơ mưu, xảo ngụy đa đoan’. Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Cơ là huyễn hoặc, ngụy là dối trá’. Ngài Cảnh Hưng nói: ‘Cơ là mưu mô, tức là khéo nói cho đẹp lòng nhằm lung lạc ý vua để làm chuyện mưu mô gian dối’. ‘Cơ’ còn có nghĩa là tâm cơ, ‘ngụy’ là gian dối. Lọc lừa, dối trá có nhiều thứ như thế nên bảo là ‘cơ mưu, xảo ngụy đa đoan’.
Kẻ ác như thế nào cần biết đến tôn ty, thượng, hạ, nội, ngoại, thân, sơ; đối với ai nó cũng đều dối trá, lừa lọc cả nên mới bảo: ‘Khinh dối hết cả tôn, ty, trong, ngoài’.
‘Nóng giận, ngu si, ham hậu đãi mình’: Hai độc sân và si khiến tâm tham càng thêm tăng trưởng. Sách Hội Sớ viết: ‘Ba ác hỗ trợ nhau khiến tà dục lừng lẫy, ham hố tài vật của người khác chỉ muốn tom góp về cho mình nên bảo là “ham hậu đãi mình”.
‘Ham muốn’ là tham dục, sân ác. Kinh Duy Ma dạy: ‘Chấp thân là gốc, tham dục là gốc’.
Sách Hội Sớ lại nói: ‘Biển dục sâu rộng chẳng biết chán đủ. Dẫu tôn quý hay thấp hèn, dầu nghèo hay giàu, không ai lại chẳng mong tom góp, chộn rộn, bôn ba nên gọi là tham dục’.
Muốn chiếm hữu nhiều nên bảo là ‘tham muốn có nhiều’. Do tranh nhau lợi hại, tổn người ích mình nên bảo là “lợi hại, thắng bại”.
Bởi thế ‘kết phẫn thành thù’. ‘Thù’ là căm hận, thậm chí nhà tan, mạng mất, chẳng nề hà gì hết nên kinh bảo: ‘Phá gia vong thân, chẳng quản trước sau’.
‘Trước sau’ chính là nhân trước, quả sau. Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Trước chẳng nề hà là đúng hay sai; sau chẳng quan tâm lời chê trách. Cũng nghĩa là trước đã chẳng hề xem xét tường tận, suy nghĩ cẩn thận; sau cũng chẳng ngại quỷ thần ngầm ghi chép. Hoặc cũng có thể hiểu là trước chẳng quan tâm đến tội nghiệp, sau chẳng tính đến quả báo trong tương lai’. Chỉ mong tranh thắng, chẳng sợ “lưỡng bại câu thương” (cả hai cùng thua thiệt, tổn thương). Chỉ cốt khoái ý, chẳng sợ tội báo đời tương lai. Chẳng quản ngại hết thảy, cứ tạo đủ các chuyện ác.
Từ câu ‘giàu có keo tiếc’ trở đi, kinh nói đến cái tội keo kiệt. Dẫu là kẻ giàu có nhưng keo kiệt đã thành tánh nên ‘chẳng chịu cho ra’. ‘Cho ra’ là bố thí. Chẳng chịu đem tài vật thí cho người khác chính là do ái dục kiên cố nên bảo là ‘càng thích giữ rịt’. Tâm tham sâu nặng nên bảo là ‘càng tham nặng hơn’.
‘Tâm nhọc thân khổ cho đến khi chết’ là trọn đời khổ sở, nhọc nhằn; cho đến khi chết đi rồi cũng chỉ là một mình mình đến, một mình mình đi ‘chẳng mang theo được gì!’. Gia Tường Sớ giảng: “Không mang theo được gì” là chỉ mình thần thức ra đi, của cải bỏ lại cõi trần’, nghĩa là: mọi thứ đều chẳng theo đi, chỉ có mỗi cái nghiệp tùy thân.
Những nghiệp thiện ác đã tạo lúc sống và cái quả phước hay họa do nghiệp cảm thành chẳng hề lìa bỏ mình nên bảo là ‘theo mạng mà sanh’. Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Nghĩa là cái nhân thiện ác và cái quả họa phước đều đi theo mạng căn đến chỗ mình sẽ được sanh về’. ‘Theo’ là đi theo, theo đuổi. Bởi thế nên đời sau ‘hoặc ở chỗ vui, hoặc vào nơi khổ độc’. ‘Chỗ vui’ là ba đường lành; ‘nơi khổ độc’ là ba ác đạo. ‘Khổ’ là đau khổ, ‘độc’ là độc họa. Đau khổ cùng cực nên bảo là ‘khổ độc’.
Tiếp đó, Phật nói đến cái tội trộm cắp. ‘Thấy người lành thì ghét gièm, chẳng khởi lòng hâm mộ, bắt chước’. ‘Ghét’ là ghét bỏ, ‘gièm’ là phỉ báng. Thấy điều lành của người chẳng những tâm không kính mộ; trái lại còn sanh tâm ghét bỏ, đơm đặt phỉ báng. Hạng người như vậy chẳng có thiện niệm lẫn thiện hạnh, trong bụng toàn ôm ấp ý nghĩ xâm đoạt. ‘Mong mỏi’ là hy vọng; chỉ nghĩ cách tổn người lợi mình nên kinh nói: ‘Mong mỏi hưởng cái lợi của người khác để cung cấp cho mình’.
Của bất nghĩa dễ dàng đạt được nên cứ mặc tình tiêu xài hoang đàng cho nên nhanh chóng ‘tiêu tán’, lại bị kẻ khác cướp đoạt mất nên bảo là ‘tiêu tán, lại bị lấy mất’. Bởi vậy, ‘thần minh ghi biết. Rốt cuộc vào trong ác đạo’.
‘Thần minh’ là như bản kinh Hoa Nghiêm dịch vào đời Tấn đã nói: ‘Người ta sanh ra, có hai vị trời thường theo sát hai bên. Một vị tên là Đồng Sanh, vị kia tên là Đồng Danh. Hai vị trời ấy thường thấy người đó nhưng người đó chẳng thấy được trời’. Hai vị thần như thế sanh chung với người nên gọi là ‘Câu Sanh thần’.
Kinh Dược Sư dạy: ‘Có Câu Sanh thần, chép đủ tội phước trao cho vua Diêm La’.
Sách Gia Tường Sớ cũng viết: ‘Hết thảy chúng sanh đều có thần: một tên là Đồng Sanh, hai tên là Đồng Danh. Đồng Sanh Nữ ở bên vai phải chép điều ác đã tạo. Đồng Danh Nam ở bên vai trái chép điều thiện đã làm’.
Kinh Ngũ Giới cũng dạy: ‘Tam phú, bát giáo, nhất nguyệt lục tấu’.
“Tam phú” là tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín. “Bát giáo” là tám ngày: Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông, Xuân Phân, Thu Phân, Hạ Chí, Đông Chí.
“Lục tấu” là sáu ngày ăn chay: mồng tám, mười bốn, rằm, hăm ba, hăm chín, ba mươi.
Nghĩa là: trong một năm, có ba tháng trình bẩm báo lên trên, có tám ngày báo cáo lên trên (‘giáo’ là bẩm cáo). Trong một tháng có sáu ngày tấu rõ.
Căn cứ vào kinh Ngũ Giới, ngài Vọng Tây bảo: ‘Trong những ngày như thế, thiên thần ghi chép điều thiện ác của chúng sanh’, ý nói: Những điều được thần minh bẩm báo đều là những điều thiện ác.
‘Ghi biết’ (nguyên văn là ‘khắc thức’): ‘Khắc’ là ghi khắc, chữ ‘thức’ có nhiều cách giải thích:
a. Một là theo như các sách Gia Tường Sớ, Tịnh Ảnh Sớ…thì ‘thức’ là ghi chép. Sách Hội Sớ nói: ‘Trong chốn u huyền có thiên thần ghi chép từng điều, không sai một mảy nên bảo là “khắc thức”. Chữ “thức” đọc cùng âm với chữ “chí” (theo âm Quan Thoại), có nghĩa là ghi chép’. Thuyết này giống với thuyết của ngài Gia Tường: có thần minh ghi chép điều thiện ác của mỗi người nên báo ứng chẳng trật.
b. Chữ Thức ở đây chính là thức thứ tám. Chẳng hạn như ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Do công năng chẳng quên của chủng tử thức nên gọi là khắc thức’.
Ngài Nghĩa Tịch và ngài Vọng Tây cùng chấp nhận cả hai cách giải thích này. Ngài Nghĩa Tịch nói: ‘Điều thiện ác đã làm chẳng những huân tập trong cái thức của mình mà còn được thiên thần ở ngoài ghi chép. Ghi ở cả hai nơi thì sai chạy nổi sao?’. ‘Hai nơi’ là nội thức và thần minh bên ngoài. Trong các thuyết trên, thuyết của Nghĩa Tịch ổn thỏa nhất bởi Duy Thức nào trở ngại việc thần minh ghi chép; thần minh ghi chép cũng nào trở ngại “duy thức sở hiện”. Bởi đó, thuyết “trong ngoài cùng ghi” là thích hợp nhất.
Do tội báo theo mãi nên xoay vần trong tam đồ ‘bao kiếp khó ra, đau đớn chẳng nói nổi’. ‘Bao kiếp’ là nhiều kiếp.
Chánh kinh: Thứ ba là nhân dân trong thế gian nương theo các nhân mà sanh, thọ mạng được mấy?
Kẻ bất lương thân tâm bất chánh, thường ôm lòng tà ác, thường nghĩ chuyện dâm dật, phiền đầy ắp bụng, phong thái tà vạy, vẻ ngoài lả lơi. Tốn phí của nhà làm điều phi pháp. Việc đáng nên cầu thì chẳng chịu làm; lại còn kết giao, tụ hội, hưng binh đánh nhau, công hãm, cướp đoạt, giết chóc, đâm chém, cưỡng đoạt, bức hiếp để đem về cấp cho vợ con. Lấy cực thân làm điều vui. Mọi người ghét bỏ, gặp tai nạn mới khổ.
[Do] những điều ác như thế [nên] mắc vòng [trừng phạt] của người [lẫn] quỷ. Thần minh ghi biết, tự vào tam đồ, vô lượng khổ não. Xoay vần trong ấy, bao kiếp khó ra, đau đớn chẳng nói nổi.
Giải: Thứ ba là nói về sự dâm ác và do cái nhân dâm ác dẫn khởi những cái ác: tham, sân, si…
‘Nương theo các nhân mà sanh’: “Nương” là nhờ vào, phụ thuộc vào. Cả câu này ý nói: Chúng sanh do các nghiệp nhân hợp lại mà sanh ra trong thế gian này. Sách Hội Sớ nói: ‘Thế giới an lập: Chỉ mình Dương thì chẳng thành, riêng Âm thì cũng chẳng lập. Chồng vợ làm nhân tạo thành. Lại cha con cũng do nhân tạo thành; vua tôi giúp nhau. Phàm trong vòng trời đất, nào có nghĩa độc lập nên bảo là ‘nương theo các nhân mà sanh’.
Ấy là vì chúng sanh đều có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Do người này, kẻ kia cùng có chung nghiệp báo nên sanh ra cùng một thời kỳ trong cùng một thế giới. Lại do biệt nghiệp của mỗi người đều khác, mỗi người đều có cái duyên túc nghiệp sai khác nên hoặc làm quyến thuộc, hoặc trở thành cừu địch, cùng sanh một chỗ để đền ân báo oán nên bảo là ‘nương theo các nhân mà sanh’.
‘Thọ mạng được mấy?’: trăm năm ngắn ngủi như chốc lát, vô thường vùn vụt. Mạng người trong hơi thở, nháy mắt liền hết; nhưng thế nhân điên đảo, chẳng biết khổ, không, vô thường, chỉ cầu cái vui huyễn vọng như con thiêu thân đâm đầu vào lửa tự đốt thân mình.
Bởi thế, ‘kẻ bất lương thân tâm bất chánh, thường ôm lòng tà ác, thường nghĩ chuyện dâm dật’. “Tà” là tà vạy, bất chánh. “Ác” là ác độc, bất thiện. Sách Hội Sớ nói: ‘Tà là tà vạy, ác là tội ác’. ‘Dật’ là phóng túng (theo Trung Hoa Đại Tự Điển). ‘Dâm’ là phóng đãng, tham sắc, chẳng kể lễ nghĩa. Dâm chính là một trong mười điều ác. Dâm là gông cùm trói buộc chúng sanh. Dâm là cội nguồn tội lỗi sanh ra các nạn. Hết thảy chúng sanh đều do dâm dục mà bị sanh tử nên bảo là: ‘Căn bản của sanh tử thì dục là bậc nhất’.
Các kinh luận được dẫn chứng dưới đây đều nói lên cái hại của dâm dục.
Luật Di Sa Tắc nói: ‘Trong năm giới của kẻ tại gia, chỉ cấm tà dâm. Mười giới xuất gia đoạn hẳn dâm dục. Chỉ phạm vào hết thảy chuyện trai gái trong đời đều gọi là phá giới. Thậm chí, hết thảy người đời do dục mà mất mạng tan nhà. Bỏ tục làm Tăng lẽ đâu còn phạm. Căn bản của sanh tử thì dục là bậc nhất. Vì thế, kinh dạy: “Sống dâm dục chẳng bằng chết trinh khiết”.
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao cũng nói: ‘Dâm dục chính là cội nguồn lưu chuyển sanh tử, là nhân duyên khiến xa lìa giải thoát, như bậc đại hiền bảo: “Trong lao ngục sanh tử, dâm làm gông cùm trói chặt hữu tình, là nạn khó thoát”. Lại như Trí Độ Luận chép: “Dâm dục tuy chẳng não chúng sanh nhưng vì nó trói buộc chúng sanh nên coi là đại tội”. Luận Du Già nói: “Trong các thứ ái, dục là nặng nhất. Nếu đối trị được nó, tự nhiên điều phục được các thứ khác; như chế ngự được kẻ mạnh mẽ thì những kẻ yếu hơn tự khuất phục. Mà dục pháp này có đến ba tội lỗi: Khổ mà tưởng như vui; chút ít ngọt ngào nhưng lắm tai hại; bất tịnh mà tưởng như là tịnh”.
Sách còn viết thêm: ‘Lẽ đâu tham đắm cái vui trong sát na để chịu đại khổ trong bao kiếp?”
Kinh Ha Dục (quở trách dục vọng) cũng dạy: ‘Nữ sắc là gông cùm trong thế gian. Phàm phu tham luyến chẳng thể dứt bỏ nổi. Nữ sắc là tai họa lớn trong thế gian bởi phàm phu cho đến chết chẳng thoát nổi nữ sắc. Nữ sắc là suy họa của thế gian. Phàm phu gặp phải thì không tai nạn nào lại không xảy đến!’.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘phiền đầy ắp bụng’ như sau: ‘Lửa dục nung nấu bên trong khiến bụng dạ nóng nảy, tâm cuồng loạn’.
‘Phong thái tà vạy, vẻ ngoài lả lơi’ là tánh cách dâm tà, phóng đãng, buông tuồng thể hiện rõ ra ngoài.
‘Tốn phí của nhà’: ‘Phí’ là hao tốn, ‘tổn’ là giảm.
‘Làm điều phi pháp’: việc làm đều chẳng hợp với pháp luật, đạo đức, thậm chí vi phạm pháp luật.
‘Việc đáng nên cầu thì chẳng chịu làm’ là chẳng cầu tự lập, chẳng chăm làm việc chánh đáng, chẳng cầu xuất ly, chẳng biết cầu phước, cầu huệ, cầu sanh Tịnh Độ.
Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘lại còn kết giao, tụ hội’ như sau: ‘Từ chữ “kết giao, tụ hội” trở đi là nói về việc tạo lỗi ác. Vì dâm nên gây tạo những chuyện: giết hại, trộm cắp… Đó là tội lỗi!’. Đoạn kinh tiếp theo đó nêu rõ vì dâm nên con người tạo đủ các tội trộm cắp, giết hại…
‘Kết giao’ là cấu kết, ‘tụ hội’ là tụ tập bọn tà. ‘Công hãm, cướp đoạt, giết chóc, đâm chém’ (công kiếp sát lục): Hễ dùng vật gì nhỏ, nhọn để đâm thì gọi là ‘lục’. Ở đây, chữ ‘lục’ chỉ các thứ binh khí như: thương, mâu v.v... để giết người.
Ngài Cảnh Hưng giảng chữ ‘cưỡng đoạt’ là ‘công nhiên cướp lấy’. ‘Bức hiếp’ là dùng oai lực để đe dọa, tức là cướp đoạt bằng oai thế. Đấy là tội trộm cắp.
Làm đủ những việc trộm cắp, giết hại như thế chỉ vì ‘để đem về cấp cho vợ con’: Chỉ cốt vui lòng một ả đàn bà nên dẫu cực thân vẫn lấy làm vui. Ngài Vọng Tây giảng chữ ‘cực thân’ như sau: ‘Cực là mệt nhọc’. Như vậy, ‘cực thân’ là làm cái thân khổ nhọc, mỏi mệt .
‘[Do] những điều ác như thế nên mắc vòng [trừng phạt] của người [lẫn] quỷ’: ‘Mắc vòng’ là chiêu cảm, dính vào. Ngài Nghĩa Tịch giảng: ‘Làm điều ác công khai thì bị vướng vào [sự trừng phạt] của người. Làm điều ác kín đáo thì bị vướng vào [sự trừng phạt] của quỷ’.
Sách Hội Sớ cũng bảo: ‘Người là nhân gian, quan quyền hình phạt. Quỷ là quỷ thần, quan cõi âm soi xét’. Thần minh âm thầm ghi chép, chư thiên cũng ghi chép thì kẻ tạo ác mong chi thoát khỏi. Bởi thế, ‘tự vào tam đồ’. ‘Tự’ là tự nhiên, có nghĩa là quyết định.
Chánh kinh: Thứ tư là nhân dân trong thế gian chẳng nghĩ tu thiện. Nói đôi chiều, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, ganh ghét người lành, bại hoại bậc hiền minh. Chẳng hiếu cha mẹ, khinh mạn sư trưởng. Với bằng hữu chẳng thủ tín, khó mà thành thật. Tự đại tôn quý, bảo là mình có đạo, hoành hành oai thế, xâm tổn người khác. Muốn người kính sợ mình, chẳng tự thẹn hổ, khó bề giáo hóa. Thường ôm lòng kiêu mạn, ỷ vào phước đức đời trước giữ gìn cho mình.
Đời này làm ác, phước đức tận diệt. Thọ mạng hết rồi, các ác vây lấy. Tên tuổi người ấy lại được ghi nơi thần minh, vạ ương dẫn dắt, không cách nào bỏ lìa được. Chỉ do việc làm trước mà vào trong vạc lửa, thân tâm tan nát, tinh thần, thân mình khổ cực. Ngay trong lúc ấy dẫu hối kịp chăng?
Giải: Thứ tư là tội vọng ngữ.
Trí Độ Luận giảng về ‘vọng ngữ’ như sau: ‘Vọng ngữ là tâm bất tịnh muốn dối gạt người. Che giấu sự thật, nói ra chuyện khác, tạo thành khẩu nghiệp. Đấy gọi là vọng ngữ’.
Sách Đại Thừa Nghĩa Chương cũng giảng: ‘Lời nói chẳng đúng sự thật nên gọi là “vọng”. Nói ra điều sai vạy nên bảo là “vọng ngữ”. Như vậy, mang lòng khi dối, miệng thốt ra lời chẳng thật thì gọi là vọng ngữ.
Thêm nữa, miệng có bốn lỗi, tức là bốn điều ác nơi khẩu nghiệp trong Thập Ác là: nói đôi chiều, ác khẩu, nói dối và nói thêu dệt. Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Bốn lỗi của miệng chẳng đúng với pháp, được gọi chung là vọng ngữ’. Nay kinh này giảng về năm sự ác nên dùng chữ ‘vọng ngữ’ để gộp cả ba lỗi kia của khẩu nghiệp, tính thành một điều ác. Nhưng kinh này hàm ý răn dạy cả Thập Ác nên lại nêu ra cả ba điều ác nơi miệng; bởi thế, trong phần nói tóm lược, lại có phần giải thích rộng ra.
Chữ ‘lưỡng thiệt’ (nói đôi chiều) được các nhà dịch kinh theo trường phái Tân Dịch dịch là ‘ly gián ngữ’. Tứ Phần Luật chép: ‘Người này, kẻ kia đấu loạn khiến người bị tổn hoại’. Ngài Thiên Thai nói: ‘Khích bác người này, kẻ kia, phá sự hòa hợp’. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương lại giảng: ‘Nói khiến bên này, bên kia trái nghịch nhau nên gọi là “lưỡng”. Đều do cái lưỡi để nói với cả hai bên nên bảo là lưỡng thiệt’. Nghĩa là: khích động ly gián, hý lộng thị phi.
Chữ ‘ác khẩu’ dịch theo lối tân dịch là ‘thô ác ngữ’. Sách Pháp Giới Thứ Đệ viết: ‘Dùng lời ác dồn ép kẻ khác khiến họ phải đau khổ thì gọi là ác khẩu’. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển thứ bảy cũng chép: ‘Lời lẽ thô tháp thì gọi là “ác”. Ác từ miệng sanh nên gọi là ác khẩu’. Như vậy, khiến người khác buồn, thốt ra lời thô ác khiến người khác đau khổ thì gọi là ác khẩu.
‘Vọng ngôn’ tức là vọng ngữ, dịch theo lối Tân dịch là ‘hư cuống ngữ’, xin xem lại lời giải thích ở phần trên. Vọng ngữ lại như kinh Phạm Võng đã bảo: ‘Chẳng thấy dám nói thấy, thấy nói chẳng thấy’. Những lời lẽ nghịch tâm, chẳng thật ấy chính là vọng ngữ.
‘Nói thêu dệt’ (ỷ ngữ), dịch theo lối Tân dịch là ‘tạp uế ngữ’. Câu Xá Luận nói: ‘Hết thảy các lời nói xuất phát từ cái tâm nhiễm tạp thì gọi là tạp uế ngữ’. Đại Thừa Nghĩa Chương lại giảng: ‘Tà ngôn bất chánh giống như là các sắc [pha trộn] bóng bảy. Dùng thí dụ để đặt tên nên gọi là nói thêu dệt’.
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Tiên Chú cũng bảo: ‘Ỷ ngữ là hết thảy ngôn từ bất chánh, chứa đựng ý dâm. Khách tao nhân đời sau quen thói ưa ví von mỹ nhân như cỏ thơm. Phàm những thứ lời lẽ ấy xâm nhập vào chốn khuê các thì đều gọi là ỷ ngữ’.
Sách Thập Thiện Nghiệp Đạo Chương cũng nói: ‘Ngôn từ diễn tả những điều nhiễm tạp thì gọi là “tạp uế ngữ”. Nếu là những văn từ bóng bảy chẳng khiến tâm tạp nhiễm, ca ngợi thật đức thì chẳng gọi là lời bất thiện vậy’.
Ngài Vọng Tây nói: ‘Với vọng ngữ này thế nhân thường thích phạm, chẳng đoái hoài quả báo mai sau. Như ngài Nam Sơn nói: “Với giới này người ta hay thích phạm. Ấy là bởi vọng nghiệp chất chứa sâu nặng, hạt giống [vọng nghiệp] trong tạng thức rất nhiều nên cứ gặp trần cảnh là liền phát động, tạo nên lời dối trá”.
Ngài còn nói: ‘Hành Cơ Bồ Tát lại nói: “Con cọp lỗ miệng hại người, gươm lưỡi đoạt mạng. Nếu cái miệng giữ được như cái mũi thì chết đi chẳng lo tai vạ gì!”. Người giữ được cái miệng im lặng như lỗ mũi thì mới khỏi sanh ra các họa hại.
Trí Độ Luận nói: ‘Như đức Phật đã nói, vọng ngữ có mười tội. Những gì là mười?
Một là hơi miệng hôi thối; hai là thiện thần tránh xa, phi nhân được dịp làm hại; ba là tuy có nói thật người khác chẳng tin nhận; bốn là khi người trí bàn soạn chẳng tham dự được; năm là thường bị phỉ báng, tiếng xấu xa đồn khắp thiên hạ; sáu là người khác chẳng kính, tuy có dạy dỗ, ra lệnh người khác chẳng tuân theo; bảy là thường hay ưu sầu; tám là tạo thành nhân duyên của nghiệp phỉ báng; chín là khi thân hoại mạng chung sẽ đọa địa ngục; mười nếu được thoát ra [khỏi địa ngục] sanh làm người thường bị phỉ báng’.
Ta thấy ác nghiệp vọng ngữ sanh ra lắm thứ ương họa như thế, chết đọa địa ngục, phải dè chừng chớ khinh thường!
‘Ganh ghét người lành’: Ghét là chán ghét, ganh là ganh tỵ. Đối với cả tám câu từ câu ‘ganh ghét người lành’ cho đến câu ‘tự đại tôn quý’, các cổ đức có hai lối giải thích khác nhau:
a. Một là như ngài Gia Tường giảng: “Ganh ghét người lành” là ác khẩu. “Bại hoại hiền minh” là vọng ngữ. “Chẳng hiếu song thân” (bản Ngụy dịch chép là “nhị thân”) là kẻ tạo ác tạo nghịch. “Với bằng hữu chẳng thủ tín” là bất trung, thành tội vọng ngữ bậc thượng. “Tự đại tôn quý” thành ra ác khẩu. “Bảo là mình có đạo” là nói đôi chiều’.
b. Hai là theo ngài Vọng Tây thì ‘ganh ghét người lành’ chính là tội lưỡng thiệt, ‘chẳng hiếu song thân, khinh mạn sư trưởng’ là tội ác khẩu. ‘Với bằng hữu chẳng thủ tín, khó mà thành thật’ chính là lỗi vọng ngữ. ‘Tự đại tôn quý, bảo là mình có đạo’ chính là tội nói thêu dệt.
Hai thuyết hơi khác nhau, nhưng lời nói đã chẳng thành thật thì từ một khẩu nghiệp sẽ có đủ các tội lỗi, khó bề phân giải tường tận. Thêm nữa, ‘bảo là mình có đạo’ là nếu mình chưa đắc thánh đạo mà bảo ta đã đắc thánh đạo là đã phạm đại vọng ngữ giới, sẽ phải chịu lấy tội báo nặng hơn các khẩu nghiệp khác.
‘Hoành hành oai thế, xâm tổn người khác’ là hoành hành bá đạo, cậy thế khinh người. ‘Muốn người khác kính sợ’ là muốn đại chúng coi mình là người cầm đầu, nghe theo lệnh mình, chỉ biết phục tùng mình. Kiêu căng, ngã mạn, chẳng biết thẹn hổ, chẳng tự răn dè, kiêng nể, khó bề giáo hóa, hàng phục. Bởi thế, kinh nói: ‘Chẳng tự thẹn hổ, khó bề hàng phục, giáo hóa, thường ôm lòng kiêu mạn’. Cái tội mạn nếu đem kết hợp với ba độc thì có tham mạn, sân mạn, si mạn, đều thuộc về tư hoặc.
‘Ỷ vào phước đức đời trước giữ gìn cho mình’: Những kẻ ác có thể hoành hành nhất thời như trên đều là do phước đức đời trước giúp cho họ, nhưng ‘đời này làm ác, phước đức tận diệt’. Ngài Vọng Tây bảo: ‘Nghiệp lành đời trước diệt sạch, thiện thần bỏ đi nên đời này gặp nạn, đấy là điều đau khổ vậy’. Ngài Tịnh Ảnh nói: ‘Nghiệp lành đời trước diệt hết, thiện thần xa lìa, thân không nơi nương dựa, gặp nhiều nạn ác là nỗi đau khổ vậy’.
‘Tên tuổi người ấy lại được ghi nơi thần minh’: ‘Danh tịch’ (tạm dịch là ‘tên tuổi’): Danh là tên họ, Tịch là sổ sách ghi tội; ‘được ghi nơi thần minh’: thần minh đem tội lỗi của kẻ ác ghi vào trong sổ ghi án.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘vạ ương dẫn dắt’ như sau: ‘Chẳng ai lôi kéo được mình, chỉ có nghiệp của chính mình ràng buộc mà lọt vào đường ác’. ‘Vào trong vạc lửa’ là tự vào trong lửa cháy và vạc nước sôi nơi địa ngục.
‘Thần hình’ là tinh thần và hình thể. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Do ác nghiệp lôi kéo, quỷ thần chộp nắm, nên vào trong ác đạo chịu khổ, bị nung đốt’. Bởi thế bảo là ‘rất khổ’. Ngay lúc đó, dẫu có hối hận cũng chẳng làm gì được nên bảo là ‘dẫu hối kịp chăng?’
Chánh kinh: Thứ năm là nhân dân trong thế gian chần chừ, lười biếng, chẳng chịu làm lành, trị thân, tu nghiệp. Cha mẹ răn dạy thì chống đối, hỗn hào, trái nghịch hệt như oan gia, chẳng bằng không con. Phụ ân trái nghĩa, chưa từng đáp đền. Phóng túng chơi bời, lang thang, ham rượu, mê vị ngon, thô lỗ, khoác lác, càn quấy, chẳng hiểu nhân tình. Vô nghĩa, vô lễ, chẳng thể khuyên can, giảng giải. Lục thân, quyến thuộc dù no đủ hay thiếu thốn, chẳng thèm lo nghĩ. Chẳng nghĩ ơn cha mẹ, chẳng kể nghĩa thầy bạn.
Ý niệm, thân, khẩu chưa hề có một điểm lành. Chẳng tin kinh pháp của chư Phật, chẳng tin sanh tử, thiện ác, muốn hại Chơn Nhân, đấu loạn tăng chúng. Ngu si mông muội, tự cậy trí huệ, chẳng biết sanh từ đâu đến, chết đi về đâu. Chẳng nhân, chẳng thuận lại hy vọng trường sanh. Từ tâm răn dạy mà chẳng chịu tin. Rát miệng bảo ban [cũng] chẳng ích gì cho kẻ đó. Cõi lòng bế tắc, ý chẳng khai giải. Mạng lớn sắp hết, hối, sợ rối bời, chẳng tu thiện sẵn, đến lúc ấy mới hối. Dẫu hối hận vào lúc cuối cùng cũng nào ích chi!
Giải: ‘Thứ năm là’: Đây là điều thứ năm [trong ngũ khổ, ngũ thống, ngũ thiêu]. Với điều này, cổ đức có hai cách giải thích:
a. Một là giống như những điều trên, điều này giảng về tội lỗi của việc uống rượu. Các vị Tịnh Ảnh, Gia Tường theo quan điểm này. Phần kinh văn trên có câu: ‘Ham rượu, mê vị ngon’, tiếp đó lại nêu lên các điều ác khác để nói rõ tai hại của rượu.
b. Quan điểm thứ hai là năm điều ác này thật ra bao gồm cả mười điều ác như ngài Nghĩa Tịch nói: ‘Ba nghiệp ác nơi thân là ba điều đầu (trong ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu). Bốn nghiệp ác nơi miệng gộp thành điều thứ bốn. Ba nghiệp ác nơi ý hợp thành điều thứ năm’. Nghĩa là: ba nghiệp sát sanh, trộm cắp, tà dâm là điều ác thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Bốn nghiệp ác nơi miệng là điều ác thứ tư. Cho đến đây, hai thuyết vẫn giống nhau. Nhưng riêng với điều ác thứ năm, các vị như Tịnh Ảnh… cho là tội uống rượu, còn ngài Nghĩa Tịch lại cho là chỉ chung cả ba nghiệp ác nơi ý, tức là tham, sân, si.
Ông Bành Tế Thanh đời Thanh cũng có cùng quan niệm này. Trong cuốn Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận, ông viết: ‘Đối với ý nghĩa của năm ác thì đặc biệt chuẩn theo các kinh khác mà phối hợp với Thập Ác. Điều ác thứ nhất thuộc về sát nghiệp. Điều ác thứ hai thuộc về tham, trộm. Điều ác thứ ba thuộc về dâm nghiệp. Điều ác thứ tư thuộc về nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, nói thêu dệt. Điều ác thứ năm thuộc sân hận, tà kiến. Trái ngược với chúng là năm điều lành, cũng gọi là Thập Thiện’. So với thuyết của ngài Nghĩa Tịch, thuyết của ông Bành chỉ khác một ít vì tà kiến là từ si sanh ra.
Ở đây, tôi giải thích kinh văn dựa theo cả hai thuyết cho nên bảo điều ác thứ năm là lỗi uống rượu; lại vì rộng khuyên Thập Thiện nên dùng kèm cả thuyết sau. Hai thuyết trên thoạt nhìn khác nhau, nhưng thật sự chẳng trái nghịch nhau. Bởi vì ham mê chè chén chính là tham ác. Say rồi dễ nóng, đó là sân độc. Rượu khiến cho thần trí hôn ám, uống quá độ thậm chí bất tỉnh nhân sự chính là si độc. Đủ thấy một cái lỗi uống rượu thường có đủ cả ba độc.
Sách Tư Trì Ký bảo uống rượu có mười cái hại. Sách viết: ‘Một là vẻ mặt xấu ác, hai là yếu sức, ba là mắt nhìn chẳng rõ, bốn là hiện ra vẻ nóng giận (sân độc), năm là tổn hoại nghề nghiệp mưu sinh, sáu là tăng tật bịnh, bảy là tăng thêm tranh chấp, cãi cọ (sân độc), tám là không còn tiếng tăm, chín là trí huệ kém (si độc), mười là khi mạng chung sẽ đọa trong ba ác đạo’. Trong những điều trên, điều thứ tư, điều thứ bảy là sân, điều thứ chín là si. Đời cũng có câu: ‘Rượu vào loạn tánh’ nghĩa là rượu có khả năng làm cho tâm ý và bổn tánh lương thiện của con người bị mê loạn khiến cho con người tạo ác.
Nay kinh đây bảo: ‘Ham rượu mê vị ngon’ thì chính là cả hai độc tham và si. Bởi thế một tội uống rượu thật sự gồm cả ba điều ác nơi ý nghiệp. Bởi thế, hai thuyết trên đây chỉ là do nói tách ra hay gộp lại mà thành ra sai khác mà thôi.
Tiếp đó, kinh nói chi tiết về những tai hại, ương họa của việc uống rượu. ‘Chần chừ, lười biếng’: ‘Chần chừ’ là do dự, ‘lười biếng’ là biếng nhác. Ý nói: trong tâm do dự, phóng dật, biếng nhác, chỉ cốt được an nhàn tấm thân chẳng thể tu thân, làm lành. Bởi thế, tiếp đó, kinh nói: ‘Chẳng chịu làm lành, trị thân, tu nghiệp’. ‘Nghiệp’ là chánh nghiệp. Câu này ý nói: Người ác chẳng chịu tu sửa thân mình, chẳng siêng tu chánh nghiệp.
Kẻ ấy đối với lời răn dạy của cha mẹ liền ‘chống đối, hỗn hào, trái nghịch’. ‘Chống đối’ là kháng cự lại. ‘Hỗn hào’ là hung bạo, hỗn ác. ‘Chống đối, hỗn hào’ có nghĩa là chống chọi, láo xược. ‘Trái nghịch’ là ngỗ nghịch, bất hiếu. Cha mẹ có con mà hệt như có oan gia nên bảo là ‘chẳng bằng không con’.
Đứa con ác như thế bội bạc từ ân nên bảo là ‘phụ ân’, trái nghịch lễ nghĩa nên bảo là ‘trái nghĩa’. ‘Chưa từng đáp đền’ nghĩa là đối với ân đức của cha mẹ hoàn toàn chẳng báo đáp. ‘Phóng túng’ là phóng đãng, tự tung tự tác. ‘Ham rượu’ là ưa say sưa, chè chén. ‘Mê vị ngon’ là ham thích ăn đồ mỹ vị. ‘Ham’ còn có nghĩa theo đuổi cái vui quá độ. ‘Mê’ là tham lam chẳng chán. Câu này ý nói mặc tình chè chén, ăn uống, tham ăn vô độ, đấy chính là lỗi ác của việc rượu chè.
Trong sách Thuật Ký, ngài Nghĩa Tịch giảng chữ ‘thô lỗ, khoác lác’ như sau: ‘Thô lỗ là lỗ mãng, đần độn, chẳng hay biết gì. Khoác lác là huênh hoang, mặc sức tự đại’. ‘Càn quấy’ là ngu cuồng, luôn làm càn, chẳng hiểu việc gì, nhưng không việc gì lại không làm. Sách Phụ Hành ghi: ‘Thô lỗ, khoác lác… là dáng vẻ chẳng biết xấu hổ, bất thuận’. Bởi thế, ‘chẳng hiểu nhân tình, vô nghĩa, vô lễ’. ‘Nghĩa’ là “nghi” (thích đáng), tức là những gì quy định khiến cho mọi sự được thích đáng, đúng đắn. Chữ ‘lễ’ được sách Lễ Ký giảng như sau: ‘Thuận nhân tình là Lễ’. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Quyết đoán đúng sai, thấy cái nào thích đáng thì làm theo, đó là Nghĩa. Phân biện tôn ty, chẳng trái với chuẩn mực, pháp tắc thì là Lễ’. Nghĩa là: Phân biệt được đúng, sai, việc làm đúng đắn là nghĩa. Biết tôn, ty, lớn, nhỏ, chẳng trái phạm quy ước đạo đức xã hội chính là Lễ. Vì trái nghịch với lễ nghĩa nên bảo là ‘vô nghĩa, vô lễ’.
‘Chẳng thể khuyên can, giảng giải’: Khuyên can là dùng đạo để chỉnh người khác, nghĩa là khuyên ngăn để kẻ ấy hành xử đúng đắn. Giảng giải là khuyên bảo, dùng lời lẽ dạy dỗ người khác. ‘Lục thân’ là cha, mẹ, anh, em, vợ, con. Hiển Dương Đại Giới Luận có câu: ‘Lục thân là ba đời trên của mình, tức là: cha mẹ, ông bà, ông cố, bà cố và ba đời dưới mình: con cái, cháu và chắt’. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao giảng chữ ‘quyến thuộc’ là: ‘Ngoài lục thân thì gọi là quyến thuộc’.
‘Tư dụng’ là những vật dùng để sanh sống như tiền bạc, lúa gạo v.v… Kẻ ác như vậy đối với những vật cần thiết để duy trì cuộc sống của lục thân, quyến thuộc hoàn toàn chẳng thèm quan tâm đến nên kinh nói: ‘Dù no đủ hay thiếu thốn, chẳng thèm lo nghĩ’. Đối với ơn cha mẹ, nghĩa thầy bạn, hoàn toàn chẳng nghĩ tới, thản nhiên như không nên kinh bảo: ‘Chẳng nghĩ ơn cha mẹ, chẳng kể nghĩa thầy bạn’.
Câu ‘ý niệm, thân, khẩu chưa hề có một điểm lành’ được bản Ngụy dịch ghi là: ‘Tâm thường nghĩ điều ác, miệng thường nói điều ác, thân thường làm ác, chưa từng có một điều lành nào!’. Rõ ràng là ba nghiệp thân, khẩu, ý thường làm nghiệp ác, chưa từng làm được việc lành gì. Câu này đủ chứng minh thuyết của ngài Nghĩa Tịch thật quả có căn cứ.
Câu ‘chẳng tin kinh pháp của chư Phật, chẳng tin sanh tử, thiện ác’ là nói về si họa. Chẳng tin Phật pháp, bác không nhân quả thì chính là nhất xiển đề.
Câu ‘muốn hại Chơn Nhân’ được bản Ngụy dịch ghi là ‘muốn giết Chơn Nhân’, bản Hán dịch ghi là ‘muốn hại La Hán’. Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa giảng: ‘Chơn Nhân là A La Hán’. Sách Pháp Hoa Sớ Ký lại bảo: ‘Chơn là sự chứng đắc. Do [A La Hán] là bậc chứng đắc chơn thật nên gọi là Chơn Nhân’. Giết A La Hán chính là ngũ nghịch trọng tội.
‘Đấu’ là đấu tranh, ‘loạn’ là lầm lạc, trái nghịch. Do vậy, ‘đấu loạn Tăng chúng’ chính là tội ‘phá hòa hợp Tăng’ trong ngũ nghịch. Đối với Tăng chúng hòa hợp tu hành đúng theo Phật pháp lại dùng thủ đoạn để ly gián, khiến họ tranh chấp, rối loạn, khiến pháp sự bị phế bỏ thì gọi là ‘phá hòa hợp Tăng’.
Kinh A Xà Thế Vương Vấn Ngũ Nghịch dạy: ‘Có năm tội nghịch nếu tộc tánh tử, tộc tánh nữ phạm những tội này thì không thể cứu được, ắt nhập địa ngục, chẳng còn nghi gì nữa. Những gì là năm? Tức là giết cha, giết mẹ, hại A La Hán, đấu loạn Tăng chúng, khởi ác ý đối với đức Như Lai’. Năm thứ ấy chính là ngũ vô gián nghiệp, chiêu cảm khổ quả trong địa ngục Vô Gián. Trên đây là nói về lỗi ác của sân và si.
Từ chữ ‘ngu si mông muội’ trở đi là nói về những sự đau khổ phát sanh từ si ác. ‘Mông muội’ là vô tri. Ngu si, vô tri lại ‘tự cậy trí huệ’, tự cho mình là đúng thì thật là ngu si đến cùng cực!
Lại do vì ngu si nên chẳng tin nhân quả ba đời; thế nên chẳng biết đời này sanh từ đâu đến, cũng chẳng biết chết đi sẽ sanh về đâu? Chẳng hiểu rõ nhân quả, chẳng tin luân hồi, chẳng biết lợi tha, chỉ toan tự lợi nên đối xử với người khác toàn là ‘bất nhân, chẳng thuận’ (Trang Tử nói: “Yêu người, làm lợi cho người là Nhân”. ‘Thuận’ là hòa thuận). Do chỉ biết tự lợi nên ‘hy vọng trường sanh’. Con người thế ấy tâm ngu, hạnh kém, tuy ‘từ tâm răn dạy mà chẳng chịu tin, rát miệng bảo ban vẫn chẳng ích gì cho người đó’. Bởi vì kẻ si như thế tấm lòng đóng chặt, dẫu nghe lời hay cũng chẳng thể lãnh hội, hiểu nổi. Rõ ràng là do si độc chiêu cảm nỗi đau khổ. Vì thế, Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Hiện có ngu si, ám chướng che lấp cái tâm, chẳng hiểu biết gì. Bởi vậy, đó là đau khổ’. Nghĩa là: do ngu si che lấp cái tâm nên vô tri, mông muội; đấy thật là nỗi đau lớn lao của kiếp người.
Ngài Nghĩa Tịch giảng chữ ‘đại mạng’ trong câu ‘đại mạng sắp dứt, hối, sợ rối bời’ như sau: ‘Sanh tử là đại mạng, cùng quẫn là tiểu mạng’. Ngài Vọng Tây giảng chữ ‘hối, sợ’ như sau: ‘Hối sợ là lúc mạng sắp dứt, lửa địa ngục hiện tiền. Lúc thấy tướng ấy, sanh lòng hoảng sợ, hối hận. Hối hận chen lẫn hoảng sợ nên bảo là “rối bời”. Lửa địa ngục bức bách thân là thiêu. Người ta nếu chẳng nhân lúc còn sống tu sẵn việc lành từ trước, để đến lúc lâm chung mới hối hận thì đã trễ; hối hận cũng chẳng làm gì được!
Chánh kinh: Trong vòng trời đất, ngũ đạo phân minh, thiện ác báo ứng, họa phước tiếp nối, thân phải tự lãnh, chẳng ai thế cho. Người lành làm lành từ vui vào vui, từ chỗ sáng vào chỗ sáng. Kẻ ác làm ác từ khổ vào khổ, từ tối vào nơi tối. Ai biết được thế? Chỉ Phật biết nổi mà thôi! Dạy bảo khai thị, kẻ tin hành theo thì ít. Sanh tử chẳng ngơi, ác đạo bất tuyệt. Thế nhân như vậy khó thể hết sạch. Bởi vậy, tự nhiên có tam đồ, vô lượng khổ não, xoay vần trong đó đời đời kiếp kiếp, chẳng có kỳ ra, khó được giải thoát, đau đớn chẳng nói nổi!
Giải: Đoạn này tổng kết năm sự ác, năm sự đau đớn, năm sự đốt.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘trong vòng trời đất, ngũ đạo phân minh’ như sau: ‘Trời đất là sở y thế giới khí thế gian, [chữ trời đất] chỉ chung cả ba cõi. Ngũ đạo là năng y hữu tình, chỉ chung cả đường lành lẫn nẻo ác. Nhân quả khổ vui ai cũng thường thấy nên bảo là phân minh’.
Ngài Nghĩa Tịch lại nói: ‘Trong vòng trời đất, sanh tử trong năm đường, nhân quả phân minh’, ý nói: Hễ có nhân ắt có quả. Nghiệp nhân như thế thì quả báo như thế, chẳng sai một mảy.
‘Thiện ác báo ứng’: Sách Tiên Chú giảng chữ ‘báo ứng’ như sau: ‘Có làm ắt có báo, có cảm ắt có ứng’. Như vậy, họa phước gặp phải trong hiện tại đều là báo ứng của túc nhân.
Sách Hội Sớ nói: ‘Thiện ác thuộc về nhân; họa phước thuộc về quả. Nhân có thiện ác, quả cảm khổ vui. Bóng theo hình, tiếng vọng theo âm thanh, chẳng sai tơ tóc’. Bóng ắt theo hình, tiếng vọng vang ra từ âm thanh không sai mảy may; nghiệp nhân, quả báo cũng giống như thế.
‘Họa phước tiếp nối’: Nghiệp nhân đời trước có thiện ác lẫn lộn nên đời sau thọ báo thì hoặc là trước vui sau khổ, hoặc là trước khổ sau vui. Khổ vui tiếp nối, họa phước thay phiên nhau nên bảo là ‘họa phước tiếp nối’. Làm lành được phước, tạo ác mắc họa, đều là tự mình làm tự mình chịu nên bảo là ‘thân phải tự lãnh, chẳng ai thế cho’.
Tổng hợp ý kiến của ngài Nghĩa Tịch và tác giả sách Hội Sớ, các câu từ chữ ‘người lành làm lành’ đến ‘từ chỗ tối vào chỗ tối’ được hiểu như sau:
Người lành là người gieo cái nhân lành; đời sau sanh trong nhà tôn quý, thân hình đoan chánh, duyên cảnh hòa mỹ, thân tâm sướng vui; đó là ‘vui’. Người ấy lại còn sáng suốt, thông đạt, ưa điều thiện, thích bố thí; ấy là ‘minh’. Nếu người ấy lại làm nhiều thiện nghiệp, siêng tu phước huệ thì được sanh lên trời. Hay hơn nữa là niệm Phật cầu sanh Tây phương v.v… Ấy là ‘từ chỗ sáng vào chỗ sáng’.
Còn kẻ ác tạo ác nghiệp, gieo nhân ác, chịu quả ác. Vì thế sanh trong nhà ty tiện, hình dung khô kháo, cả đói lẫn rách bức não thân tâm; ấy là khổ. Lại còn ngu muội, vô tri, chẳng tin chánh pháp, chẳng làm việc lành; ấy là ‘tối’. Thảng hoặc còn làm nhiều ác nghiệp, chết đọa ác đạo, nên bảo: ‘Từ khổ vào khổ, từ tối vào nơi tối’.
Tiếp đó, kinh dạy rõ lý nhân quả sanh tử trong sáu đường như thế rất u huyền; cả chín mươi lăm phái ngoại đạo chẳng thể biết được nổi, chỉ mình đức Thế Tôn ta biết được căn nguyên nên nói: ‘Chỉ Phật biết nổi mà thôi!’ Phật rủ lòng giáo hóa, mở bày sự chơn thật, nhưng chúng sanh ngu si, chẳng tin theo, chẳng hành theo. Bởi vậy, Phật nói: ‘Kẻ tin, hành theo thì ít’. Do đó, thế gian ‘sanh tử chẳng ngơi, ác đạo bất tuyệt’. Thế nhân chẳng tin lời Phật dạy răn cứ làm ác không thôi. Các câu tiếp đó như: ‘Bởi vậy, tự nhiên có tam đồ…’ nghĩa đã quá rõ.
Chánh kinh: Năm điều ác, năm sự đau đớn, năm sự đốt như thế ví như lửa lớn thiêu đốt thân người. Nếu có thể tự ở trong ấy nhất tâm chế ý, đoan thân chánh niệm, lời nói phù hợp với việc làm, việc làm chí thành, chỉ làm các điều thiện, chẳng làm các điều ác, thân riêng được độ thoát, đạt được phước đức, đạt được cái đạo Nê Hoàn trường thọ thì là năm điều đại thiện vậy.
Giải: Đoạn cuối của phẩm kinh này khuyên chuyển đổi năm điều ác thành năm điều thiện.
Câu ‘ví như lửa lớn thiêu đốt thân người’ là dùng lửa lớn ví cho năm điều ác. Nếu ai có thể trong năm thứ đau đớn, năm thứ thiêu đốt ấy mà chuyên nhất tâm mình, chế ngự, ngăn dứt ba điều ác trong ý nghiệp, đoan thân chánh tâm, lời nói đi đôi với việc làm, thành thật chẳng dối, chẳng làm các điều ác thì sẽ được các phước, thoát khỏi sanh tử. Sách Hội Sớ nói: ‘Khởi hạnh đúng với lời nói, dùng hạnh để thực hiện lời nói thì gọi là “lời nói phù hợp với việc làm”.
‘Trường thọ’ là trường sanh. Thế gian nào có sự trường sanh, chỉ có chứng được đạo vô thượng thì mới bất sanh bất diệt. Vì vậy, lìa được sự sanh tử của thế gian mới đúng là trường sanh thật sự. ‘Nê Hoàn’ chính là Niết Bàn, là quả của sự chứng ngộ trọn vẹn ba đức. Nói riêng trong Tịnh tông thì Niết Bàn chính là Cứu Cánh Tịch Quang. Sự lành như thế gọi là ‘đại thiện’.
Phẩm này giảng rộng về nhân quả thiện ác. Phước ‘tin sâu nhân quả’ trong ba thứ phước được giảng trong Quán kinh cũng chỉ giống như lời khuyên ở đây mà thôi. Thế nhân ngu si, chẳng trọng nhân quả, hoặc có kẻ còn vọng ngôn bài bác không có nhân quả, chống báng lời Phật răn dạy.
Bản Ngô dịch còn viết: ‘Những người muốn được sanh về cõi Phật A Di Đà nếu chẳng thể đại tinh tấn, thiền định, trì kinh giới thì phải dũng mãnh làm lành’. Cư sĩ Bành Tế Thanh nói: ‘Thập Thiện vốn là nghiệp để sanh cõi trời, nay do nhân duyên niệm Phật hồi hướng Cực Lạc, tức là chuyển nghiệp sanh cõi trời thành Tịnh nghiệp. Vì sao vậy? Người niệm Phật còn chuyển được nghiệp ác, lẽ nào chẳng chuyển được nghiệp sanh cõi trời?’ Vì thế, người tu Tịnh nghiệp phải tận hết sức mình hành thêm các điều thiện.
Như ta thường nghe nói ‘đới nghiệp vãng sanh’ thì cái nghiệp ấy chính là túc nghiệp. Những ác nghiệp trong những đời trước chưa tiêu hết hoàn toàn, nhưng do bổn nguyện của Phật và diệu đức của việc trì danh nên được đới nghiệp vãng sanh, chẳng lọt vào đường ác nữa (nguyện thứ hai của Phật A Di Đà là: ‘Sanh vào cõi ta, được ta giáo hóa… chẳng đọa vào trong đường ác nữa’). Như vậy, cái nghiệp được nói trong ‘đới nghiệp’ chính là túc nghiệp, chứ quyết chẳng phải là cái nghiệp hiện hành. Như trong kinh Niết Bàn có nói: người đồ tể tên Quảng Ngạch buông con dao mổ xuống thì ngay lập tức thành Phật; ta thấy rằng để thành Phật thì phải buông bỏ được con dao mổ. Nếu kẻ tu Tịnh Độ một mặt niệm Phật, mặt khác lại làm ác; cứ tu Tịnh kiểu đó thì quyết định chẳng vãng sanh nổi!
Lại có kẻ cho rằng làm lành là thuộc về Nhân Thiên thừa nên coi thường. Đời Đường, ngài Ô Sào thiền sư dùng cách thổi sợi lông trên vải để dạy đệ tử là Hội Thông, đệ tử liền ngộ nhập. Ngài dùng bài kệ ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ những điều lành’ để dạy ông Bạch Cư Dị. Ông Bạch bảo: ‘Hai câu ấy thì đứa nhỏ ba tuổi cũng nói được’. Ngài Ô Sào bảo: ‘Ông lão tám mươi làm điều đó còn chẳng xong’.
Ông Bạch Cư Dị nghĩ hai câu ấy là cạn cợt, coi việc thổi lông trên tấm vải mới là sâu xa. Ô Sào thiền sư coi hai việc ấy bình đẳng như nhau. Một kẻ mê, một người ngộ, xa cách nhau một trời một vực. Nếu là người căn cơ viên đốn thì pháp nào cũng viên cả. Nhân thiên thừa chính là Nhất Phật thừa, lẽ đâu coi thường ư?
Điểm mầu nhiệm của Tịnh tông là ở chỗ chiếu chơn đạt tục. Nếu rộng hành các điều lành thì chẳng những tạo phước cho xã hội hiện tại mà còn là trợ hạnh cho Tịnh nghiệp nữa. Lại thêm tín nguyện sâu chắc, trì danh hiệu Phật thì kiêm cả tự lợi lẫn lợi tha, thường vui sướng vô cực.
Hơn nữa, phẩm này giảng rộng về đời trược ác khổ, tuy chỉ giảng bày về mặt sự tướng, nhưng thật đã hiển bày trọn vẹn Nhất Tâm. Tâm nhơ uế ắt cõi nhơ uế, tâm ác ắt sanh trong đường ác. Không thứ nào chẳng do tự tâm biến hiện. Kinh đã giảng rõ hai cõi tịnh uế để ta biết mà ưa thích hay chán nhàm. Sách Di Đà Yếu Giải viết:
‘Sa Bà chính là do cái nhơ bẩn trong tâm mình cảm thành, lý ưng phải chán lìa những cái nhơ uế trong tâm mình; Cực Lạc chính là những cái thanh tịnh trong tâm mình cảm thành, lý ưng phải vui cầu những cái thanh tịnh trong tâm mình. Đã chán uế thì phải bỏ đến rốt ráo không còn gì để bỏ nữa; ưa tịnh thì phải lấy cho đến rốt ráo không còn gì để lấy được nữa.
Sách Diệu Tông nói: “Lấy và bỏ nếu đạt đến cùng cực thì cũng hoàn toàn chẳng khác gì với không lấy bỏ”. Giả sử chẳng từ Sự để lấy bỏ, lại toan chẳng lấy, chẳng bỏ thì chính là chấp Lý phế Sự. Đã bỏ Sự thì Lý cũng chẳng trọn vẹn. Nếu thấu hiểu toàn Sự là chơn thì lấy cũng là Lý mà bỏ cũng là Lý. Một lấy, một bỏ không gì chẳng phải là pháp giới’.
Thuyết của sách Yếu Giải sự lý viên dung, khế hợp khéo léo với Trung Đạo.
36. Trùng trùng hối miễn (bao lượt khuyên lơn)
Trong phẩm này, vì chiết phục chúng sanh ác nghiệp nên đức Phật lại chỉ bày, khuyên lơn. Trước hết ngài giảng rõ về nhân ác quả ác để chúng sanh biết mà kiêng sợ. Cuối phẩm, ngài lại khuyên nên đoan chánh thân tâm, chẳng quên công phu để khỏi phải hối hận.
Chánh kinh: Phật bảo Di Lặc:
- Ta bảo các ông: Năm sự ác, năm sự đau, năm sự đốt như thế xoay chuyển sanh lẫn nhau. Kẻ nào dám phạm phải những điều ấy sẽ trải thân trong đường ác; hoặc là trong đời này trước hết bị bịnh tật, tai ương, sống chết không xong, để làm gương cho kẻ khác. Hoặc là chết đi, đọa trong ba đường ác. Sầu đau, thảm não tàn khốc tự nung đốt thân.
Giải: Đoạn kinh này nói về cái họa do ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu sanh ra.
Gia Tường Sớ giảng: “Xoay chuyển sanh lẫn nhau” là ba độc. Chẳng trừ ác thì ác chẳng tuyệt, khổ quả chẳng dứt’. Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Năm ác là nhân, nhọc khổ là quả. Dùng quả để răn nhân. “Sanh lẫn nhau” là đời này bị đau khổ, đời sau bị thiêu đốt; điều này làm cái nhân để sanh ra điều kia vậy’.
Cả hai thuyết cùng nói đến ‘sanh lẫn nhau’ nhưng chưa giảng rõ chữ ‘xoay vần’. Các vị Tịnh Ảnh, Cảnh Hưng và Vọng Tây giảng rõ chữ ‘xoay vần’.
Ngài Vọng Tây bảo: ‘Trước hết nói rõ điều ác sanh ra nỗi đau khổ và thiêu đốt. Tiếp đó là từ thiêu đốt sanh ra điều ác và đau khổ’.
Ngài Tịnh Ảnh nói: ‘Trước hết, nói từ ác sanh đau đớn, sanh ra thiêu đốt. Tiếp đó, nói từ thiêu đốt sanh ra ác, sanh ra đau’.
Ngài Cảnh Hưng cũng giảng giống như thế, nghĩa là: ác, đau khổ và thiêu đốt lần lượt sanh lẫn nhau. Điều ác sanh ra nỗi đau đớn, thiêu đốt nên phải sanh trong ác đạo. Nhưng chúng sanh trong ác đạo ba độc quá nặng nên từ sự thiêu đốt ấy lại sanh ra các nỗi ác khổ, đau đớn như gà đẻ ra trứng, trứng lại nở ra gà. Cái này, cái kia lần lượt sanh ra nhau không lúc nào ngớt.
Bởi thế, tiếp đó kinh chép: ‘Kẻ nào dám phạm phải những điều ấy’. ‘Những điều ấy’ chính là những điều ác. Kẻ dám phạm vào những điều ác ắt sẽ mãi mãi lăn lóc trong nẻo ác nên kinh dạy: ‘Sẽ trải thân trong đường ác’. ‘Trải’ là trải qua, ‘đường ác’ chính cái quả do việc ác chiêu cảm. Bởi thế, kinh nêu lên tướng trạng của quả để răn đe chúng sanh ngõ hầu họ dứt bỏ nhân ác.
Các câu từ ‘hoặc trong đời này’ cho đến ‘để làm gương cho chúng’ là nói về năm sự đau; đấy chỉ là hoa báo trong đời hiện tại. ‘Bị’ là lãnh chịu; ‘bịnh’ là tật bịnh, ‘ương’ là tai họa như thủy tai, hỏa tai, hình phạt v.v... Kẻ làm ác ngay trong hiện đời thì hoặc bị bịnh nặng, hoặc mắc phải tai vạ, mong sống chẳng được, cầu chết không nổi. Sầu khổ muôn mối chẳng thoát khỏi được! Bởi thế, Phật nói: ‘Sống chết không xong’.
Tiếp đó, kinh nói: ‘Để làm gương cho kẻ khác’ là chỉ rõ quả ác này để khiến cho tất cả đại chúng đều được thấy rõ mà biết rằng nhân quả chẳng dối, sanh lòng kiêng sợ.
Tiếp đó, kinh chép: ‘Hoặc là chết đi, đọa trong ba đường ác’, đó chính là quả báo, tức là năm sự đốt vậy. ‘Sầu đau’ là lo buồn, đau đớn. ‘Khốc độc’ (tạm dịch là ‘thảm não, tàn khốc’) là nỗi đau đớn thảm thiết nhất. Chữ ‘nung đốt’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Nung đốt là dáng vẻ dữ dội của ngọn lửa địa ngục. Chữ “tự” nghĩa là do nghiệp của chính mình chiêu cảm’. Bởi thế, kinh chép là ‘tự nung đốt thân’.
Chánh kinh: Cùng với oan gia lại sát hại, tổn thương lẫn nhau. Bắt đầu từ chút việc nhỏ nhặt trở thành cái nhân lớn lao dữ dội.
Giải: Tịnh Ảnh Sớ cho rằng cả đoạn trên này là để nói rõ ý nghĩa ‘tự nung đốt thân’.
Ngài Vọng Tây cho rằng ‘lại sát hại, tổn thương lẫn nhau’ chính là ‘điều ác thiêu đốt chúng sanh, giết hại chúng sanh’. Trong trận lửa địa ngục, kẻ ác vì đau đớn quá mức nên nổi sân, đâm ra tàn sát, đả thương lẫn nhau. Đó chính là trong khi bị thiêu đốt lại gây thêm tội ác, kết thành oán cừu nên bảo là ‘oan gia’. Cứ đòi nợ lẫn nhau, Giáp giết Ất, Ất lại giết Giáp nên bảo là ‘giết hại, tổn thương lẫn nhau’.
Từ bé xé ra to, càng lúc càng phiền toái, càng khốc liệt, chẳng lúc nào hết nên bảo là: ‘Bắt đầu từ chút việc nhỏ nhặt trở thành cái nhân lớn lao dữ dội’. ‘Dữ dội’ là quá mức, kịch liệt, là nhiều, là tăng thêm. Làm ác chẳng thôi nên khổ càng tăng thêm chẳng ngừng, trở thành cái nhân lớn lao, khiến cái họa càng thêm sâu nên bảo là ‘trở thành cái nhân lớn lao dữ dội’. Bản Ngụy dịch chép là: ‘Lâu ngày thành lớn lao quá mức’. Tịnh Ảnh Sớ giảng:
‘Thân chịu lao khổ, khổ tăng thêm chẳng ngớt nên gọi là lâu ngày thành lớn lao quá mức’.
Chánh kinh: Đều do tham đắm tài sắc, chẳng chịu bố thí. Ai nấy chỉ muốn tự khoái, chẳng còn biết đến cong vạy hay ngay thẳng. Bị si dục bức bách nên hậu đãi mình, tranh lợi, phú quý, vinh hoa; cốt khoái ý ngay trong lúc ấy, chẳng nhẫn nhục nổi, chẳng chăm tu thiện. Oai thế chẳng lâu đã bị mòn diệt. Đạo trời lồng lộng, tự nhiên tỏ rõ. Bơ vơ, bồn chồn, sẽ vào trong đó. Xưa nay như thế, đau đớn thay, đáng thương thay!
Giải: Đoạn kinh này nói về cái nhân ác là ba độc rồi lại răn dạy.
‘Đều do tham đắm tài sắc’: Cầu được nhiều chẳng chán là ‘tham’, tâm tham kiên cố là ‘đắm’. Kinh Bảo Tích dạy: ‘Tà niệm sanh ra tham đắm, tham đắm sanh ra phiền não’. Trong chữ ‘tài sắc’ thì tài chỉ tiền tài, của cải; sắc là sắc tình, tức là tình ái nam nữ. Gia Tường Sớ giảng: ‘Hoặc là tham tài hay tham xác thịt’. Sách còn viết: ‘Từ câu “đều do tham đắm” trở đi nói đến tội lỗi của ba ác. Tham đắm vinh hoa, tham đắm cái vui hiện tại nên tạo ác’.
‘Chẳng chịu bố thí’ là chẳng chịu đem tài vật ban bố cho người. Sách Hội Sớ viết: ‘Tham dục tuy nhiều nhưng tài sắc là lớn nhất nên kinh đặc biệt nêu lên. Chẳng thể bố thí là tướng trạng của lòng keo kiệt’.
‘Ai nấy chỉ biết tự khoái, chẳng còn biết đến cong vạy hay ngay thẳng’ là chỉ cầu tự lợi để thỏa mãn tấm lòng, chẳng cần biết đến đúng sai, cong vạy hay chất trực. ‘
‘Bị si dục bức bách’: cội gốc của cái tâm tham dục chính là si nên bảo là ‘si dục’. Kinh Di Giáo chép: ‘Nếu có trí huệ thì chẳng tham đắm’. Vì thế, trong đoạn kinh này chỉ nói đến hai cái ác si và tham, còn sân thì đã được đề cập trong đoạn kinh ở phần trên rồi.
Sách Hội Sớ giảng chữ ‘bức bách’ như sau: ‘Ái dục bức bách, thường nghĩ tưởng dục cảnh’. Bởi đó mà tổn hại người khác để mình được lợi, chỉ ham ‘phú quý vinh hoa’, chỉ cầu khoái ý trong phút chốc, chẳng mong nhẫn nhục tu thiện, tích lũy phước báo cho mai sau. Nhưng oai thế nào còn mãi, phút chốc diệt mất.
‘Thiên đạo thi trương, tự nhiên củ cử’ (tạm dịch: ‘Đạo trời lồng lộng, tự nhiên tỏ rõ’): Thi là giương ra, ‘củ’ là chánh, là xem xét, là nêu ra cái sai. Cái lý tự nhiên, cái đạo pháp nhĩ (6) thì gọi là ‘thiên đạo’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Đạo lý trong thiên hạ tự nhiên lập bày vì thế gọi là “thiên đạo thi trương”. Hễ tạo ác tất bày rõ ra nên gọi là “tự củ cử”. Sách Hội Sớ nói: ‘Nói “thiên đạo” là nói đến nhân quả báo ứng’. Sách còn viết: ‘Sự đã phát sanh thì theo đúng pháp mà cắt đứt. Sự chưa phát hiện thì quan sát kỹ, thì gọi là “củ cử”. Cử là chỉ bày’.
‘Bơ vơ’ là không nơi nương dựa. ‘Bồn chồn’ là tâm hoảng sợ chẳng yên, kinh hoàng, hoảng hốt. Sách Hội Sớ giảng câu ‘sẽ vào trong ấy’ như sau: “Bơ vơ” là tình cảnh đơn độc, một mình sống, mình mình chết. “Bồn chồn” là tâm động, kinh hoàng xen lẫn không xen hở. “Trong ấy” là trong năm đường”. Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘Kẻ có tội sẽ phải đi về đó, không người bầu bạn nên bảo là bơ vơ, bồn chồn đi vào trong ấy’. Tiếp đó kinh nói: ‘Xưa nay như thế, đau đớn thay, đáng thương thay!’, ý nói: do tam độc tạo ra nhân ác thì nhất định phải chịu lấy ác quả đớn đau, thiêu đốt.
Trên đây Phật răn điều ác, tiếp đó, Phật khuyên làm lành.
Chánh kinh: Các ông được nghe lời kinh Phật thì phải suy nghĩ chín chắn, ai nấy tự nên giữ vững, trọn đời chẳng lười: tôn thánh, kính thiện, nhân từ, bác ái. Nên mong cứu đời, nhổ dứt cội rễ sanh tử và các ác thì sẽ lìa khỏi con đường tam đồ lo sợ, đau khổ.
Các ông làm lành như thế nào thì sẽ là bậc nhất? Nên tự đoan chánh cái tâm, nên tự đoan chánh cái thân. Tai, mắt, miệng, mũi đều tự đoan chánh. Thân, tâm khiết tịnh tương ưng với cái thiện. Chớ chạy theo dục vọng, chẳng phạm các ác. Ngôn từ, vẻ mặt nên hòa nhã, thân hạnh nên chuyên; cử động, ngó nhìn an định, thong thả. Làm việc bộp chộp để bị thua thiệt rồi sau hối hận. Làm việc chẳng thận trọng sẽ uổng mất công phu.
Giải: Trong đoạn này, đức Như Lai khuyên tất cả những người nghe kinh nên chuyên ròng, siêng năng tu thiện.
Chữ ‘lời kinh Phật’ chỉ chung hết thảy pháp môn bỏ ác làm lành, bỏ trần cảnh hướng đến giác ngộ. Chữ này còn dùng để chỉ riêng ba kinh Tịnh Độ giảng về Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh của Phật Di Đà. Kinh bậc nhất trong ba kinh đó chính là kinh này. ‘Suy nghĩ chín chắn’ tức là nghe xong phải suy nghĩ. ‘Giữ vững, chẳng lười’ là từ tư duy khởi lên tu hành.
‘Giữ vững’ là giữ đúng, phụng hành theo đúng lời dạy. Ngài Cảnh Hưng lại bảo: ‘Giữ vững là dẹp tà, giữ chánh’. Trọn hết đời này giữ đúng theo lời Phật dạy, chẳng hề biếng nhác nên bảo là ‘trọn đời chẳng lười’.
Đối với câu ‘tôn thánh, kính thiện, nhân từ, bác ái’, ngài Cảnh Hưng giảng: ‘Chữ “thánh” chỉ chung cả Phật lẫn Tăng. Thiện pháp dù là pháp thế gian hay xuất thế gian cũng đều là của báu vô thượng nên phải kính trọng. Ở đây, “thiện” là Tam Bảo. Nhân ái, từ bi cứu giúp tất cả mọi người nên bảo là “nhân từ, bác ái”, nghĩa là: bác ái giúp đỡ chúng sanh’.
‘Nên mong cứu đời’ là tự độ, độ người, tự giác, giác tha, làm cho khắp hết thảy chúng sanh vĩnh viễn thoát khỏi hư vọng sanh tử.
‘Nhổ dứt cội gốc sanh tử và các ác’ là siêng tu Giới, Định, Huệ; dứt bặt tham, sân, si. Cội rễ của sự luân hồi sáu đường chính là tham dục. Biển khổ sanh tử chỉ nhờ trí mới vượt nổi. Dùng gươm trí huệ chặt đứt các phiền não: tham dục, vô minh v.v… chính là ‘nhổ dứt cội rễ sanh tử’. Có như vậy mới vĩnh viễn lìa khỏi cái khổ tam đồ. Hễ ác đã tận thì sự thiêu đốt, sự đau khổ cũng hết. Vì thế, kinh nói: ‘Thì sẽ lìa khỏi con đường tam đồ lo sợ, đau khổ’.
Tiếp đó, Phật khuyên nên đoan chánh thân tâm cho tương ứng với điều thiện. Thế Tôn chỉ thẳng cách làm lành bậc nhất.
‘Làm lành’ có thể hiểu thô thiển là làm việc lành, chứ xét theo Thật Đế thì chính là ‘tâm này làm Phật’.
Nếu hiểu một cách thô thiển, câu‘đoan chánh thân, tâm, tai, mắt, miệng, mũi’ nghĩa là thân tâm đoan chánh như là ‘điều phi lễ chẳng phi nhìn, việc phi lễ chẳng nghe’.
Phân tích ở mức độ sâu hơn thì ‘tai đều tự đoan chánh’ chính là pháp Nhĩ Căn Viên Thông “xoay trở lại nghe nơi tự tánh” của Quán Âm đại sĩ. Đại Sĩ chẳng đuổi theo thanh trần mà xoay lại nghe nơi tự tánh; ấy chính là ‘đoan chánh nhĩ căn’. Cứ thế suy rộng ra thì chẳng rong ruổi theo sắc trần, quay trở lại quan sát tự tánh chính là ‘đoan chánh con mắt’. Cứ như thế, cả sáu căn chẳng rong ruổi theo sáu trần, chiếu rạng nguồn tâm thì mới gọi là ‘đoan chánh’, thì mới là bậc nhất.
Tiếp đó, câu kinh: ‘Thân tâm khiết tịnh tương ưng với cái thiện’ cũng có hai nghĩa sâu cạn. Hiểu cạn cợt thì thân tâm ly cấu vô nhiễm, việc làm nơi thân, lời lẽ nơi miệng, sự suy nghĩ nơi ý đều lành cả. Hiểu sâu hơn thì Thỉ Giác Trí khế hợp khéo léo với Bổn Giác Lý mới là ‘tương ưng với cái thiện’. Nhưng ta phải biết một cách đúng đắn rằng: xét đến rốt ráo điều thiện bậc nhất này chẳng ngoài ‘chẳng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành’.
Trong Tịnh tông, điều thiện bậc nhất chính là pháp môn Niệm Phật của Đại Thế Chí Pháp Vương Tử: ‘Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối’. Một tiếng Phật hiệu nhiếp trọn sáu căn nên sáu căn đều đoan chánh như Linh Phong đại sư từng bảo: ‘Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể chẳng thành tâm Phật’. Tâm đã là Phật thì tự nhiên sáu căn đều là Phật. Bởi thế mới bảo là: ‘Tai, mắt, mũi, miệng thảy đều tự đoan chánh’. Tự đoan chánh là do một tiếng Phật hiệu khiến cả sáu căn đều tự nhiên đoan chánh, tự nhiên ‘thân tâm khiết tịnh, tương ưng với điều thiện’. Điều thiện ở đây chính là ‘tâm này là Phật’.
Cuối phẩm này, Phật lại khuyên răn nên bỏ lòng dục, dứt điều ác, an hòa, chuyên tinh, thành thật. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương quyển 7 giảng chữ ‘dục’ như sau: ‘Nhiễm ái trần cảnh thì gọi là dục’. ‘Trần’ là năm trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm trần này có khả năng phát khởi lòng tham dục của con người nên được gọi là ‘ngũ dục’. Trí Độ Luận viết: ‘Ngũ dục còn gọi là ngũ tiễn (năm mũi tên) vì chúng phá hoại các thiện sự’. Vì thế, đức Thế Tôn khuyên răn chúng sanh ‘chớ ham cầu dục vọng’.
Vả nữa, trong các món dục, dâm dục là độc hại nhất nên Phật buộc người xuất gia chú trọng đoạn dâm. Nếu có thể ly dục thì ‘chẳng phạm các điều ác’. Đây chính là lời khuyên tha thiết ‘đừng làm các điều ác’.
Ngôn ngữ hòa nhã chính là Ái Ngữ trong Tứ Nhiếp Pháp; vẻ mặt hòa nhã chính là dùng từ quang chiếu soi người khác.
‘Thân hạnh’ là những việc do tự thân làm. ‘Chuyên’ là chuyên nhất, chuyên chú, chuyên ròng tinh tấn. ‘Nên chuyên’ là nên chuyên ròng tinh tấn hành đạo. Nếu nói theo kinh này thì ‘nên chuyên’ chính là nên một bề chuyên niệm.
‘Cử động’ tức là hành động. ‘Thong thả’ là từ từ, hòa hoãn. Vì thế, câu ‘cử động, ngó nhìn an định, thong thả’ nghĩa là nhất cử nhất động đều phải an tường, điềm tĩnh, thung dung, chẳng hấp tấp. Làm việc bộp chộp ắt sẽ bị thảm bại khiến phải hối hận về sau. Chẳng thận trọng, dè dặt trong việc làm thì bị ‘uổng mất công phu’. ‘Uổng’ là đánh mất, phí công. Chữ ‘công phu’ chỉ công phu tu trì.
37. Như kẻ nghèo được của báu
Trong phẩm trước, đức Phật nói đến những điều ác khổ để chiết phục chúng sanh, khuyên răn chúng sanh bỏ ác; trong phẩm này, đức Phật nói đến những nhân quả lành để nhiếp thọ chúng sanh, khuyên lơn họ tinh tấn đi theo đường lành, dứt bỏ ác hạnh nhằm ‘nhổ dứt cái khổ sanh tử’, ‘đạt sự vui vô vi’.
Chánh kinh: Các ông rộng trồng cội đức, đừng phạm đạo cấm, nhẫn nhục, tinh tấn, từ tâm, chuyên nhất, trai giới thanh tịnh trong một ngày một đêm thì hơn cả làm việc thiện suốt trăm năm nơi cõi Phật Vô Lượng Thọ. Vì cớ sao vậy?
Cõi nước Phật ấy đều là do đức tích tụ, các sự lành [tụ họp], không có mảy may điều ác.
Ở cõi [Sa Bà] này, tu thập thiện trong mười ngày mười đêm hơn hẳn làm việc thiện suốt ngàn năm nơi các cõi Phật phương khác. Vì cớ sao vậy?
Các cõi Phật phương khác phước đức tự nhiên, không có chỗ để tạo ác. Chỉ có thế gian này thiện ít ác nhiều, uống khổ, ăn độc chưa hề yên nghỉ.
Giải: ‘Rộng trồng cội đức’: Theo Hội Sớ, chữ ‘cội đức’ có hai nghĩa:
a. Lục độ là gốc của hết thảy công đức nên gọi là cội đức.
b. Tuyển trạch bổn nguyện của Phật Di Đà gộp thành quả đức sáu chữ hồng danh, đầy đủ vạn đức; đấy chính là gốc của mọi đức nên gọi là “cội đức”.
‘Trồng’ là vun bồi, bồi dưỡng. Ngài Vọng Tây giảng ‘đạo cấm’ là: ‘Vì Phật đạo nên cấm ngăn các ác thì gọi là đạo cấm’. Bởi thế, ‘chẳng phạm các đạo cấm’ chính là Giới độ trong lục độ. ‘Nhẫn nhục’ là Nhẫn độ. ‘Tinh tấn’ là Tấn độ.
Chữ ‘trai giới’ được ngài Vọng Tây giảng là: ‘Trai giới là Bát [Quan] Trai Giới nên mới bảo là một ngày một đêm v.v…’
‘Hơn cả làm lành suốt trăm năm nơi cõi Phật Vô Lượng Thọ’ là như trong pháp hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký trong kinh Bảo Tích có nói: ‘Nếu có chúng sanh ở trong cõi Phật ấy tu các phạm hạnh suốt cả ức trăm ngàn năm vẫn chẳng bằng ở trong thế giới Sa Bà này, chỉ trong khoảng thời gian khảy ngón tay khởi tâm từ bi đối với chúng sanh. Công đức người ấy đạt được còn nhiều hơn thế nữa. Huống hồ là trong một ngày một đêm trụ trong tâm thanh tịnh’.
Kinh Tư Ích cũng dạy: ‘Như người ở cõi tịnh trì giới suốt một kiếp; người ở cõi này thực hành lòng từ trong khoảnh khắc vẫn là tối thắng’.
Kinh còn dạy: ‘Ta thấy trong những cõi Hỷ Lạc và cõi An Lạc không có khổ não, cũng không có danh từ khổ não. Trong những cõi ấy mà làm các công đức thì chẳng đáng kể là lạ. Ở chốn phiền não này mà nhẫn được sự chẳng thể nhẫn, lại còn dạy người khác pháp này thì phước ấy mới là tối thắng’.
Kinh Thiện Sanh cũng nói: ‘Lúc Phật Di Lặc xuất thế, thọ giới suốt trăm năm cũng chẳng bằng [thọ giới] một ngày một đêm trong cõi ta. Vì sao vậy? Trong thời của ta, chúng sanh có đủ cả năm thứ nhơ bẩn. Này thiện nam tử! Bát Trai Giới đây chính là con đường dẫn tới trang nghiêm vô thượng Bồ Đề’.
Tôi dẫn nhiều kinh như trên nhằm chứng minh rằng trong cõi này, ngay trong khoảng ‘uống khổ, ăn độc, chưa từng yên nghỉ’ này mà hành nhân lại có thể trai giới thanh tịnh, nhẫn nhục, tinh tấn thì công đức của người ấy vượt xa những người khác trong các cõi Phật phương khác. Trong cõi này, tu hành dù ‘một ngày một đêm hơn cả làm lành suốt trăm năm trong cõi Phật Vô Lượng Thọ’, ‘trong mười ngày mười đêm hơn hẳn làm việc thiện suốt ngàn năm nơi các cõi Phật phương khác’. Ngài Vọng Tây bảo ‘uống khổ, ăn độc’ là ‘uống nước bát khổ, lại ăn ba độc vị’.
Trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Sao, ngài Vọng Tây viết:
‘Hỏi: Nếu tu hành tại uế độ là thù thắng thì cứ tu trong cõi này, sao lại nguyện sanh Tịnh Độ?
Đáp: Như sách Yếu Tập viết: “Kinh này chỉ nói về sự tu hành khó hay dễ, chứ chẳng giảng về thiện căn là thù thắng hay hèn kém. Ví như kẻ nghèo hèn thí được một tiền tuy đáng khen là hay, nhưng chẳng bao biện được các việc. Kẻ phú quý bỏ ra ngàn vàng tuy chẳng đáng gọi là hay, nhưng lại có thể hoàn tất muôn sự. Việc tu hành trong hai cõi cũng giống như thế”. Nếu muốn mau chóng hoàn thành các việc thành Phật, lợi sanh thì phải chuyên cầu Tịnh Độ, lẽ nào lưu luyến uế độ, chẳng thành tựu nổi Phật đạo’.
Lại nữa, theo ngài Cảnh Hưng, ở cõi này tu trong một ngày đêm hơn hẳn làm lành cả trăm năm nơi Tây phương là vì ‘ở đây tu khó thành’. Ý nói: Trong cõi này, tấn tu rất khó; do khó làm nổi nên coi là quý. Còn như ở cõi kia thì chóng đắc Vô Thượng Bồ Đề do ‘trong cõi kia, không lúc nào chẳng tu; còn cõi này lúc tu thiện lại ít nên [nói như vậy] chẳng mâu thuẫn nhau’. Xét ra, thuyết của ngài Cảnh Hưng càng thù thắng hơn nữa.
Chánh kinh: Ta thương xót các ông, khổ tâm khuyên dụ, trao cho kinh pháp, [các ông] đều phải thọ trì, suy nghĩ lấy, đều phải phụng hành. Tôn ty, nam nữ, quyến thuộc, bằng hữu lần lượt dạy bảo nhau. Tự phải ước kiểm nhau, hòa thuận, nghĩa lý, hoan lạc, từ hiếu. Nếu trót phạm lỗi liền tự hối lỗi, bỏ ác, hướng về điều lành. Sáng nghe, chiều đổi, phụng trì kinh giới như kẻ nghèo được của báu. Sửa đổi quá khứ, tu hành tương lai, rửa lòng, đổi hạnh; tự nhiên cảm giáng, sở nguyện ắt được.
Giải: Thế Tôn mấy lượt khuyên lơn, chỉ mong đại chúng phụng trì kinh giới nên trong đoạn này trước hết Phật bảo: ‘Trao cho kinh pháp’, khuyên bảo chúng sanh thọ trì, tư duy, phụng hành đúng pháp. Sau đấy, Phật lại khuyên ‘phụng trì kinh giới như kẻ nghèo được của báu’.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘ta thương xót các ông khổ tâm khuyến dụ’ như sau: “Ta thương” là Như Lai đại từ, “các ông” là căn cơ được đức Phật rủ lòng thương. Năm thời giáo hóa, dạy cho bán giáo, mãn giáo nên bảo là “khổ tâm khuyến dụ”.
Ý nói: Như Lai đại từ thương xót các căn cơ, rát miệng xót lòng khai thị, dạy dỗ. Năm thời thuyết pháp nhằm thích ứng các căn cơ. Giáo pháp có bán (bán tự giáo) hay mãn (mãn tự giáo) nhưng đều là tùy duyên độ thoát nên mới bảo là ‘khổ tâm khuyến dụ, trao cho kinh pháp’.
Phật lại dạy rằng: Đối với những kinh pháp đã được nghe như thế, đều phải nên ‘thọ trì, suy nghĩ’, ‘phụng hành’, ‘lần lượt dạy nhau’. ‘Phụng’ là tin kính, ‘hành’ là tu hành. Đó là tự lợi. Đối với các thân hữu liền ‘lần lượt dạy nhau’ chính là lợi tha. ‘Nếu chẳng thuyết pháp độ sanh thì chẳng báo nổi Phật ân’.
Tiếp đó, Phật lại khuyên ‘tự ước kiểm lẫn nhau, hòa thuận nghĩa lý, hoan lạc, từ hiếu’. ‘Ước kiểm’ cũng giống như ước liễm, tức là ‘nên tự đoan chánh cái tâm, nên tự đoan chánh cái thân’. ‘Hòa thuận nghĩa lý’ nghĩa là lời lẽ cùng cử chỉ đều vừa hòa theo nghĩa, vừa thuận với lý. Hòa theo nghĩa thì cử chỉ thích đáng. Thuận theo lý thì tự nhiên được đúng chừng mực.
‘Hoan’ là hoan hỷ; phần lớn cuối các kinh có câu ‘đều đại hoan hỷ’. ‘Lạc’ là an lạc. Thế gian thường bảo ‘thượng từ hạ hiếu’, kinh cũng nói: ‘Ta thương xót các ông còn hơn cả cha mẹ nghĩ đến con’; đấy là đại từ. Chúng sanh trong sáu đường đều là cha mẹ ta, thệ nguyện cứu độ thì là đại hiếu. Do đại bi nên khiến cho khắp tất cả được thoát khổ. Do đại từ nên khiến tất cả được hưởng vui. Ấy chính là đại hạnh của Bồ Tát, mà cũng chính là ý nghĩa thật sự của ‘hoan lạc, từ hiếu’.
Thêm nữa, muốn ‘dạy bảo lẫn nhau’ thì trước hết phải dùng tứ nhiếp để lôi cuốn chúng sanh (tứ nhiếp là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự) cho nên ‘hoan lạc từ hiếu’ cũng chính là Tứ Nhiếp Pháp.
Từ câu ‘hễ trót phạm lỗi’ cho đến ‘rửa lòng, đổi hạnh’ đều khuyên phụng trì kinh giới. Phẩm này mang tên ‘Như kẻ nghèo được của báu’ nên câu ‘phụng trì kinh giới như kẻ nghèo được của báu’ chính là câu cốt lõi của phẩm này. Đức Thế Tôn tâm Từ đến tột bực nên ban lời dạy như thế. Kẻ nghèo được của báu ắt diệt ngay các khổ, bởi đó hoan hỷ, vô ưu. Ở đây, Phật dùng của báu để ví diệu dụng của kinh giới.
Hơn nữa, kẻ nghèo một khi có được của báu thì dốc trọn tánh mạng, tận lực gìn giữ, chẳng để mất đi. Ở đây, Phật khuyên hành nhân được lãnh thọ kinh giới thì phải tự khéo vâng giữ như bảo vệ đầu, mắt. Nếu lỡ khuyết phạm thì phải mau sám hối.
‘Bỏ ác, hướng về điều lành... Sửa đổi quá khứ, tu hành tương lai’ là bỏ những ác hạnh sai trái trong quá khứ, tu thiện nghiệp đúng đắn trong hiện tại. ‘Sáng nghe chiều đổi’ là thuận theo việc thiện, biết lỗi liền sửa đổi. ‘Rửa lòng’ chính là rửa sạch cấu nhơ trong tâm. ‘Đổi hạnh’ (nguyên văn “dịch hạnh”): Dịch là biến dịch (thay đổi), nghĩa là dứt ác hướng thiện, bỏ tà theo chánh, hồi Tiểu hướng Đại, bỏ cái hư ngụy, giữ lấy cái chơn thật. Được như thế thì ‘tự nhiên cảm giáng, sở nguyện liền được’, nghĩa là: tự nhiên cảm ứng, Phật lực ngầm gia hộ, có nguyện cầu chi đều được viên mãn.
Chánh kinh: Phật đi đến đâu thì mọi người trong các quốc gia, thôn ấp, phường xóm, tụ lạc, không ai chẳng được ngài giáo hóa. Thiên hạ hòa thuận, mặt trời, mặt trăng sáng tỏ, mưa gió đúng thời, tai ương, tật dịch chẳng khởi, nước giàu dân yên, vũ khí [trở thành] vô dụng. Sùng đức, hưng nhân, chăm tu lễ nhượng. Nước không đạo tặc, chẳng có oan uổng, mạnh chẳng hiếp yếu, ai nấy đều được vừa lòng.
Giải: Đoạn kinh này nói lên từ đức vô lượng của Phật.
Câu ‘Phật đi đến đâu’ chỉ những chỗ Phật đã từng đi đến, mà cũng có nghĩa là những nơi được Phật pháp lưu truyền đến.
‘Quốc’ là quốc gia, ‘ấp’ là làng mạc. ‘Phường xóm’, nguyên văn là ‘khâu’. Chữ ‘khâu’ có hai nghĩa: Sách Hội Sớ bảo là núi gò; sách Chu Lễ bảo: ‘Bốn ấp là một khâu’. Như vậy, ‘khâu’ có nghĩa là nơi dân chúng tụ lại sanh sống. ‘Tụ lạc’ có nghĩa là thôn xóm. Ngài Vọng Tây bảo: ‘Làng nhỏ gọi là tụ’.
‘Quốc gia, thôn ấp, xóm phường, tụ lạc’, bất cứ nơi nào Phật đã đặt chân đến thì không ai là chẳng được nhận lãnh sự giáo hóa của Phật nên bảo là ‘không ai chẳng được ngài giáo hóa’.
Được nhận lãnh sự giáo hóa của Phật tất nhiên sẽ cảm ứng được những điều tốt lành. Bởi thế, ‘thiên hạ hòa thuận’ cho đến ‘ai nấy đều được vừa lòng’. ‘Thiên hạ hòa thuận’ là thế giới hòa bình, mọi xứ hòa hiếu với nhau.
‘Mặt trời, mặt trăng sáng tỏ, mưa gió đúng thời’ là mưa hòa gió thuận, không có các thiên tai: hạn hán, lũ lụt, gió bão, mưa đá…
‘Tai ương, tật dịch chẳng khởi’: Tai là tai họa, ‘dịch’ là dịch lệ (bịnh dịch) nghĩa là không những không có các tai vạ: núi lở, động đất, biển trào, đất chìm…các nạn: nước, lửa, đao binh, mà cũng chẳng có các thứ ôn dịch lưu hành.
‘Nước giàu dân yên’ là quốc gia sung túc, sản xuất dồi dào, nhân dân an lạc.
‘Vũ khí trở thành vô dụng’ (nguyên văn “binh qua vô dụng”): “Binh” là đao binh, tức là những khí giới có mũi nhọn chế bằng kim loại; ‘qua’ là các loại kích có mũi bằng. Chữ ‘binh qua’ thường được dùng để chỉ chiến tranh. ‘Binh qua vô dụng’ nghĩa là: trong nước không có giặc cướp, phản nghịch; ngoài không bị nước khác xâm lấn nên có thể dẹp võ dụng văn, xếp vũ khí không dùng đến nữa.
‘Sùng đức hưng nhân’: Tôn sùng đạo đức gọi là ‘sùng đức’; phát triển chánh sách nhân từ thì gọi là ‘hưng nhân’.
Sách Hội Sớ giảng chữ ‘chăm tu lễ nhượng’ là: ‘Tôn ty có trật tự là lễ, nhường nhịn người là nhượng’. ‘Nhượng’ còn nghĩa là nhường bước, đưa cái tốt lành cho người, chẳng giành lấy về mình.
‘Nước không có đạo tặc’ là nhân dân đều tuân theo lẽ phải, vâng giữ pháp luật nên chẳng có trộm cướp.
‘Chẳng có oan uổng’ vì kẻ nắm giữ chức vị thì liêm minh công chánh, xét kỹ từng chi tiết nên chẳng phán án lầm.
‘Mạnh chẳng hiếp yếu, ai nấy đều được vừa lòng’: ỷ mạnh hiếp yếu chính là nguồn cội của mọi tai vạ trong thế gian. Nước hùng mạnh cậy vào quân lực hiếp đáp nước nhược tiểu, kẻ giàu cậy vào tiền của để bóc lột người nghèo, kẻ nắm giữ quyền bính thường dựa quyền thế để rúc rỉa nhân dân; còn không thì kẻ mạnh lại kết thành giặc cướp bức hại người lương thiện. Cậy đông hiếp đáp kẻ cô thế, cậy thế khinh người, rúc rỉa máu xương người khác để cốt ấm thân, tàn nước hại dân, không còn gì tệ hơn thế nữa. Bởi thế nguyện ‘mạnh chẳng hiếp yếu’, ai nấy ‘đều được vừa lòng’. Đây, kia đều an, kẻ có người không chia sẻ cho nhau, chung sống hòa bình, nguyện thế giới đạt đến đại đồng.
Phật đi đến đâu, chỗ đó đều được hưởng những lợi ích như thế, đủ thấy từ lực của Phật khó suy nghĩ, khó bàn luận nổi!
Chánh kinh: Ta thương xót các ông còn hơn cha mẹ nghĩ đến con. Ta trong đời này làm Phật, dùng cái thiện công kích cái ác, dẹp tan cái khổ sanh tử, khiến cho [các ông] đạt được năm đức, đạt cái vui vô vi.
[Sau khi] ta bát Nê Hoàn, kinh đạo dần dần diệt mất, nhân dân siểm ngụy lại làm các điều ác. Năm sự đốt, năm sự khổ càng về sau càng nặng thêm lên. Các ông phải lần lượt dạy lẫn nhau [tu hành] đúng theo kinh pháp của Phật, trọn chẳng được phạm.
Giải: Trong đoạn này, do vì Phật pháp sẽ dần dần diệt mất, ngũ thiêu, ngũ thống sẽ chuyển thành dữ dội hơn nên Phật lại răn dạy chúng sanh bỏ ác tu thiện, phụng trì kinh pháp.
Câu ‘còn hơn cha mẹ nghĩ đến con’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Cha mẹ chỉ hạn cuộc trong một đời, còn Phật thì vô lượng kiếp. Cha mẹ chẳng bình đẳng, Phật thường bình đẳng. Cha mẹ chán ghét đứa con bất hiếu, Phật thương xót kẻ ác nghịch. Cha mẹ nuôi dưỡng sắc thân, Phật trưởng dưỡng nội tâm. Vì thế, bảo là “còn hơn”.
Ý nói: Phật dùng lòng đại từ bình đẳng trong vô lượng kiếp nuôi dưỡng huệ mạng của chúng ta, vượt xa khả năng của cha mẹ nên bảo là ‘còn hơn cha mẹ’.
Chữ ‘đời này’ chỉ đời ác ngũ trược. ‘Dùng cái thiện công kích cái ác’: Phật thuyết pháp lành giáo hóa chúng sanh, hàng phục những lỗi ác của họ để tiêu trừ năm điều đau đớn, để diệt năm sự đốt. Chữ ‘ác’ chỉ năm sự ác.
‘Năm đức’ chính là sự thiện. Làm cho hành năm điều thiện, bỏ năm điều ác, quay lưng với trần cảnh để trở về với giác ngộ, nhổ tận gốc cội khổ sanh tử của hữu tình để được sự thường lạc vô vi.
‘Bát Nê Hoàn’ nghĩa là “bát Niết Bàn”, dịch nghĩa là “nhập diệt”, “viên tịch”. Chánh pháp của Phật Thích Ca tồn tại năm trăm năm, Tượng pháp một ngàn năm, Mạt pháp một vạn năm. Khi cả ba thời gian này đã qua thì gọi ‘kinh pháp diệt hết’ như trong kinh Pháp Diệt Tận có nói kinh Thủ Lăng Nghiêm diệt mất trước tiên, các kinh khác cũng dần dần diệt mất. Vào lúc đó, ‘nhân dân siểm ngụy’. Siểm là dua vạy, ‘ngụy’ là dối trá, lòng người dâm tà, giảo quyệt, dối trá nên ‘lại làm các điều ác’. Bởi vậy, sự đau đớn, sự thiêu đốt lại hừng hẫy nên bảo là ‘càng về sau càng nặng thêm lên’. Nghĩa là: từ Chánh pháp, Tượng pháp chuyển sang Mạt pháp, sự thiêu đốt và sự đau đớn càng thêm thảm khốc, càng lớn lao, càng dữ dội hơn. Vì thế Phật dạy ngài Di Lặc cùng hết thảy hội chúng phải nên ‘lần lượt dạy nhau’ tin nhận, phụng hành kinh pháp của Phật chẳng được sai phạm.
Chánh kinh: Di Lặc Bồ Tát chắp tay bạch Phật: ‘Thế nhân ác khổ đúng là như vậy, đúng là như vậy. Phật đều thương xót họ, độ thoát tất cả. Con vâng lãnh lời răn dạy ân cần của Phật, chẳng dám sai sót’.
Giải: Di Lặc đại sĩ kính cẩn nhận lãnh lời răn dạy của Phật nên chắp tay kính tạ, khen ngợi Như Lai: Người đời ác khổ thật sâu như thế. Đức Phật lòng từ bi vô lượng, đối với những kẻ hung ác cùng cực như thế dùng lòng đại từ bình đẳng ‘đều độ thoát’ cho. Di Lặc đại sĩ chính là đương cơ trong hàng Bồ Tát của kinh này nên ngài hiểu được chỗ bí yếu của bản kinh, liền nói: ‘Đều độ thoát cho’.
Phẩm Quyết Chứng Cực Quả của kinh này có câu: ‘Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc là đã sanh về, hoặc là sẽ sanh về thì đều sẽ trụ trong chánh định tụ, quyết định chứng A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề’. Nghĩa là: Người hiện tại phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm thì tương lai sanh về Tây phương, nhưng ngay trong lúc này đã thuộc vào chánh định tụ.
Kinh A Di Đà cũng dạy: ‘Nếu có kẻ đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi Phật A Di Đà thì những người ấy đều được bất thối chuyển nơi a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề’ nghĩa là: người hiện đang phát nguyện vãng sanh đều đã bất thối chuyển nơi vô thượng Bồ Đề. Bởi thế, ngài Di Lặc mới thưa là ‘đều độ thoát cho’.
Sách Di Đà Yếu Giải viết: ‘Chẳng luận là chí tâm, tán tâm, hữu tâm, vô tâm, hiểu hay chẳng hiểu, chỉ cần danh hiệu của Phật, danh hiệu của sáu phương Phật và tên kinh này một phen thoảng qua tai thì dẫu cho ngàn vạn kiếp sau rốt ráo do đấy mà được độ thoát. Giống như nghe tiếng cái trống có bôi thuốc độc thì xa hay gần đều chết cả. Ăn chút kim cang quyết định chẳng tiêu vậy’. Đây cũng chính là ý chỉ ‘đều độ thoát cho’.
Sau cùng, Di Lặc đại sĩ lại bạch: ‘Vâng lãnh lời dạy ân cần của Phật, chẳng dám sai sót’. Ngài đã đại diện cho hết thảy hàm linh trong hiện tại, tương lai mà thưa lời ấy. Vì thế chúng ta ngày nay đều phải như lời Đại Sĩ đã bạch: ‘Chẳng dám sai sót’.
Ông Bành Tế Thanh có nói: ‘Tịnh Độ là cõi chí thiện. Cầu sanh Tịnh Độ là công phu chí thiện. Chẳng thâm nhập pháp môn Tịnh Độ thì chẳng viên mãn nổi điều thiện, chẳng thể diệt sạch điều ác’. Vì vậy, chúng ta đều phải tuân lời Phật răn dạy, tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh Độ.
38. Lễ Phật hiện quang
Phẩm này nói rõ từ ân vô cực của bậc đạo sư hai cõi, gia bị hết thảy chúng hội khiến cho khắp tất cả được tận mắt thấy y báo và chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc.
Gia Tường Sớ viết: ‘Hiện cõi nước khiến người ưa thích, hâm mộ. Tuy trước đó đã nghe giảng về cõi nước mầu nhiệm, nhưng chưa được chính mắt thấy. Bởi thế, ở đây Phật hiện cõi nước để tất cả đều hâm mộ mà tu hành’.
Ngài Nghĩa Tịch cũng bảo: ‘Từ đầu tới đây đã giảng về nhân quả, thân và cõi nước của Phật A Di Đà, chúng hội đều được nghe, trí huệ thù thắng đã phát sanh, nhưng chưa tin hiểu hết: kẻ hạ căn trí huệ kém cỏi vẫn chưa quyết định. Hơn nữa, tai nghe chẳng bằng mắt thấy.
Vì thế, tiếp đó A Di Đà Phật lại ban thêm sức oai thần để đại chúng đây đều được thấy tận mắt những chuyện trong cõi ấy xong ắt sẽ tin tưởng rằng những điều đã nghe quyết định chẳng phải là hư vọng. Lại muốn cho họ biết cõi ấy là Tịnh Độ trang nghiêm, ai nấy đều siêng tu hạnh nghiệp vãng sanh’.
Thêm nữa, chúng hội đương thời được thấy tận mắt thì chẳng phải riêng người được thấy khi ấy được lợi lạc mà còn để chứng tín cho kẻ được nghe pháp trong đời sau biết chắc thế giới Cực Lạc đích xác thật có, chứ phải đâu là cõi Ô Thác Bang (Utopia) hay là chuyện ngụ ngôn của Trang Sinh. Do tin nên khởi hạnh, dùng nguyện để hướng dẫn hạnh, chí tâm tin ưa cầu sanh Cực Lạc, ắt đều được độ thoát. Đấy mới là bổn hoài của bậc đạo sư hai cõi.
Chánh kinh: Phật bảo A Nan:
- Các ông muốn thấy Phật Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác và các Bồ Tát, A La Hán v.v... đang ngự trong cõi ấy thì nên đứng dậy hướng về Tây là phía mặt trời lặn, cung kính đảnh lễ, xưng niệm ‘Nam mô A Di Đà Phật’.
Giải: Bản Hán dịch ghi danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật là Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, hoặc gọi tắt là Vô Lượng Thanh Tịnh Giác.
Hướng về Tây vì đức Phật ‘nhằm đáp ứng cái nguyện độ sanh nên hiện đang ở Tây phương’. Pháp môn Tịnh Độ chỉ phương lập hướng khiến chúng sanh chuyên nhất. Đức Phật ấy hiện đang ở Tây phương nên đại chúng hướng về Tây.
‘Xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật’ là muốn thấy Phật thì phải niệm Phật. Đức Phật mình thấy ấy chính là nhất niệm tâm tánh của người niệm: tâm này là Phật, tâm này làm Phật. Lại do các đức Như Lai của hai cõi gia bị nên cảm ứng đạo giao, ngay trong khi niệm ấy liền được thấy.
Chánh kinh: A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, mặt hướng về Tây, chắp tay, đảnh lễ bạch rằng:
- Con nay nguyện thấy Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật để cúng dường, phụng sự, trồng các thiện căn.
Trong khi ngài đảnh lễ chợt thấy A Di Đà Phật dung nhan quảng đại, sắc tướng đoan nghiêm như tòa núi vàng ròng, cao vượt khỏi hết thảy các thế giới. Lại nghe chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới xưng dương, tán thán công đức của Phật A Di Đà một cách vô ngại, vô gián.
Giải: A Nan nghe lời dạy thì ngay khi đó ba nghiệp thanh tịnh, xưng danh hiệu Phật, đảnh lễ phát nguyện.
Chữ ‘chợt thấy’ biểu thị sự cảm ứng thần tốc. Đảnh lễ chưa xong mắt đã thấy đấng giáo chủ cõi Cực Lạc và nghe các đức Như Lai khắp cả mười phương khen ngợi Phật Di Đà.
Sách Hội Sớ viết: ‘Đó là vì cõi nước không có tướng nhất định, tịnh hay uế là do tâm. Ví như chư thiên cùng dùng bát bằng chất báu để ăn như nhau, nhưng tùy theo phước đức mỗi vị mà sắc cơm sai khác. Bởi vậy, nếu nghiệp cấu che lấp cái tâm thì kim dung cũng như tro bẩn. Ngón chân nhấn xuống đất thì ngói, sạn biến thành bảo ngọc; thân và cõi cũng giống như vậy thôi! Bởi đó, biết là Tây phương chẳng xa, nhưng do tâm mê nên liền thành xa cách. Nếu có thể nhất niệm quy chơn thì vãng sanh thấy được cõi nước, còn cách trở là niệm hay thời nữa ư?’
Lời sớ thật đã giảng tường tận ý chỉ ‘tâm tịnh, cõi nước tịnh’. Kinh Tịnh Danh nói: Phật dùng ngón chân nhấn xuống đất, cõi này biến ngay thành cõi tịnh. Kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng chép: ‘Ngón chân của ta nhấn xuống đất thì hải ấn phát quang’. Quang minh phát ra ấy nào phải vì ngón chân!
A Nan thấy Phật chỉ là vì ngài đã trở về cái chơn thật trong một niệm. Lúc niệm Phật thì tâm này niệm Phật; lúc thấy Phật thì tâm này thấy Phật, chỉ là nhất tâm! Tâm ta, tâm Phật không hề cách trở dẫu chừng mảy may. Bởi đó, sách Hội Sớ mới viết: ‘Còn cách trở là niệm hay thời nữa ư?’
Chỉ là nhất tâm, không quá khứ, hiện tại, vị lai. Do đó, A Nan niệm Phật, lễ Phật liền thấy Phật A Di Đà. Cũng bởi đó nếu lúc lâm chung mà hành giả có thể quy chơn trong một niệm thì cũng ắt sẽ ngay lúc đó thấy Phật, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. Vì thế mới nói: ‘Lúc niệm Phật chính là lúc thấy Phật’, nào còn có sự ngăn cách với những niệm khác hay thời gian nữa đâu!
‘Nhan’ là diện mạo, ‘quảng đại’ là như Quán kinh nói Vô Lượng Thọ Phật ‘thân cao sáu mươi vạn ức hằng hà sa do tuần. Tướng lông trắng giữa chặn mày uyển chuyển xoay về bên phải như năm hòn núi Tu Di. Mắt Phật như bốn biển lớn’.
‘Sắc tướng đoan nghiêm’ là tướng hảo trang nghiêm. Quán kinh nói: ‘Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng; trong mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo; trong mỗi tùy hình hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh’.
‘Tòa núi vàng ròng’ là như Quán kinh nói: ‘Sắc thân Vô Lượng Thọ Phật như trăm ngàn vạn ức vàng Diêm Phù Đàn của cõi trời Dạ Ma’. Lại có nghĩa là thân Phật vòi vọi như núi nên bảo là ‘như tòa núi vàng ròng’.
Tuy A Nan và những người có cùng quả vị như ngài hay thấp hơn chẳng thể thấy trọn hết báo thân trang nghiêm như thế, nhưng do vì đấng Như Lai của hai cõi dùng phương tiện thù thắng oai thần gia bị nên ai nấy tùy theo căn khí của mình đều được thấy cả. Bởi đó, A Nan liền thấy được Phật ‘như tòa núi vàng ròng, cao vượt khỏi hết thảy thế giới’.
‘Vô ngại, vô gián’: mười phương Như Lai dùng tứ biện tài nhiệm mầu để diễn nói nên bảo là ‘vô ngại’. Ca ngợi như thế đến tột cùng đời vị lai chẳng hề gián đoạn nên bảo là ‘vô gián’.
Chánh kinh: A Nan bạch rằng: ‘Cõi tịnh của đức Phật ấy thật là chưa từng có. Con cũng nguyện thích sanh về cõi ấy’.
Đức Thế Tôn bảo: ‘Người sanh trong cõi ấy đã từng thân cận vô lượng chư Phật, trồng các cội lành. Ông muốn sanh trong cõi đó thì phải nhất tâm quy y, chiêm ngưỡng’.
Giải: A Nan đích thân thấy Phật Di Đà như tòa núi vàng, đức tướng đoan nghiêm và các thứ thanh tịnh trang nghiêm nơi cõi ấy đều là những điều xưa nay mình chưa từng thấy nên thưa là: ‘Thật là chưa từng có’. Lại nghe mười phương Phật khen ngợi liền sanh tâm hy hữu, phát khởi đại nguyện, nguyện sanh Cực Lạc. Điểm này chứng tỏ rõ ngài A Nan đúng là đương cơ; ngài đã khế hội thánh tâm nên phát nguyện cầu sanh, bạch rằng: ‘Con cũng nguyện thích sanh về cõi ấy’.
Thế Tôn đáp: Những người được vãng sanh đều đã từng ở nơi vô lượng chư Phật thân cận cúng dường, phụng sự, học tập, rộng gieo cội đức đúng như kinh A Di Đà nói: ‘Chẳng thể dùng chút thiện căn phước đức nhân duyên để được sanh về cõi ấy’. Ở đây, kinh chép:‘Ông muốn sanh về cõi ấy thì phải nhất tâm, quy y, chiêm ngưỡng’. ‘Chiêm’ là ngửa trông, ‘ngưỡng’ là ngưỡng mộ.
Câu ‘quy y, chiêm ngưỡng’ bao gồm các nghĩa: lễ Phật, quán Phật, niệm Phật, tưởng nhớ đức Phật, mà cũng chính là Ngũ Niệm Môn như Bồ Tát Thiên Thân đã đề xướng. Ngũ Niệm Môn là: một là lễ bái, hai là tán thán (xưng danh), ba là phát nguyện, bốn là quán sát, năm là hồi hướng. Nói tóm lại, nhất tâm xưng niệm sáu chữ hồng danh thì đã gồm trọn cả Ngũ Niệm Môn.
Nhất tâm là tâm thanh tịnh. Lại như bản kinh A Di Đà khắc trên đá ở thành Tương Dương có câu: ‘Do xưng danh nên các tội tiêu diệt; đấy chính là nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên’. Vì thế, A Nan nhất tâm quy y, chiêm ngưỡng thì chính là nhiều thiện căn phước đức nhân duyên, cũng giống như người được vãng sanh là do đã từng thân cận vô lượng chư Phật, trồng các cội đức nên mới được thỏa nguyện vãng sanh.
Chánh kinh: Lúc nói lời ấy, A Di Đà Phật liền từ bàn tay phóng ra vô lượng quang chiếu khắp hết thảy các thế giới Phật. Khi ấy, các cõi Phật đều hiện rõ như đều ở trong vòng một tầm.
Do quang minh thù thắng của A Di Đà Phật tột bậc thanh tịnh nên tất cả Hắc sơn, Tuyết Sơn, Kim Cang, Thiết Vy, các hòn núi lớn nhỏ, sông ngòi, rừng rậm, cung điện của trời người, hết thảy cảnh giới trong các thế giới ấy không đâu chẳng soi thấy. Ví như mặt trời mọc lên chiếu sáng ngời thế gian. Cho đến Nê Lê, khe, hang, chốn tối tăm thảy đều sáng bừng, đều cùng một màu như là kiếp thủy ngập tràn khắp thế giới, vạn vật trong ấy đều chìm lấp chẳng hiện; mênh mông, bát ngát chỉ thấy toàn là nước. Quang minh của đức Phật ấy cũng giống như thế. Hết thảy quang minh của Thanh Văn, Bồ Tát thảy đều bị ẩn lấp, chỉ có quang minh của Phật là sáng ngời, rực rỡ.
Giải: Đấng Đạo Sư của cõi thế gian này vừa dứt lời thì đức Như Lai cõi kia liền từ lòng bàn tay phóng ra quang minh; điều này chứng tỏ: Thích Tôn khuyên vãng sanh, Phật Di Đà tiếp dẫn. Hai đức Phật trong hai cõi đồng tâm, đồng đức.
Phật quang phổ chiếu hết thảy cõi Phật biểu thị Phật Di Đà tiếp độ cho hết thảy phàm thánh đều vãng sanh. Do Phật quang gia trì, đại chúng trong hội đều được thấy mười phương cõi Phật như trong khoảng một tầm (một tầm là tám thước).
Quang minh của Phật Di Đà tôn quý nhất trong các quang minh nên bảo là ‘thù thắng’. Sở dĩ quang minh thù thắng vì nó ‘tột bậc thanh tịnh’. Bởi thế, hết thảy núi sông, cảnh vật trong những thế giới ấy: Chẳng hạn như Hắc Sơn (còn gọi là Hắc lãnh. Đây là tên của một ngọn núi được ghi trong Tây Vực Ký và Từ Ân Truyện), Tuyết Sơn (tiếng Phạn là Hymalaya, tức là Hỷ Mã Lạp Nhã sơn, đảnh núi quanh năm tuyết đọng nên gọi là Tuyết Sơn); Kim Cang, Thiết Vy (đều là tên núi, xin xem lời giải thích trong phẩm mười một); hết thảy những thứ như thế ‘không đâu chẳng soi thấy’.
Tiếp đó, kinh nêu lên thí dụ: Mặt trời mọc thì tối tăm tiêu mất, chẳng luận là hang hốc hay ‘chốn tối tăm’ (chỉ chốn hang sâu cực tối tăm) và ‘cho đến Nê Lê’ (Nê Lê là địa ngục) đều được sáng bừng, hiện rõ nên bảo là ‘thảy đều sáng bừng’. Hết thảy mọi vật ‘đều đồng một sắc’. Theo Quán kinh, ‘một sắc’ chính là màu vàng ròng. Trong phép quán thứ bảy của Quán kinh có chép: ‘Vô Lượng Thọ Phật đứng trên không trung. Hai vị đại sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đứng hầu hai bên. Quang minh rực rỡ chẳng thể thấy trọn. Sắc của trăm ngàn khối vàng Diêm Phù Đàn chẳng thể sánh bằng’.
Trong pháp quán thứ tám cũng có nói: ‘Tượng Phật và Bồ Tát đều phóng quang minh. Quang minh ấy sắc vàng’. Pháp quán thứ mười lăm lại nói: ‘Thấy A Di Đà Phật và các quyến thuộc phóng quang minh sắc vàng’.
Lại như kinh Thất Phật Thần Chú đã dạy: ‘Trong ấy, hết thảy vạn vật đều thành sắc vàng’. Lại như kinh Pháp Hoa thuật: lúc Phật phóng quang hiện điềm lành ‘chiếu một vạn tám ngàn cõi nơi phương Đông [khiến chúng] đều như sắc vàng’.
Hiểu ở một mức cao hơn, ‘nhất sắc’ ngụ ý: vạn pháp nhất như; trong diệu trí quang của Phật đều hiển hiện bản thể thanh tịnh, tướng sai biệt biến mất, chỉ còn tướng chơn thật hiển lộ. Bởi thế ‘đều đồng một sắc’.
Tiếp đó, kinh lại dùng kiếp thủy làm thí dụ. ‘Kiếp thủy’ là một trong tam tai; tức là đại thủy tai lúc kiếp hoại. Nước từ dưới thủy luân ở dưới mặt đất phun vọt lên, mưa tuôn xuống mỗi giọt to như bánh xe. Từ trời Đệ Nhị Thiền trở xuống đều bị nước ngập phá hủy hết. Chữ ‘mênh mông’ diễn tả nước lớn không còn biết đâu là bến bờ. Chữ ‘bát ngát’ hình dung nước lớn bao la. Bản Đường dịch ghi là: ‘Ví như đại địa, trận hồng thủy ngập tràn, cây cối, núi sông đều bị vùi lấp chẳng hiện, chỉ toàn là nước lớn’. Nước lớn ví cho Phật quang, cây cối ví với ‘quang minh của hết thảy Thanh Văn, Bồ Tát’. Cũng như ánh sáng của các vì sao khi mặt trời mọc lên, các ánh sao chẳng hiện nên bảo là ‘thảy đều ẩn lấp; chỉ thấy Phật quang sáng ngời, rực rỡ’.
Chánh kinh: Bốn chúng trong hội này, tám bộ trời, rồng, nhân, phi nhân v.v… đều thấy Cực Lạc thế giới các thứ trang nghiêm: A Di Đà Phật ngự trên tòa cao, oai đức vòi vọi, tướng hảo, quang minh, Thanh Văn, Bồ Tát cung kính vây quanh. Ví như núi chúa Tu Di nhô lên khỏi biển cả, rạng ngời chói lọi, thanh tịnh bình chánh, chẳng có tạp uế cùng các loài dị hình, chỉ trang nghiêm bằng các báu, là nơi các vị thánh cùng ở. A Nan và các hàng Bồ Tát đều đại hoan hỷ, hớn hở làm lễ, dập đầu sát đất xưng niệm: ‘Nam mô A Di Đà Tam Miệu Tam Phật Đà’.
Giải: ‘Bốn chúng trong hội’ là chúng đại tỳ kheo một vạn hai ngàn vị, năm trăm vị tỳ kheo ni, bảy ngàn thanh tín sĩ, năm trăm thanh tín nữ. Lại có Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lặc, mười sáu vị Chánh Sĩ và vô lượng vô biên hết thảy Bồ Tát trong Hiền kiếp.Từ các vị Phạm thiên cho đến ‘tám bộ trời rồng, nhân, phi nhân v.v…’ đều là hội chúng.
Câu ‘đều thấy Cực Lạc thế giới’ ý nói: mọi người dự hội đều được thấy. Tứ chúng đệ tử trong pháp hội cõi này gồm hai vạn người đều là thân huyết nhục mà ai ai cũng đều thấy thế giới Cực Lạc, họ đều là người chứng thực cho hết thảy chúng sanh trong lúc ấy và đời tương lai sau.
Tướng lành thù thắng này được cả năm bản dịch cùng ghi chép.
Bản Hán dịch ghi: ‘A Nan, chư Bồ Tát, A La Hán v.v… và chư thiên, đế vương, nhân dân đều thấy Vô Lượng Thanh Tịnh Phật và các Bồ Tát, A La Hán, cõi nước thất bảo’.
Bản Ngô dịch chép giống như thế, nhưng ghi là A Di Đà thay vì Vô Lượng Thanh Tịnh Phật.
Bản Ngụy dịch chép: ‘Vô Lượng Thọ Phật oai đức vòi vọi như núi chúa Tu Di, cao vượt khỏi hết thảy các thế giới; tướng hảo, quang minh không gì là chẳng chói ngời. Tứ chúng trong hội ấy cùng lúc đều được thấy’ và: ‘Tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đều thấy Vô Lượng Thọ Như Lai’.
Bản Đường dịch viết: ‘Trong các cõi ấy, tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đều thấy Vô Lượng Thọ Như Lai như ngọn núi chúa Tu Di chiếu các cõi Phật. Khi ấy, các cõi Phật thảy đều hiện rõ như ở trong vòng một tầm’.
Bản Tống dịch chép: ‘Lúc ấy, bí xô, bí xô ni, ưu bà tắc, ưu bà di, trời, rồng, dược xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, nhân, phi nhân v.v… trong hội đều thấy các thứ trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc và thấy Vô Lượng Thọ Như Lai. Thanh Văn, Bồ Tát cung kính vây quanh. Ví như ngọn núi chúa Tu Di, vượt lên trên biển cả’.
Năm bản dịch cùng đề cập thì đủ chứng tỏ việc Phật Di Đà xuất hiện chứng tín là điều được nói trong bản kinh gốc chứ chẳng phải là do dịch thuật sai lầm.
Hội chúng khi ấy liền được thấy các thứ y báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc, lại thấy chánh báo là A Di Đà Phật công đức vòi vọi, tướng hảo quang minh, thánh chúng vây quanh ‘ví như ngọn núi chúa Tu Di nhô lên khỏi biển cả’. Núi Tu Di nói đủ là Tu Di Lô (Sumeru) sơn vương, là một trong mười hòn núi chúa. Hòn núi này chẳng phải là núi đất hay núi đá như của thế gian mà thuần bằng bốn chất báu hợp thành nên bảo là ‘chẳng có tạp uế và các loài dị hình, chỉ trang nghiêm bằng các báu’.
Do‘Thanh Văn, Bồ Tát cung kính vây quanh’ nên bảo là ‘các vị thánh cùng ở’.
‘A Nan và các hàng Bồ Tát v.v…’: A Nan là đương cơ nên được nêu tên đầu tiên; ‘các hàng Bồ Tát v.v…’ nghĩa là các vị Thanh Văn, trời, người v.v… được nhờ ân mà trông thấy điềm lành nên đều hoan hỷ, mừng rỡ.
Ai nấy đều năm vóc gieo xuống đất, chí thành xưng niệm ‘Nam mô A Di Đà Tam Miệu Tam Phật Đà’. ‘Tam Miệu Tam Phật Đà’, cựu dịch là Chánh Biến Tri, tân dịch là Đẳng Chánh Giác, là danh hiệu thứ ba trong mười hiệu của Phật. Do đó, ‘Nam mô A Di Đà Tam Miệu Tam Phật Đà’ chính là sáu chữ hồng danh.
Chánh kinh: Chư thiên, nhân dân cho đến những loài trùng ngọ nguậy, bay lượn, bò trườn thấy quang minh ấy thì tất cả tật khổ không chi chẳng ngưng dứt, hết thảy ưu não không thứ gì chẳng giải thoát, đều từ tâm làm lành, hoan hỷ, khoái lạc. Chuông, khánh, cầm, sắt, không hầu, nhạc khí chẳng đánh tự nhiên phát ra ngũ âm. Chư thiên, nhân dân trong các cõi Phật đều cầm hương hoa đến trên hư không rải xuống cúng dường.
Giải: Đoạn kinh này lại trình bày những việc thành tựu do điều nguyện thứ mười bốn của Phật A Di Đà: ‘Chạm phải quang minh được an lạc’. Trong lời nguyện ấy có câu: ‘Thấy quang minh của tôi chiếu vào thân không ai chẳng được an lạc, từ tâm làm lành’ tức là những điều được nói trong đoạn chánh kinh trên từ câu ‘thấy quang minh ấy’ cho đến ‘thảy đều từ tâm làm lành, hoan hỷ, khoái lạc’.
Phẩm Quang Minh Chiếu Khắp cũng chép: ‘Nếu kẻ ở trong chốn tam đồ khổ cực mà trông thấy quang minh này thì đều được ngơi nghỉ’. Bởi thế, ở đây kinh mới chép: ‘Các loài côn trùng bay lượn, ngọ nguậy, bò trườn thấy quang minh thì tất cả tật khổ không chi chẳng ngưng dứt, hết thảy ưu não không thứ gì chẳng giải thoát’.
Các thứ nhạc khí như chuông, khánh, đàn cầm, đàn sắt, đàn không hầu (7) v.v… không cần phải khảy, đánh; tự nhiên phát ra âm thanh nên bảo là ‘chẳng đánh, tự nhiên phát ra ngũ âm’. Chư thiên trong mười phương đến rải hương, hoa là đều nhằm biểu thị sự khoái lạc thù thắng.
Do kinh đã chép tỉ mỉ các việc tốt lành: thấy Phật, thấy quang minh, thấy cõi nước v.v… nên ắt sẽ có kẻ cho đó là cái lỗi chấp tướng. Tiếc thay kẻ ấy chưa biết được điều mầu nhiệm của Tịnh tông: chính ngay nơi tướng là đạo, ngay nơi sự chính là chơn nên chẳng cần phải bỏ tướng để cầu đạo, lìa sự để thấy chơn! Kinh này thuần là cảnh giới sự sự vô ngại của Hoa Nghiêm. Một hoa, một hương không thứ gì chẳng phải là hạt châu nơi màng lưới của Thiên Đế. Mỗi thứ đều viên minh, thứ nào cũng thắng diệu, thứ nào cũng đều là toàn thể của nhất chơn pháp giới, viên minh cụ đức chẳng thể nghĩ bàn.
Chánh kinh: Lúc bấy giờ, thế giới Cực Lạc ở phương Tây cách đây trăm ngàn câu chi na do cõi nước nhưng do oai lực của Phật nên giống như đối ngay trước mắt, như thiên nhãn trong sạch thấy trong vòng một tầm. Cõi đó thấy cõi này cũng giống như vậy: đều thấy thế giới Sa Bà, Thích Ca Như Lai và tỳ kheo chúng vây quanh thuyết pháp.
Giải: Câu ‘ở phương Tây cách đây trăm ngàn câu chi na do tha cõi’ xin xem lại lời giải thích ở phần trước.
Cực Lạc chẳng lìa khỏi tự tâm là xét về Lý. ‘Ở phương Tây, cách đây trăm ngàn câu chi na do tha cõi’ là Sự. Lý, Sự vô ngại nên cách xa mười vạn ức chính là ở ngay trước mắt. Bởi vậy, Quán kinh nói: ‘Phật A Di Đà cách đây chẳng xa’.
Hội chúng chơn thành nên cảm ứng Phật lực gia hộ, hai cõi tịnh uế thấy rõ nhau như đối trước mắt ‘như thiên nhãn trong sạch thấy trong vòng một tầm’. Thánh chúng cõi ấy đều thấy đấng Thích Tôn cõi này ở trong đại hội giảng kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác.
Kinh A Di Đà nói pháp môn này là ‘pháp hết thảy thế gian khó tin được nổi’. Chúng sanh đời Mạt pháp tình chấp sâu nặng, đối với diệu pháp tối cực viên đốn, Nhất Thừa liễu nghĩa, phương tiện rốt ráo này chẳng thể tin hiểu nổi, đâm ra phỉ báng. Bởi thế, trong phẩm Lễ Phật Hiện Quang đây, hai vạn người trong thế giới này đích thân thấy Cực Lạc thế giới thanh tịnh trang nghiêm, đích thân nghe rằng A Di Đà Phật hiện đang thuyết pháp, họ sẽ là người chứng thực khiến chúng sanh phát sanh chánh tín, ưa thích cầu vãng sanh, phát tâm Bồ Đề, một bề chuyên niệm, đều đạt được bốn lợi ích tất đàn.
Nay tôi kính thuận thánh tâm, xin dẫn kèm thêm một số kinh để chứng tỏ Cực Lạc diệu hữu, ngõ hầu [người đọc] khỏi thiên chấp nơi Không.
a. Quán Kinh chép: ‘Vy Đề Hy và năm trăm thị nữ nghe lời Phật dạy, ngay lập tức thấy tướng rộng lớn của thế giới Cực Lạc, được thấy thân Phật và hai vị Bồ Tát, tâm sanh hoan hỷ, than là chưa từng có, hốt nhiên đại ngộ, đắc Vô Sanh Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sanh về cõi ấy. Thế Tôn thọ ký họ đều sẽ vãng sanh. Sanh trong nước ấy rồi sẽ đắc Chư Phật Hiện Tiền tam muội’.
b. Kinh Phật Thuyết Như Huyễn Tam Ma Địa Vô Lượng Ấn Pháp Môn chép: ‘Khi ấy, trong hội chúng của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai nơi thế giới Sa Bà, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát (một vạn hai ngàn người), bí xô (hai vạn người), bí xô ni, ưu bà tắc, ưu bà di, Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế Tứ Vương và các chúng trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, nhân, phi nhân v.v… đều thấy thế giới Cực Lạc và thấy Vô Lượng Quang Như Lai, Bồ Tát, Thanh Văn đại chúng vây quanh. Quang minh rực rỡ như núi Diệu Cao’.
c. Kinh Thập Vãng Sanh chép:
‘Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát: “Ông nay nên đứng dậy, chắp tay, hướng thẳng về phương Tây, chánh niệm quán cõi Phật A Di Đà, nguyện thấy A Di Đà Phật”.
Bấy giờ, hết thảy đại chúng cũng đều đứng dậy, chắp tay, cùng quán A Di Đà Phật. Lúc đó, A Di Đà Phật hiện đại thần thông phóng đại quang minh, chiếu thân Sơn Hải Huệ Bồ Tát. Khi ấy, Sơn Hải Huệ Bồ Tát v.v… (bao quát hết thảy đại chúng) liền thấy tất cả sự trang nghiêm diệu hảo của cõi Phật A Di Đà đều là thất bảo: núi bảy báu, cõi nước bảy báu; nước chim, cây cối thường diễn pháp âm. Cõi ấy hằng ngày thường chuyển pháp luân’.
Những đoạn kinh trên chứng tỏ rằng trong xã hội Ấn Độ thời ấy đã có vài trăm người hoặc là vạn người tận mắt thấy y báo, chánh báo cõi Cực Lạc. Tây phương có thế giới, có Phật A Di Đà. Đối với hai chữ ‘có’ ấy cần phải hết sức lưu ý.
Nói chung, phẩm này bao gồm bốn thứ tất đàn:
a. Y báo, chánh báo cõi Cực Lạc hiện tiền chính là “thế giới tất đàn”: hiển thị đích xác diệu cảnh khiến chúng sanh hoan hỷ, sanh tâm ham cầu.
b. A Nan và đại chúng hoan hỷ làm lễ, xưng niệm thánh hiệu là “nhân tất đàn” vì phát sanh điều lành. Trì danh vãng sanh là điều lành nhất trong các điều lành.
c. Phá nghi sanh tín là “đối trị tất đàn”. Nghi căn chưa đoạn thì chính là tội căn. Lúc tín lực viên mãn thì hoàn toàn trở thành Phật lực.
d. Tâm và Phật chẳng hai, diệu cảm khó suy lường, sự lý bất nhị, diệu cảnh hiện tiền chính là “đệ nhất nghĩa tất đàn” vì hiển bày trọn vẹn tánh khiến cho chứng nhập Thật Tướng.
Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận viết: ‘Đoạn này ý nói vô lượng quang minh chiếu trọn hết thảy. Cực Lạc và Sa Bà cùng một pháp giới, vốn chẳng phải đây hay kia thì nào có Đông hay Tây! Sơn hà, đại địa đều là do con mắt nhặm của chúng sanh mà thành.
Nếu trong một niệm mà nhập được cảnh giới của Phật thì vô lượng quang minh chiếu khắp trần sát. Tam đồ, lục đạo đồng thời giải thoát. Chẳng phải riêng mình A Nan được oai thần của Phật gia bị nên trông thấy thân Phật và các y báo, chánh báo; mà chính là chúng sanh ngay trong đời mạt pháp đây cứ hễ nhập được pháp môn này thì chẳng lìa khỏi cái niệm hiện tiền mà chóng được thấy Phật.
Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Chư Phật giống như một tấm kính tròn lớn, thân ta như hạt ma ni châu. Thân chư Phật nhập vào trong thân ta, thân ta thường nhập vào trong thân chư Phật”. Bởi đó, chư Phật và chúng sanh vốn là vô nhị thì gọi là “thấy Phật”, chứ thật chẳng thấy. Vì cớ sao? Vì trong một thể chẳng thể thấy lẫn nhau’.
39. Ngài Từ Thị thuật lại những điều mình thấy
Tông chỉ của phẩm này là chứng tín, trừ nghi. Ngài Từ Thị thuật lại những điều mình thấy nhằm xác chứng lời Phật dạy vô cùng chơn thật. Ấy là bởi đại chúng chỉ biết được những điều trang nghiêm của y báo cõi Cực Lạc qua lời Phật giảng nên ở đây ngài Di Lặc bèn tường thuật những điều chính mắt mình thấy cho thánh chúng hiện diện trong pháp hội được biết.
Ngài còn nêu lên việc mình thấy những chúng sanh bị rớt vào hàng thai sanh trong nghi thành để chỉ rõ cái tai hại của lòng nghi hoặc.
Chánh kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài A Nan và Từ Thị Bồ Tát:
- Ông có thấy cung điện, lầu gác, suối, ao, rừng cây trong cõi Cực Lạc đầy đủ vi diệu, thanh tịnh trang nghiêm chăng? Ông có thấy chư thiên từ Dục giới lên đến Sắc Cứu Cánh thiên mưa các hoa, hương đầy khắp cõi Phật chăng?
A Nan thưa rằng: ‘Vâng ạ, con đã thấy’.
- Ông có nghe âm thanh lớn lao của Phật Di Đà vang vọng hết thảy thế giới giáo hóa chúng sanh chăng?
Ngài A Nan thưa: ‘Vâng ạ, con có nghe’.
Phật dạy: - Ông có thấy chúng thanh tịnh trong cõi ấy ngao du trên hư không, cung điện tùy thân không bị chướng ngại, đến khắp mười phương cúng dường chư Phật chăng? Và thấy họ niệm Phật liên tục chăng? Lại có các thứ chim bay lượn trên hư không hót lên các thứ tiếng; chúng đều được biến hóa ra, ông có thấy hết hay không?’
Ngài Từ Thị thưa: ‘Con đều thấy mỗi mỗi thứ đúng như lời Phật nói’.
Giải: A Nan kết tập Kinh tạng, Từ Thị đương lai hạ sanh; vì thế, Phật đem pháp môn vi diệu này phó chúc cho hai vị.
Trước hết, Phật nói đến những điều trang nghiêm mầu nhiệm trong cõi Cực Lạc như cảnh chư thiên mưa hoa, bảo hai vị nhìn làm chứng.
‘Sắc Cứu Cánh thiên’ chính là một cõi trời thuộc các tầng trời Tịnh Cư, là cõi trời thù thắng nhất trong Sắc giới, là chỗ ở của bậc thánh đã chứng quả Bất Hoàn. Bất Hoàn tiếng Phạm là A Na Hàm. Bậc này đã đoạn sạch chín phẩm tư hoặc của Dục giới, chẳng tái sanh trong Dục giới nữa, nên sanh vào Sắc giới hoặc Vô Sắc giới. Bởi đó, gọi là Bất Hoàn quả.
Cõi trời Tịnh Cư gồm có năm tầng trời: một là Vô Phiền thiên, hai là Vô Nhiệt thiên, ba là Thiện Hiện thiên, bốn là Thiện Kiến thiên, năm là Sắc Cứu Cánh thiên. Sách Câu Xá Tụng chép: ‘Năm cõi trời này gọi là Tịnh Cư Thiên, chỉ có thánh nhân sống, không có các loài khác sống lẫn vào nên gọi là Tịnh Cư’.
Ở đây, Từ Thị Bồ Tát trông thấy chư thiên rải hoa, quả đã chứng thực điều kinh đã nói trong phần trước: ‘Hết thảy chư thiên đều cầm trăm ngàn hương hoa, muôn thứ kỹ nhạc cúng dường đức Phật ấy’. Những thứ trang nghiêm y báo mà ngài đã thấy lại chứng thực nguyện thứ băm chín: ‘Muôn vật trong nước đều đặc biệt, lạ lùng, cùng vi cực diệu, nghiêm tịnh sáng đẹp chẳng thể tính kể nổi’.
Tiếp đó, ngài trực tiếp được nghe Phật Di Đà thuyết pháp. Pháp âm vang dội phổ độ mười phương. Điều ấy chứng thực lời kinh dạy: ‘Tiếng Phật như phạm lôi chấn, âm thanh diễn xướng vi diệu gồm đủ cả tám giọng’ và ‘Bồ Đề thọ vương diễn xuất vô lượng âm thanh diệu pháp. Âm thanh ấy vang vọng khắp các cõi nước Phật’. Tiếng thuyết pháp của thọ vương lại chính là tiếng Phạm âm của Phật Di Đà vậy.
Điểm thứ ba là thánh chúng trong cõi ấy du hành thập phương, cúng dường chư Phật. Điều này chứng thực sự thành tựu của lời nguyện thứ mười một: ‘Nguyện cúng khắp chư Phật’.
Thứ tư là ngài thấy thánh chúng niệm Phật liên tục, đây chính là cốt lõi của các lời nguyện của Phật Di Đà: Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh độ khắp ba căn, gồm thâu vạn loại. Phàm phu mười niệm chứng ngay lên bất thối; đại sĩ tu tập nhanh chóng, hàng Thập Địa cũng chẳng rời niệm Phật. Vì thế, phàm phu niệm Phật liền được vãng sanh. Đã vãng sanh rồi vẫn niệm Phật, niệm niệm tiếp nối cho đến tột đời vị lai. Bởi lẽ đó, Phật bảo đại sĩ Di Lặc đích thân nhìn sự việc này để làm chứng.
Năm là Phật bảo ngài Di Lặc nhìn xem các loài chim thuyết pháp để chứng thực điều đã được dạy trong kinh Tiểu Bổn: ‘Các loài chim ấy đều là do A Di Đà Phật muốn cho pháp âm được truyền bá rộng khắp mà biến hóa ra’.
Chánh kinh: Phật bảo Di Lặc: ‘Nhân dân cõi ấy có kẻ thai sanh, ông lại có thấy hay chăng?’
Ngài Di Lặc thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con thấy kẻ ở trong thai nơi thế giới Cực Lạc như đang ở trong cung điện trên trời Dạ Ma. Lại thấy chúng sanh ngồi xếp bằng trên hoa sen, tự nhiên hóa sanh. Vì nhân duyên nào mà nhân dân cõi ấy lại có kẻ thai sanh, kẻ thì hóa sanh?
Giải: ‘Có kẻ thai sanh, kẻ thì hóa sanh’ nghĩa là Cực Lạc có hai loại: hóa sanh và thai sanh.
‘Ở trong hoa sen, tự nhiên hóa sanh’ là hóa sanh.
‘Thai sanh’ là vì dùng cái tâm ngờ vực tu các công đức, nguyện sanh Cực Lạc, ngờ vực chẳng tin ngũ trí của Phật, nhưng vẫn tin vào tội phước, tu tập cội lành. Họ vẫn được sanh về Cực Lạc nhưng trong năm trăm năm, hoa sen chẳng nở, ở mãi trong hoa thai, chẳng được gặp Phật, nghe pháp nên gọi là ‘thai sanh’, hay còn gọi là ‘biên địa’.
Sách Hội Sớ nói: ‘Thai sanh là ví như người sanh trong bào thai lúc sơ sanh nhân pháp chưa thành (ý nói chưa thành hình người). Thai là ý nói chốn tăm tốn, dùng hình ảnh này để ví cho kẻ [ở mãi trong hoa sen] nơi Cực Lạc chứ chẳng phải là kiểu thai sanh trong thai bào. Vì sao biết thế? Trong cõi An Lạc thuần là hóa sanh nên chẳng thật có thai sanh’. Ý nói: Gọi là ‘thai sanh’ vì kẻ đó nghi hoặc chưa hết, ám chướng vẫn còn nên chưa thể thấy Phật, nghe pháp. Vì vậy, dùng chữ ‘thai’ để sánh ví.
Nếu luận theo sự thực, tất cả những người được vãng sanh đều là hóa sanh, không hề có thai sanh. Vả lại, người sanh vào biên địa cõi Cực Lạc tuy bảo là ở trong thai nhưng chẳng hề chịu cái khổ ở trong thai, chỉ hưởng khoái lạc như các vị trời cõi Dạ Ma ngự trong cung điện. Dạ Ma thiên là tầng trời thứ ba trong Dục giới, nằm trên hai tầng trời Tứ Thiên Vương và Đao Lợi. Người trong cõi trời Dạ Ma luôn thốt lên: ‘Sướng quá! Sướng quá!’ đủ thấy chư thiên trong cõi trời ấy khoái lạc tột bực!
Ngài Từ Thị thấy xong lại hỏi: ‘Vì nhân duyên nào?’ mà có hai loại sanh như thế. Đây chính là thấy quả muốn biết về nhân. Sách Hội Sớ nói về hai chữ ‘nhân duyên’ như sau: ‘Yếu tố chính để phát sanh [ra quả] là Nhân, yếu tố trợ giúp là Duyên. Thai sanh hay hóa sanh đều nhờ vào nhân duyên. Bởi thế, đối theo cái quả mà hỏi đến nguyên do’.
Bản sớ giải kinh Lăng Nghiêm của ngài Trường Thủy có câu: ‘Phật dạy nhân duyên là tông vì thánh giáo của Phật từ cạn tới sâu, nói ra hết thảy pháp không ngoài hai chữ nhân duyên’.
40. Biên địa, nghi thành
Chánh kinh: Phật bảo ngài Từ Thị:
- Nếu có chúng sanh dùng tâm nghi hoặc tu các công đức, nguyện sanh cõi ấy, chẳng hiểu rõ Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, đại thừa quảng trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Đối với các trí ấy nghi hoặc chẳng tin, nhưng vẫn tin tội phước, tu tập cội lành nguyện sanh cõi ấy.
Giải: Phẩm này giảng về cái nhân của thai sanh, khuyên nên sanh lòng tin sâu xa hầu khỏi đọa vào nghi thành biên địa: trong năm trăm kiếp chẳng được thấy Phật và Tăng, chẳng được nghe kinh pháp. Ngài Vọng Tây nói: ‘Biên Địa và Thai Sanh đồng thể khác tên’.
Sách Lược Luận ghi: ‘Lại có một loại vãng sanh An Lạc nhưng chẳng thuộc vào ba bậc… Trong năm trăm kiếp thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy Bồ Tát và thánh chúng Thanh Văn, gọi là Biên Địa cõi Cực Lạc, còn gọi là Thai Sanh’. Như vậy, ngài Vọng Tây chỉ nhắc lại ý của tổ Đàm Loan.
Sách Lược Luận còn viết: ‘Biên Địa là ý nói trong năm trăm kiếp chẳng được nghe đến Tam Bảo, giống như cái nạn [sanh nơi] biên địa, hoặc cũng là ở tuốt ngoài bìa cõi Cực Lạc. Thai Sanh là ví như người sanh trong thai, lúc sơ sanh nhân pháp chưa thành. Chữ ‘biên’ chỉ cho nạn, chữ ‘thai’ chỉ sự tối tăm. Hai danh từ này đều là mượn tình huống nơi đây để ví cho tình trạng nơi kia (ý nói: chữ ‘biên’ và ‘thai’ đều là thí dụ mà thôi!) chứ chẳng phải là biên địa trong tám nạn, cũng phải là kiểu thai sanh bằng thai bào.
Do đâu biết thế? Cõi nước An Lạc thuần một bề là hóa sanh cho nên biết là chẳng thật có thai sanh. Do năm trăm kiếp sau lại được thấy nghe Tam Bảo nên chẳng phải là nạn biên địa trong tám nạn’.
Lại nữa, ‘nghi thành’ là nếu ai trong lòng nghi ngờ, niệm A Di Đà Phật thì sanh trong cung điện bảy báu nơi biên địa cõi Cực Lạc, trong năm trăm năm chẳng được nghe đến danh hiệu Tam Bảo. Do chốn đó là nơi kẻ nghi ngờ cư ngụ nên gọi là ‘nghi thành’. Như kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chúa dạy:
‘Nếu người lúc mạng chung, biết trước thời khắc, chánh niệm phân minh, tắm gội, mặc áo, thanh thản mà đi, quang minh chiếu thân, thấy tướng hảo của Phật, các điều lành cùng hiện thì biết chắc là người ấy quyết định vãng sanh Tịnh Độ.
Nếu người niệm Phật, trì giới, tâm không tinh tấn thì lúc mạng chung cũng không có tướng lành mà cũng không có tướng ác. Địa phủ chẳng thâu, An Dưỡng chẳng nhiếp, như mơ ngủ mà đi. Kẻ ấy nghi tình chưa đoạn nên sanh vào nghi thành. Hưởng vui trong năm trăm kiếp, lại tu tín nguyện mới được về Tịnh Độ’.
Rõ ràng là tín lẫn nguyện chính là điều căn bản để vãng sanh gặp Phật!
Ngoài ra lại còn có Giải Mạn Quốc, hay còn gọi là Giải Mạn Giới. Cõi này nằm giữa cõi Sa Bà và Cực Lạc. Sanh vào nước này thì đắm nhiễm vào sự khoái lạc trong đó nên lại khởi lên tâm kiêu mạn, giải đãi, chẳng chịu tấn tu để sanh lên Cực Lạc nên gọi là Giải Mạn quốc. Như kinh Bồ Tát Xử Thai chép:
‘Ở phương Tây, cách cõi Diêm Phù Đề này mười hai ức na do tha cõi có cõi Giải Mạn. Cõi nước ấy khoái lạc… Chúng sanh phát ý trước sau muốn sanh về cõi nước Phật A Di Đà, nhưng đều đắm nhiễm sâu nặng cõi nước Giải Mạn, chẳng thể tiến lên sanh về cõi Phật A Di Đà. Trong ức ngàn vạn chúng mới có một người sanh nổi về cõi Phật A Di Đà. Vì sao vậy? Đều vì lười biếng, kiêu mạn, chấp trước, tâm chẳng kiên cố’.
Cứ theo ý kinh, ta thấy cõi Giải Mạn cũng thuộc về biên địa, nghi thành.
Trong tác phẩm Lược Luận, ngài Đàm Loan đã giảng câu ‘chẳng hiểu rõ Phật trí’ như sau:
‘Chẳng hiểu rõ Phật trí là chẳng thể tin trọn vẹn vào Nhất Thiết Chủng Trí của Phật. Do chẳng hiểu nổi nên khởi nghi. Một câu này nêu chung điều nghi; bốn câu tiếp theo, mỗi câu đối trị cái nghi ấy’.
Các vị Tịnh Ảnh, Pháp Vị, Nguyên Hiểu đều theo thuyết này, cùng cho rằng câu ‘chẳng hiểu rõ Phật trí’ là tổng, bốn câu kia là biệt.
Ngài Tịnh Ảnh viết: ‘Trước hết nói “chẳng hiểu rõ Phật trí”, câu này là tổng, [những câu như] “bất tư nghị trí” v.v… là biệt. Phật trí uyên thâm, những trí khác không suy lường nổi nên bảo là “bất tư nghị”. Phật trí thật nhiều, chẳng thể kể hết nên bảo là “bất khả xưng”. Phật trí biết rõ cùng tột các pháp môn nên gọi là “quảng trí”. Phật trí ở địa vị cao trỗi nên gọi là “vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.
Ngài Hải Đông Nguyên Hiểu đời Đường lại đem bốn câu ấy phối hợp với bốn trí. Trong tác phẩm Tông Yếu, ngài đã viết:
‘Câu “Phật trí” là câu nêu chung, bốn câu tiếp đó đều nói về bốn trí.
“Bất tư nghị trí” là Thành Sở Tác Trí, trí này có thể làm được những việc chẳng thể nghĩ bàn; chẳng hạn như một niệm xưng danh vĩnh viễn diệt được trọng tội trong nhiều kiếp. Công đức của mười niệm phát sanh ra quả báo thù thắng vượt ngoài tam giới. Các việc như thế chẳng thể lường suy nổi cho nên gọi là “bất tư nghị trí”.
“Bất khả xưng trí” là Diệu Quán Sát Trí. Trí này quán sát chẳng thể nói nổi cảnh giới, nghĩa là: hết thảy pháp như huyễn, như mộng, chẳng phải có, chẳng phải không, lìa ngôn ngữ, dứt bặt suy nghĩ, chẳng thể dùng ngôn ngữ để suy lường, diễn tả nổi. Vì thế trí này gọi là “bất khả xưng trí”.
“Đại thừa quảng trí” là Bình Đẳng Tánh Trí. Trí này độ rộng khắp, chẳng giống với Tiểu Thừa, tức là dung hội vô ngã nên chẳng bất ngã. Do bất ngã nên không gì là không bình đẳng nhiếp thọ. Dùng trí lực đồng thể này độ khắp vô biên hữu tình khiến chúng đều chứng vô thượng Bồ Đề cho nên gọi là “đại thừa quảng trí”.
“Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí’ chính là Như Lai Đại Viên Kính Trí. Thỉ giác chuyển thành bổn thức thì mới quy về nguồn tâm. Với hết thảy cảnh, không cảnh nào chẳng chiếu soi trọn vẹn. Vì lẽ đó, gọi là Đại Viên Kính Trí. Trong một trí này có năm điều thù thắng:
a. Như Nhị Thừa cũng chứng đắc giải thoát thân, nhưng Kính Trí này chính là Pháp Thân thì Nhị Thừa chẳng thể đạt được nên gọi là “vô đẳng” (không ai bằng). Đấy là điều thù thắng thứ nhất.
b. Ba trí trước đó Bồ Tát cũng dần dần sẽ đạt được; nhưng Đại Viên Kính Trí chỉ Phật mới đốn chứng, chứ không ai khác chứng nổi nên gọi là “vô luân” (không ai sánh nổi). Đấy là điều thù thắng thứ hai.
c. Hơn cả “bất tư nghị trí” là “tối”; vượt xa “bất tư nghị trí” là “thượng”. Rộng hơn “đại thừa quảng trí” là “thắng”. Đấy chính là các điều thù thắng thứ ba, thứ tư và thứ năm vậy.
Bởi thế, trí này được gọi là “vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.
Sách Hội Sớ lại nói:
“Chẳng hiểu rõ Phật trí” là nghi tánh đức bất tư nghì của Phật trí, chẳng ngộ được vì sao đức Như Lai là vĩ đại. Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi Phật trí mà [chúng sanh] lại nghi ngờ trí ấy nên chẳng thể hiểu rõ Phật trí.
Bất tư nghị trí: vì trí huệ của Phật sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là “bất tư nghị trí”. Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi bất tư nghị trí mà [chúng sanh] lại nghi trí ấy nên bảo là “chẳng hiểu rõ bất tư nghị trí”.
Bất khả xưng trí là trí huệ của Phật nhiều đến vô lượng chẳng thể nói kể cho hết được nên gọi là bất khả xưng trí. Niệm Phật vãng sanh là do bất khả xưng trí thành tựu mà lại nghi trí ấy thì gọi là “chẳng hiểu rõ bất khả xưng trí”.
Đại Thừa quảng trí là trí biết đến cùng tột các pháp môn nên gọi là đại thừa quảng trí. Niệm Phật vãng sanh là do đại thừa quảng trí cảm thành mà lại nghi trí ấy nên gọi là “chẳng hiểu rõ đại thừa quảng trí”.
Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí là trí ấy địa vị cao trỗi nên gọi là vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Nay niệm Phật vãng sanh đây do vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí phát khởi mà lại nghi trí ấy nên bảo là “chẳng hiểu rõ vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.
Ba thuyết trên hỗ trợ nhau: thuyết của Tịnh Ảnh Sớ trình bày tóm lược những điểm quan trọng; thuyết của sách Tông Yếu giảng rộng từng ý nghĩa; sách Hội Sớ quy kết về Tịnh tông nên tôi cùng trích dẫn cả ba thuyết.
Kinh nói: ‘Dùng tâm nghi hoặc’ nghĩa là do chẳng tin hiểu nổi Phật trí nên sanh tâm ngờ vực. Chữ “nghi” có bốn ý, dưới đây tôi sẽ tổng hợp những ý chính của các vị Đàm Loan, Nguyên Hiểu, Tuấn Đế và Cảnh Hưng để giảng.
* Một là chẳng tin vào bất tư nghị trí nên nghi nếu chỉ niệm A Di Đà Phật chưa chắc đã được vãng sanh Cực Lạc, chẳng biết rằng bất tư nghị trí có đại oai lực chẳng thể suy lường được nổi. Hết thảy muôn pháp không pháp nào chẳng phải là tự lực, tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp, thiên biến vạn hóa vô lượng vô biên. Há nên dùng cái tình thức còn ngăn ngại của phàm phu ngờ vực diệu pháp vô ngại của đức Như Lai; đâu biết rằng một tấm gương có thể hiện bóng muôn vàn cảnh tượng, củi chất ngàn năm một mồi lửa cháy sạch.
Vì vậy, chí tâm nhất niệm xưng danh tiêu diệt được trọng tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Mười niệm ắt được vãng sanh có chi là lạ!
* Hai là chẳng tin vào bất khả xưng trí, chẳng hiểu được rằng thể tánh của Phật trí là tuyệt dứt mọi đối đãi, lìa mọi lỗi lầm, tuyệt mọi sai trái.
Ngài Đàm Loan nói: ‘Bất khả xưng trí là tin Phật trí chẳng thể diễn bày, mô tả nổi, chẳng thể đối đãi. Vì sao nói thế? Pháp nếu là có thì ắt phải có cái trí biết có. Pháp nếu là không thì ắt phải có cái trí biết không. Các pháp rời ngoài có không mà Phật thấu hiểu sâu xa các pháp nên trí ngài vượt khỏi mọi đối đãi.
Dùng cái biết để hiểu Phật thì chẳng gọi là biết Phật. Dùng cái chẳng biết để hiểu Phật thì cũng chẳng gọi là biết Phật. Dùng cái bất tri, phi bất tri để hiểu Phật thì cũng chẳng phải là biết Phật. Dùng cái phi phi tri, phi phi bất tri để hiểu Phật thì cũng chẳng phải là biết Phật. Phật trí rời ngoài cả bốn câu ấy’.
Lìa khỏi tứ cú ấy thì tuyệt bách phi. Phật trí lìa tứ cú, tuyệt bách phi, thể của Phật trí không còn đối đãi nên gọi là ‘bất khả xưng trí’. Do trí ấy chẳng thể diễn tả nổi nên công đức niệm Phật cũng chẳng thể diễn tả nổi. Niệm Phật vãng sanh là do bất khả xưng trí tạo thành nên hễ nghi trí này thì gọi là ‘chẳng hiểu rõ bất khả xưng trí’.
* Ba là chẳng hiểu rõ đại thừa quảng trí, nghi Phật chẳng thể thật sự độ hết thảy chúng sanh, lại ngờ hết thảy chúng sanh niệm Phật chẳng phải đều được vãng sanh Tịnh Độ. Bởi thế, đối với A Di Đà Phật bèn sanh ý tưởng suy lường.
Để đối trị mối nghi này, Phật mới nói đến đại thừa quảng trí. Trí này không pháp gì chẳng biết, không phiền não nào nó chẳng đoạn được, không điều thiện nào nó chẳng trọn vẹn được, không chúng sanh nào trí này chẳng độ được.
Muốn chỉ rõ: Phật trí không gì là chẳng độ thoát được, đưa hết thảy đều vào vô dư nên gọi là “đại thừa”. Trí ấy độ thoát vô hạn vô ngằn nên gọi là “quảng trí”. Trí ấy lại biết rõ cùng tột các pháp môn nên gọi là “đại thừa quảng trí”.
Vì thế, trí ấy có thể khế hợp rộng rãi mọi căn cơ, đều độ thoát tất cả. Như Lai đại bi đại trí, đối với những kẻ hữu duyên thì không một ai ngài chẳng độ thoát cho được nhập Niết Bàn. Ngài khai diễn diệu nghĩa ‘tâm này làm Phật, tâm này là Phật’ khiến các hữu tình do niệm Phật chứng nhập vô niệm, do vãng sanh chứng được vô sanh. Bởi thế có thể khiến cho chúng sanh niệm Phật đều sanh Tịnh Độ.
Hơn nữa, thế giới chẳng phải là hữu biên, chẳng phải là vô biên, cũng tuyệt hẳn tứ cú. Phật làm cho chúng sanh lìa được tứ cú ấy thì gọi là “độ”, nhưng thật ra ngài chẳng độ mà cũng chẳng phải là chẳng độ, chẳng phải tận mà cũng chẳng phải là chẳng tận.
* Bốn là chẳng hiểu rõ vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí, ngờ Phật chẳng đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Do bởi nghi như thế nên đối với pháp môn niệm Phật chẳng thể chánh tín; do đó phải bị thai sanh.
Theo ngài Nguyên Hiểu, đối với Phật trí như thế chỉ có thể ngưỡng mộ, kính tin, chứ chẳng thể so lường nên gọi là “vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”. Tín ngưỡng như thế nào? Nên như Trí Độ Luận đã nói:
‘Hết thảy cảnh giới vốn là nhất tâm, lìa khỏi tưởng niệm. Do chúng sanh vọng thấy cảnh giới nên tâm có phân chia. Do vọng khởi tưởng niệm chẳng xứng hợp với pháp tánh nên chẳng thể hiểu rạch ròi. Chư Phật Như Lai lìa khỏi các tướng thấy, không gì là chẳng hiểu trọn vẹn vì tâm chơn thật chính là tánh của chư pháp. Tự thể chiếu rõ hết thảy vọng pháp, có đại trí dụng, vô lượng phương tiện, tùy theo các chúng sanh hiểu được pháp nào thì Phật sẽ đều khai thị các thứ pháp nghĩa đó. Vì thế được gọi là Nhất Thiết Chủng Trí’.
Đây chính là vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Do không có cái bị thấy nên không gì là chẳng thấy. Hiểu như thế để đối trị mối nghi thứ bốn vậy.
Trong tác phẩm Tông Yếu, ngài Nguyên Hiểu lại viết:
‘Nếu người chẳng đoạn nổi bốn mối