Hãy
thử nghĩ xem bạn đã bao lần tự nhủ như thế này, “Phải
chi tôi đừng nói những lời như thế,” hay “Nhìn nét mặt,
tôi biết những lời tôi nói đã xúc phạm đến bạn.” Những
lời nói không khéo, những lời nói quá đáng mang đến cho
ta bao phiền não. Khi nói dối, chúng ta bị lộ tẩy. Nói
xấu bạn, ta gây bao phiền phức cho bạn; nói năng thiếu nghĩ
suy, ta làm phật lòng khách hàng hay bè bạn; nói chuyện phù
phiếm, ta mất thời gian và không làm được việc gì.
Những
thói xấu trong lời nói không phải là điều mới lạ gì.
Đức Phật đã coi việc rèn luyện chánh ngữ rất quan trọng
đến sự phát triển cá tính và tâm linh đến nỗi Ngài đã
tạo ra một ngành riêng biệt cho nó trong Bát Chánh đạo, con
đường đưa đến hạnh phúc. Đức Phật dạy rằng, Chánh
Ngữ có bốn đặc tính: Chúng là những lời chân thật, Chúng khiến người ta phấn khởi, không phải là những lời
ác độc hay cay đắng mà đem lại niềm vui. Chúng nhẹ nhàng,
không thô lỗ hay cộc cằn. Chúng khiêm cung, không vô ích hay
vô nghĩa.
Đức
Phật dạy rằng, người thường nói lời dịu dàng, tử tế,
sẽ nhanh chóng được tin cậy và tôn trọng. Người như thế
sẽ được hưởng một trạng thái tâm bình lặng và thanh
tịnh và có thể giao tiếp với người khác một cách thân
thiện. Thí dụ, bạn có để ý rằng người ta thường
nói với bạn bằng cung cách mà họ nghe bạn nói không? Nếu
ta thường phóng đại hay nói dối, người khác cũng thấy
dễ nói dối lại với chúng ta. Nếu ta có thói quen nói xiên
xỏ, người khác cũng thấy dễ nói cộc cằn trở lại. Ngược
lại cũng thế. Nếu chúng ta thường nói lời chân thật,
thì lời nói của ta được người tin hơn. Nếu ta thường
kín miệng, người khác cũng khó nói xấu về ta. Nếu lời
nói của ta luôn tử tế, dịu dàng, người khác cũng thấy
xấu hổ khi dùng lời thô tục hay cộc cằn trước mặt ta.
Rõ
ràng là lời nói tạo ra một môi trường để chúng ta vun
vén cho hạnh phúc hay phá hoại nó. Chúng ta biết như thế
vì chính kinh nghiệm bản thân cho ta thấy rằng ta hành động
hay nghĩ suy như thế nào là do ảnh hưởng nặng nề của những
lời nói ở quanh ta. Một trong những vị tỳ kheo ni đầu tiên
của Đức Phật đã có nhận xét bằng thơ văn như
sau:
Nếu
kết thân với thiện tri thức,
Thì
kẻ ngu cũng thành khôn.
(Thig 213)
Nếu
muốn được trở nên khôn ngoan, chúng ta không những phải
tìm thiện hữu tri thức, mà còn phải là thiện tri thức đối
với người khác. Để làm được như thế đòi hỏi chúng
ta phải có sự nỗ lực đầy chánh niệm trong việc thực
hành Chánh Ngữ. Một câu chuyện dân gian Phật giáo đã minh
họa lời nói có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành động
của chúng ta như thế nào:
Một
vị tu sĩ trong tăng đoàn của Đức Phật có thói quen dự
những bữa ăn thịnh soạn với một nhóm người do tu sĩ đầy
ác hạnh, Bồ Đề Đạt Đa dẫn dắt. Bị cám dỗ trước
những món ăn ngon mà những người này cúng dường, vị tu
sĩ kia thường dành nhiều thời gian giao du với đám bạn bất
thiện này. Đức Phật đã quở trách vị tỳ kheo vì đã chọn
những người bạn như thế và cảnh cáo ông về những hậu
quả của hành động đó. Để thuyết phục vị tỳ kheo đó
thay đổi thái độ, Đức Phật đã kể cho ông nghe câu chuyện
về một sự kiện đã xảy ra trong kiếp trước, trong đó
vị tỳ kheo đã bị đi lầm lạc bởi những lời bất thiện,
cộc cằn của những người ở quanh ông.
Đức
Phật nói, trong một tiền kiếp, vị tỳ kheo là một con voi
to lớn thuộc dưới quyền nhà vua. Con voi này được biết
đến vì dáng vẻ khoan thai, dịu dàng của nó. Rồi một nhóm
đạo tặc có thói quen tụ tập gần chuồng voi mỗi đêm để
bàn thảo về những âm mưu đen tối của họ. Họ nói với
nhau một cách cộc cằn và khuyến khích nhau phạm tội sát
nhân cũng như các những hành động độc ác khác. Con voi bắt
đầu tin rằng những lời thô tục kia cốt ý là để dạy
nó rằng nó phải hành động một cách tương tự như thế.
Kết quả là con voi dịu hiền trước đây trở thành một
con voi dữ, giết hại bất cứ ai muốn đến gần nó.
Nhà
vua là người chủ voi gửi một vị đại thần – là vị
Phật tương lai- đến để xét xem điều gì đã làm hư con
voi hiền kia. Vị đại thần đã nghe được những lời nói
ác độc của bọn cướp và nhận thấy chúng đã ảnh hưởng
đến con voi như thế nào. Ông khuyên nhà vua hãy gởi những
vị thánh hiền học cao hiểu rộng, có tiếng vì những lời
nói dịu dàng của họ, đến để nói chuyện gần chuồng
voi mỗi đêm. Những lời nói thân thiện và tốt đẹp chẳng
bao lâu ảnh hưởng đến con voi khiến nó trở về với bản
chất hiền lành và nó chẳng bao giờ ác độc nữa. (J 26)
Chánh
ngữ có thể cải thiện cuộc sống của ta về nhiều phương
diện. Giá như ta chẳng bao giờ phải hối hận về bất
cứ điều gì ta đã nói! Chúng ta sẽ trút được bao
gánh nặng.
Hãy
phân tích thấu đáo hơn về bốn đặc tính của Chánh Ngữ,
xét xem chúng có thể giúp ta như thế nào trên con đường
đi đến hạnh phúc.
NÓI
SỰ THẬT
Đặc
tính đầu tiên của Chánh Ngữ là luôn nói sự thật. Đức
Phật dạy chúng ta, đừng bao giờ nói dối dầu vì lợi ích
của bản thân, hay lợi ích của ai đó, hay vì bất cứ sự
lợi ích gì. Đức Phật đã tóm tắt những lời hướng dẫn
cho việc nói sự thật như sau:
Khi
(ai đó) được hỏi làm nhân chứng, “Này bạn, hãy nói những
gì bạn biết”: khi biết, thì nói, “tôi biết”; không
biết, thì nói, “Tôi không biết”; không thấy, thì nói,
“Tôi không thấy”; nếu thấy, thì nói, “Tôi thấy”; không
cố ý nói sai sự thật vì ích lợi của mình hay của ai đó,
hay cho những lợi ích tầm thường trong thế gian. (M 41)
Cũng
có khi chúng ta được hỏi một câu hỏi mà thái độ im lặng
cũng hàm ý một sự trả lời gì đó. Nếu sự im lặng
của chúng ta sẽ phản ảnh một điều sai sự thật, thì chúng
ta phải lên tiếng. Thí dụ, một người cảnh sát điều tra
ở một nơi vừa xảy ra án mạng hỏi đám đông đứng quanh
là họ có nhìn thấy gì không. Nếu mọi người đều giữ
im lặng, vị cảnh sát sẽ kết luận rằng không có ai chứng
kiến sự việc xảy ra. Nếu có ai đó trong đám đông là nhân
chứng, thì họ đã nói dối bằng cách giữ yên lặng. Họ
có thể cảm thấy rằng mình có đầy đủ lý do để không
nói gì như là sợ bị trả thù, nhưng sự im lặng của họ
dầu gì cũng là một sự dối trá. Chúng ta cũng có thể nói
dối bằng ngôn ngữ của thân. Đôi khi một cái nhún vai hay
nhíu mày có thể bị lầm hiểu là “Tôi không biết”, nhưng
nếu bạn thực sự biết, thì cái nhún vai của bạn là một
sự lừa dối.
Tuy
nhiên cũng có những trường hợp, khi sự thật cần phải
được giữ kín vì nếu nói ra có thể làm hại người khác.
Trong những trường hợp như thế, chúng ta phải đợi đến
lúc thích hợp để nói lời thích hợp cho người thích hợp.
Chính Đức Phật cũng thường giữ yên lặng khi câu trả lời
của Ngài có thể làm tổn hại đến ai đó. Có lần một
người đã tham vấn với Đức Phật rằng có đời sống sau
khi chết không. Đức Phật chỉ ngồi giữ im lặng cho đến
khi người kia bỏ cuộc và đi nơi khác. Sau đó, Ananda, thị
giả của Ngài, thưa hỏi vì sao Phật không trả lời. Đức
Phật giải thích rằng bất cứ câu trả lời nào cũng sẽ
khiến người kia đau khổ. Nếu Ngài trả lời rằng có một
đời sống sau khi chết, Đức Phật biết rằng người đó
sẽ suy luận rằng có một bản ngã hiện hữu bất diệt,
là một tri thức sai lầm đưa đến khổ đau. Nhưng nếu Ngài
trả lời rằng không, người kia cũng sẽ phát triển một
sự hiểu lầm khác, khi nghĩ rằng, “Nếu thế thì tôi sẽ
không còn tái sinh nữa!” và sẽ đau khổ vô cùng vì điều
đó. Để tránh làm người đó đau khổ, Đức Phật quyết
định giữ im lặng.
Đức
Phật đã đặt ra những quy ước theo đó mà Ngài quyết định
là sẽ trả lời hay giữ yên lặng. Nếu Ngài biết điều
gì đó không đúng, sai sự thật, hay không ích lợi, thì Ngài
sẽ không nói điều đó. “Những lời như thế [Đức Phật]
không nói”. Nếu Ngài biết một điều gì đó là đúng,
là có thật, là ích lợi, thì “[Đức Phật] biết lúc để
sử dụng lời nói.” Nếu lời nói của Ngài là đúng, là
sự thật, có ích lợi, và đúng thời điểm, thì Đức Phật
sẽ nói dầu rằng những lời của Ngài sẽ “bị người
khác chống đối hay không đồng ý,” hay “được người
khác tiếp nhận và đồng ý.” (M 58) Với lòng bi mẫn
sâu xa và chú tâm hoàn toàn đến lợi ích của người, Đức
Phật chẳng bao giờ nói để “làm vừa lòng người khác.”
Chúng ta có thể học rất nhiều từ đức hạnh của Ngài.
Khi
tôi định nói những lời không đúng theo quy ước của Đức
Phật, tôi tự nhắc nhở rằng nếu mở lời, tôi không được
ích lợi gì, mà cũng không ai được gì, hay mất gì bởi sự
im lặng của tôi. Thí dụ, tôi đang trao đổi với bạn bè,
một trong những người đó làm chủ câu chuyện. Tôi cũng
có điều để nói và cảm thấy mất kiên nhẫn chờ đợi.
Nhưng tôi quán tưởng những điều tôi muốn nói và biết
rằng chúng đúng đối với các sự kiện đã qua, đúng đối
với các dữ liệu đang có và chúng sẽ ích lợi cho người
nghe. Tuy nhiên, nếu tôi nói ra ngay lập tức, tôi sẽ xúc phạm
người đang nói. Như thế là không đúng thời điểm,
nên tôi lại tự nhủ rằng tôi sẽ không được lợi ích
gì nếu nói không đúng thời điểm, mà cũng không có ai được
ích lợi, hay mất mát gì bởi sự im lặng của tôi. Tôi có
thể nói những gì cần nói ở lúc khác.
LỜI
NÓI KHÔNG PHẢI LÀ VŨ KHÍ
Tính
chất thứ hai của Chánh Ngữ là tránh nói thâm độc (tà ngữ).
Như một câu nói dân gian đã dạy rằng: “Lưỡi là một
vũ khí không có xương bị dính giữa hai hàm răng.” Khi chúng
ta nói lời cay độc, lưỡi tuôn ra những gươm đao. Những
lời đó sẽ khiến người ta mất danh dự, mất uy tín. Dầu
điều mà chúng ta nói về ai đó đúng sự thật, nhưng nếu
mục đích nói là để gây tổn hại cho người đó, thì là
thâm độc.
Đức
Phật định nghĩa tà ngữ là những lời nói sẽ cắt đứt
tình bằng hữu giữa hai người. Đây là một thí dụ: Giả
dụ trong một chuyến đi tôi gặp một người quen của bạn
tôi, đang sống ở xa. Tôi nhớ rằng vài tháng trước đó,
bạn tôi đã kể một câu chuyện chẳng hay ho gì về người
này. Tôi có thể không nhớ hoàn toàn câu chuyện, nên đã
thêm thắt một ít khi lặp lại câu chuyện. Tôi còn làm
cho nó có vẻ như tôi đang giúp người đó biết rằng bạn
tôi đã nói sau lưng anh ta. Người nghe đó phản ứng
một cách nóng nảy. Khi về, tôi lặp lại những lời nói
của người đó với bạn tôi, lại thêm thắt một chút để
câu chuyện hấp dẫn hơn. Vì việc làm đó gây ra sự bất
đồng và đổ vỡ một tình bạn, thì những lời nói như
thế là tà ngữ.
Đôi
khi chúng ta ngụy trang tà ngữ như là sự lo lắng, quan tâm
về hành động của người khác. Hay chúng ta tiết lộ một
bí mật mà ai đó đã tin tưởng nói cho ta nghe, tin rằng ta
làm như thế “là vì lợi ích của họ.” Thí dụ, nói với
một phụ nữ rằng chồng bà không trung thành vì “bạn không
muốn bà ấy là người cuối cùng khám phá ra”, có thể gây
ra nhiều đau khổ hơn cho tất cả mọi người liên quan. Khi
bạn định nói trong cách đó, hãy tự hỏi xem mục đích của
bạn là gì. Nếu là để tỏ ra hơn người khác, để được
ai đó mang ơn, cảm kích, thì lời nói của bạn là để thỏa
mãn tự ngã và thâm độc hơn là đạo đức.
Lời
nói ở nơi công cộng cũng có thể thâm độc như thế. Những
tờ báo lá cải, các chương trình truyền thanh trực tuyến
hay các phòng chat (nói chuyện) trên internet, và ngay cả một số những phương tiện truyền thông đáng tin cậy dường
như đều kiếm sống bằng cách sử dụng lời nói, ngôn ngữ
như là một vũ khí. Thí dụ những tin tức nóng hổi về những
điều mới xảy ra trong tuần là nhắm đến việc làm
tăng thêm số lượng độc giả và số tiền quảng cáo. Những
lời thâm độc sẽ hạ người này xuống để tâng bốc người
kia lên. Chúng khiến người nói này có vẻ bản lĩnh,
thông minh, hay chịu chơi không kể gì đến quyền lợi của
người khác.
Không
phải tất cả các tà ngữ đều thô tục. Đôi khi người
ta sử dụng những lời có vẻ dịu dàng, êm ái nhưng mà ý
thì thâm độc. Những lời nói gươm giáo nguỵ trang như thế
thì còn nguy hiểm hơn là những lời ác độc bộc trực vì
chúng dễ đi sâu vào tâm trí người nghe. Trong ngôn ngữ hiện
đại, chúng ta gọi cách nói đó là “lời khen đâm sau lưng.” Thí dụ như khi chúng ta nói với ai đó, “Bạn thiệt là khôn
ngoan khi sửa lại nhà cũ thay vì dọn đến một khu dân cư
sang trọng hơn,” hay “Tóc bạn bạc trông đẹp quá. Vẻ già dặn thật thích hợp với nghề nghiệp của bạn.” Chánh Ngữ không chỉ có nghĩa là ta phải quan tâm đến những
lời nói, giọng nói mà còn đòi hỏi rằng lời nói của
ta phản ảnh lòng bi mẫn và sự quan tâm đối với người
khác và rằng chúng hỗ trợ, chữa lành hơn là gây thương
tích và hủy diệt
.
LỜI
NÓI HÒA NHÃ
Loại
tà ngữ thứ ba là lời cộc cằn, thô lỗ. Xúc phạm
bằng lời nói, nói cay độc, xiên xỏ, nói lời kiêu căng,
chỉ trích nặng lời hay chửi rủa thậm tệ, tất cả đều
là thí dụ của lời nói cộc cằn, thô lỗ.
Lời
nói là một công cụ đầy quyền lực có thể được dùng
cho việc tốt hay việc xấu. Đức Phật đã so sánh lời nói
với một cái búa:
Mỗi
người sinh ra đời
được
sinh ra với cái búa trong miệng.
Kẻ
ngu dùng những lời thô tục
là
tự làm mình và người khác bị thương
bằng
cái búa đó.
(Sn
657)
Có
lẽ chúng ta chỉ nghĩ đến cái búa như một dụng cụ để
chặt củi đốt. Nhưng trong thời Đức Phật, cái búa là một
dụng cụ sắc bén, và hiểm nguy. Nó được dùng để xẻ
các thân gỗ dài, để chạm khắc, đục gỗ rất chính xác.
Nó có thể đốn hạ cây cao. Và nó là một vũ khí nguy hiểm,
một phương tiện ghê gớm có thể làm thương tật hay sát
hại người. Có thể so sánh tương tự với chiếc máy vi tính
ở thời hiện đại. Máy vi tính có thể dùng để làm nhiều
việc hữu ích -để trao đổi xuyên lục địa, tạo ra âm
nhạc, hay phóng hỏa tiển lên hành tinh Mars. Nhưng chúng cũng
được sử dụng cho mục đích phá hoại. Người ta dùng vi
tính để bắn tên lủa và điều khiển các loại vũ khí khác
trong chiến tranh.
Giống
như khi phải chọn lựa sử dụng khả năng của chiếc búa
hay máy vi tính như thế nào, chúng ta cũng phải chọn lựa
sẽ sử dụng lời nói như thế nào. Ta có dùng lời nói để
cảnh tĩnh, an ủi, khuyến khích người khác không? Hay là ta
sẽ dùng lời nói để hạ gục họ, và làm thương tổn bản
thân trong quá trình đó? Lời nói xiên xỏ, đồn đại ác
ý, nói dối, hay những câu nói đùa thô tục, vô tâm không
chỉ xúc phạm người khác mà cũng khiến cho bản thân ta giống
như những kẻ ngu không thể sử dụng cái búa trong miệng
mà không tự làm chảy máu bản thân.
Chúng
ta cũng là kẻ khờ nếu nghĩ rằng lời nói cộc cằn, thô
lỗ có thể làm được việc gì một cách tích cực. Dầu
ta có thể cảm thấy rất hài lòng khi hạ được người nào
-cho họ biết tay ta– nhưng đó không phải là một chiến
thắng tốt đẹp gì. Như Đức Phật đã dạy:
Kẻ
ngu nghĩ rằng mình đã thắng
với
những lời nói cộc cằn thô lỗ.
Nhưng
biết làm thế nào để tự kiềm chế
Chỉ
việc đó đã là chiến thắng.
(SI.7.1
[3])
Dùng
lời thô lỗ, xúc phạm để khiến người khác phải im lặng
là việc dễ dàng. Một người đối đầu khôn ngoan thường
sẽ rút lui khỏi một sự chạm trán như thế và phản ứng
lại bằng sự im lặng lạnh lùng. Ta có thể tự khen mình
và nghĩ, tôi đã thực sự dạy chó hắn một bài học -hắn
ta im ngay khi nghe nói. Nhưng sự chiến thắng bên ngoài đó
của ta rất nông cạn. Người đối đầu với ta có thể đã
thề chẳng bao giờ giao tiếp với ta nữa, hay thề sẽ bí
mật trả thù ta một lúc nào đó trong tương lai. Ác tâm và
những khổ thọ mà ta tạo ra cho người, sẽ dội trở lại
và ta sẽ hứng chịu hậu quả lúc không ngờ nhất.
Không
khó tìm ra các thí dụ khác về những ảnh hưởng tiêu cực
của lời nói thô lỗ. Thí dụ bạn có một đồng nghiệp
rất giỏi, rất thông minh về kỹ thuật, nhưng cách ăn nói
của anh ta có nhiều vấn đề. Anh ta gây hiềm khích với các
bạn đồng nghiệp vì những lời thô lỗ, cộc cằn, cao ngạo,
cay độc, và miệt thị. Vì thế, dầu công việc anh ta làm
rất tốt, không ai có thể chịu đựng nổi anh, kết quả
là anh không có đường tiến thân.
Một
thí dụ khác đáng buồn hơn là ảnh hưởng tiêu cực của
lời nói thô lỗ, cộc cằn đối với trẻ em. Chúng ta ai chẳng
từng nghe các bậc cha mẹ nói với con cái mình, “Mày thiệt
là nhục,” “Mày không thể làm gì đúng,” “Mày sẽ không
làm nên tích sự gì.” Có thể chúng ta cũng nhớ đã từng
bị nói như thế khi còn nhỏ. Sự xúc phạm bằng lời nói
có thể để lại những vết thương không bao giờ lành trong
tâm hồn đứa trẻ. Dĩ nhiên, đôi khi cha mẹ cũng phải dùng
lời lẽ cứng rắn với con cái để chúng không làm những
chuyện nguy hiểm, như là chơi với diêm quẹt hay chạy chơi
ngoài đường. Nhưng những lời nói cứng rắn đó phát xuất
từ tình thương, lòng lo lắng, chứ không phải bằng chủ
ý muốn hạ nhục hay hăm doạ.
Ngay
chính thú vật cũng bị ảnh hưởng bởi những lời cộc cằn.
Cháu trai tôi có một con chó Alaska, tên là Taurus. Taurus
rất tò mò về những con thú nò thấy trên ti vi. Nó còn định
cắn chúng nữa. Vì quá bự, nên khi Taurus bị cuốn hút bởi
cái gì nó thấy trên màn hình, là nó đứng che khuất tầm
nhìn của người ngồi sau nó. Bữa nọ, một người la lên,
bảo Taurus tránh qua một bên. Giọng nói của người đó rất
bực dọc, nghiêm khắc. Taurus phản ứng lại bằng cách
bỏ đi xuống tầng hầm dưới nhà. Nó ở đó suốt tuần,
không chịu ra, ngay cả để ăn. Thỉnh thỏang nó chạy ra ngoài
để giải quyết các vấn đề khác, rồi chạy ngay xuống
đó. Cuối cùng, gia đình phải năn nỉ nó, dùng những lời
nhẹ nhàng, êm ái thì Taurus mới trở lên với họ.
Những
lời nhẹ nhàng của gia đình cháu tôi đã giúp họ tìm lại
được sự thân thiện của con chó mà họ yêu quí. Lời
tử tế, như Đức Phật đã dạy, luôn thích hợp và được
hoan nghênh:
Hãy
nói lời tử tế
những
lời làm người ta vui vẻ đón nhận,
những
lời không ác ý với ai;
hãy
luôn nói lời từ ái với người khác.
(Sn
452 [do Thượng Tọa S. Dhammika dịch])
Nói
với ai đó, “Tôi thực sự cảm kích những việc bạn làm,”
“Bạn đã giải quyết vấn đề đó thật tốt đẹp,” hay
“Thật vui được gặp anh”. Những lời nói đó sẽ
làm ấm lòng người nói cũng như người nghe. Lời nói
dịu dàng là mật ngọt trên môi. Bày tỏ sự thán phục hay
biết ơn sẽ khiến mọi người cảm thấy hạnh phúc hơn.
Chúng giúp ta tạo ra và giữ được tình bằng hữu, vì ai
cũng muốn liên hệ với người mà lời nói nhẹ nhàng, dịu
dàng khiến người nghe cảm thấy thư thái, dễ chịu. Lời
nhẹ nhàng, dịu dàng giúp trẻ em trưởng thành với cảm giác
tự tin về giá trị bản thân. Những lời nói như thế cũng
giúp ta dễ học hỏi và tri ân giáo lý của Đức Phật.
Nếu
ta nói lời tử tế, khôn ngoan, thì hạnh phúc mà tacó thể
ban trải cho người chung quanh trở nên vô hạn.
Nhưng
hãy cẩn trọng: lời dịu dàng, tử tế phải thành thật và
phát xuất từ một mục đích cao thượng. Nói lời nhẹ nhàng,
êm ái trong khi suy nghĩ hay làm điều ngược lại là giả dối,
không phải là một đức hạnh. Tất cả chúng ta đều biết
có những vị lãnh đạo tôn giáo dùng lời ngọt bùi để
truyền bá sự sợ hãi hay kêu dụ người ta gởi tiền đến
cho tổ chức của họ. Tôi còn nhớ có một người Tích Lan
đã đi khắp xứ tuyên truyền chống lại sự độc hại của
rượu. Nhờ vào tài ăn nói đó, người này đã được nổi
tiếng, có quyền lực và được nhiều người biết đến,
lôi kéo được nhiều đám đông tin theo. Ông ta hô hào
chiến dịch để đóng cửa các quán bar, hủy bỏ các quán
rượu, và cấm bán rượu. Vào một ngày hè nóng nực, trong
lúc đang diễn thuyết một cách hùng hồn, người kia cởi
áo vest ra một cách vội vả. Một chai rượu nhỏ từ trong
túi áo của ông rớt ra và rơi xuống sàn sân khấu. Thế là
chấm dứt chương trình kêu gọi cấm uống rượu, và cũng
chấm dứt luôn sự nghiệp chính trị của ông. Mặc dầu những
gì người đó nói về sự độc hại của rượu là đúng,
nhưng một khi người nghe thấy được sự giả dối của ông,
họ không còn muốn nghe ông nữa.
TRÁNH
NÓI CHUYỆN PHÙ PHIẾM
Loại
tà ngữ thứ tư là nói chuyện phù phiếm, mà Đức Phật gọi
là những lời nói vô nghĩa hay u mê.
Nói
sau lưng người (gossip) là tà ngữ, không cần biết những
gì chúng ta nói về người đó có đúng hay không. Suy cho cùng
nếu ba người kể một câu chuyện với một người thứ tư,
thì mỗi câu chuyện lại khác nhau. Bản tánh con người thường
tin vào bất cứ điều gì chúng ta nghe trước, dầu đó có
thể chỉ phản ảnh quan điểm của một người. Những
điều nói đó có thể dựa trên sự thật, nhưng lời nói
sau lưng thường được phóng đại, thêm thắt.
Nói
sau lưng thường dẫn đến tranh cãi và hiểu lầm. Nó có thể
làm tan vỡ những mối liên hệ. Trong những trường hợp nghiêm
trọng, nó có thể đưa đến khiếu kiện vì đã mạ lỵ hay
làm mất danh tiếng người khác. Vào thời Đức Phật, hành
động này còn có thể lật đổ cả một liên bang:
Dân
tộc Licchavi là một bộ tộc độc lập, kiêu hãnh, một trong
những thành viên có quyền lực và quan trọng nhất của một
liên bang hùng cường của tám dòng tộc. Thủ đô của họ
là thủ đô của liên bang. Vua Ajatasattu, một vị đế vương
đầy tham vọng, người ủng hộ của vị tà sư Bồ Đề Đạt
Đa, dự định sẽ xâm chiếm và đánh bại dân tộc Licchavi. Tuy nhiên, vị vua này cũng tham khảo ý kiến của Đức Phật
về dự định xâm chiếm này. Đức Phật nói dân tộc Licchavi
sống rất hòa hợp, và khuyên nhà vua, “Ngài không thể xâm
lấn, chế ngự họ khi họ còn biết đoàn kết và hòa hợp
với nhau.” Nhà vua hoãn lại việc xâm lăng và suy nghĩ về
lời của Phật.
Sau
đó vua Ajatasattu nghĩ ra một kế đơn giản nhưng ác độc.
Nhà vua truyền cho vị thủ tướng của mình nói nhỏ điều
gì đó vào tai của một người Licchavi. Vị quan này đến
gặp một người Licchavi và nói nhỏ một cách bí mật, “Có
lúa trên ruộng đồng.” Đó chỉ là một câu nói vô nghĩa,
tầm thường. Ai cũng biết lúa có thể được tìm thấy ngoài
đồng ruộng.
Nhưng
khi thấy hai người thầm thì, một người Licchavi khác bắt
đầu suy đoán không biết thủ tướng của vua Ajatasattu đã
nói gì với bạn mình. Nên anh ta đến hỏi, thì người kia
lặp lại câu nói là có lúa ngoài ruộng. Nghe vậy, người
Licchavi thứ hai đã nghĩ, “Anh ta đang giấu sự thật. Anh
ta không tin tôi. Anh ta tự đặt ra câu nói xuẫn ngốc về
ruộng lúa để lừa dối ta.” Mang đầy nghi ngờ trong lòng,
người này lại đến nói với một người Licchavi khác nữa
rằng có người đã thầm thì với vị thủ tướng của vua
Ajatasattu. Người đó lại kể cho người khác nữa nghe, và
cứ thế, cho đến khi mọi người tin rằng người đàn ông
kia là gián điệp và đã có một hội kín được bí mật
thành lập trong cộng đồng của họ.
Vậy
là hòa bình tan vỡ. Người Licchavi kết tội lẫn nhau,
rồi sinh ra tranh cãi, và chiến tranh bùng nổ giữa các gia
đình lãnh đạo trong liên bang. Nhận thấy kẻ thù của mình
đang mất đoàn kết, vua Ajatasattu khởi quân xâm lấn dân tộc
Licchavi, và đã thắng trận dễ dàng. Sau đó, nhà vua lại
tiếp tục xâm chiếm những bộ tộc còn lại.
Tôi
không cần nghe những câu chuyện như thế mới biết rằng
lời nói sau lưng người nguy hiểm thế nào. Chính bản thân
tôi đã kinh nghiệm được điều đó. Hình như bất cứ
khi nào có ai đó cố gắng làm điều gì tốt cho xã hội,
thì là có người cảm thấy phải chống lại sự nỗ lực
đó. Có thể họ cảm thấy bất an hay ganh tỵ với sự thành
công của người khác. Loan tin đồn là vũ khí của họ. Họ
không phải ra mặt và đưa ra bằng chứng gì. Họ chỉ cần
thầm thì những điều tai hại, rồi dựa vào sự sẳn lòng
tham gia của người khác vào những câu chuyện vô ý thức
để hoàn thành việc làm xấu xa của họ.
Lần
đầu tiên khi chúng tôi cố gắng gây quỹ để xây dựng trung
tâm thiền, có người đã loan tin đồn về hội Bhavana. Họ
nói rằng tôi lợi dụng các ân nhân, dự định sử dụng
nguồn kinh phí mà chúng tôi đã kêu gọi được để bắt
đầu một cuộc kinh doanh mờ ám kiếm lợi. Những lá thư
nặc danh được gởi đến những người có vai trò quan trọng,
bảo họ đừng nên đóng góp. Những tin đồn đó được tạo
dựng với ác ý, nhưng chúng lại được loan truyền bởi những
người không biết sự thật. Cộng đồng Phật giáo nơi tôi
sống, lúc ban đầu đã tỏ ra rất sốt sắng, sau đó trở
nên lung lay chia rẽ. May mắn thay những người chống đối
sự xây dựng của hội Bhavana không tìm được bằng chứng
thực sự nào để phóng đại lên, nếu không họ đã hoàn
toàn phá hoại được nỗ lực của chúng tôi.
Khi
nào người ta còn sẵn lòng tin vào những gì người khác nói và lặp lại những điều đó một cách vô tâm, thì tin đồn
sẽ còn loan truyền. Một lần kia một thành viên người Mỹ
trong Ban điều hành của hội Bhavana đến Tích Lan. Khi ở đó,
ông đã gia nhập một nhóm những người hành thiền đến
từ nhiều xứ sở khác nhau, họ đã nói về các trung tâm
thiền ở khắp nơi. Có người nhắc đến Hội Bhavana
trong buổi họp mặt đó, và một phụ nữ đã tuyên bố, “Ồ! Đó là trung tâm mỗi tối đều có tiệc trà!” Khi vị
thành viên trong Ban điều hành của chúng tôi phản đối, thì
bà ta nhất quyết là bà đã nói sự thật. Cuối cùng,
vị thành viên phải nói, “Tôi đã biết Sư Gunaratana từ
1971, và đã tham gia vào việc thành lập Hội Bhavana từ những
ngày bắt đầu. Tôi biết chắc không hề có tiệc trà
gì ở đó cả.” Nếu không có người biết chuyện có
mặt, thì đã không có ai có thể phải bác lại lời tuyên
bố của người phụ nữ kia. có thể người khác lại còn
thêm thắt nhiều điều không đúng sự thật và tai hại hơn
nữa. Đó là cách mà tin đồn được tạo ra và nócó
thể làm tổn hại đến cá nhân cũng như các tổ chức như
thế nào. Nếu chúng ta nghe ai đó tung tin đồn hay thông
tin tai hại, ta có hai chọn lựa: hoặc là ta chấm dứt câu
chuyện hay là ta không tán đồng với tin đồn thất thiệt,
như vị thành viên trong ban diều hành của chúng tôi đã làm.
Nhưng
trong lời dạy của Đức Phật khuyên ta nên kiềm chế việc
nói xấu, còn có khía cạnh sâu xa, mới mẻ hơn. Phần
đông chúng ta bỏ nhiều thì giờ nói về những món ta đã
ăn mấy ngày hay mấy tháng trước đó, hay nhớ đến những
chi tiết trong một bộ phim hay một chương trình truyền
hình nhảm nhí nào đó mà ta đã xem. Chúng ta còn hoang
phí thời gian để nói những câu chuyện chọc cười thiên
hạ. Những câu chuyện này chẳng ích lợi gì cho sự
phát triển trí tuệ của ta. Khi ta nghĩ đến cuộc sống
ngắn ngủi thế nào và chúng bị cướp mất đi do tai nạn,
bệnh hoạn, thì ta có thực sự muốn lãng phí thời gian quí
báu bằng những cuộc chuyện trò phù phiếm không?
Cũng
đúng là có những câu chuyện dường như không quan trọng
hay vô bỗ nhưng thực ra chúng được nói với một mục đích
quan trọng. Đôi khi chúng ta phải dùng những lời nhẹ
nhàng vô nghĩa để an ủi ai đó hay để nối kết tình thâm
với con cái. Tất cả những lời nói chánh niệm xuất phát
từ tình thương yêu và lòng bi mẫn đều là một phần được
chấp nhận của Chánh Ngữ. Phương cách để xét đoán
là dừng lại và tự hỏi mình trước khi nói: “Điều tôi
sắp nói có đúng sự thật không? Có tử tế không? Có ích
lợi không? Có hại cho ai không? Đây có phải là thời điểm
để nói ra điều ấy không?”
CHÁNH
NIỆM VỀ CHÁNH NGỮ
Chánh
Ngữ không phải là điều mà bạn có thể thực hành trên
gối thiền. Nó xảy ra trong khi trò chuyện, không phải lúc
lặng thinh. Tuy nhiên trong lúc ngồi thiền, ta có thể quán
tưởng đến thói quen ăn nói của mình và cố gắng chuyển
hóa các tâm pháp bất thiện thành các tâm pháp thiện –xuất
phát từ tâm xả, tình thương yêu và lòng bi mẫn. Ta
có thể phân tích những hành động trong quá khứ và tự hỏi:
“Những điều tôi nói hôm qua có đúng không? Tôi có dùng
lời tử tế, dịu dàng, chân thật và có ý nghĩa không?”
Nếu nhận thấy rằng mình đã sai trên một khía cạnh nào
đó, ta phải nguyện hoàn thiện tâm chánh niệm về Chánh ngữ.
Cách
tốt nhất là suy nghĩ trước khi nói. Người ta thường nói,
“Hãy giữ miệng!” Nhưng đúng hơn là phải giữ tâm bạn.
Miệng lưỡi không thể tự động làm được gì. Chính là
tâm điều khiển nó. Trước khi mở miệng, hãy quán sát lại
tâm xem động lực hành động có thiện không. Ta sẽ phải
ăn năn hối hận nếu có lời nào xuất phát từ tâm tham,
sân, hay si.
Ngoài
ra cũng phải quyết tâm mạnh mẽ là không nói bất cứ điều
gì để có thể tổn thương người khác. Chắc chắn rằng
tâm nguyện này sẽ giúp ta suy nghĩ cẩn thận trước khi nói.
Khi nói với tâm chánh niệm, tự động ta sẽ nói lời chân
thật, dịu dàng, êm ái. Chánh niệm sẽ giúp ta kiềm chế
không sử dụng những lời nói như gươm đao có thể làm người
ta đau đến tận xương tủy. Nếu tác ý muốn nói lời ác
độc khởi lên, thì lập tức dùng chánh niệm và Chánh Tinh
Tấn để ngăn cản các tư tưởng đó không kéo dài.
Lời
nguyện không làm tổn thương người khác bằng lời nói trở
nên đặc biệt quan trọng khi phải nói với người mà bạn
ác cảm, hay khi tranh luận về những vấn đề mà bạn ủng
hộ mạnh mẽ. Hãy cẩn thận! Chỉ sử dụng những lời dịu
dàng, được chọn lựa kỹ càng. Trong những trường hợp
đó, lời nói nhẹ nhàng, êm dịu giúp ta giữ được hòa khí
và giúp cho sự trao đổi, thảo luận được tiếp tục trong
bầu không khí thân thiện, mang lại ích lợi cho mọi người.
Nếu
có ai đến bên bạn với thái độ giận dữ -cằn nhằn hay
nói xấu về một trong những người bạn của mình, thí dụ
như thế- khiến bạn cảm thấy bực tức, thì tốt nhất là
đừng nói gì. Hãy tự thầm nhắc nhở, “Ta không được
có phản ứng. Ta không nên đánh mất chánh niệm như người
kia. Tranh cãi chẳng ích lợi gì. Tôi quyết chỉ
tham gia vào những câu chuyện có ích.” Người kia sẽ
phản ứng lại sự im lặng của bạn bằng cách ngưng nói
những điều làm bạn bực mình. Bạn có thể nhân đó, hướng
câu chuyện đến một đề tài tốt hơn.
Thật
ra, là người Phật tử thì ngay giây phút ta biết câu chuyện
bế tắt, không đi đến đâu, ta phải có trách nhiệm để
chuyển hướng nó. Thật dễ bị quá đà với những cuộc
tranh cãi chuyện tình cảm, đưa đến la hét. Những cuộc
cãi vã, la lối đều khiến mọi người trong cuộc đau khổ.
Với tâm chánh niệm hãy hồi tưởng lại bạn đã cảm thấy
đau đớn thế nào khi mất tự chủ. Hãy nhớ rằng sau đó
có thể phải mất nhiều giờ hay nhiều ngày trước khi ta
đủ bình tĩnh trở lại để nói chuyện với người kia. Rất
nhiều tình cảm tốt đẹp sẽ bị đánh mất, có thể là
vĩnh viễn.
Tuy
nhiên, nhiều khi dầu ta đã cố gắng hết sức, ta vẫn phải
nỗi giận. Nếu người kia tiếp tục khiêu khích bạn, tấn
công bạn bằng những lời nói gươm đao, bạn có thể trở
nên hoàn toàn mất tự chủ. Lúc đó thật dễ nỗi giận.
Khi bạn nhận thấy sự bực tức của mình đang tăng trưởng,
hãy nói “Đợi đã!” với người kia, với hy vọng sẽ tìm
được một giây phút để lắng lòng. Nhưng nếu người
kia trả lời rằng “Không, anh mới phải đợi đã!” và
tiếp tục tấn công – thì phải làm sao?
Trong
những trường hợp này, khi cuộc đối thoại đã vượt ra
ngoài vòng kiểm soát, nhiệm vụ của ta là phải nhanh chóng
đem chánh niệm trở lại và sử dụng Chánh Tinh Tấn để
chế ngự cơn giận. Ngay nếu như cảm giác giận dữ khiến
tim ta đập nhanh, thân xuất mồ hôi, và tay chân run rẩy, sự
chánh niệm về lời nguyện tránh nói lời thô lỗ, cũng có
thể giúp ta kiềm chế được mình. Chỉ cần không để cơn
giận khiến ta phải nói gì. Chú tâm vào hơi thở để tái
lập chánh niệm cho tới khi cơn giận của ta hạ xuống.
Sự
tự kiếm chế giúp cả hai, ta và người kia, một cơ hội
để mở lòng thân thiện. Khi lòng ta đã lắng dịu, ta có
thể nhìn thấy người kia rõ ràng hơn và sẽ hiểu tại sao
cả hai đều bực tức. Lúc ấy ta cũng đã biết một
trạng thái tâm giận dữ khiến ta khó chịu đến chừng nào.
Khi sự quan tâm và tôn trọng đối với người tăng lên, ta
có thể quyết định sử dụng giây phút đó để bắt đầu
một quan hệ mới trong sự tôn trọng, thương mến nhau hơn,
để củng cố tình bằng hữu giữa ta và người. Đó là những
gì ta nên luôn mong muốn làm được.
Khi
nhận thấy rằng ta đã rèn được tâm và kiềm chế được
lời nói để chuyển tình thế thành hòa hợp hơn, hãy vui
mừng về điều đó! Hãy tự nhủ, “Đây là điều tôi muốn.
Tôi luôn muốn hành động thế nào để đem đến những điều
tốt đẹp.” Hãy luôn giữ trong tâm những suy nghĩ đó.
Tôi
sẽ kể cho bạn nghe một câu chuyện khi bản thân tôi phải
sử dụng chánh niệm để thực hành Chánh Ngữ. Có thể kinh
nghiệm của tôi sẽ giúp bạn biết phải làm thế nào để
áp dụng tâm chánh niệm vào những hoàn cảnh trong cuộc đời
bạn -ở sở làm, ở nhà, và trong những mối liên hệ cá
nhân.
Nhiều
năm về trước, khi tôi đang điều hành một ngôi chùa, một
số người đã kêu gọi một buổi họp các vị ân nhân hỗ
trợ chùa lại. Họ chống đối một số công trình tôi
đã khởi xướng và muốn dùng diễn đàn này để bày tỏ
sự bực tức của họ. Một số trong những người này phản
ứng rất mạnh về các vấn đề được thảo luận. Họ đã
được sanh vào những gia đình Phật giáo, nhưng họ không
quan tâm đến thiền. Thực ra họ coi việc hành thiền là một
điều điên rồ. Vì thế họ không thể hiểu việc làm của
tôi. Tôi cũng biết trong buổi họp này mình sẽ là người
được chỉa mũi dùi đến, nhưng những gì xảy ra còn tệ
hơn bất cứ điều gì người ta có thể tưởng tượng đến.
Có
khoảng bốn mươi người dự buổi họp, bao gồm nhiều thân
quyến, bạn bè của tôi và những Phật tử khác đến để
bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với các Phật sự của
tôi. Trước khi cuộc họp có thể được chính thức bắt
đầu, ngay cả trước khi có sự giới thiệu nào, một người
đàn ông cục mịt đứng dậy và bắt đầu nói. Người
này ít học, không khéo léo, lại có khuynh hướng sử dụng
lời thô lỗ. Anh ta không nói gì nhiều về những vấn đề
trong chùa đang được thảo luận, nhưng nói rất nhiều thứ
về cá nhân tôi. Với những lời nói thiếu lịch sự, và
lễ độ, ông ta kết tội rằng tôi đã không làm gì cho chùa
bao năm nay, rằng tôi khiến người ta không còn hỗ trợ cho
chùa, vân vân. Ông ta dùng những ngôn từ xúc phạm, khó
được chấp nhận trong xã hội để tấn công tôi trong suốt
hai mươi phút.
Trong
suốt cuộc tấn công bằng những lời lẽ gây sốc đó, tôi
phải đấu tranh với chính mình. Tôi phải tự lý giải
với bản thân để cản ngăn sự tức giận có thể phát khởi.
Tôi có thể thấy rằng người đàn ông này đang ở trong trạng
thái tâm bấn loạn, và tôi đã tự nhủ, “Tôi biết người
này có bản chất hiền lành. Chúng tôi đã từng có những
liên hệ tốt đẹp. Chắc chắn là ông ta đã bị những
người chống đối tôi đầu độc để nói năng như thế.”
Tôi cũng quán chiếu rằng tôi đã có nhiều cơ hội để phát
triển tâm linh và văn hóa mà người kia thiếu sót. Tôi nhớ
lại rằng ông ta chỉ có học vấn tiểu học, rất ít khả
năng và cũng ít quan tâm đến sự rèn luyện tâm linh. Bằng
cách đó, tôi đã cố gắng trải tâm từ bi đến cho ông và
cũng đầy lòng biết ơn rằng nhờ công phu tu tập khiến tôi
khó lòng nói năng hay hành động giống như ông ta đang làm.
Tôi
cũng quán chiếu về nội dung của vấn đề đang xảy ra. Tôi
nghĩ rằng nếu tôi mở lời chống đối lại ông, thì những
người ủng hộ tôi sẽ đứng lên bênh vực tôi, và buổi
họp có thể sẽ biến thành một cuộc ấu đả lẫn nhau.
Tôi thấy nhiều người trợn mắt lên, cau có nhìn người
kia và nhấp nhỏm trên ghế ngồi. Tôi cảm nhận được sự
đau lòng của họ, đặc biệt là thân quyến tôi. Tôi là bậc
trưởng bối trong gia đình –là người anh, cậu, ông chú,
và ông cố - và tôi được tiếng là một vị tu sĩ hiền
từ. Dĩ nhiên, gia đình tôi rất thương xót và cảm thấy
phải bảo vệ tôi. Tôi biết rằng nếu tôi tỏ vẻ bị tổn
thương hay bực tức bởi những gì người này nói, người
thân của tôi sẽ khởi tâm sân hận cũng như những trạng
thái tâm bất thiện khác. Họ còn có thể tấn công người
đàn ông này. Vì thế tôi tự nhủ: “Giờ tôi phải thực
hành chánh niệm, kiên nhẫn và hiểu biết để mang hòa bình
đến cho buổi họp này.”
Tôi
thiết lập chánh niệm bằng cách chú tâm vào hơi thở. Khi
những sự đối đầu như thế này xảy ra, điều quan trọng
là ta cần dừng lại và hít thở sâu trước khi phản ứng
–có lẽ hai phút hít thở sâu, hoặc là ba mươi cái hít vào
và ba mươi cái thở ra. Sự dừng lại này cho ta thời gian
để bình tĩnh lại và thanh tịnh tâm, để ta có thể nói
một cách từ tốn, thay vì nỗi nóng.
Cuối
cùng, người đàn ông hình như đã dốc hết nỗi long nên
ngưng nói. Mọi người đều căng thẳng. Tất cả đều hướng
về tôi. Bằng một giọng nhẹ nhàng tôi nói, “Người này
đã từng là bạn của tôi. Ông là một thí chủ luôn hỗ
trợ cho chùa, đã làm được nhiều việc tốt và ích lợi.
Ông ấy cũng biết tôi đã làm gì suốt bao năm nay cho chùa.
Tuy nhiên hôm nay, ông ấy hình như thất vọng, bực tức, và
có thể không cảm thấy bình tĩnh. Do đó tôi cảm thấy cần
cầu an cho ông và cho tất cả mọi người.”
Tôi
yêu cầu tất cả chấp tay cầu nguyện để tỏ lòng kính
trọng Đức Phật bằng cách nói ba lần, “Chúng con đảnh
lễ Đức Thế Tôn, bậc chánh đẳng chánh giác, bậc hoàn
toàn giác ngộ.” Đó là cách chúng tôi thường làm khi bắt
đầu các nghi lễ nghiêm trang. Từ lúc đó, do uy lực của
truyền thống, không ai còn có thể mở lời tranh cãi hay bày
tỏ bất cứ ý kiến chống đối nào nữa, vì không muốn
tỏ ra bất kính đối với Đức Phật. Rồi tôi hướng dẫn
cả nhóm thọ năm giới, để phấn khích tinh thần họ lên
và để chắc rằng mọi người đều nhớ đến những lời
Phật dạy về hành động không tổn hại, chân thật. Cuối
cùng, tôi tụng một bài kinh cầu an dài, và khi chấm dứt,
tôi nói, “Giờ thì các bạn có thể về nhà. Cuộc họp đã
chấm dứt.” Và đó là kết thúc của câu chuyện. Nhiều
năm sau, người đàn ông đó vẫn giữ thái độ lạnh lùng
đối với tôi, nhưng sau này tôi có cơ hội giúp đỡ ông
khi ông trải qua nhiều giai đoạn khó khăn trong đời. Từ
đó đến nay, ông ta vẫn thân thiện với tôi và luôn bày
tỏ lòng biết ơn và kính trọng.
Chánh
niệm chính là chìa khóa giúp tôi đối phó một cách êm thấm
với hoàn cảnh khó khăn đó. Bạn cũng có thể dùng phương
pháp này. Đôi khi tôi nghe người ta biện minh rằng sự việc
xảy ra quá nhanh đến nỗi “ngay với tâm chánh niệm”, họ
cũng không thể kiểm soát được hành động hay lời nói của
họ. Nói rằng “ngay với tâm chánh niệm” mà vẫn hành động
như thế là không đúng. Có lẽ tâm chánh niệm của họ quá
yếu hay đã bị chế ngự bởi lòng tham, sân, hay si. Vì theo
định nghĩa, chánh niệm giúp ta kiểm soát những gì ta nghĩ,
hành động như thế nào và nói những gì. Bạn không thể
chưởi mắng ai một cách đầy chánh niệm, lạm dụng rượu
chè một cách đầy chánh niệm, hay phạm những tội tà dâm
một cách đầy chánh niệm. Nếu thực sự có chánh niệm,
ta không thể nào làm những việc như thế!
Vì
thói quen đã huân tập của chúng ta quá mạnh, bất cứ khi
nào ta mở miệng, lời nói dường như đã tuôn trào. Có thể
bạn không ý thức rằng khi nói ta đã tổn hao biết bao năng
lượng. Với tâm chánh niệm, ta có thể dừng lại sự tổn
hao này và tìch trữ năng lượng. Và chúng ta có thể
sử dụng năng lượng được tích lũy này để phát triển
tuệ tri vào trong bản chất của các thói quen của ta. Sử
dụng năng lượng này như là một nguồn nguyên liệu, chúng
ta có thể tự soi lại mình trong lúc hành thiền, xem xét lại
các hành vi của mình, và nỗ lực rèn luyện tâm thêm nữa.
Tuy
nhiên khi chúng ta để năng lượng bị dồn nén này phát ra
mà không có chánh niệm, thì chúng thường nổ tung, giống
như cái nút đậy bình. Tôi thấy những điều này thường
hay xảy ra ở cuối các khóa tu thiền. Chỉ vài phút trước
đó thôi, mọi thiền sinh đều hoàn toàn im lặng, ngồi yên
tĩnh hay di chuyển nhẹ nhàng, chậm rãi. Rồi ngay giây phút
giới giữ im lặng của khóa tu được chấm dứt, thì bùng
nổ bao tiếng nói. Trận lũ chuyện trò, đối thoại tiếp
tục hàng giờ hay hơn nữa, cho đến khi tất cả mọi năng
lượng tích trữ được đã tiêu hao hết. Khóa tu càng dài
thì người ta càng trở nên ồn ào, càng dễ dãi, trừ khi
họ nỗ lực để duy trì sự chánh niệm trong lời nói.
Đối
trị duy nhất cho tà ngữ phải là một liều thuốc chánh niệm
cực mạnh –không chỉ trong các khóa tu, hay khi bạn đang ở
trong một hoàn cảnh thử thách đầy khó khăn, nhưng phải
là suốt đời bạn. Chánh niệm về Chánh Ngữ sẽ mang lại
hạnh phúc cho bạn. Tôi bảo đảm điều đó.
TÓM
LƯỢC VỀ CHÁNH NGỮ
Đây là những điều tóm lược để ngăn cản khổ đau bằng phương cách của Chánh Ngữ:
-Chánh ngữ có nghĩa là không được nói dối, không nói lời thô lỗ, cộc cằn và phù phiếm.
-Nói dối bằng cách im lặng thì vẫn là nói dối.
-Nói lời thâm độc là loại ngôn ngữ phá hoại tình bằng hữu của người khác hay làm tổn hại đến thanh danh họ.
-Tấn công bằng lời nói, nói mỉa mai, thô tục, giả dối, chỉ trích hạ nhục quá đáng, tất cả đều thuộc loại lời nói thô lỗ, cộc cằn.
-Lời nói thô lỗ, cộc cằn làm tổn thương người khác và hạ thấp phẩm giá của người nói.
-Nói chuyện người khác, nói chuyện phù phiếm thường dẫn đến tranh cãi, hiểu lầm, làm mất thời gian và khiến tâm bấn loạn.
-Tất cả mọi lời nói không xuất phát từ tâm xả, với tình thương, và lòng bi mẫn đều tai hại.
-Một cách để xét xem bạn có sử dụng Chánh Ngữ hay không, là dừng lại và tự hỏi trước khi nói: “Điều này nói có đúng không? Điều này nói có tử tế không? Điều này nói có ích lợi không? Có làm hại ai không? Có đúng lúc để nói điều đó không?”.
-Sử dụng chánh niệm để củng cố thêm quyết tâm không nói điều gì gây tổn hại và chỉ nói những lời nhẹ nhàng, đã được chọn lọc có thể mang lại sự hòa hợp cho mọi người trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào.