Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tam giải thoát môn

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 6976)
Tam giải thoát môn

SỨ MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP. HỒ CHÍ MINH 2010

Tam giải thoát môn

Đây là một đề tài dành cho những người đang công phu thiền tập. Đó là ba cánh cửa giải thoát, từ chuyên môn nhà Phật gọi là “Tam giải thoát môn”, tức là ba phương pháp thiền quán đạt đến giải thoát của Phật giáo phát triển. Nếu so sánh với Tam Pháp Ấn của Phật giáo nguyên thủyVô Thường - Khổ - Vô ngã, hay trong luận tạngVô thường - Vô ngã - Niết bàn thì ba cánh cửa này có ý nghĩa rất sâu xa. Đây cũng là ba vấn đề hết sức quan trọng và lại rất trừu tượng, nên nếu công phu thiền quán của chúng ta còn kém cỏi, nói cách khác, nếu chúng ta còn nhiều phiền não khổ đau quá, chúng ta sẽ khó lòng nắm bắt được.

 Tam giải thoát môn gồm: Không môn, Vô tướng môn, Vô tác môn.

 1. Không môn

Đó là thấy tất cả các pháp đều không thực thể. Vì sao trong nhà Phật, cái gì cũng cho là không hết? Tất cả kinh điển Đại thừa trong đó có 600 quyển Bát Nhã, cho đến những bộ luận tiểu thừađại thừa cũng nhầm làm sáng tỏ lý không. Nhưng tại sao không nói mà lại nói không? Trong cuộc đời chúng ta thấy khổ vì bất cứ cái gì chúng ta cũng cho là thật. Vì cho là thật nên chúng ta muốn nắm bắt, và ý niệm muốn nắm bắt đó, nếu thỏa mãn thì thêm tham, mà không thỏa mãn thì lại sân. Như vậy, từ chỗ chấp có các pháp (Si), mà chúng ta hoặc tham hoặc sân. Từ chỗ chấp cóchúng ta thêm đau khổ, từ chỗ chấp có mà phải đi vào các cõi để thọ sanh. Thọ sanh trong mấy mươi năm, tuy chỉ một kiếp phù sinhcon người vẫn cảm nhận nhiều sự khổ hơn vui.

Giờ đây, nói đến không là để chúng ta không chấp. Ví dụ như, nếu chúng ta thấy thân không thật, mà phải thấy một cách thâm nhập, một cách sâu sắc, thì khi người khác chửi ta, ta không thấy giận, khi người khác khen ta, ta cũng không tự đắc tự hào. Vì vậy, người có thâm nhập được lý không, thì đối với tất cả mọi cảnh ngộ, họ đều giữ tâm như đất. Từ đó suy ra cái đạo lực, cái định lực của mỗi người. Mỗi buổi sáng sau khi thức dậy, chúng ta nên tự nghiệm, trong suốt ngày qua chúng ta đã làm được gì, chúng ta đã tự tại khi tiếp duyên xúc cảnh được bao nhiêu phần. Điều này cần đến sức nội quán của chúng ta, nghĩa là tự kiểm nghiệm lại mình. Nhiều khi chúng ta nói vượt quá chỗ chúng ta làm được, điều này khiến ta không được an ổn chút nào hết.

Ở đây, cũng cần chú ý một điều: Khi chúng ta nhìn đóa hoa trước mặt và cho nó là không, vì nó được hợp thành bởi nhiều cánh hoa, nếu chúng ta tách ra từng cánh thì cuối cùng sẽ không còn đóa hoa nữa. Như vậy, đóa hoa không có thực thể, cái ý niệm về đoá hoa chỉ là con đẻ của ý thức, đoá hoa chỉ có trên giả danh giả tướng vì là do duyên hợp. Cái không vì thế có nghĩa là không có thực thể, chứ không phải phủ nhận sự hiện hữu của đoá hoa. Mặt khác, khi thiền quán, chúng ta từng bước quán chiếu thấy các pháp đều không, là do chúng ta chia chẻ từng chi tiết của sự vật mà nhận ra tính duyên hợp giả có của chúng, chia chẻ mới thấy các pháp là không, thì lúc đó đã có ý thức xen vào. Đó chỉ là cái thấy của “Tích không quán” chứ chưa thấy được “Đương thể tức không”. Khi nhìn đóa hoa thấy ngay là không, không cần quán mới thấy, đó là mức độ không chúng ta cần nói ở đây. Cho nên, không môn là cái thấy của trực giác chứ không phải của suy luận. Khi mà cái thấy còn là suy luận, nghĩa là còn có tâm năng quán trên cảnh sở quán thì cái thấy vẫn còn là phiến diện. Đóa hoa tự nó không nói lên điều gì, nhưng nếu chúng ta thấy hoa xấu hay hoa đẹp, thực hay giả, đó là do ý thức của chúng ta áp đặt lên nó. Thật sự, hoa khi chưa nở đã là không, đang nở cũng là không, mà lúc tàn rụng cũng là không. Cả ba giai đoạn: đã, đang và sẽ đều là không. Không này không phải là đối với , nghĩa là không thuộc nhị biên phân biệt, mà ngay nơi các pháp vốn là không. Đây là hành vi của Bát Nhã, cái thấy của trí tuệ chứ không phải cái thấy của suy luận, của ý thức. Ví dụ: Khi suy luận, ta phân biệt người thân kẻ sơ, nhưng khi phăng đến tận cùng, cái gọi là thân sơ ấy chẳng qua là sự chấp ngã: Người có ơn nghĩa với ta gọi là thân, kẻ không dính dáng về tình cảm gọi là sơ. Hành vi ngã chấp này, rốt cuộc là do chấp có.

