Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2 Chú Thích Danh Nghĩa

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6941)
Chương 2  Chú Thích Danh Nghĩa

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 2 
Chú Thích Danh Nghĩa 

 
Bát Quan Trai Giới căn cứ theo Kinh luận, bất kể hàng tại gia đã quy y Tam Bảo hay chưa, bất kể là người học pháp Tiểu Thừa hay Đại Thừa, đều có thể thọ Bát Quan Trai Giới. Đây là điểm đầu tiên chúng ta nên biết. 

Bát Quan Trai Giới thông thường cho rằng thọ vào các ngày lục trai nhật, nhưng căn cứ theo Luật điển thì không cứ phải vào ngày lục trai (sáu ngày ăn chay). Ngay cả những ngày vía chư Phật, Bồ Tát, những ngày vía sanh hay kỵ của cha mẹ hay của sư trưởng, hoặc ngày sanh của mình, thường tụng niệm làm công đức, cũng có thể thọ Bát Quan Trai Giới. Đây là điểm thứ hai chúng ta nên biết. 

Bát Quan Trai Giới thông thường cho rằng thích hợp nhất là phải đến chùa chiền, chốn đạo tràng thanh tịnh, xa lánh trần tục, thỉnh một vị Tăng truyền thọ, nhưng cũng có thể tự mình thọ giới tại gia, bằng cách mời một vị Tăng đến nhà truyền giới. Nói đúng hơn, người nam đến chùa thọ giới thì tốt, còn người nữ thọ giới tại nhà tiện hơn. Đây là điểm thứ ba nên biết. 

Bát Quan Trai Giới tuy là danh từ rất quen thuộc với chúng ta, nhưng trong Kinh Phật Thuyết Trai, Đức Phậtphu nhân Duy Da phân biệt có ba loại: 

- Mục Ngưu trai, 
- Ni Kiền trai, 
- và Phật Pháp trai. 

Nhưng không có nghĩa là có tất cả ba loại Bát Quan Trai Giới khác nhau, mà do cách dụng tâm của người thọ giớiphân biệt xếp loại, hợp với tinh thần thọ trai của Phật pháp mới là Bát Quan Trai Giới của Phật giáo. Đây là điểm thứ tư nên biết. 

Nguyên nhân Phật nói Kinh Phật Thuyết Trai: Do có một lần Đức Phật trụ ở nhà thừa tướng tại Xá Vệ thành. Sáng sớm hôm đó, mẹ thừa tướng là bà Duy Da phu nhân dậy sớm, tắm rửa sạch sẽ, dẫn con cháu đồng đến chỗ Phật lễ lạy. Đức Phật hỏi: “Sáng sớm đến có việc gì không?” Duy Da phu nhân thưa: “Chúng con chỉ muốn thọ Trai Giới”. Đức Phật dạy: “Các vị phát tâm muốn thọ Trai Giới, điều này rất tốt và rất khó được, nhưng có ba thứ là Mục Ngưu trai, Ni Kiền trai và Phật pháp trai. Vậy quý vị muốn thọ thứ nào?” Phu nhân Duy Da không hiểu ba loại này khác nhau chỗ nào, xin Phật chỉ dạy. Đức Phật vì vậy giải thích chỗ sai biệt của ba loại. 

Thứ nhất, Mục Ngưu Trai, các vị vừa nghe tên này đã lấy làm ngồ ngộ. Thật ra đây là thí dụ: Như người chăn bò, mỗi ngày ra đồng chăn bò, đến chạng vạng trở về, trong lòng luôn nghĩ: chỗ nào có cỏ nước nhiều, ngày mai đến chỗ ấy chăn cho bò được no nê, có vậy mới thấy bớt cực nhọc, và không thấy chăn bò là khổ. Người chăn bò thường như vậy. Cũng thế, một số người phát tâm thọ trai theo Phật một ngày một đêm, nhưng sau khi thọ giới, không chịu cố gắng thành tâm thọ trì các giới, trong lúc thọ trai lòng luôn sinh vọng tưởng: “Tôi hôm nay thọ Trai Giới, cái gì cũng bị hạn chế không được hưởng thụ, ngày mai phải hưởng bù chút dục lạc để vớt vát lại ngày hôm nay phải chịu nhịn”. Thọ giới, không lưu tâm đến các giới thọ, mà chỉ đặt tâm vào sự hưởng lạc ngày mai, như vậy không phải là chân chánh thọ giới. Tỷ dụ như các vị hôm nay thọ giới, nghiêm trì giới quá ngọ không ăn. Giả như có người nghĩ chiều nay không ăn cũng được; ngày mai về nhà ăn bù lại một bữa cho đã. Như thế, dưới con mắt đại trí của chư Phật, đó là thọ Mục Ngưu trai, không phải đệ tử Phật thọ giới chân chính

Thứ hai, Ni Kiền trai: Ni Kiền Tử là một thứ ngoại đạo ở Ấn, thường gọi là Ly Hệ Ngoại Đạo (lìa trói buộc). Họ có phương pháp tu của họ. Hơn nữa, mục đích dụng công tu của họ cũng để ra khỏi sự trói buộc của sanh tử tam giới. Nhưng, dẫu rất tinh tiến dụng công tu hành, vẫn không kiếm được con đường chân chánh, kết cuộc chẳng sao tìm được sự giải thoát các thứ trói buộc. Do họ chuyên tu khổ hạnh, như trời nắng như thiêu, phơi mình dưới sức nóng bỏng của mặt trời; trời lạnh thì nằm ngoài sương giá chịu rét, hoặc bôi tro, trét bùn trên người. Nhiều người thấy vậy cho là hy hữu, khó được. Dưới mắt đức Phật thì chỉ là sự khổ hạnh vô ích, chả có chút lợi ích gì nơi sự giải thoát sanh tử, cũng không chút công hiệu với việc thể ngộ chân lý. Họ thọ Trai Giới vào các ngày Rằm mỗi tháng. Khi thọ Trai Giới, nằm xoài ra đất, nói với chư thần trong mười do tuần rằng: “Tôi hôm nay thọ giới, không còn dám làm các việc không như pháp, không hợp lý nữa. Tôi nay rời gia đình, đồng với không có nhà. Vợ con, nô bộc trong nhà nay không là của tôi, tôi cũng không phải là chủ của họ”. Như vậy, không khác Bát Quan Trai Giới cho lắm, chỉ không kê khai từng điều giới tướng mà thôi. Họ tuy miệng nói như thế, nhưng không thiết thật thực hành, chỉ phô bày bên ngoài làm hài lòng tai mắt thiên hạ, thật thì khi người dối mình, kết quả vẫn đắm chìm trong biển sanh tử. Người phát tâm thọ giới nếu trong ngày thọ giới không buông bỏ được hết, hay lợi dụng ngày này thực tiễn tu tập pháp, thì khác gì Ni Kiền Tử thọ giới. Qua hôm nay rồi, ngày mai mọi việc lại vì Ta (Ngã). Đâu phải là Trai Giới nên thọ của người học Phật. 

Thứ ba, Phật pháp trai: Chính là Bát Quan Trai Giới chúng ta đang đề cập đến hôm nay, trong Luật điển có nhiều tên gọi khác nhau. Đơn giản nhất là Bát Giới, có nơi gọi là Bát Chi Giới, thông dụng nhất là Bát Quan Trai Giới. Nay lược giảng danh nghĩa như sau: 

Bát trong Bát Quan Trai Giới là số mục. Tại sao lại là tám (bát)? Vì khi thọ giới này, đề phòng và ngăn chận tám việc, nên gọi là tám nhánh (bát chi) hay tám phần (bát phần), tức là: Tám pháp ngăn che này, có khi gọi là Giới, có khi gọi là Trai, hoặc gọi là Quan. Vì sao? Trong Phật pháp, Giới có nghĩa là ngừa quấy ngăn ác (phòng phi chỉ ác). Như hai nghiệp thân, khẩu: Thân có ba là sát sanh, trộm cướp, dâm dục; khẩu có bốn là hai lưỡi, ác khẩu, nói điêu, thêu dệt. Tổng cộng bảy chi đều là việc quấy. Các việc quấy ác này, sau khi thọ Bát Quan Trai Giới, nơi thân tâm sẽ phát sanh sức mạnh hoặc tác dụng có thể ngăn chặn được tám việc xấu. Như tội sát sanh, nếu không thọ Trai Giới, ắt sẽ sát sanh thẳng tay, không chút suy nghĩ; nhưng khi thọ giới rồi, khi sắp sát sanh, Giới nơi tâm sẽ phát sanh một sức mạnh bảo mình rằng: “Không nên giết, không được giết!” Nhờ vậy mà chặn đứng được việc làm sát sanh hại mạng kia, phải biết đó chính là sức mạnhtác dụng của Giới. 

Quan, giải theo chữ có nghĩa là “đóng”, hàm nghĩa người thọ Bát Giới này không còn làm bất cứ việc ác hại nào nên cánh cửa của tam ác đạo bị đóng chặt lại, không còn có thể vào trong ba đường dữ nữa. Té ra, ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều có cửa để vào. Bình thường, cánh cửa tam ác đạo luôn khép kín, bất cứ ai muốn tiến vào đều phải mở lấy, nhớ rằng không ai mở giùm mình ngoài chính mình tự mở. Đằng sau cánh cửa, rõ ràng toàn là điều khốn khổ, sao lại tìm đến? Cũng chỉ vì không tự chủ được mình, tạo bao điều ác nghiệp, cánh cửa tam ác đạo kia tự mở, rồi mình bước vào hồi nào không hay, chịu bao điều quả báo khó kham. Hiện nay, thọ Bát Quan Trai Giới rồi không tạo các tội ác nữa, đừng nói cửa tam ác đạo chưa mở, chúng ta quyết không đến mở, mà ngay đến cửa này có mở rồi, ta cũng đóng nó lại để có muốn vào, vào cũng không được. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng: Cửa tam ác đạo mở là do tự ta mở bằng cách gây biết bao tội lỗi. Và cũng do chính chúng ta đóng bằng cách tu các thiện pháp, tạo bao việc lành. Cho nên tục ngữ có câu: “Họa phúc không cửa, do ta tự mời” (Họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu). Hay còn nói: “Thiên đường có lối không ai đến, địa ngục không cửa vẫn tự vào” (Thiên đường hữu lộ nhữ bất tẩu, địa ngục vô môn nhữ tự khai). Nên đã là đệ tử Phật, chẳng những không nên đi mở cửa tam ác đạo mà còn phải đi đóng cửa này lại, có vậy mới hợp với ý thú học Phật. 

Trai”, thường giải thích như sau: Vì tư tưởng con người từ sáng đến tối tạp loạn không dừng, khi nghĩ đến này, lúc tưởng đến kia, không bao giờ ngừng nghỉ. Hiện tại, vận dụng một phương pháp khiến các tư tưởng tạp loạn được chuyên chú vào một cảnh, không còn lăng xăng, rối loạn. “Trai” còn có nghĩa thanh tịnh, như thế tục thường có Trai Thái Quán (tiệm chay), vừa bước vào đã thấy thật thanh khiết. Phải biết hoàn cảnh thanh khiết rất quan trọng, như đến nơi nào sạch sẽ, vẫn thấy thư thái; nếu chỗ dơ dáy, ắt sanh tâm nhờm gớm. Nội tâm con người thường nhận thứccảm giác như vậy trước cảnh bên ngoài. Sở dĩ gọi Trai là “thanh tịnh” bởi vì Trai Giới có thể giúp cho tâm được thu nhiếp tịch tĩnh, đoạn được hết mọi tội lỗi, phát sanh được sức phòng hộ căn môn. Căn môn là cửa của sáu căn. Thế gian đầy dẫy tội ác đều do sáu cửa này tạo ra. Như mắt thấy Sắc, thích thì khởi lòng tham, ghét thì khởi lòng sân, rồi đưa đến hành động hoặc chiếm hoặc bỏ, gây ra bao tội ác. Nếu muốn không tạo ác, phải tìm cách thủ hộ, đề phòng căn môn, đừng để cho nó chạy theo cảnh giới bên ngoài. Có vậy mới dứt trừ hết được các tư tưởng tạp loạn, xa rời các thứ gây đến lỗi lầm, không còn bị tà dụcthế gian ô nhiễm. Chính vì Trai có nghĩa là thanh tịnh, nên hàng kẻ sĩ và thục nữ thích gọi tịnh thất hay thư phòng mình là “trai”, biểu thị siêu nhiên thoát tục, không bị nhiễm thế. 

Như trên đã giảng, chư vị đã hiểu danh từ “Trai Giới” gốc từ Trung Quốc. Các điển lễ trong sách xưa ghi: “Trai giới để thưa với quỷ thần” (Trai giới dĩ cáo quỷ thần); cho nên, người xưa trước khi cúng quỷ thần phải trai giới, tắm rửa cho sạch sẽ. Lúc tu trai tức phải có giới, cho nên gọi chung là “Trai Giới”. Đặc tánh của Trai là tẩy sạch nội tâm, không để cho các ý niệm bất tịnh tồn tại. Năng lực của Giới ở chỗ phòng hoạn, không để cho các hành vi bất chánh được hoạt động

Trai theo Ấn có nghĩa Bố Tát hoặc Bao Sà Đà, bao gồm hai ý nghĩa “tịnh trụ” và “trưởng dưỡng”. Cư sĩ tại gia vào các ngày lục trai, thọ Bát Quan Trai Giới để trừ khử dần các ác pháp, đồng thời tu tập thêm các pháp lành, thiện pháp mỗi ngày mỗi tăng, ác pháp mỗi ngày mỗi giảm, nhờ vậy, thân tâm mới trụ nơi thanh tịnh, không bị trụ trọn ngày nơi phiền nãotội nghiệp, vì vậy gọi là “tịnh trụ”. Thứ nữa, hàng tại gia học Phật, nhờ thọ bát vào các ngày lục trai, thiện pháp mỗi ngày mỗi tăng trưởng, bởi lẽ bất kỳ ai nếu muốn công đức được trưởng dưỡng, bắt buộc phải tu tập không ngừng. Nếu nay tu mai nghỉ, ắt không sao trưởng dưỡng. Trong Trí Độ Luận, ngài Long Thọ dạy: “Hành thọ Bát Giới, đó là Bố Tát, Tần gọi Thiện Túc”, ý nói: Bố Tát còn dịch là Thiện Túc, nghĩa là thọ trì Bát Giới, khéo an trụ nơi pháp thanh tịnh, không còn bị dục nhiễm trần lao quấy phá, nên gọi là “thiện túc” (khéo trú). 

Liên quan đến vấn đề này, trong Trí Độ Luận ghi: “Thọ hành tám giới, tùy học các Phật pháp, gọi là Bố Tát, nguyện giữ phúc đức này, đời đời không đọa ba ác (1), tám nạn” (2). Ý nói: Người học Phật tại gia phát tâm thọ trì, phụng hành tám giới, tự nhiên có thể tùy thuận học hết mọi Phật pháp; tu họcphụng hành Phật pháp như vậy gọi là Bố Tát. Phúc đức Bố Tát này nguyện hồi hướng đời đời kiếp kiếp không đọa ba ác, tám nạn. Ba ác, tám nạn nói theo Phật pháp là không mỹ mãn, không lý tưởng. Khổ như ba ác không lý tưởng đã đành, mà đến những nơi sung sướng tợ thiên đường hay Bắc Câu Lô Châu, dù kiếp sống rất thỏa thích, nhưng vì không có cơ hội tu học Phật pháp, nên không những không được cho là chỗ tốt lành, mà ngược lại còn bị coi là nơi hoạn nạn nữa! Phải biết điều quan trọng nhất của học Phật là có cơ hội tu học, nếu sanh vào lúc không có Phật pháp, thử hỏi làm sao y pháp tu hành được? Cho nên sau khi thọ hành tám giới, nên phát nguyện do công đức này, không còn đọa vào ba đường tám nạn. Do đó chứng minh tám giới của Phật pháp, bất luận ở Luật hay Luận đều gọi là Bố Tát, còn có thể thêm chữ Hộ gọi là Bố Tát Hộ. Hộ có nghĩa là “thủ hộ”, chỉ sự gìn giữ tự tâm, ý nói: người phát tâm thọ trì tám giới phải khắc khắc thủ hộ tự tâm, vì tâm là đầu mối của tội họa, tội ác nào cũng do từ tâm ra. Nếu khéo hành đúng tinh thần tám giới, luôn luôn phòng giữ tự tâm, ắt không phát triển ác nghiệp nữa, cho nên gọi là Bố Tát Hộ. Thọ trì Bát Quan Trai Giới dĩ nhiên không chỉ chuyên phòng hộ nội tâm, mà phòng hộ cả thân khẩu nữa, chính vì vậy các bậc cổ đức thường bảo: “Nơi tâm gọi Hộ, nơi thân khẩu gọi Giới”. 

Còn có Trai của Bát Quan Trai Giới, có người còn bảo quá ngọ không ăn gọi là “trì trai”. Do nghĩa này làm tự thể của Trai, thậm chí các giới trước như bất sát… chẳng qua chỉ trợ thành trai thể mà thôi. Lại có người bảo ăn chay trường là trường trai, ăn chay sáu ngày là hoa trai. Đâu biết “trai” của trường trai, hoa trai chẳng ăn nhập gì với “trai” của Bát Quan Trai, lại cũng chẳng quan hệ gì với giới “ăn ngọ”. Vì không ăn quá ngọ chỉ là duyên phòng phạm, cùng trai thể vô can. 

Trong kinh đức Phật dạy: Căn cứ vào truyền thuyết của các tôn giáo Ấn, thế giới này khi mới thành lập gọi là Kiếp Sơ, có rất nhiều ác thần, ác quỷ có nhiều thế lực, thường ở thế gian hút lấy tinh khí của con người vào các ngày lục trai. Sự tồn vong của sinh mạng dựa vào sự duy trì của tinh khí, mà hễ tinh khí này bị rút mất, ắt sự sanh tồn phải bị đe dọa. Vì vậy, ai nấy cũng vì sự sanh tồn mà sanh tâm đề phòng. Bấy giờ, có một vị đại trí huệ muốn trừ sạch các mối nguy này, nên bảo mọi người rằng: “Đừng sợ sệt, đã có biện pháp. Chỉ cần mọi người cứ vào sáu ngày trai, không ăn nguyên ngày cho tâm tịch tĩnh, thân được tiết chế; nhờ vậy, ác thần, ác quỷ không sao hút được tinh khí. Tinh khí được bảo toàn, mạng sống không phải lo mất!” 

Như thế, thuở giờ bên Ấn đã có lục trai nhật; hơn nữa, vào lục trai nhật còn không ăn bất cứ gì. Sau này khi Phật xuất thế, ngài thấy phương pháp lục trai nhật có thể duy trì, song cần phải sửa đổi để thích hợp với Phật pháp, nên thay vì “không ăn” đổi thành “quá ngọ không ăn”, gọi là “không ăn phi thời”. “Phi thời” ý chỉ sau 12 giờ, qua giờ đó thì không ăn nữa, đó là một trong Bát Giới

“Không ăn phi thời” đã là một trong tám giới, đương nhiên không phải là trai thể, ai bảo đó là trai thể tức ngộ nhận đó vậy. Nhưng có thể có người bảo: “Ăn cơm đâu phải là tội ác, không phải giờ mà ăn thì có sao đâu?” Phải biết rằng ăn uống là duyên tăng thượng trầm luân sanh tử của chúng sanh, do đó không nên xem thường. Tại sao ăn uống lại là tăng thượng duyên cho sự trầm luân sanh tử của chúng sanh? Chúng ta thường hay nói: “Ăn no ấm cật sanh tà vạy”. Đời sống người nào quá đầy đủ, ăn ngon, hưởng đủ hay sanh chuyện nghĩ bậy. Để giúp ta thanh tịnh, ít dục, đức Phật chế quá ngọ không ăn để tiết chế sự tham ăn không cho tăng trưởng, ngăn chặn ác pháp không để lan rộng. Cho nên Đạo Tuyên Luật Sư bảo là: “Duyên phòng đó vậy” rất đúng. Nếu bảo giới “không ăn phi thời” là trai thể, các giới khác là trợ thành trai thể thì không hạp với nghĩa trên. Chúng ta phải hiểu cho rõ điểm này. Nếu không thọ trì Bát Quan Trai Giới, chỉ mải lo đặt nặng vấn đề “không ăn phi thời” mà xao lãng các giới kia, như vậy không hợp với tinh thần của Bát Giới

Bát Quan Trai Giới còn gọi là Cận Trụ Luật Nghi, hay Trưởng Dưỡng Luật Nghi. Ý nói: Người phát tâm thọ Bát Quan Trai Giới thiện căn ban đầu vốn rất nhỏ nhưng lâu ngày sẽ tăng trưởng nhờ thọ tám giới. Hoặc có thể nói như vầy: Người học Phật tại gia khéo phát tâm thọ trì tám giới, huân tập công đức này không ngừng, lâu dần căn lành xuất gia càng tăng trưởng. Bởi vì thọ Bát Quan Trai Giới chủ yếu để tập đời xuất gia, tuy chỉ trong một ngày một đêm; nếu một tháng thọ một lần hay nhiều lần ắt sẽ huân tậptrưởng dưỡng căn lành xuất gia. Cho dù vốn không có ý niệm xuất gia, do vì thường thọ Bát Quan Trai Giới, chịu sống đời xuất gia, lâu ngày sẽ cảm nhận được đời xuất gia rất hợp với mình. Do vậy, ắt tự nhiên nghĩ rằng tại gia chẳng bằng xuất gia. Đó chính là trưởng dưỡng căn lành xuất gia. Bởi vì khéo trưởng dưỡng như vậy, nên đức Phật còn gọi Bát Quan Trai GiớiTrưởng Dưỡng Luật Nghi

Còn tại sao gọi là Cận Trụ Luật Nghi? Nói giản lược là do vì thân cận Tam Bảo, an trụ ở đạo tràng của Tam Bảo, chịu sự huân tập của tư tưởng Tam Bảo, như chư vị hiện đang trụ ở đạo tràng này vậy. Nói rõ hơn có ba nghĩa: 

1. Thứ nhất, cận thời nhi trụ (ở thời gian ngắn). Ý nói: Chỉ thọ giới trong một ngày đêm; xét về mặt thời gian, chỉ trụ trong một thời gian quá ngắn tạm, trong vòng 24 giờ. Vì vậy gọi là Cận Trụ Luật Nghi

2. Thứ hai, cận tận thọ giới trụ. Chúng xuất gia, bất luận là tỳ kheo hay sa di, không thọ giới thì thôi, như phát tâm thọ giới tất phải cả đời trì giới. Như hôm nay thọ giới Tỳ Kheo rồi thì phải giữ cho đến khi thọ mạng hết, giới thể mới lìa thân. Trước lúc chết, chỉ cần đừng phá giới căn bản, giới thể luôn tại thân tâm, có tác dụng phòng quấy ngăn ác, cho nên hàng tứ chúng xuất gia phải giữ giới đến chết. Bát Quan Trai Giới tuy chỉ tạm thời một ngày đêm, nhưng đó là quy tắc xuất gia tạm thời cho hàng nhị chúng tại gia, tuy chưa xuất gia, song vẫn tạo được thắng nhân cho giới xuất gia tận hình thọ. Bởi vì từng lần từng lần thọ trì, huân tập, không ngừng tăng trưởng căn lành xuất gia; dần dà nhận thấy thọ từng lần chẳng bằng một lần xuất gia thọ Đại Giới đến trọn mạng sống. Như vậy đủ thấy Bát Quan Trai Giới một ngày một đêm tợ hồ rất ngắn, nhưng rất gần với giới xuất gia một đời, nên còn có thể gọi là “phương tiện ban đầu” cho giới xuất gia trọn đời. Vì vậy gọi là Cận Trụ Luật Nghi

3. Thứ ba, cận A La Hán trụ. Ý nói: Thọ Bát Quan Trai Giới học tập đời xuất gia, đó là hành môn của A La Hán, nên thọ giới chính là tu học A La Hán. Như thường tu học A La Hán pháp, người thọ hành Bát Quan Trai Giới này, chẳng bao lâu, trong tương lai ắt chứng được A La Hán quả. Tuy hôm nay còn là một kẻ phàm phu, song nhờ thân cận chỗ A La Hán, cùng A La Hán gần gũi, nên gọi là Cận Trụ Luật Nghi

Danh nghĩa của Bát Quan Trai Giới tóm tắt giải nghĩa như vậy. Chúng ta có thể thấy rõ ràng: tu Bát Quan Trai Giới trong vỏn vẹn có một ngày một đêm, thanh tịnh thân tâm, phòng hộ giữ mình. Tuy chưa xuất ly tam giới ngay được, nhưng nhờ nương công đức Trai Giới này, gieo trồng hạt nhân xuất thế thù thắng; tương lai chắc chắn được giải thoát. Học Phật mục đích quan trọng và lớn nhất chính là sự giải thoát dứt sanh tử, như nếu chưa đạt được giai đoạn này thì rồi sẽ lại bị chìm đắm trong biển sanh tử mãi không ngày ra. Chư Phật vì muốn hóa độ chúng sanh nên đặc biệt chỉ bày pháp môn hy hữu, phương tiện tối thắng này. Mong chư vị thọ giới không nên xem thường đó vậy! 
________________________
(1) Ba ác: tức tam ác đạo gồm súc sanh, ngạ quỷđịa ngục.

(2) Tám nạn: Tám sự chướng ngại việc gặp Phật, nghe Pháp nên gọi là Nạn, gồm: Địa ngục; ngạ quỷ; súc sanh; Uất Đan Việt (còn gọi là Bắc Câu Lô Châu), nơi đây thọ báo khoái lạc, không còn sự khổ; Trường Thọ Thiên (chỉ Sắc GiớiVô Sắc Giới), nơi đó được an ổn trường thọ; đui điếc câm ngọng; thế trí biện thông: trí thông minh của thế gian; Phật tiền Phật hậu: sanh ra trước hay sau đời có Phật. 

Phẩm Phương Tiện kinh Duy Ma Cật nói: “Khi Bồ Tát thành Phật, nơi quốc độ không có ba ác và tám nạn”. Tịnh Tâm Giới Quán Pháp nói: “Gốc sanh 448 thứ bệnh do nơi ăn đêm, gốc sanh ba ác tám nạn do nơi nữ nhân”. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33292)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6554)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11303)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30417)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30445)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7994)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12219)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12269)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11618)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12848)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34810)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9857)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52282)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10762)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10535)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10727)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13096)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16304)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21862)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9635)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7136)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12781)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12804)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16247)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16547)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13877)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16612)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12139)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13847)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14339)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9225)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11767)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11290)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16351)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14367)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16211)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12095)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11805)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15683)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11526)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14030)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12024)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12673)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15005)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11973)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13140)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14566)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20741)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13247)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10976)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20727)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14379)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20406)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17674)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31870)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12028)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant