KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
CHƯƠNG IV:
KẾT KHUYẾN LƯU THÔNG
PHẦN PHỤ LỤC
CHÚ THÍCH NGHI THỨC TỤNG GIỚI
BỒ TÁT
MỖI NỬA THÁNG DO SA MÔN HOẰNG TÁN LƯỢC THÍCH
KHOA MỤC CỦA NGHI THỨC TỤNG GIỚI
1. Quy kính
Tam Bảo.
2. Sách tu (sách
tấn đại chúng tu hành)
3. Tác tiền
phương tiện (những phương tiện trước khi làm việc)
4. Tụng giới tự
(tụng lời tựa pháp Đại Thừa)
5. Kiết
vấn.
6. Chánh thức
tụng Giới Kinh.
Tham khảo tác giả Nghi Thức Tụng Giới Bồ Tát chưa rõ là người nào. Tuy nhiên, tìm xét trước sau phần nhiều là chép trong kinh văn của Bồ Tát Giới Bổn và Giới Bổn của Nhứt Thiết Hữu Bộ.
Bồ Tát Giới Bổn do ngài Đàm Vô Sấm Pháp Sư ở triều Bắc Lương phiên dịch. Còn giới bổn của Nhứt Thiết Hữu Bộ do ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng Pháp Sư triều Đường, niên hiệu Cảnh Long năm thứ tư phụng chiếu phiên dịch. Căn cứ trong văn lời tựa của Bồ Tát giới này thì nói là ở trong thời kỳ Tượng Pháp.
Vì đức Như Lai diệt độ vào khoảng thời gian một ngàn năm, giáo pháp của Ngài lưu truyền đến Trung Quốc, từ nhà Hán, vua Minh Đế cho đến nhà Tống vua Nhân Tông, năm Tân Mão, giáo pháp của Như Lai phổ biến ở Trung Quốc thời gian một ngàn năm gọi là Tượng Pháp. Từ đó về sau đều gọi là Mạt Pháp.
Theo lời Tựa nói là ở thời Tượng Pháp, là lẽ tất nhiên tác giả không phải thời kỳ Mạt Pháp và nghi thức tụng giới không phải người ở vào triều Đường biên tập mà có thể là người trong Thiên Thai Giáo ở vào cuối đời nhà Đường đầu nhà Tống biên tập vậy.
Đến giờ tụng giới Bồ Tát, đại chúng vân tập, nếu đã lạy Thù Ân thì khỏi phần này, còn không có lạy Thù Ân thì nên lạy thêm trước khi tụng giới.
- Chí tâm
đảnh lễ Liên Hoa Đài Tạng thế giới Phạm Võng giáo chủ Lô Xá Na Phật (tam
bái).
- Chí tâm đảnh
lễ Liên Hoa Đài Thiên Hoa Thượng Phật (tam bái)
- Chí tâm
đảnh lễ thiên bá ức hóa thân Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (tam bái).
- Chí tâm
đảnh lễ Phật thuyết Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới (tam bái)
Vừa lạy vừa quán
tưởng
Pháp tánh như
hư không bất khả kiến,
Thường trụ Pháp
Bảo thật nan tư,
Ngã kim tam
nghiệp như pháp thỉnh,
Duy nguyện hiển
hiện thọ cúng dường.
- Chí tâm đảnh
lễ Tây Thiên Đông Độ lịch đại tổ sư (tam bái)
Khi sắp tụng giới, trong chúng cử vị nào có khả năng lên tụng giới. Người tụng giới lên pháp tòa bạch đại chúng rằng:
- Tôi Bồ Tát tỳ kheo... khể thủ lễ bái kính bạch đại chúng: Hôm nay chúng tăng sai tôi tụng giới, sợ e có chỗ sai lầm. Vậy cúi mong người đồng tụng từ bi chỉ giáo cho!
1. QUY KÍNH TAM BẢO
Chánh
văn
Chúng thọ Bồ Tát
giới lắng nghe!
Quy mạng Lô Xá
Na,
Mười phương Kim
Cương Phật,
Đảnh lễ đức Di
Lặc,
Sẽ hạ sanh thành
Phật,
Nay tụng ba tụ
giới,
Bồ Tát đều lắng
nghe.
Lời giảng
“
Lô Xá Na, Trung
Hoa dịch là Tịnh Mãn, là chỉ Báo Thân Phật.
“Mười phương Kim
Cương Phật” là chư Phật trong mười phương thế giới đều nhập Kim Cương đại định,
đoạn trừ vô minh vi tế, rốt sau mà thành Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nói về khía cạnh
công năng gọi là Kim Cương, còn nói về phương diện sở chứng mệnh danh là
Phật.
Phật là giác,
gồm tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
Di Lặc, Trung
Hoa dịch là Từ Thị:
Từ Thị Bồ Tát
theo Phật xuất gia tạo các bộ luận Đại Thừa như Du Già Sư Địa Luận v.v... Đời
sau tổ thuật (bắt chước theo) như chư đại Bồ Tát Mã Minh, Long Thọ... nên tôn
xưng Từ Thị Bồ Tát là Tiền Luận Chủ. Tiểu kiếp thứ 10 sau đây, lúc thọ mạng của
con người được tám muôn tuổi thì Ngài sẽ hạ sanh xuống nhơn gian thành
Phật.
Ba tụ giới:
1. Nhiếp Luật
Nghi Giới:
- Giới là ý
nghĩa ngăn những sái quấy, dứt trừ các tội ác.
- Nhiếp Luật
Nghi là không giới nào chẳng nghiêm trì.
2. Nhiếp Thiện Pháp Giới: không pháp lành nào chẳng tu tập, tu tập pháp lành là tu khắp lục độ, vạn hạnh.
3. Nhiếp Chúng Sanh Giới: không chúng sanh nào chẳng hóa độ.
Năm mươi tám
giới này có công năng đoạn trừ tất cả ác pháp là Nhiếp Luật Nghi Giới. Tất cả
ác pháp đã đoạn, thì thành tựu các thiện pháp là Nhiếp Thiện Pháp Giới. Ác pháp
đã đoạn, thiện pháp đã viên mãn, đương nhiên làm lợi ích cho hữu tình là Nhiếp
Chúng Sanh Giới.
- Nhiếp Luật
Nghi Giới phần nhiều chủ về công đức bên trong.
- Nhiếp Chúng
Sanh Giới thuộc về hóa độ bên ngoài.
- Nhiếp Thiện
Pháp Giới kiêm cả bên trong lẫn bên ngoài.
Tại sao
vậy?
Vì bên trong
dùng thiện pháp tu tập cho chính mình, bên ngoài đem thiện pháp dẫn dắt mọi
người. Như thế dưới là hóa độ chúng sanh, giữa thì tu thiện pháp lục độ vạn
hạnh, trên thành tựu cực quả của Phật, ác pháp đã hết, thiện pháp được viên
mãn.
Nên kinh Bồ Tát
Giới Bổn nói: “Thường giáo hóa chúng sanh không bao giờ thấy mệt nhọc, thiện
nghiệp đã rốt ráo rồi thì Phật đạo mau thành tựu” là ý này vậy.
Chư Phật mười
phương là Phật bảo, Từ Thị Bồ Tát là Đại Thừa Tăng Bảo, ba tụ giới là Đại Thừa
Pháp Bảo, vì sắp sửa tụng giới nên trước tiên phải thành kính quy mạng Tam
Bảo.
“Bồ Tát đều cùng
nghe”: câu này răn nhắc đại chúng nghe giới. Nghĩa là thính chúng hiện tiền,
phải cùng nhau nhứt tâm lắng nghe cho kỹ, nghe xong phải tư duy để tu
tập.
Chánh
văn
Giới như gương
báu sáng,
Chiếu rõ tất cả
pháp.
Giới như châu Ma
Ni
Rưới của giúp kẻ
nghèo,.
Thoát khổ mau
thành Phật.
Chỉ giới này hơn
cả,
Vì thế nên Bồ
Tát,
Phải tinh tấn
giữ gìn.
Lời
giảng
Văn kệ trên từ
trong kinh Bồ Tát Giới Bổn chép ra, ý nghĩa như sau:
Tâm địa đại giới
có công năng phá trừ sự si mê tăm tối của vô minh trong sanh tử từ vô thỉ trở
lại, cho nên dụ như chiếc đèn sáng lớn ở thế gian. Vì phá trừ vô minh trong
sanh tử tức thuộc về Nhiếp Luật Nghi Giới.
Tâm địa đại giới
này có công năng biện biệt chỉ trì tác phạm (chỉ trì là ngăn dứt những điều ác
gọi là trì giới, tác phạm là tạo tác những tội ác gọi là phạm giới). Tất cả các
pháp thiện ác đều phân tách rõ ràng, dụ như gương báu sáng trên thế gian, tất
cả cảnh vật tốt xấu đều hiện rõ.
Nên trong Tỳ
Kheo Giới Bổn nói:
Như người tự soi
gương,
Đẹp xấu sanh vui
buồn.
Vì có công năng
đoạn trừ ác pháp, chứa nhóm thiện pháp, chiếu rõ công đức trí huệ nơi Phật địa,
tức thuộc về Nhiếp Thiện Pháp Giới.
Ma Ni là tiếng
Phạn, Trung Hoa dịch là Như Ý. Ma Ni là vua trong các thứ ngọc. Ngọc này sản
xuất trong cung Long vương. Người nào được hạt ngọc này tùy theo tâm niệm ưa
muốn của chúng sanh, ngọc ấy lưu xuất các thứ thất bảo, kim, ngân v.v... cùng
các nhu dụng khác.
Giới này xuất
sanh vô lượng thắng định diệu huệ, tất cả thiện pháp thánh tài để cứu giúp
những chúng sanh thiếu thốn thiện pháp, như ngọc Ma Ni ở thế gian cứu giúp
những người nghèo cùng.
Vì giới này xuất
sanh các thánh pháp, cứu giúp sự nghèo cùng cho chúng sanh trong chín cõi, nên
thuộc về Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Tâm địa đại giới
này là diệu thuật thoát ly sanh tử, là pháp tối yếu mau thành bậc Chánh
Giác.
Cho nên trong Tỳ
Kheo Giới Bổn nói: “Trong tất cả các Luật, Giới kinh là hơn hết. Trong pháp
Tiểu Thừa, nhơn thiên, Thanh Văn, Tỳ Kheo Giới Bổn là hơn hết. Trong pháp Bồ
Tát Đại Thừa Tâm Địa Đại Giới thì Tam Tụ Tịnh Giới là hơn hết”. Nên nói:
Thoát khổ mau
thành Phật,
Chỉ giới này hơn
cả.
Hai chữ “cho
nên” nghĩa là đã biết Tâm Địa Đại Giới này có đầy đủ công năng như trên, cho
nên chư Bồ Tát phải tinh tấn giữ gìn đừng cho có chút trái phạm.
2. SÁCH TU (sách tấn đại chúng tu hành)
Chánh văn
Lời giảng
Theo thế gian một năm có bốn mùa, trong Phật pháp một năm chia làm 3 mùa vì bỏ mùa Thu. Việc này có hai nghĩa:
1. Vì mùa Thu là mùa thành tựu: thời kỳ thu hoạch các thứ như ngũ cốc v.v... đều có kết quả. Đức Phật vì muốn phá trừ tâm bảo thủ chấp thường của đệ tử, cho là thường, là vui, nên bỏ mùa Thu không tính.
2. Đức Phật
vì các đệ tử khai cho hậu An Cư, lập tháng Ca Đề (Ca Đề là tiếng Ấn Độ, Trung
Hoa dịch là Mão Tinh, vì từ mười sáu tháng Bảy cho đến Rằm tháng Tám, gặp nhằm
sao Mão, cho các vị hậu an cư tiếp tục an cư được thành tựu, và vẫn gọi là Tọa
Hạ (kiết hạ), mà không gọi là Tọa Thu).
Vì hai lý do
trên, nên bỏ không tính mùa Thu.
Trong đây nói
phần:
- Mùa Xuân: từ
mười sáu tháng Chạp cho đến Rằm tháng Tư.
- Mùa Hạ từ mười
sáu tháng Tư cho đến Rằm tháng Tám.
- Mùa Đông từ
mười sáu tháng Tám cho đến Rằm tháng Chạp.
Chánh
văn
Nửa tháng
đã qua.
Lời giảng
Trong giới bổn của Nhất Thiết Hữu Bộ nói: “Do không buông lung chắc chắn sẽ chứng đắc Như Lai chánh đẳng chánh giác, huống chi các thiện pháp khác như ba mươi bảy phẩm trợ đạo”.
“Nhân lúc còn mạnh khỏe, các ngài phải gắng sức siêng tu pháp lành”: nghĩa là hiện tại đại chúng mỗi người đầy đủ phước duyên, được nghe tụng giới pháp Đại Thừa này phải thừa dịp ngay lúc thân còn khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn này, gắng sức siêng tu các pháp lành.
Hai chữ “tại sao” là lời gạn trở lại, nghĩa là trong đại chúng đã được nghe tụng giới pháp, tại sao không cần cầu tinh tiến tu hành đạo nghiệp, đâu nên an nhiên đợi đến lúc tuổi già suy yếu không thể tiến tu, vô thường đã đến một bên, lại còn mong mỏi thú vui gì?
Chánh văn
Ngày nay
đã qua
Mạng sống
giảm lần
Như cá cạn
nước,
Nào có vui
chi!
Lời giảng
Bài tụng
trên, hai câu trước Đức Phật chỉ thẳng, hai câu sau lập lại thí dụ. Bài này
trong kinh Sơn Diệu chép ra.
Bấy giờ, tại Nam
Hải sóng nổi dậy, nước tràn ngập các nơi.
Khi ấy, có ba
con cá lớn trôi vào trong kinh mắc cạn. Chúng cùng nhau bàn tính rằng: “Hôm nay
chúng ta bị tai nạn này, tuy nhiên nước chưa rút, vậy chúng ta phải thừa dịp
lội ngược dòng để trở về biển lớn”.
Nhưng có chiếc
ghe nhỏ nằm ngăn chặn, không thể nào bơi qua được.
Con cá thứ nhứt
đemn hết sức mình nhảy qua ghe trở về bể cả được an toàn. Con thứ nhì nương
theo ghe cố lánh mình theo bờ cỏ mà qua được nên cũng trở về bể cả được an
toàn. Con thứ ba khí lực đã hao mòn, nước cũng cạn dần, thế mà nó vẫn ưu du tự
tại bơi lội, với cái chết đến một bên mà không hay, không biết. Đức Phật nhơn
đó nói bài kệ trên để cảnh tỉnh người đời.
“Ngày nay” tức
là chỉ cho ngày hôm nay. Nghĩa là phần hạn của ngày hôm nay nhứt định, đâu có
thể gì hy vọng tăng thêm.
Như trong
Thạch Sa Tập nói:
Ngày này không
lại nữa đâu,
Một phân thời
khắc, một phân ngọc vàng.
Ngày này không
lại nữa đâu,
Một phân thời
khắc, một nhà ngọc châu.
Một ngày đã qua rồi tức mạng sống con người trong ngày ấy bị giảm thiểu trở về sau cho nên nói là “giảm lần”. Ở trong văn kệ Đức Phật chỉ nói ngày, ngày đã như thế, với năm tháng suy theo đó mà hiểu, đâu nên ngồi yên để cho trôi qua kiếp sống mà đợi đến già?
Con cá si mê kia đã ở trong chỗ nước cạn, lại thêm ngày đêm bị gió thổi, bị ánh mặt trời thiêu đốt, thế mà nó vẫn nhởn nhơ bơi lội, cái chết đến một nơi không hay không biết.
Lấy việc con cá mà suy đến toàn nhơn loại đâu có khác gì! Con người trên thế gian này thân tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong xâm lấn lẫn nhau; ngày đêm bức bách, già chết đến một bên còn hơn con cá trong nước cạn thế nên nói: “Nào có vui chi!”
Nếu người nào có thể phát tâm tinh tấn dõng mãnh không chấp trước hai bên (hữu và vô), y theo Trung Đạo, sự lý vô ngại, viên tu viên chứng, khế hợp pháp vô sanh, vượt qua khỏi hai thứ sanh tử (phần đoạn và biến dịch sanh tử) trở về với bổn chơn nguyên, như con cá thứ nhất đem hết sức lực của mình nhảy qua khỏi ghe trở về biển cả.
Còn người nào nếu căn tánh không được như vậy, cần phải y theo giáo pháp tu hành chứng lý Chơn Không, trải qua các giai cấp địa vị, ra khỏi vòng sanh tử trở về Niết Bàn như con cá thứ hai kia đầu đuôi nương theo chiếc ghe lách mình theo bờ cỏ mà qua để trở về biển cả.
Nếu những người biếng nhác, trễ lười, không có tâm mong cầu tiến lên, chỉ ham muốn chút ít dục lạc cõi Nhân Thiên, vô thường đến một bên mà không hay biết thì không khác gì con cá si mê kia ở trong nước cạn vẫn bơi lội nhởn nhơ.
2. TÁC TIỀN PHƯƠNG TIỆN (phương tiện trước khi làm việc)
Chánh
văn
Vị tụng giới
hỏi: - Chúng nhóm chưa?
Lời
giảng
Đại phàm thực
hành Yết Ma Bố Tát, tất cả pháp sự, trước tiên cần phải tuân hành những pháp
phương tiện sau đây mới được thành tựu, cho nên chúng tăng đồng ở trong một đại
giới, thân tâm đều phải đồng nhóm họp một chỗ, để tránh khỏi việc biệt chúng
phá tăng cho nên cần phải hỏi trước, nếu chúng đã nhóm nên đáp: Chúng đã
nhóm.
Chánh
văn
Vị tụng giới
hỏi: - Hòa hợp chăng?
Lời
giảng
Đồng một pháp sự,
chúng Tăng nhóm họp lại một chỗ cần phải thân khẩu không tranh cãi. Những người
không đến thì phải dữ dục. Ở trên dù nói chúng đã nhóm họp, nhưng cũng phải
phòng ngừa nhân duyên gây gổ tranh cãi vì sợ có chướng ngại cho pháp sự nên kế
đó phải hỏi. Nếu chúng hòa hợp thì nên đáp: - Hòa hợp.
Chánh
văn
Vị tụng giới
hỏi: - Chúng nhóm họp để làm gì?
Lời giảng
Hôm nay chúng
nhóm họp để làm những pháp sự gì?
Pháp sự có nhiều
điều do chúng Tăng định đoạt nên cần đối trong chúng hỏi việc làm. Hiện nay làm
lễ bố-tát thì nên đáp như sau: thuyết giới bố-tát.
Nếu không phải
làm lễ bố-tát, nên y theo việc làm mà nói. Có người sau khi chúngTăng nhóm lại,
thêm pháp đơn bạch Yết Ma rồi mới kêu sa di Bồ Tát vào, đâu biết rằng giới Bồ
Tát rộng thâu tất cả nhơn và phi nhơn (quỷ thần) không hạn cuộc nơi tăng, nên ở
không nói thuyết giới yết ma mà nói là thuyết giới bố tát.
Chính trong lúc
thọ giới Bồ Tát cũng không có yết ma, chỉ đối trước tượng Phật, Bồ Tát ba lần
tác bạch đây tức là Yết Ma. Nếu tỳ kheo làm các yết ma, pháp sự nên gác lại lúc
khác. Sau khi bố tát xong, Bồ Tát tỳ kheo trong đây nếu có những người chưa thọ
Cụ Túc Giới, bảo phải đi ra mới nên làm pháp Yết Ma.
Chánh văn
Người chưa thọ giới Bồ Tát và không thanh tịnh ra chưa?
Lời giảng
Câu hỏi này
chỉ hai hạng người:
1. Chưa thọ tâm
địa đại giới.
2. Đã thọ mà
phạm giới, nếu:
- Phạm mười giới
trọng, mà chưa đúng pháp sám hối để được thấy hảo tướng.
- Phạm một giới
khinh mà chưa đối thủ sám hối.
Cả hai đều không
cho cùng chúng Tăng làm lễ bố-tát, bảo phải ra khỏi chúng, rời khỏi chỗ thấy
nghe.
Nếu không thì
nên đáp: Trong đây không có người chưa thọ giới Bồ Tát và người không thanh
tịnh.
Chánh văn
Có bao nhiêu vị Bồ Tát không đến chúc thọ, thuyết dục và thanh tịnh (chúc là dặn, thọ là trao gởi, nghĩa là dặn dò, trao gởi ý kiến của mình).
Lời giảng
“Không đến”
là không nhóm nhóm họp. “Chúc thọ” là phàm chúng Tăng làm tất cả những pháp sự
thân tâm phải đều nhóm họp, mới thành hòa hợp. Nếu có duyên sự như lo việc Tam
Bảo, bị bịnh, săn sóc bệnh nhơn v.v... mới khai cho tâm nhóm họp (thân không
thể đến được) thì được phép truyền thân khẩu ưng thuận theo việc làm của chúng
Tăng mới được thành tựu không chướng ngại cho pháp sự và không có lỗi biệt
chúng.
“Thuyết dục”
nghĩa là bày tỏ ý muốn của mình đối với việc làm của chúng tăng, đúng như pháp
tâm mình ưa thích, nhưng vì có duyên sự... nên không thể đến nhóm họp nếu cần
phải họp này cho một người khác truyền tâm khẩu của mình đi đến và chúc thọ
chúng Tăng.
Nên đối với
những người chúc thọ nói như sau: “Đại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Bồ Tát
giới tỳ kheo đối với việc làm của chúng Tăng đúng như pháp giữ dục và thanh
tịnh” (1 lần)
Nếu bịnh nặng
nói không được thì nên hiện tướng nơi thân, tay. Người nhận lời chúc thọ kia
đem ý muốn của người đi không được đến trong chúng tăng, Khi nghe câu hỏi trên
liền oai nghi nghiêm chỉnh tác bạch rằng: “Đại đức Tăng lắng nghe cho! Bồ Tát
giới tỳ kheo... tôi nhận dữ dục và thanh tịnh. Thầy ấy đối với việc làm đúng
pháp của chúng Tăng dữ dục và thanh tịnh” (1 lần)
Nếu chẳng phải
làm lễ bố-tát, chúng Tăng làm yết ma pháp sự khác thì bớt hai chữ “thanh tịnh”;
nhưng hiện tại làm lễ bố-tát cũng không được riêng nói “thanh tịnh” vì lúc
Bố-tát hay làm các pháp sự khác, cần phải nói “dữ dục và thanh tịnh”, vì mình
không có tội và được thanh tịnh, mới cho cùng chúng Tăng bố-tát.
3. TỤNG
LỜI TỰA CỦA GIỚI BỒ TÁT
Chánh
văn
Chư đại đức chắp
tay chí tâm lóng nghe: Nay tôi sắp tụng lời tựa về giới pháp Đại Thừa của chư
Phật, đại chúng lẳng lặng lóng nghe. Trong đây vị nào biết mình có tội phải sám
hối. Sám hối thời được an vui. Không sám hối thời tội lỗi càng thêm nặng. Người
không có lỗi thời yên lặng! Vì yên lặng nên biết đại chúng thanh tịnh.
Lời
giảng
Ở chánh văn câu
đầu nói, nghe, có hai việc:
1. Chắp tay cung
kính chí thành mà nghe.
2. Không phạm
tội được thanh tịnh mới cho nghe.
“Chư Phật tử
v.v...” là chỉ tứ chúng Phật tử hiện tiền đang nghe giới. Lời tựa về giới pháp
Đại Thừa của chư Phật tử là tâm địa đại giới này do chư Phật trong ba đời đồng
tuyên thuyết, vượt lên trên giới pháp Tiểu Thừa, nên gọi là giới pháp Đại Thừa.
Chữ “tựa” có nghĩa là manh mối, là nguyên do manh mối của một bộ kinh.
“Chúng nhóm” có
hai ý nghĩa:
- Thân căn hòa
hợp nhóm lại một chỗ.
- Chí tâm lẳng
lặng mà nghe giới.
Sám hối thời
được an vui là vì nếu vị nào tự biết mình có phạm tội thì trước khi làm lễ
bố-tát nên đúng như pháp phát lồ sám hối tội lỗi, mới cho nghe giới. Vì đã đúng
như pháp sám hối thì thân tâm thanh tịnh. Do thanh tịnh nên được an vui, đời sau
không bị đọa trong tam đồ, cho đến được hưởng thọ đại lạc của cảnh giới Niết
Bàn.
Trái lại, nếu
không phát lộ sám hối, che giấu trong một đêm, thì phạm tội khinh cấu cho nên
nói tội càng thêm nặng.
Nếu người chưa
thọ Ngũ Giới thì không được truyền trao giới Bồ Tát cho người (khi tụng giới
cần phải tụng âm thinh cho rõ ràng, mỗi chữ rõ ràng không chậm, không mau. Vì
chậm thì mất thì giờ chúng ngồi mỏi mệt, sanh phiền não, mau thì nghe không
kịp, không thể lãnh hội. Cũng không nên tụng tiếng kéo dài như hát xướng, ca
vịnh).
Chánh văn
Sau khi Đức Phật diệt độ trong thời Mạt Pháp, nên phải tôn kính Ba La Đề Mộc Xoa chính là giới pháp này. Trì giới này thời như đi đêm tối gặp đèn sáng, như người nghèo được của báu, như bịnh được lành, như người tù được thả, như kẻ đi xa được về nhà. Nên biết rằng giới pháp này là đức thầy sáng suốt của đại chúng, không khác Đức Phật còn ở đời.
Lời giảng
Đoạn kinh văn
trên là dặn dò, nhắc nhở đại chúng thời Mạt Pháp đối với pháp của Như Lai phải
hết lòng tôn kính như bậc thầy sáng suốt của mình.
Trong Phật pháp
chia làm ba thời kỳ:
- Chánh Pháp:
Sau khi đức Như Lai nhập diệt, một ngàn năm đầu là thời kỳ chánh pháp. Thời này
người bẩm thọ giới pháp và tu hành mà được chứng Thánh Quả.
- Tượng Pháp:
Một ngàn năm thứ hai là thời Tượng Pháp. Chữ Tượng là tương tợ. Nghĩa là thời
kỳ này, có giáo pháp, có người thực hành tương tợ với thời kỳ Chánh Pháp nhưng
đa số không thể chứng đắc Thánh Quả.
- Mạt Pháp: thời
kỳ Chánh Pháp và Tượng Pháp đã qua rồi, hiện nay nhằm vào thời Mạt Pháp. Thời
kỳ này dù có người bẩm thọ giáo pháp, nhưng phần nhiều không chịu tu hành. Dù
có tu hành cũng không thể chứng đắc Thánh Quả.
Ba La Đề Mộc Xoa
là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Bảo Giải Thoát, nghĩa là bảo đảm chắc chắn
cho hành giả được thoát sanh tử mà chứng đắc bốn đức Niết Bàn: Thường, Lạc,
Ngã, Tịnh.
Giới pháp này là
chiếc đèn lớn Đại Thừa chánh pháp phá trừ phiền não tối tăm cho chúng sanh, nên
dụ như đi đêm tối gặp đèn sáng. Giới này đầy đủ vô lượng công đức pháp tài, làm
tư lương phước đức trí huệ cho chư Bồ Tát, cho nên dụ như người nghèo được của
báu.
Giới này có công
năng trị liệu tam độc, ác nghiệp tội báo cho tất cả chúng sanh, nên dụ như bệnh
được lành. Giới này đầy đủ các diệu dụng giải thoát, có công năng trừ diệt bao nhiêu
thống khổ, cột trói chúng sanh trong lao ngục tam giới nên dụ như người tù được
thả.
Giới này có công
năng ngăn dứt dòng sanh tử lưu chuyển trong nhiều kiếp của tất cả chúng sanh,
đưa chúng sanh vào thành lớn Niết Bàn, dụ như kẻ đi xa được về nhà.
Năm thí dụ trên
là tán thán công năng của giới pháp Đại Thừa.
Đại Sư là chỉ
cho Bổn Sư Thích Ca Như Lai, vì lúc Như Lai sắp Niết Bàn, ngài A Nan thỉnh vấn
đức Phật rằng: “Kính bạch Thế Tôn! Khi Ngài còn tại thế, chúng con lấy Ngài làm
thầy. Sau khi đức Như Lai diệt độ, chúng con lấy ai làm thầy?”
Đức Phật dạy:
“Này A Nan! Sau khi ta diệt độ, các ông nên lấy Ba La Đề Mộc Xoa làm
thầy”.
Vì thế nên kinh
văn dạy: “Nên biết rằng giới pháp này là Đức Thầy sáng suốt của đại chúng,
không khác Đức Phật còn tại thế”.
Hiện tại đại
chúng đối với giới pháp tôn trọng, nương theo tu hành giống như Phật còn tại
thế không khác, nên trong Bồ Tát Giới Bổn Nghĩa Sớ thuyết minh: “Giới Bồ Tát là
phương tiện đầu tiên chuyên chở các thiện pháp, là quân trận tiền tuyến đẩy lui
ác tặc, thẳng tiến tới trước mà về Niết Bàn. Cội gốc sanh tử do giới này mà có
thể hết hẳn”.
Hành giả Thanh
Văn là người tu theo hạnh Tiểu Thừa, với Ba La Đề Mộc Xoa hãy còn hết lòng kính
trọng. Đại sĩ là người có bản hoài tự lợi lợi tha, với giới pháp đâu nên không
nghiêm trì?
Thế nên trong
ngoài hai chúng Phật tử đều hết lòng kính thờ, tận tâm vâng giữ. Vì giới pháp
này là thắng nhơn đưa hành giả đến vô thượng Phật quả, nên hàng Phật tử đối với
giới pháp phải hết lòng tôn kính như Đức Phật.
Chánh
văn
Nếu không có
lòng sợ tội thời tâm lành khó nẩy nở, cho nên trong kinh có lời dạy: “Chớ xem
thường những lỗi nhỏ mà cho là không họa hại, như giọt nước kia dù nhỏ nhưng
dần đầy cả chum lớn. Lúc tạo tội chừng trong giây phút mà phải cả nghìn muôn
năm chịu khổ nơi địa ngục. Một phen bị đọa lạc mất thân người thời muôn kiếp
khó đặng lại”.
Lời
giảng
Bài kệ trên
trích trong kinh Pháp Cú, nguyên văn như sau:
Vật khinh tiểu
tội dĩ vi vô ương,
Thủy đích tuy vi
tiệm dinh đại khí,
Sát na tạo tội
ương đọa vô gián,
Nhất thất nhơn
thân vạn kiếp bất phục.
Dịch:
Đừng khinh
tội nhỏ cho là vô hại,
Giọt nước dù nhỏ
dần đầy chum lớn,
Tạo tội (trong)
sát na bị đọa vô gián,
Thân người mất
rồi muôn kiếp khó được.
Ý bài kệ răn nhắc hàng Phật tử biết rõ lý nhân quả không bao giờ sai lạc. Tâm sợ tội khó sanh, tâm lành khó nẩy nở.
Giọt nước là dụ cho những tội nhỏ, nghĩa là những giọt nước kia dù nhỏ mà ngày đêm chảy mãi cũng đầy chum to. Cũng thế, nếu với lỗi nhỏ khinh thường phạm mãi, chứa nhóm thành nhiều, đầy dẫy thân tâm, cho nên Bồ Tát hộ trì giới cấm: với tội khinh xem như tội trọng, hết lòng kính sợ, gìn giữ không dám trái phạm.
Tiếng Phạn gọi là sát-na, Trung Hoa dịch là Nhất Niệm: chỉ cho thời gian rất nhanh, rất ngắn. Trong kinh thí dụ như khoảnh khắc vị đại lực sĩ khảy móng tay một cái, có sáu mươi lăm sát na, trong một sát na có chín trăm lần sanh diệt. Ý nói tạo tội thời gian rất nhanh mà sau khi xả thân đọa vào địa ngục Vô Gián thọ khổ quả thời gian hết sức lâu dài. Từ địa ngục thoát khỏi lại đọa vào ngạ quỷ, súc sanh trôi lăn trong ba cõi, qua lại trong sáu đường, chịu nghìn muôn lần sanh tử, khó tái phục nhơn thân, nên nói “muôn kiếp khó được lại”.
Chánh
văn
Sắc trẻ không
dừng, dường như ngựa chạy. Mạng người vô thường mau hơn nước dốc. Ngày nay dẫu
còn khó bảo đảm được ngày mai.
Lời giảng
Sức lực sắc
thân của người mỗi ngày một suy yếu, đổi thay từng sát na không dứt, cho nên dụ
như ngựa phi qua kẽ hở nhanh chóng dị thường.
Hai chữ vô
thường là nghĩa dời đổi không tạm ngừng. Thân mạng con người cũng thế, đổi thay
trong mỗi niệm, sự nhanh chóng ấy còn hơn nước trên dốc núi chảy xuống. Đã là
vô thường thì thân của con người ở trong hô hấp khó biết được, nghĩa là hơi thở
ra mà không trở vào đã qua đời khác. Hơn nữa, ngày nay dù còn sống đây nhưng
ngày mai nào có chắc.
Chánh
văn
Đại chúng! Mỗi
người nên nhất tâm cần cầu tinh tấn, chớ biếng nhác, trễ lười, phóng túng ngủ
nghỉ. Ban đêm phải nhiếp tâm niệm Phật, tham thiền, chớ để thời gian luống qua
vô ích mà sau này phải ăn năn. Đại chúng! Mỗi người nên nhất tâm cung kính y
theo giới này, như pháp tu hành, cần nên học tập.
Lời
giảng
Đoạn kinh văn
trên hai lần nhắc nhở đại chúng. Lần thứ nhất nhắc nhở rằng: Mỗi người nên nhứt
tâm cần cầu tinh tấn v.v... nghĩa là răn nhắc đại chúng phải tinh tấn tu học,
đừng để tấc bóng quang âm vàng ngọc trôi qua một cách luống uổng nên ban ngày
phải tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, và nghiêm tầm kinh luật, đêm đến lúc đầu
hôm và khuya phải nhiếp tâm tọa thiền niệm Phật. Nửa đêm chỉ tạm nghỉ để dưỡng
thần, không nên buông lung ngủ nghỉ cho nhiều mà sanh các tội lỗi.
Điều duy nhứt là
tất cả thời phải chuyên tâm nhất ý niệm danh hiệu của Từ Phụ A Di Đà Phật để
cho tội diệt phước sanh, căn lành tăng trưởng, đến khi xả thân được vãng sanh
Cực Lạc, thoát hẳn luân hồi.
Lần thứ hai nhắc
nhở rằng: mỗi người phải hết sức thận trọng giữ gìn thân tâm cho thanh tịnh, y
theo tâm địa đại giới mà tu hành, siêng năng học tập, y như lời Phật dạy mà
hành trì, đừng để cho tạp niệm xen vào, cho nên gọi là “nhất tâm”.
5. KIẾT VẤN
Chánh
văn
Chư Đại Đức! Nay
là ngày thứ mười bốn, mười lăm có trăng (không trăng) v.v... cho đến câu: Nay
xin hỏi trong đại chúng đây được thanh tịnh không? (3 lần)
Lời
giảng
Nếu vị nào phạm
tội khinh cấu mà quên, hôm nay nghe ba phen hỏi, nhớ lại lập tức nên đối với
đại chúng phát lồ sám hối, khi được thanh tịnh rồi mới có thể nghe giới.
Nếu tự biết mình
có phạm tội mà vẫn im lặng thì phạm thêm tội cố ý vọng ngữ. Cho nên lúc tụng
giới, ba lần hỏi trên là để cho đại chúng dùng gương tự soi lấy mình.
Như ngay trong
lúc này, đối với đại chúng sám hối e làm náo loạn trong khi bố-tát thì cần phải
đối với vị ngồi gần mình mà phát lồ tội lỗi đã phạm.
Hoặc là trong
tâm nên tự nghĩ: chờ Bồ Tát xong sẽ đúng pháp mà sám hối. Thực hành như thế mới
được phép nghe giới. Nếu tự nhớ mình có phạm mười giới trọng phải rời khỏi chỗ
ngồi ra ngoài, chờ chúng Tăng bố-tát xong, phải đối với người hiểu pháp luật,
hết lòng thành kính phát lồ, buồn khóc rơi lệ, thỉnh cầu chỉ giáo phương pháp
diệt tội. Ba chữ “vì im lặng” là chứng tỏ thanh tịnh.
Chánh
văn
Thưa đại chúng!
Trong đây thanh tịnh vì im lặng, việc này xin nhận biết như vậy.
Lời giảng
Câu: Việc này xin nhận biết như vậy chứng tỏ người tụng giới đối với việc ấy rõ biết không quên. Đã ba phen gạn hỏi, trong chúng đều thanh tịnh, vì thanh tịnh nên im lặng. Do sự im lặng của đại chúng nên hôm nay, tôi đối trước việc này, tôi rõ biết như vậy chớ không quên, biết đại chúng thanh tịnh mới có thể vì đại chúng tụng giới kinh.
6. CHÁNH THỨC TỤNG GIỚI KINH
Chánh
văn
Tụng Bồ Tát Tâm
Địa phẩm hạ từ câu “nhĩ thời...” cho đến câu “cộng thành Phật đạo”.
Lời
giảng
Nếu khi tụng
giới có nạn duyên cũng cần tụng đủ mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh thì
nên nói là mười giới trọng Ba La Đề Mộc Xoa hôm nay sẽ tụng, đến bốn mươi tám
giới khinh hôm nay sẽ tụng. Như thế mỗi mỗi tụng đủ năm mươi tám giới.
Lại sợ e gặp
trường hợp nạn duyên bức bách thì nên tụng lược toàn văn năm hay sáu giới trong
mười giới trọng, còn những giới kia và bốn mươi tám giới khinh, chỉ tụng danh
mục của mỗi giới cũng được.
Hiện nay, những
tòng lâm ở các nơi phần nhiều buổi mai đại chúng tụng giới kinh, buổi chiều làm
lễ Bố Tát thì lược tụng danh mục của giới tướng. Như Đại Thừa và Tiểu Thừa đều
làm lễ bố tát, nếu tụng luôn hai giới bổn sợ thời gian không kịp thì nên chia
ra hai buổi, mai tụng giới tỳ kheo, chiều tụng giới Bồ Tát.
Trường hợp chúng
đông khó nhóm thì ngày mười bốn tỳ kheo làm lễ bố tát, ngày mười lăm Bồ Tát làm
lễ bố tát.
Khi tụng giới
xong, vị tụng giới sau khi xuống pháp tòa, kính tạ đại chúng như sau:
“Tôi Bồ Tát giới
tỳ kheo thành tâm kính tạ đại chúng. Hôm nay chúng tăng sai tôi tụng giới, ba
nghiệp không tinh tấn, trong khi tụng giới văn không thông suốt làm cho đại
chúng ngồi lâu mất thì giờ lại mệt mỏi. Cúi xin đại chúng từ bi bố thí hoan hỷ
cho...”