PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 9: DUY THỨC HỌC VÀ NHƠN MINH LUẬN
NHƠN MINH LUẬN
NHƠN MINH LUẬN CƯƠNG YẾU
NHƠN MINH LUẬN TỪ ĐÂU MÀ CÓ?
Trước thời Phật
Thích Ca giáng sanh (chưa rõ xác thật là bao nhiêu năm),ở Ấn độ có nhiều
phái
ngoại đạo, tranh
chấp nhau bằng lý thuyết. Ông Túc Mục Tiên nhơn là một trong các vị
Tổ của các phái,
lập ra pháp luận lý này, để bác các đạo. Phương pháp này được tín dụng và
đắc lực trong thời
kỳ ấy.
Đến khi Phật ra
đời, thấy Nhơn minh là một môn luận lý có qui tắc, vừa đúng lý và vừa hợp
thời,
được công chúng
thừa nhận, nên Phật cũng dùng lối lý luận này để bác các ngoại đạo tà
giáo
đem về chánh
lý.
Sau khi Phật
nhập diệt, độ khoảng 600 năm, có Ngài Mã Minh và Long thọ, hai vị Bồ Tát
ra
đời ở Ấn độ, sưu
tập lại, phân làm năm phần: Tôn, Nhơn, Dụ, Hiệp, Kết.
Về sau Ngài
Trần Na Bôtát, cải cách lại, thành lập Nhơn minh luận có 3 phần: Tôn,
Nhơn,
Dị và viết ra bộ
"Nhơn minh nah65p chánh lý luận". Từ ngài Trần Na về trước,
người ta gọi là:
"Cổ Nhơn minh"; từ Ngài Trần Na về sau là: "Tân Nhơn
minh".
Đến đời Đường,
Ngài Huyền Trang Pháp sư (người Trung hoa) sang Ấn dộ học Phật pháp,
rất tinh thông về
môn học này. Ngài đã nhiều lần lên luận đàm, dùng lối lý luận Nhơn minh
này mà biện luận,
làm cho cả Ấn độ 18 nước đều kính phục.
Sau khi trở về nước, Ngài dịch lại và truyền bá trong nước Trung hoa.
Vì sự đòi hỏi của tín đồ, nên tôi (Sa môn Thích Thiện Hoa) phỏng dịch và chú giải bằng chữ Việt.
SAO GỌI LÀ "NHƠN MINH NHẬP CHÁNH LÝ LUẬN?"
Nhơn minh luận
là một luận lý tối cổ ở Á đông, vừa đúng lý, vững chắc và vừa có qui tắc.
Điều cố yếu là
phải rành rõ "nguyên nhân" hay "lý do vì sao", thì lối luận
lý mới chơn chánh
và đúng đắn, nên
gọi là "Nhơn minh nhập chánh lý luận".
Vì nhờ
"Nhơn" mới rõ được Tôn, nhờ "Nhơn" mới lập được Dụ. Bởi
"Nhơn" rất trọng yếu
như vậy, nên gọi
là "Nhơn minh", mà không gọi là "Tôn minh hay Dụ minh. Nhơn minh
là một
trong ngũ
minh
NỘI DUNG CỦA NHƠN MINH
Nội dung của
Nhơn minh luận chia làm 3 phần: Tôn, Nhơn, Dụ. Theo Cổ Nhơn minh có thêm
2 phần: Hiệp và
Kết là 5 phần:
Cổ Nhơn minh :
1. Tôn: Nhơn loại
đền phải chết.
2. Nhơn: Vì có
sanh vậy.
3. Dụ: Như loài
vật
4. Hiệp: Phàm có
sanh phải có chết
5. Kết: Loài vật
có sanh, nên loài vật phải có chết;
nhơn loại có sanh,
nên nhơn loại phải có chết.
Tân Nhơn minh
1. Tôn: Nhơn
loại đền phải chết.
2. Nhơn: Vì có
sanh vậy.
3. Dụ: Phàm có
sanh phải có chết, như loài vật.
***
A.TÔN
Phàm nói ra một
câu gì, hày trình bày một lập thuuyết gì, cái lập thuyết ấy gọi là Tôn.như
nói:
Tôi ăn cơm.
Tôn có nhiều tên, như:
1. Tiền trần(danh từ trước) cũng gọi: Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt.
2. Hậu trần (danh từ sau) cũng gọi: Pháp, Sai biệt, Năng biệt.
Thí dụ như nói: Tôi ăn cơm
Tôi Tiền trần(danh từ trước), Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt.
ăên cơm Hậu trần (danh từ sau), Pháp, Sai biệt, Năng biệt.
TÔN CÓ TÔN Y VÀ TÔN THỂ
I.Tôn y gồm có
2 phần
1. Tiền trần:Hữu
pháp, Sở biệt và Tự tướng
2. Hậu trần: Pháp,
Năng biệt và Sai biệt.
II. Tôn thể._Cổ
Nhơn minh (từ Ngài Trần Na về trước) lấy Tiền trần làm Tôn y, Hậu trần
làm
Tôn thể.
Tân Nhơ minh
(từ Ngài Trần Na về sau) cho Tiền trần và Hậu trần là vẫt kiện để lập
Tôn,
nên đều là Tôn y.
Hai vật kiện ấy hợp chung lại thì gọi là Tôn thể.
CHÍN LỖI VỀ TỢ TÔN
Phàm lập Tôn
phải tránh chín lỗi sau đây, thì cái Tôn ấy mới đúng đắn, mới đủ tư cách
để
thành lập luận
thuyết của mình, hoặc bác thuyết của người khác. Chín lỗi gồm có:
1. Hiện lượng
tương vi._Lập cái tôn, trái với cảm giác hiện tiền. Như hiện tiền ai cũng
hiểu
biết rằng: Mũi
ngửi mùi, tai nghe tiếng v.v...Nay lại lập cái Tôn rằng:
Tôn
1. Tai tôi nghe
mùi thơm
2. mắt tôi thấy
tiếng nói v.v ...
Vì nói như vậy
là trái với sự hiểu biết hiện tại; vừa nói ra, người ta thấy mình nói sai
rồi.
Tôn đã sai thì làm
sao lập được "Nhơn" và "Dụ".
2. Tỷ lượng
tương vi._ Lập cái Tôn rái với sự "so sánh phân biệt". Theo sự so
sánh hiểu biết
của người: Phàm là
người, ai cũng phải chết, như các vị tiền nhân đã chết. Và phàm vật gì có
hình phải có hoại,
cũng nhu bao nhiêu vật đã hoại trước. Nay lại lập Tôn rằng:
Tôn
1. Tôi sống hoài
không chết.
2. Cái nhà tôi
không bao giờ hư.
Lập Tôn như vậy là trái với sự "so sánh phân biệt" của người, nên có lỗi.
3. Tự giáo
tương vi._ Lập cái Tôn, trái với giáolý của mình tôn thờ. Nói rộng ra là trái
với chủ
nghĩa, đảng phái,
gia đình, quốc gia hay một lý thuyết mà mình đương tôn trọng.
Như trong Đạo
Phật nói "Chúng sanh có quả báo luân hồi". Và nói "Có thế giới
cực lạc ở
phương Tây
v.v...". chúng ta là Phật tử lại lập cái Tôn rằng:
Tôn
1. Chúng sanh
không có luân hồi quả báo
2. không có nước
cực lạc.
Ngoại nhơn hỏi
lại: "Ông nói như vầy, thì mâu thuẩn với Tôn giáo của ông. Vậy ông
nói
đúng lý, hay Tôn
giáo của ông đúng lý? Nếu Tôn giáo ông dạy đúng lý, thì lời nói ông sai,
còn lời nói của
ông đúng lý thì Tôn giáo của ông sai. Vậy ông nhìn nhận cái nào
đúng?"
Họ không cần bác
mà mình cũng bị thua.
4. Thế gian
tương vi._ Lập cái Tôn, trái với phong tục, tập quán và sự hiểu biết của thế
gian.
Thế gian có 2 hạng
người: Có học thức và không học thức.
Nếu đối với người có học thức mà chúng ta lập cái Tôn như vầy:
Tôn
1. Ông Thiên lôi
đánh anh Xoài chết
2. Bịnh ho lao
không phải do vi trùng gây nên.
Lập cái Tôn như
thế, bị lỗi trái với thế gian, với những người có hoc thức (Khoa học).
Vì khoa học (người
có học thức) nói "bịnh ho lao do vi trùng gây nên", và không công
nhận
có ông Thiên lôi.
Chúng ta nói như thế, sẽ bị họ chê là người không có học thức.
Trái lại, nếu
đối với thế gian người vô học, mà chúng ta lập cái Tôn như vầy, cũng bị
lỗi
thế gian tương vi.
Tôn
1. Không có ông
Thần ban phuớc giáng hoạ.
2. Bịnh ho lao
phát sinh do vi trùng.
Bởi thế người
thế gian vô học, họ tin có ông Thần ban phước giáng hoạ và họ không biết vi
trùng.
Mặt dù chúng ta
nói phải, nhưng thiếu những lời lẽ khôn khéo ngăn đón, nên họ không công
nhận.
Bởi họ không công
nhận, nên lời nói sau của mình không giá trị, vì thế nên mới bị lỗi
"Thế gian
tương vi".
5. Tự ngữ tương
vi._ Lập cái Tôn mà lời nói sau của mình, tự mâu thuẩn với lời nói trước
của mình. Như
lập:
Tôn
1. Vật này bao
nhiêu mà rẽ vậy?
2. Ông này mù mà
cái chi cũng thấy hết.
Đã không biết
giá là bao nhêu, tại sao biết rẽ? Đã là mù thì tại sao cái chi cũng thấy.
Lời nói của mình
tự mâu thuẫn với lời nói của mình. Chính mình cũng thấy sai, thì ai
công nhận là
phải.
6. Năng biệt
bất cực thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ sau" bên đối phương không
công nhận.
Như đối với Pht
học hay khoa học mà lập cái Tôn như vầy:
Tôn
1. Thế giới này
(danh từ trước) do Thần Tạo vật (danh từ sau) sanh.
2. Anh Ồi (danh từ
trước) bị Thiên lôi (danh từ sau) đánh.
Phật học và
khoa học đồng nhận Thế giới và anh Ồi; nhưng không bao giờ nhận có
"Thần Tạo
vật" và "Thiên lôi". Bởi đối phương không công nhận nên bị lỗi
"bất thành".
7. Sở biệt bất
cưc thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ trước" bên đối phương không công
nhận.
Như đối với Phật
học và khoa học, lập như vầy:
Tôn
1. Thần Tạo vật
(danh từ trước) sanh ra loài người.
2. Thái cực (danh
từ trước) sanh ra vạn vật.
Loài người và
vạn vật là hai danh từ sau, thì cả Phật học và khoa học đều nhhận có: còn
Thần Tạo vật và
Thái cực là hai danh từ trước, thì Phật học cũng như khọc học đều không công
nhận, nên bị lỗi "bất thành".
8. câu bất cực
thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ trước" và "danh từ sau",
bên đối phương
đều không nhìn
nhận. Như đối với khoa học mà lập như vầy:
Tôn
1. Cốc thần, Thái
cực tức là chơn như
2. Thần Tạo vật
chính là Thái cực.
Bên khoa học
không nhìn nhận danh từ trước là "Cốc thần, Thái cực hay Thần Tạo
vật" và cũng
không nhìn nhận
danh từ sau là "Chơn như hay Thái cực". Phàm lập luận mà bên đối
phương
không hiểu, hoặc
hiểu mà không nhìn nhận, thì không thể lý luận được nữ. Nên bị lỗi "bất
thành".
Tóm lại, ba lỗi
bất thành này (Năng biệt, Sở biệt và Câu bất thành) bên đối phương không
hiểu,
hoặc hiểu mà không
công nhận. Bởi hai nguyên nhơn:
1. Lập không
đúng.
2. Lập đúng mà
thiếu lời khôn khéo giản biệt, nên bị lỗi ấy.
9. Tương phù cực thành._ Lập cái Tôn mà trùng ý kiến với bên đối phương. Như lập:
Tôn
1. Cơm ăn no
bụng.
2. Nước uống đã
khác.
Phàm cĩa nhau
là vì hai bêb ý kiến không đồng. Nếu bên khách đã nhìn nhận như mình, mà
mình
còn lập thêm cxái
tôn ra nữa thì vô ích, nên bị lỗi "tương phù" (trùng điệp).
Trong 9 lỗi về
Tôn, tứ 1 đến 5 là thuộc về lỗi "tươmng vi"; từ 6 đến 8 là thuộc vể
lỗi "Bất thành".
Lỗi thứ 9 vì lập
trùng điệp, nên không có hiệu quả. 9 lỗi về tợ Tôn, giải thích đã rồi, bây giờ
sẽ nói 14 lỗi về tợ Nhơn.
PHỤ BÀI HỌC ÔN
(ÔN LẠI 9 LỖI VỀ TỢ TÔN)
Quý vị nên xét kỹ, những câu sau này, đối với 9 lỗi trong tợ Tôn, thuộc về lỗi gì?
1. Mẹ tôi không có chồng.
2. Không có Trời Đất Quỷ Thần.
3. Không Nhơn quả, Luân hồi.
4. Không Thiên đường và Địa ngục.
5. Trời sanh muôn loại.
6. Trời không luân hồi.
7. Minh sơ sanh Thần ngã.
8. Vò vò bắt sâu làm con của nó.
9. Tai nghe mùi thơm.
10. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi.
11. Tôi trường sanh bất tử.
12. Vật này bao nhiêu mà rẻ vậy.
13. Ông mù này, cái chi cũng thấy.
14. Ngựa đua dưới nước, tàu chạy trên bờ.
***
B. NHƠN
Nhơn là nguyên
nhơn hay lý do. Phàm một sự vật hay câu nói gì, cũng đều có nguyên nhơn
hay lý do
cả.
Như nói
Tôn : Tôi muốn ăn
cơm.
Nhơn: Vì tôi đói
bụng vậy (lý do).
Phàm cái
"Nhơn" nào đủ cả ba tánh chất sau đây, mới đúng đắn. Trái lại, nếu
thiếu một,
thiếu hai, hoặc
thiếu ba, thì cái Nhơn ấy có lỗi. 14 lỗi về Nhơn sau này,
cũng bởi thiếu
một, hai hoặc ba tánh chất sau đây. Vậy quý vị nên nhớ kỹ ba tánh chất của
Nhơn.
1. Biến thị Tôn pháp tánh. _ Nghĩa là: Cái Nhơn phải bao trùm cả Tôn (tánh chất thứ nhứt).
Biểu Như Tôn : Tôi muốn ăn cơm.
lập Nhơn:Vì tôi đói bụng vậy.
Cái Nhơn
"Vì tôi đói bụng" này, nó trùm được danh từ trước của Tôn là
"Tôi muốn";
và cũng trùm được
danh từ sau của Tôn là "Ăn cơm".
Nhơn trùm cả
Tôn
Nghĩa là: Vì tôi
đói bụng, nên "tôi muốn"; và vì tôi đói bụng, nên "tôi ăn
cơm".
2. Đồng phẩm
định hữu tánh._ Nghĩa là cái Nhơn quyết định phải hoàn toàn hoặc ít nhứt là
phải
có một phần liên
quan với Đồng dụ. Nó phải là đồng một tánh chất như Đồng dụ (tánh chất
thứ hai của
Nhơn).
BIỂU Tôn: Tôi muốn ăn cơm
Như Nhơn: Vì đói bụng vậy
lập Đồng dụ: Như anh A (đói bụng
và muốn ăn
cơm)
"Như anh A
" là đồng dụ. Nghĩa là anh A cũng "vì đói bụng" (Nhơn) nên
"muốn ăn cơm" (Tôn).
Nhơn trùm cả
Tôn và liên quan
Với Đồng dụ
Cái Nhơn "vì đói bụng" này, hoàn toàn liên quan với Tôn và Đồng dụ (thí dụ thuận).
3. Dị phẩm biến
vô tánh._ cái "Nhơn" này đối với Dị dụ (thí dụ về bề trái) phải hoàn
toàn
không liên quan;
nghĩa là tánh chất của Nhơn, phải hoàn toàn không có trong Dị dụ mới được
(tánh chất thứ ba
của Nhơn).
BIỂU
Tôn: Tôi muốn ăn cơm
Như Nhơn: Vì
đói bụng vậy
lập Đồng dụ: Như
anh A (đói bụng, muốn ăn)
Di dụ: Như anh B
(no bụng không muốn ăn)
Cái Nhơn
"vì đói bụng" này, đối với Dị dụ hoàn toàn không có liên quan; nghĩa
là:
anh B (Dị dụ) đã
no bụng (trái với Nhơn: đói bụng), nên không muốn ăn (trái với Tôn: muốn
ăn).
Nhơn này trùm cả
Tôn và
Đồng dụ, còn Dị dụ
thì
không liên quan đến Tôn và Nhơn.
14 LỖI VỀ NHƠN
phàm lập cái
"Nhơn", phải tránh 14 lỗi sau này, thì cái "Nhơn" ấy mới
hoàn toàn đúng đắn,
chia làm 3
loại:
1. BỐN LỖI BẤT THÀNH:
1. Lưỡng câu bất thành._ Lập cai Nhơn mà cả chủ và khách đều không nhìn nhận.
Như lập Tôn: con rắn Hổ mây chạy mau
Nhơn: Vì nó có chân vậy (nguyên nhơn)
Cả chủ và khách
đều không nhìn nhận "rắn hổ có chân". Nay lại lập cái Nhơn "vì
có chân",
nên cái Nhơn này
chẳng thành.
2. Tuỳ nhứt bất
thành._ Phàm lập cái Nhơn, phải chủ và khách hai bên đều công nhận, ít nhứt
là một bên khách
phải có công nhận, thì cái nhơn ấy mới thành. Nay cái Nhơn này bên khách
không công nhận
nên bị lỗi "Tuỳ nhứt bất thành". Như đối với nhà Khoa học mà lập như
vầy:
Như lập Tôn: Vò vò không sanh con (t rứng)
Nhơn: Vì nó bắt sâu làm con vậy.
Theo Khoa học
nói con Vò vò đẻ trứng trong tổ, rồi bắt sâu nhét vào làm mồi, để cho
con nó khi nở ra
có mồi ăn. Nay lập cái Nhơn "bắt sâu làm con" thì bên khách (Khoa
học)
không công nhận,
nên bị lỗi.
3. Dự dự bất
thành._ cái Nhơn dụ dự chẳng nhứt định, nên không thành. Như ở xa thấy mù
mù,
không rõ đó là
sương mù hay khói mù, lại lập như vầy:
Như lập Tôn:Chỗ kia có lữa
Nhơn: Vì có mù (mây mù)
Bởi cái Nhơn
này có thể lập được cả hai Tôn, vừa "có lữa" và vừa "không có
lữa",
dụ dự không nhứt
định, nên bị lỗi "bất thành".
4. Sở y bất
thành._ Chỗ y cứ của mình, bên khách không công nhận. Như tín đồ Nhứt
thần giáo đối với
khoa học hoặc Phật giáo mà lập như vầy:
Như lập Tôn: Thần sanh ra mọi vật
Nhơn: Vì trong kinh của Đạo tôi nói vậy.
Phải là tín đồ
của Tôn giáo họ, mới nhìn nhận kinh của Đạo họ là đúng. Còn đối
với khoa học hay
Phật giáo, không nhìn nhận kinh sách của họ, mà y cứ nơi kinh sách
đó để lập luận với
người ngoài Đạo mình, nên bị lỗi "sở y ất thành".
Một tỷ dụ thứ hai: Theo trong Nhơn minh có lập cái lượng như vầy:
Như lập Tôn: Hư không thật có
Nhơn: Vì muôn vật đều y hư không vậy.
Phái "vô
không luận", họ chẳng công nhận "thật có hư không". Nếu với phái
này, mà lập cái
Nhơn như vậy thì
bị lỗi "sởy bất thành".
Bốn lỗi "bất thành" đã nói rồi, bây giờ sẽ nói đến sáu lỗi "bất định"
II. SÁU LỖI BẤT ĐỊNH:
1. Cọng bất định._ cái Nhơn này liên quan cả Đồng dụ và Di dụ, nên bị lỗi "không nhứt định"
BIỂU
Tôn: Anh A
đau
Nhơn: Vì ăn xoài
sống
Như Đồng dụ: Như anh B
Lập (ăn xoài sống và đau)
Dị dụ: Như anh D
(ăn xoài sống, không đau)
Nếu nói anh A
"vì ăn xoài sống" mà đau như anh B, thì tại sao anh D cũng "ăn
xoài sống"
mà lại không đau?
Bởi thế nên người ta có thể lập cái Tôn ngược lại rằng:
Tôn: Anh D không
đau
Nhơn: vì ăn xoài sống
Như lập Đồng dụ: Như anh D (ăn xoài sống và không đau)
Dị dụ: Như anh A (ăn xoài sống, đau)
người ta có thể
nói rằng: Vậy thì "vì ăn xoài sống" mà bị đau như anh A, hay "vì
ăn xoài sống"
mà không đau như
anh D?
Bởi lập cái Nhơn bất định như vậy nên có lỗi.
2. Bất cọng bất định._ Cái nhơn này không có liên quan với Đồng dụ.
BIỂU
Tôn: Tiếng là
thường còn
Nhơn: vì tai nghe
vậy
Như Đồng dụ: Như hư không
Lập (tai không nghe)
Dị dụ: Như cỏ
cây (tai không nghe).
Cái Nhơn "vì
tai nghe" này, đối với "Đồng dụ" và Dị dụ đều không có liên quan
chút nào cả,
nên cũng bị lỗi
"bất định". Bởi cái nhơn này người ta có thể lập ngược lại như
vầy:
Tôn : Tiếng là vô
thường
Như Nhơn : Vì tai nghe vậy
lập Đồng dụ: Như cỏ cây (vô thường)
Dị dụ : Như hư không (thường còn)
Vậy, "vì
tai nghe" mà tiếng nói thường còn như hư không? Hay "vì tai
nghe" mà tiếng nói
vô thường như cỏ
cây? Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định".
3. Đồng phẩm nhứt phần chuyển, Dị phẩm biến chuyển bất định:
BIỂU
Tôn : Chỗ kia
có khói Nhơn: Vì có lửa vậy
Như Như lửa rượu
alcool
Đồng dụ: (có
lửa, không khói)
Lập Như lửa ở nhà
bếp
(có lửa, có
khói)
Dị dụ: Như lửa
ở nhà bếp
(có lửa, có khói).
Nếu cái Nhơn
"vì có lửa", dụ như lửa ở nhà bếp, thì Tôn này có "khói";
còn "vì có lửa",
dụ như lửa rượu,
thì cái Tôn này "không khói". Vì cái Nhơn này, đối với Tôn "có
khói" hay
"không
khói" đều không nhứt định, nên cái Nhơn này có lỗi bất định. Bởi người ta
có thể
lập ngược lại như
vầy:
Tôn : Chỗ kia
không khói
Như Nhơn : Vì có lửa vậy
lập Đồng dụ: Như lửa Alcool (có lửa, không khói)
Dị dụ : Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói)
4. Dị phẩm nhứt phần chuyển, Đồng phẩm biến chuyển bất định:
cái Nhơn này
đối với Dị dụ, có dính líu một phần, còn đối với Đồng dụ thì phải hoàn
toàn
dính líu, nên cái
Nhơn này cũng bị lỗi "bất định".
BIỂU Tôn : Con khỉ leo cây giỏi
Nhơn: Vì có hai tay.
Như Đồng dụ: Như con
Dị dụ _ Như con bò (không tay, không biết leo)
_ Như con rắn (không tay, leo cây giỏi).
Phàm Đồng dụ
thì phải hoàn toàn liên quan cả Tôn và Nhơn; còn Dị dụ thì hoàn toàn
không
dính líu gì đến
Tôn và Nhơn, như thế mới đúng.
Nay cái Nhơn
này, đối với Dị dụ bị dính líu hết mốt phần. Bởi thế cái tánh chất thứ ba
của
Nhơn là "Dị
phẩm biến vô tánh", nên bị lỗi; vì khách có thể hỏi lại rằng: "Vì
không tay,
nên leo cây giỏi
như con rắn"; hay vì không tay, nê "chẳng biết lao cây như con
bò?".
Bởi thế nên cái
Nhơn này bị lỗi "bất định".
5. Câu phẩm nhứt phần chuyển bất định:
Cái Nhơn này, đối với Đồng dụ và Dị dụ đều chỉ có dính líu một phần, nên cũng bị lỗi "bất định".
BIỂU
Tôn: Tiếng vô thương
Nhơn: Vì mắt không thấy
Như tánh giận, buồn v.v...
(mắt không thấy và vô thường)
Như Đồng dụ Như ruộng, nhà v.v...(mắt thấy
lập Và cũng vô thường)
Như Hư không
(thường, mắt trông thấy)
Dị dụ Như Giác tánh (thường, mắt không thấy)
Cái thí dụ thứ hai:
Tôn: Người ta ai cũng phải chết
Nhơn: Vì vật hữu tình vậy
Đồng Như cầm thú (hữu hình dụ có chết)
dụ Như nước biển (hữu hình, không chết)
Như lập
Dị dụ Như hư không (vô hình không chết)
Như tượng gỗ (hữu hình không chết)
Nếu cái Nhơn
"vì hữu hình" này, mà dụ như cần thú, thì cái Tôn nàu có chết",
còn cái Nhơn
"vì hữu
hình" mà thí dụ như nước, thì cái Tôn này "không chết".
Phàm Dị dụ là
dụ bề trái của Tôn và Nhơn, nên phải dùng những vật "không
chết".
(trái với Tôn) và
"vô hình" (trái với Nhơn) để làm thí dụ._ Nay cái Dị dụ này chỉ
trái
với Nhơn được phân
nữa. Vì ngoại nhơn có thể hỏi lại rằng: vậy "hư không, không
chết"
vì vô hình vậy?
Hay "tượng gỗ không chết "vì hữu hình vậy? Bởi hữu hình (tượng
gỗ)
vô hình (hư không)
đều không chết, nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định".
6. Tương vi quyết định bất định:
Chủ và khách
lập lượng trái nhau; song cả hai đều không có lỗi, và đều quyết định thành lập
được.
Nhưng không bên
nào phá dược bên nào.
Tôn : Sóng thường còn
Nhơn: Vì sóng tức là nước
Khách lập Đồng dụ : Như điện.
Tôn : Sóng là vô thường
Chủ phá Nhơn : Vì chuyển động dược
Đồng dụ : Như gió.
Hai cái lượng
này rất mâu thuẩn nhau, song đều quyết định thành lập được. Bên khách vẫn
công nhận
"sóng có chuyển động", bên chủ cũng nhận "sóng tức là
nước". Nhưng không bên
nào phá được bên
nào, nên Nhơn này bị lỗi "bất định". Đây cũng là vì thiếu lời lẽ khôn
khéo,
để làm cho
"người ta phục mình. Thưở xưa có người nói: Ai lập trước thì
hơn".
Phải lập Tôn : Sóng không thường còn
Nhơn : Vì nó là nước bị gió động
như vầy Đồng dụ: Cũng như gió.
6 lỗi "Bất định" đã giải thích rồi, bây giờ sẽ nói đến 4 lỗi tương vi.
III. BỐN LỖI TƯƠNG VI
1. Pháp tự
tướng tương vi._ Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với tự tướng (lời nói trắng)
của danh từ
sau
Tôn: Gió thường còn
Như lập Nhơn : Vì có động vậy
Đồng dụ : Như hư không
Dị dụ : Như sóng.
Đã có động thì
làm sao lại thường còn; nên cái Nhơn "có động" này, rất trái với
tiếng
"thường
còn" là lời nói trắng về danh từ sau của Tôn.
2. Pháp sai biệt tương vi Nhơn._ Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau
Tôn: Loài người quyết định có tạo ra
Như lập (ý hứa là một vị thần).
Nhơn : Vì có trí khôn và mắt, tai v.v...
Đồng dụ : Như con do cha mẹ sanh ra
trong cái Tôn
này, về chữ "quyết định có người tạo ra "là do người lập Tôn, ẩn ý
của họ
muốn nói: Người
tạo ấy là một vị Thần. Và ẩn ý của họ cho vị Thần ấy có ba đức tánh sau
này:
1. Toàn trí toàn
năng, 2. Thường còn, 3. Độc tôn.
Nhưng cái Nhơn này
nó lại trái ngược (mâu thuẩn) với ẩn ý của họ:
1. Nếu vị thần
ấy tạo ra loài người có trí khôn và mắt tai v.v...như cha mẹ sanh con;
vậy cha mẹ
"không toàn trí toàn năng",
vì sanh ra có
những đứa con ngỗ nghịch với cha mẹ, thì vị thần ấy cũng
"không toàn
trí toàn năng" vì tạo ra loài người
mà có những kẻ oán
trách lại vị Thần ấy, và giữa loài người, không biết bao nhiêu
những điều bất
bình đẳng.
2. Cha mẹ sanh
ra con, đến khi già phải chết "không phải thường còn"; vậy vị Thần ấy
đã
sanh ra loài
người, thì vị thần ấy cũng phải chết, "không thường còn".
3. Cha mẹ sanh
ra con, tất nhiên phải có ông, bà sanh lại cha mẹ, nên cha mẹ không phải
"độc
tôn". Vậy thì vị Thần ấy đã tạo ra loài người, thì vị thần ấy cũng phải có
một vị thần
lớn hơn sanh ra,
nên vị thần ấy cũng không "độc tôn".
Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi mâu thuẩn với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau là "người tạo ra".
3. Hữu pháp tự
tưởng tương vi Nhơn._ cái Nhơn mâu thuẩn với lời nói trắng (tự tướng)
về danh từ trước
của Tôn
Tôn : Phải có một ông Vô hình, tạo ra Vũ trụ
Như lập Nhơn :Vĩ Vũ trụ có trật tự ấy
Đồng dụ: Như ông Kiến trúc sư làm nhà.
Cái Nhơn
"Vì vũ trụ có trật tự" này, rất trái ngược với danh từ trước của Tôn
là
"Ông Vô
hình". Đã Vô hình thì
làm sao tạo ra Vũ
trụ là vật hữu hình và có trật tự được? Phải vật hữu hình mới tạo ra
vật hữu hình. Như
ông
kiến trúc sư, vì
hữu hình mới tạo ra cái nhà hữu hình được.
4. Hữu pháp sai
biệt tương vi nhơn._ Cái Nhơn trái ngược với ý hứa (ẩn ý) về danh từ
trước của
Tôn.
Tôn : Phải có một đấng sanh ra vũ trụ
Như lập Nhơn : Vì vũ trụ có thứ tự vậy.
Đồng dụ:Như ông thợ làm nhà.
Người lập lượng
này, nếu nói trắng ra "Có một ông thần", thì sợ bên đối phương
không
công nhận, mà phải
bị lỗi
"Sở biệt bất
thành", nên họ chỉ nói một cách hồn hàm là "Có một Đấng".song ẩn
ý của họ
muốn nói
"Đấng ấy là
một vị thần"; và họ cho vị Thần này có 3 đức tánh: 1. Thường còn, 2. Cao
cả,
3. Sanh vạn
vật.
Nhưng Đấng ấy
đã sanh ra ợ?c van vật, thì Đấng ấy tất nhiên cũng phải bị người khác
lớn hơn sanh ra và
chết; không phải cao cả và thườnhg còn. Cũng như ông thợ làm nhà.
Vì cái Nhơn
này, trái ngược với ần ý của danh từ trước, nên bị lỗi "tương
vị".
Ngoại nhơn có thể
lập lượng bác lại rằng:
Tôn: Đấng ấy phải bị người khác sanh ra và phải chết.
Như lập Nhơn : Vì Đấng ấy sanh ra vũ trụ vậy.
Đồng dụ: Như ông thợ làm nhà.
14 lỗi về Tợ Nhơn, chúng tôi đã giải thích rồi, sau đây sẽ nói 10 lỗi về Tợ dụ.
PHỤ BÀI ÔN HỌC
(ÔN LẠI 14
LỖI VỀ TỢ NHƠN)
Quí vị nên xét kỹ các lượng sau này, rồi chỉ ra: lỗi của Tôn, lỗi của Nhơn, và nói rõ tại sao
Lượng thứ
I
Tôn: Nhơn loại
quyết định có người tạo
Nhơn : Vì có trí
khôn và đủ cả mắt, tai v.v...
Đồng dụ : Như con,
phài có cha mẹ sanh ra.
Lượng thứ
II
Tôn: Gió thường
còn
Nhơn : Vì có
động vậy
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ: Như
sóng
Lượng thứ
III
Tôn: Phải có một
Đấng sanh ra vũ trụ
Nhơn : Vì vũ trụ
có trật tự vậy
Đồng dụ : Như ông
Kiến trúc sư làm nhà
Lượng thứ
IV
Tôn: Phải có một
ông vô hình tạo ra vũ trụ
Nhơn : Vì vũ trụ
có trật tự vậy
Đồng dụ : Như ông
thọ làm nhà.
***
C. DỤ
Phàm lấy một
vật gì mà bên đối phương đã biết và đã công nhận, để so sánh chúng minh
với một vật khá mà
bên đối phương kia chưa biết, hoặc chưa công nhận thì gọi là
"Dụ".
Thí dụ khi lập
cái "Tôn thường còn", thì phải lấy tất cả những vật "thường
còn", làm Đồng dụ;
trái lại, phải lấy
tất cả những vật "vô thường" làm Dị dụ.
Về Tợ dụ có 10, chia làm 2 loại:
I. TỢ ĐỔNG DỤ CÓ 5:
1. năng lập
pháp bất thành,_ Phàm cái nhơn là để thành lập cái Tôn, nên cái Nhơn là
"năng lập
pháp" còn cái Tôn là "Sở lập pháp". Cái Dụ này trái ngược Nhơn,
nên bị lỗi "bất thành"
Như lập
Tôn: Con ngựa hay
chạy
Nhơn : Vì có
bốn vó
Đồng dụ : Như con
rắn hổ ngựa
Cái Dụ này hiệp với Tôn (chạy hay), ttrái với Nhơn (thiếu chân)
2. Sở lập pháp
bất thành._ Nhơn là Năng lập mà Tôn là Sở lập (bị lập). Cái dụ này trái
ngược
với Tôn, nên cũng
bị lỗi "bất thành".
Như lập
Tôn: Người ta
không bay được.
Nhơn : Vì
thiếu hai cánh
Đồng dụ : Như mây
(không cánh, bay dược)
Cái Dụ này hiệp
với Nhơn (thiếu cánh) và trái ngược với Tôn và Nhơn. Bởi lấy Dị dụ làm
Đồng dụ, nên bị
lỗi "bất thành".
Như lập
Tôn : Tiếng thường
còn
Nhơn : Vì
tai nghe vậy
Đồng dụ : Như bàn,
ghế.
Bàn, ghế "vô thường" nên trái với Tôn, và "tai không nghe được", nên trái với Nhơn.
4. Vô hiệp._ Cái Dụ này không có lời phối hiệp để kết thúc lại cho dễ hiểu.
Như lập
Tôn : Người ta
phải chết
Nhơn : Vì có
sanh vậy
Đồng dụ : Như chim
v.v...
Đáng lẽ phải
nói lời phối hiệp để kết thúc lài như vầy: "Người ta có sanh (Nhơn) phải
có chết
(Tôn). Phàm vật gì
có sanh (Nhơn) phải có chết (Tôn), như chim v.v..."thời người ta mới
dễ hiểu. Cái này
chỉ nói tắt rằng "như chim"; làm cho người ta không hiểu: Như chim
có
hai cánh, hay là
như chim có mỏ?nên bị lỗi "vô hiệp".
5. Đảo hiệp._
Lời thí dụ, kết thúc phối hiệp lại trái ngược. Phàm kết thúc phối hiệp thì
phải
nói cái nhơn trước
rồi nói cái Tôn sau.
Như lập
Tôn : Người ta
phải chết
Nhơn : Vì có sanh
vậy
Đồng dụ : Phàm vật
gì có sanh (Nhơn) thì phải có chết (Tôn)như chim v.v ...
Nay kết thúc
lại trái ngược, nghĩa là: Phối hiệp Tôn trước rồi nhơn sau.
Như lập
Tôn : Người ta
phải chết
Nhơn : Vì có sanh
vậy
Đồng dụ : Phàm có
chết (Tôn) phải có sanh (Nhơn) như chim v.v ...
Bởi vì nói
"có sanh phải có chết" thì ai cũng thấy; còn nói "có chết phải
có sanh", người ta
khó nhận.
II. TỢ DỊ DỤ CÓ 5:
Phàm Dị dụ là dụ bề trái của Tôn và Nhơn, ne6n phải hoàn toàn trái ngược với Tôn và Nhơn.
1. Sở lập pháp bất khiển._ Cái Dị dụ này không trái với Tôn
Như lập
Tôn : Tiếng nói
thường còn
Nhơn : Vì vô hình
vậy
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ: như vi trần
(vi trần hữu hình và thường còn)
vi trần có hình
chất màlại thường còn. Nếu lấy vi trần làm Dị dụ, thì chỉ trái với
Nhơn (vô hình) mà
không trái với Tôn (thường) nên bị lỗi.
2. Năng lập pháp bất khiển._ cái Dị dụ này không trái với Nhơn
Như lập
Tôn : Tiếng nói
thường còn
Nhơn : Vì vô hình
vậy
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ: như điện
chớp (vô hình, không thường).
Lấy điện chớp
làm Dị dụ, thì chỉ trái với "Tôn thường còn", mà không trái với
"Nhơn vô
hình", nên bị lỗi.
3. Câu bất khiển,_ cái Dị dụ không trái với Tôn và Nhơn. Lỗi này vì lấy Đồng dụ làm Dị dụ.
Như lập
Tôn : Người
phải chết
Nhơn: Vì có sanh
vậy
Đồng dụ : Như cỏ
cây
Dị dụ: như loài
vật
Phàm Dị dụ là
phải trái với Tôn và Nhơn. Nay dùng cái Dị dụ này không trái với Tôn và
Nhơn nên bị
lỗi.
4. Bất ly._ Dị dụ không có lời kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn
Như lập
Tôn : Tiếng nói
thường còn
Nhơn : Vì không
hình chất
Đồng dụ : Những gì
vô hình đều thường còn, như hư không
Dị dụ: như bàn
ghế
Về Dị dụ, đáng lẽ cũng phải có lời phối hiệp kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn như vậy:
"Phàm
những gì vô thường, thì đều có hình chất, như bàn ghế". Nay chỉ nói tắt
rằng:
"Như bàn
ghế" Làm cho người
ta không hiểu: Như
bàn ghế có bốn chân? Hay như bàn ghế có mặt?
Phải lưu ý: Về
Đồng dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, thì gọi là "Vô
hiệp";
còn bên Dị dụ, nếu
thiếu lời phối hiệp
để kết thúc, thì
gọi là "bất ly".
5. Đảo lỳ._ Lời kết thúc của Dị dụ, để ly biệt Tôn và Nhơn, lại phối hiệp mốt cách trái ngược.
Như lập
Tôn : Tiếng thường
còn
Nhơn : Vì vô chất
ngại
Đồng dụ : Như hư
không
Dị dụ: những gì có chất ngại (Nhơn) đều vô thường (tôn) như bình, bàn v.v...
Phàm lời phối
hiệp để kết thúc của Dị dụ là phải nói Tôn trước rồi Nhơn sau, mới thuận.
Như nói:
"Những gì vô thường (Tôn) thì đều có chất ngại (Nhơn) như bình, bàn
v.v...
"Nay phối
hiệp ngược lại Nhơn trước Tôn sau, nên bị lỗi "Đảo ly".
Lưu ý:_ về Đồng
dụ, khi kết thúc, phải nói Nhơn trước rồi nói Tôn sau. Nếu trái lại thì bị
lỗi
"Đảo
hiệp". Về Dị dụ, khi kết thúc, phải nói Tôn trước rồi nói Nhơn sau. Nếu
trái lại thì bị lỗi
"Đảo
ly". 10 lỗi về Tợ Dụ đã giải thích rồi.
***
PHỤ BÀI HỌC ÔN
Quý vị nên xét kỹ các lượng sau này: Tôn thuộc về lỗi gì? Nhơn thuộc về lỗi gì? Và Dụ thuộc về lỗi gì?
Lượng thứ I
Tôn : Người ta phài chết
Nhơn : Vì có sanh vậy
Đồng dụ : Phàm có chết phải có sanh, như chim
Dị dụ: Phàm không sanh thì không chết, như hư không
Lượng thứ II
Tôn : Tiếng nói thường còn
Nhơn : Vì vô hình vậy
Đồng dụ : Như hư không
Dị dụ: như vi trần
Lượng thứ III
Tôn : Tiếng nói thường còn
Nhơn : Vì tai nghe vậy
Đồng dụ : Như hư không
Dị dụ: như điện chớp
Lượng thứ IV
Tôn : Người ta phải chết
Nhơn : Vì có sanh vậy
Đồng dụ : Như cỏ cây
Dị dụ: như loài vật. Hoặc lập nhiều lượng khác
LỢI ÍCH HỌC NHƠN MINH LUẬN
Trong các Kinh điển Đại thừa, phần nhiếu Phật dạy các đệ tử phải biết Ngũ minh (1. Nội minh, 2. Nhơn minh, v.v...) thời việc hoá đạo mới được nhiều lợi ích. Trong Ngũ minh, Nhơn minh là một.
Nhờ biết Nhơn minh nên lời nói ít lỗi, luận lý vững vàng, có thể thuyết phục được các tà thuyết đem về chánh đạo.
Nhờ biết Nhơnminh, mới học nổi được các bộ luận trong Phật giáo. Vì trong các bộ luận ấy phần nhiều dùng nhơn minh để lập Chánh lý và phá các tà thuyết.
Tóm lại, Nhơn minh là một môm Luận lý học, vừa lợi ích cho mình và lợi ích cho người.
Sa môn THÍCH THIỆN
HOA
Sửa lại và
viết xong mùa thu năm Mậu tuất (1958)
Chùa PHẬT QUANG
(Trà Ôn)