Lúc thiền tập chúng ta có thể nhận biết rằng, khi buông bỏ hết vọng tưởng, tâm hoàn toàn lặng lẽ, với tâm lặng lẽ đó mà vẫn biết, vẫn thấy tất cả các pháp một cách tự nhiên. Đó là cái thấy không qua niệm khởi, cái thấy của Bát Nhã, đó là không. Nếu chúng ta chưa biết thiền định là gì, tâm sẽ suy nghĩ lung tung, không tự chủ được từng niệm, nên thấy cái gì cũng bằng niệm hết. Nếu cố gắng gán ghép, tưởng tượng ra một cái “không” ở nơi cái “hoa”, đây là một điều hết sức sai lầm. Nếu có ý niệm “không” trong cái “hoa” thì ở đây sẽ có hai cái: Cái khôngcái hoa. Cũng như khi nghe giảng về Phật tánh, chúng ta lại tưởng tượng có Phật tánh trong thân năm uẩn. Những trò chơi phân ranh ấy của ý thức, làm chúng ta không hiểu được lẽ thực của tất cả các pháp.

câu chuyện “Vua Sở mất gươm”: Một hôm vua đi săn, đánh rơi mất gươm báu. Khi về triều vua mới phát hiện là mất gươm quý, Vua bèn ra lệnh cho quần thần đi tìm. Sau đó mới hay có một người nước Sở đã nhặt được gươm. Vua bèn phán rằng: “Thôi đừng truy cứu nữa, bởi vì vua nước Sở mất gươm, người nước Sở được gươm”. Khi việc này lan truyền trong nhân gian, các môn đệ của Đức Khổng Tử hỏi Ngài : “Nếu ở địa vị Ngài, Ngài sẽ xử sự ra sao?”, Đức Khổng Tử trả lời : “Khổng Khâu sẽ bảo là, người mất gươm, người được gươm”. Chúng ta ngẫm xem tầm nhìn của các Ngài như thế nào? Đối với vua Sở, tuy mất gươm nhưng người được gươm là người cùng nước Sở, nên Vua không truy cứu. Như vậy cái ngã của vua đã chan hòa khắp cả mọi người trong nước mình, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi nước Sở thôi. Còn Đức Khổng Tử, tầm nhìn của Ngài xa hơn, thoáng hơn, nên cái thấy của Ngài bao trùm tất cả loài người.

Đối với những vị đã nhận được lý không, sẽ thấy mọi pháp đều bình đẳng, tầm nhìn của các vị sẽ trùm khắp pháp giới. Khi nhìn sự hiện hữu của bất cứ pháp nào bằng trực giác bát nhã, thấy toàn bộkhông, thì cái thấy đó đã thuộc về pháp giới rồi. Tâm tính lúc đó là Pháp giới tính, cho nên cái thấy này càng siêu việt hơn. Đó là lý do các vị Bồ tát khi thâm nhập được cái thấy này, đã lăn xả vào các cõi để độ sanh. Các Ngài có đời sống khác hơn người thường, sống bằng thần lực, bởi vì khi thấy được cái không, lập tức có sự bình an nội tâm do cái thấy không phân ranh, không chấp thủ, không đảo điên, không vọng tưởng. Còn chúng ta tu mà không thấy, nên càng tu lại càng tham sân nhiều. Đó là vì chúng ta lấy cái ngã mà tu, chưa thấy đường đi đã vội cất bước, nên phiền não cứ còn hoài.

Một điểm cần lưu ý, chúng ta đừng bao giờ nghĩ cái không ở đây là cái không đoạn diệt. Đức Phật không cố tình cho chúng ta thấy cuộc đời này là không. Không phải khi đã ngộ đạo, các Ngài không còn thấy cái gì trước mắt, nhưng vì có mà diễn tả không đến, nên gọi là Diệu Hữu; vì không mà không phải là không ngơ, nên gọi là Chơn Không. Sắc mà thấy đúng mức thì không phải là cái sắc trên giả danh, giả tướng, mà là chơn sắc, diệu sắc. Đây là cái thấy rất tự tại, cái thấy không lệ thuộc nhị biên, cái thấy bằng trực giác mà đôi lúc chúng ta có thể kiểm nghiệm được khi tâm hoàn toàn an định, lặng lẽ.

2. Vô tướng môn

Đây là cánh cửa giải thoát thứ hai. Vô tướng là gì? - Khi chúng ta nhìn đóa hoa, biết nó là duyên hợp hư giả, do nhiều yếu tố không phải nó hợp lại mà thành. Hoa không có tự thể riêng biệt, không có tướng nhất định, không có tính đồng nhất, nên nó vô tướng.

Tất cả các pháp cũng như thế, hoàn toàn lệ thuộc vào các duyên, không có tướng mạo nhất định. Ví dụ: nước chứa ở trong ly được gọi là ly nước, chứa ở trong chén thì gọi là chén nước. Hình tướng của ly nước khác hình tướng của chén nước, nhưng bản chất của nước là một. Như vậy, đồng là nước nhưng tuỳ duyên mà có hình tướng khác nhau. Nước không có tướng nhất định nên gọi là vô tướng. Ai thấy được cái vô tướng này, người đó sẽ nhận được sự uyển chuyển sinh động trong từng giây phút của cuộc sống. “Chư pháp tùng bất lai, thường tự tịch diệt tướng”, nhưng “Xuân đáo bách hoa khai, Hoàng oanh đề liễu thượng”. Tuy tướng là tịch diệt, nhưng tuỳ duyên mà có hoa nở và chim hót trên cành. Chim hót vẫn ở trong chỗ tịch lặng, hoa nở cũng ở trong chỗ tịch lặng. Vì vậy, khi thấy hoa đào nở, Thiền sư Linh Vân liền tức khắc nhận ra cái vô tướng đó. Thấy được như thế là trở về với Phật tánh của chính mình. Và lúc ấy sẽ có một sự uyển chuyển sinh động trong cuộc sống. Các vị Bồ tát lập phương tiện giáo hoá chúng sanh cũng nhờ cái thấy uyển chuyển sinh động này. Còn người nào có cái thấy giáo điều, cứng nhắc, khô chết, thì rõ ràng người ấy nhốt chân lý vào trong một khuôn khổ cố định. Thực ra, chân lý làm gì có khuôn khổ. Nếu chân lý có khuôn khổ, thì Bồ tát Quán Thế Âm đã không thị hiện rất nhiều thân tướng để tuỳ duyên hoá độ chúng sanh.

Chúng ta đã biết, Đạo Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn. Nếu ai bảo rằng pháp tu của mình là đệ nhất, thì người ấy chưa hiểu gì về phật pháp. Trong phật pháp, khi còn ở cửa ngõ phương tiện thì còn có sai khác, nhưng đến cứu cánh thì tất cả chỉ là một. Đức Phật đã từng nói: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị mặn, trong giáo pháp của Như Lai cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”. Người có trí không bao giờ cố chấp, đem một khuôn khổ áp đặt mọi người phải theo mình. Chính vì không cố chấp, không hành xử một chiều nên đối với họ thuận cảnh hay nghịch cảnh đều là thắng duyên. Đối với người chưa biết tu, thuận cảnh làm cho họ đam mê, nghịch cảnh làm cho họ sân hận, nên cả hai đều là chướng ngại. Còn đối với người biết tu, thuận hay nghịch đều tốt, cho nên đối với Đức Thế Tôn, chính Đề Bà Đạt Đathiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài. Ngài đã đối xử với Đề Bà Đạt Đa cũng như Ngài A Nanthị giả, hoàn toàn bình đẳng, không hơn không kém.

Từ cái thấy vô tướng này, chúng ta soi rọi được rất nhiều vấn đề trong cuộc sống. Vô tướng ở đây không có nghĩa là không có tướng, mà là nơi tướng lìa tướng. Đối với các pháp, không thực sự có hiện hữu, mà chỉ là hiện hữu một cách giả tạm. Thấy một cách thấu suốt như vậy chúng ta sẽ được bình an. Cái gọi là chết chỉ là ảo tưởng do ý thức bày đặt ra, chứ không có cái chết thật. Một đợt sóng trồi lên mặt đại dương ta cho đó là sống, khi nó chìm xuống thì cho là chết, thật ra đợt sóng ấy chưa từng sống mà cũng chưa từng chết, nếu sóng nhận ra nó chính là nước. Đợt sóng năm uẩn trên biển chơn như này cũng vậy, nếu thấy được cái vô tướng của thân, ta sẽ thấy cái sống hay cái chết cũng chỉ đều trên giả danh giả tướng.

Tóm lại, một pháp không có tự thể riêng biệt, không thể đứng riêng biệt mà tồn tại nên nó là không. Vì không nên nó vô tướng.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật đã dạy: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”([i]). Khi ta thấy được sự thay hình đổi dạng liên tục, trong từng sát na nơi các pháp, ta mới thấy được chỗ phi tướng. Các pháp này là do duyên hợp giả có nên phi, các pháp chẳng phải thật là nó nên phi. Chúng ta đừng nghĩ rằng Như Lai là ông Phật xi măng ngồi trên bệ. Cố nhiên, chúng ta phải quý kính Ngài, xem Ngài như đang hiện tiền trước mặt để ta đảnh lễ, để tu theo Ngài. Nhưng nếu có một ai trong chúng ta nghĩ Như Lai với một ý nghĩ không thận trọng như vậy là lầm. Khi ta nhìn đoá hoa, cái thấy đã đến tác động trên hoa, đó là LAI; nhưng thấy mà không sanh tâm phân biệt đẹp xấu, ưa ghét thì đó là NHƯ. Nghe tiếng chim hót, cái nghe tác động đến tiếng chim nên LAI, nhưng không sanh tâm phân biệt nên NHƯ. Các căn tiếp xúc với các trần khác cũng vậy. Do đó, LAI là dụng của NHƯ, NHƯ là thể của LAI. Chúng ta từ NHƯ mà đến (Lai), nhưng quên NHƯ, nên cứ mãi lăn lộn, tạo nghiệp mãi trong ba cõi sáu đường, còn Đức Thế Tôn đã triệt chứng chỗ này nên gọi Ngài là NHƯ LAI.

 

3. Vô tác môn.

Khi hiểu sâu xa về Không, về Vô tướng, chúng ta sẽ càng dễ hiểu về Vô tác. Vô tác môn là cửa không tạo tác. Nếu thấy bằng tâm Vô tác, liền tức khắc được giải thoát. Đây là cửa giải thoát thứ ba.

Vô tác còn gọi là Vô nguyện, nghĩa là không mong cầu, không ham muốn. Tâm hoàn toàn vắng lặng đối với cuộc đời này, tuỳ duyên mà sống, tuỳ duyênthọ dụng. Không chấp thiện ác, đúng sai, không chấp nhị biên phân biệt. Sống nhưng không có thức khởi trong đó, nên tuy thấy biết rõ các pháp mà không tạo tác thêm nghiệp gì nữa. Như vậy, Vô tác là do thấy các pháp là Không, là Vô tướng nên tâm không dính mắc, không tạo tác, dù cũng làm tất cả mọi việc. Các vị A la hán, Bồ tát cũng làm lợi ích cho chúng sanh, cũng hoạt động sinh hoạt như chúng sanh, nhưng không tạo nghiệp, vì tâm các Ngài là Vô tác. Đã không tạo nghiệp thì không có kiết sử, mà không có kiết sử thì lấy gì dẫn mình đi luân hồi? Bị dẫn đi luân hồi là khi còn kiết sử, còn nghiệp. Nếu nghiệp thiện thì sanh nơi cõi lành, nghiệp ác phải đọa ba đường khổ là địa ngục-ngạ quỷ-súc sanh. Ở đây không vướng các nghiệp dù thiện hay ác, nên giải thoát khỏi sinh tử luân hồi

Một khía cạnh khác của Vô tác đối với trường hợp của các vị Bồ tát. Các Ngài không tác nghiệp nên không còn động cơ tái sanhkiếp sau. Nhưng vì bản nguyện độ sanh, nên các Ngài tùy theo nguyện lực của mình, thị hiện nơi các cõi để tuỳ duyên hoá độ.

Khi tu nghĩa là phải tập. Khi có cảnh thuận hay nghịch đến với ta, ta phải để tâm xem thử động tĩnh thế nào. Đó là quán tâm như tâm, các vận hành của tâm ta phải thấy rõ và làm chủ nó. Ta phải thấy một cách quán triệttoàn bộ những vọng niệm chỉ là những đợt sóng trên mặt biển tâm, cũng như sóng trên mặt đại dương, không cần diệt vọng mà chỉ cần liễu vọng, vì có tâm diệt vọng cũng như muốn lấy nước để trừ sóng, đó là cái thấy của Nhị thừa chứ không phải của Phật, Bồ tát.

Một vấn đề khác nữa, khi tâm đã Vô tác thì không còn động cơ tái sinh. Mà khi không còn động cơ tái sinh thì không còn đặt một đối tượng sở chứng sở đắc nào. Các pháp hữu vi đã là Không, là Vô tướng, thì cái gọi Niết bàn cũng không có tướng mạo. Niết bàn không phải là một cảnh giới để mình bơi lội trong đó. Nói theo nghĩa thông thường, khi ta cầm một vật gì thì vật ấy không phải là ta. Tương tự như vậy, nếu ta chứng được cảnh Niết bàn, thì Niết bàn ấy đã ở ngoài ta rồi. Niết bàn ở đây không phải là cái bị biết, mà là viên dung cả cái hay biết và cái bị biết, không phân ranh được. Khi ta thấy đoá hoa là đã biết mắt ta sáng, không còn tìm con mắt của ta nữa. Khi ta biết những đợt sóng đều là nước, thì thân năm uẩn này đã là Niết bàn, không cần tìm Niết bàn ở đâu nữa. Đó là tinh thần Vô tác.

Chúng ta đã từng nghe bài kệ của Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn trình cho Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch:

“Khứ niên bần vị thị bần,

Kim niên bần thỉ thị bần.

Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa,

Kim niên bần chùy dã vô”([ii]).

Đây là một thông điệp về sự nghèo. Cái nghèo của Ngài Hương Nghiêm chỉ có ở các vị A la hán trở lên, các vị đã đạt đến Vô sanh, tức là Vô tác.

Cái nghèo ở đây ám chỉ điều gì? Thế nào là dùi? Thế nào là đất? - Đất là chỉ cho sáu trần cảnh bên ngoài. Dùi tượng trưng cho cái tâm phân biệt hay biết. Năm xưa tuy nghèo, nhưng đối duyên xúc cảnh vẫn còn phân tâm trên cảnh, nên còn có đất cắm dùi. Năm nay, tâm năng biết đã biến thành trực giác, khi thấy cảnh không còn gá trên cảnh để sanh tâm, nên nghèo không còn đất cắm dùi. Nói cách khác, năm xưa thấy cảnh vẫn còn có tâm sở hữu, chấp trước, còn dính mắc, dù là dính mắc với cái thiện hay với trình độ tri thức của mình về phật pháp, nên dù nghèo nhưng vẫn chưa thật nghèo. Năm nay nghèo mới thật nghèo, nghĩa là Vô tác, làm tất cả mà không kể công, làm mà không có cái ngã xen vào. Đây là việc làm của các vị Bồ tát, là hành động không công đức, tức đạo đức vô hành. Bồ tát luôn luôn làm mọi việc vì người, luôn quên mình vì lợi ích của người khác. Mà trong khi quên mình để phục vụ, thì lúc đó các Ngài đã sống viên mãn với cái thật. Còn chúng ta thì thường chỉ có ý thức về mình, ít nghĩ đến người khác, nên chúng ta là những con người đau khổ. Cho nên, người nào tập quên mình bao nhiêu thì người đó sẽ có sự bù đắp vô tận vô biên. Cũng vì thế, tu không phải là sự mất mát như nhiều người lầm tưởng, bởi vì khi buông tất cả, ta sẽ được tất cả.

Tóm lại, Không-Vô tướng-Vô tác là ba cửa giải thoát, nhưng không nhất thiết phải đi cả ba cửa, chúng ta chỉ chọn một cửa thích hợp cũng vào được trong nhà. Thật ra, đây là ba khía cạnh của một vấn đề, nên nếu thâm nhập được một cửa, thì có thể thâm nhập luôn hai cửa kia.



[i] “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, liền thấy được Như Lai”

[ii] Tạm dịch: “Năm xưa nghèo chưa thật nghèo / Năm nay nghèo mới thật nghèo / Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi / Năm nay nghèo cả cái dùi cũng không”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3960)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Thi Ca Nguyễn Du - HT Thích Như Điển
(Xem: 3134)
Phật Giáo Việt Nam Tại Châu Âu - HT Thích Như Điển
(Xem: 7120)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 5663)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc.
(Xem: 3987)
Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ - Thích Nữ Giới Hương. Hồng Đức Publishing. 2020
(Xem: 3110)
Tác phẩm “Xây dựng hạnh phúc gia đình” của Hòa thượng Thích Thắng Hoan là cẩm nang hướng dẫn xây dựng hạnh phúc cho người Phật tử tại gia.
(Xem: 12218)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5164)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch.
(Xem: 3896)
Tư tưởng Phật giáo trong văn học thời Lý bản PDF - Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 9253)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 7521)
Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác - hồi ký về một ngôi chùa đã đi vào lịch sử Phật giáo tỉnh Quảng Nam. Viên Giác Tùng Thư 2019 - Nhà xuất bản Liên Phật Hội
(Xem: 27154)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
(Xem: 5958)
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêmtọa thiền tại Chánh điện.
(Xem: 5678)
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
(Xem: 6190)
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đích tu hoặc xuất gia là cầu giải thoát sinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
(Xem: 5740)
Sống Trong Từng Sát Naphương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.
(Xem: 5520)
Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma. Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7861)
Mối Tơ Vương của Huyền Trân Công Chúa (Phóng tác lịch sử tiểu thuyết vào cuối đời Lý đầu đời Trần) HT Thích Như Điển
(Xem: 4800)
Nguyệt San Chánh Pháp Số 84 Tháng 11/2018
(Xem: 12196)
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhục thành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoátbi tâm giải thoát.
(Xem: 21891)
Tác giả: Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu
(Xem: 6532)
Cảm Đức Từ Bi - tác giả Huỳnh Kim Quang
(Xem: 7493)
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
(Xem: 6769)
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
(Xem: 6316)
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tử thân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
(Xem: 8595)
THIỀN QUÁN VỀ SỐNG VÀ CHẾT - Cẩm Nang Hướng Dẫn Thực Hành - The Zen of Living and Dying A Practical and Spiritual Guide
(Xem: 6118)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 5725)
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
(Xem: 14307)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20328)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 6964)
Tác phẩm nầy chỉ gởi đến những ai chưa một lần đến Mỹ; hoặc cho những ai đã ở Mỹ lâu năm; nhưng chưa một lần đến California...
(Xem: 6877)
Từ Mảnh Đất Tâm - Huỳnh Kim Quang
(Xem: 6433)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 6529)
Chung trà cuối năm uống qua ngày đầu năm. Sương lạnh buổi sớm len vào cửa sổ. Trầm hương lãng đãng quyện nơi thư phòng..
(Xem: 6048)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
(Xem: 7468)
Nước lũ từ thượng nguồn cuồn cuộn đổ về, lại thêm nước từ đập thủy điện ồ ạt xả ra. Dân không được báo trước.
(Xem: 7432)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dươnglưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoátgiác ngộ cho...
(Xem: 8581)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn...
(Xem: 6512)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình...
(Xem: 6915)
Bắt đầu vào hạ, trời nóng bức suốt mấy ngày liền. Bãi biển đông người, nhộn nhịp già trẻ lớn bé. Những chiếc...
(Xem: 10526)
Phật giáo ra đời từ một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại - Ấn Độ - và nhanh chóng phổ biến tại các nước phương Đông...
(Xem: 19944)
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhậngiáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 30263)
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
(Xem: 16254)
Tập sách do Minh Thiện và Diệu Xuân biên soạn
(Xem: 19704)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 11096)
Hạnh Mong Cầu (sách PDF) - Lê Huy Trứ
(Xem: 14412)
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duy sáng tạo mà là đọc những chứng tích lịch sử thời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giả xuyên qua những chặng đường thời gian...
(Xem: 7823)
Báo Chánh Pháp Số 48 Tháng 11/2015
(Xem: 10514)
Nguyệt san Chánh Pháp Tháng 10 năm 2015
(Xem: 7978)
Báo Chánh Pháp Số 46 Tháng 9/2015 - Chuyên đề Vu Lan - Mùa Báo Hiếu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant