GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ MẬT TÔNG Nguyên Minh Cho đến nay, hầu chưa có một
công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về
lịch sử Mật tông được
công bố. Những khó khăn về mặt sử liệu có thể làm nản lòng ngay cả các nhà
nghiên cứu nhiệt tình và nghiêm túc nhất, bởi họ gần
như không biết phải bắt đầu từ đâu, và cũng không có gì nhiều ngoài những mảnh vụn rải rác trong các
truyền thuyết, hoặc những trích dẫn không mang tính
hệ thống từ lời dạy của các bậc thầy
Mật tông trước đây và hiện nay.
Dĩ nhiên, những điều đó
chưa bao giờ được xem là những cứ liệu xác đáng theo cách nhìn của các
học giả phương Tây, và càng không thể là nền tảng cho những
nghiên cứu sâu hơn về mặt
lịch sử. Hơn thế nữa,
vấn đề nguồn gốc hình thành hay quá trình phát triển của
Mật tông chưa bao giờ là
vấn đề quan tâm của các
vị đạo sư thuộc
tông phái này. Vì thế, họ để lại rất ít hoặc gần
như không có gì
liên quan đến lịch sử tông phái. Điều mà các vị thực sự
quan tâm chỉ là những gì mà chính
bản thân họ cũng như những
đệ tử mà họ dẫn dắt phải
đạt được trong quá trình
tu tập. Nhìn từ góc độ nhu cầu
tâm linh của người
tu tập thì một
quan điểm như thế là
hoàn toàn đúng đắn và rất đáng
trân trọng. Hơn thế nữa, chính sự
nhấn mạnh vào khía cạnh
thực hành tu tập là
yếu tố quan trọng nhất trong sự
tồn tại của
Mật tông qua các
thời đại, bất chấp mọi
biến động về kinh tế, chính trị và
xã hội.
Chúng ta không
nghi ngờ gì về việc các
hành giả Mật tông không cần đến những
hiểu biết về
lịch sử tông phái mà
vẫn có thể đạt được những kết quả
tiến triển trong việc
tu tập,
miễn là họ tìm được một bậc thầy
chân chính và có những
nỗ lực tu tập đúng hướng.
Tuy nhiên, đó không phải là sự
may mắn mà tất cả
mọi người đều có được. Điều thường xảy ra hơn là có rất nhiều người
quan tâm đến
Mật tông nhưng lại
hiểu biết rất ít, hoặc thậm chí sai lệch về
tông phái này. Điều đó có thể dẫn đến
vô số những
nhận thức và
hành vi sai lầm đáng tiếc cho
bản thân cũng như cho
mọi người chung quanh, vì
chúng ta đều biết là khi một
sai lầm không được
sửa chữa thì
chắc chắn nó sẽ dẫn đến rất nhiều
sai lầm khác.
Khác với giai đoạn trước đây luôn được
giữ kín trong núi cao rừng rậm với những bậc thầy
ẩn mình hoàn toàn không giao tiếp với
thế giới bên ngoài, ngày nay với những
phương tiện thông tin của thế kỷ 21,
Mật tông đã được quá nhiều người biết đến qua những nguồn thông tin khác nhau.
Tuy nhiên, khả năng tiếp cận những nguồn thông tin
chính xác và
toàn diện vẫn còn là điều rất hiếm khi có được. Phần lớn những ai
quan tâm đến
Mật tông,
đặc biệt là
thế hệ trẻ, chỉ có được những phần thông tin rời rạc,
phiến diện và rất nhiều khi sai lệch. Qua nhiều lần
tiếp xúc với các bạn trẻ
quan tâm đến
Mật tông, người viết những dòng này đã
nhận ra một
thực tế là có rất nhiều bạn hiểu sai về
Mật tông, và
nguyên nhân chính là vì không có được những nguồn thông tin đầy đủ và
chính xác.
Trong
tình hình đó, trước khi có được những
công trình nghiên cứu toàn diện và
đáng tin cậy về
Mật tông ra đời thì một vài
nỗ lực nhỏ hơn trong việc
giới thiệu đến quý
độc giả, nhất là các bạn trẻ, những nét
chính xác và cơ bản nhất về
tông phái này có lẽ cũng là điều
cần thiết.
Thông qua việc kể lại
cuộc đời của các vị
đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu (Cát-mã Ca-nhĩ-cư) được gọi là các vị Karmapa (Cát-mã-ba), tập sách này
hy vọng sẽ có thể
phác họa được những nét cơ bản nhất về
Mật tông và sự
tu tập hành trì của
tông phái này.
Hy vọng là qua đó người đọc sẽ có thể
nhận ra được một điều:
Mật tông hoàn toàn không phải là một
tông phái thần bí và
hoàn toàn xa cách với
giáo lý căn bản của
đạo Phật. Ngược lại, nền tảng
giáo lý Mật tông thật ra cũng không gì khác hơn chính là những điều mà
đức Phật đã từng truyền dạy.
Tuy nhiên, các bậc
đạo sư Mật tông đã có những vận dụng
sáng tạo và độc đáo để
thực hành và giảng dạy những
giáo lý ấy theo cách riêng của mình, nhưng vẫn
đảm bảo một điều là dẫn dắt người
tu tập đi đến
sự giải thoát, dứt trừ mọi khổ đau,
phiền não.
Với
mục đích như trên, việc sưu tầm và kể lại những
câu chuyện về
cuộc đời các vị
đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu trong sách này không chỉ
đơn thuần là những
câu chuyện kể. Bởi vì thông qua
cuộc đời của các bậc
đạo sư này, người đọc sẽ
tìm thấy vô số những
chi tiết, những
hình ảnh minh họa
sống động về
giáo lý Mật tông và sự
tu tập hành trì giáo lý đó. Hiểu được những điều này cũng có nghĩa là hiểu được những nét cơ bản nhất của
Mật tông qua
thực tiễn hành trì chứ không phải qua sự
diễn giải lý thuyết. Chính vì thế mà những
hiểu biết này mới thực sự là
chính xác và hữu ích.
Về mặt
lịch sử, cho dù đây chỉ là những
câu chuyện được
truyền tụng trong dòng phái, nhưng chúng là những
câu chuyện rất thật, bởi người được
tiếp nhận sự
truyền thừa gần đây nhất của dòng Karma Kagyu, vị Karmapa đời thứ 17 hiện vẫn còn đang sống như một
chứng nhân lịch sử, và sự ra đời của ngài vào năm 1985 đã được dự
báo trước một cách
chắc chắn bởi vị Karmapa đời thứ 16 trước khi vị này
viên tịch vào năm 1980. Như
chúng ta sẽ thấy qua nội dung những
câu chuyện kể, với một sự
truyền thừa sống động trực tiếp qua từng
thế hệ được kéo dài
liên tục từ đầu thế kỷ 12
cho đến nay, không ai còn có thể
hoài nghi về
tính chất có thật và sự
tái sinh của các vị Karmapa. Vì thế, những gì được ghi lại trong các
câu chuyện kể này tuy không mang
tính chất của những sử liệu
chính thức, nhưng
hoàn toàn có thể giúp
chúng ta phác họa lại những
bức tranh khá đầy đủ và
chính xác về những quãng
thời gian mà các vị đã từng
tu tập và hoằng hóa.
Về mặt
giáo lý,
cuộc đời của các vị Karmapa là những tấm gương
sống động minh họa cho chính lời dạy của các ngài, và xét cho cùng thì cũng chính là những lời dạy của
đức Phật. Thông qua những tấm gương
sống động đó, mỗi
chúng ta có thể có một sự cảm nhận và
học hỏi khác nhau, hoặc về đức
từ bi, hoặc về sự
nhẫn nhục, hoặc về sự
tinh tấn... nhưng tất cả đều có thể xem là những bài học trực tiếp không thông qua sự
diễn dịch bằng
ngôn ngữ. Đây cũng chính là điểm
đặc biệt nhất trong phương thức
truyền thừa và
giáo huấn của
Mật tông từ
xưa nay, vốn không bao giờ
phụ thuộc vào
ngôn ngữ.
Mặc dù vậy, sẽ là điều
vô cùng khó khăn cho những ai chưa từng biết đến
Mật tông khi phải
tiếp xúc ngay với những
câu chuyện đầy
tính chất kỳ bí và
sâu xa khó hiểu như thế này. Vì thế, có lẽ
chúng ta cũng nên dành đôi chút
thời gian để làm quen với một số khái niệm và
kiến thức cơ bản nhất về
Mật tông trước khi
đi vào những
câu chuyện kể về
cuộc đời các vị Karmapa.
Thật ra,
cho đến nay
chúng tôi vẫn chưa có duyên may được đọc thấy bất cứ
tài liệu nào đề cập một cách đầy đủ và có
hệ thống về
Mật tông. Vì thế, những gì được trình bày sau đây có thể sẽ mang đậm dấu ấn
chủ quan của người viết
trong suốt quá trình
tìm tòi góp nhặt và chọn lọc từ nhiều nguồn thông tin, tư liệu khác nhau. Những gì được
giới thiệu ở đây có lẽ chưa được xem là đầy đủ, nhưng
hy vọng một điều là chúng có thể giúp ích phần nào cho những ai chưa từng biết đến
Mật tông sẽ không còn thấy quá
xa lạ và khó hiểu đối với
tông phái này.
Về mặt
lịch sử, sự ra đời của
Mật tông trong dòng
lịch sử phát triển của
đạo Phật nói chung có rất nhiều điểm tương đồng với các
truyền thống Đại thừa. Không ít người đã
dựa vào sự
xuất hiện khá
muộn màng của cả
Mật tông lẫn
Đại thừa để cho rằng những phần
giáo lý này chỉ là ngụy tạo, nghĩa là
hoàn toàn không có trong
giáo lý nguyên thủy của
đức Phật mà chỉ do các
thế hệ sau này tạo ra.
Tuy nhiên, cái gọi là
lịch sử mà
chúng ta đang nói đến thật ra không phải là những gì đã từng xảy ra, mà chỉ là những gì
chúng ta may mắn biết được. Nếu
so sánh những gì
chúng ta biết được với những gì đã từng xảy ra thì thường là quá ít, và độ
chính xác cũng chỉ là
tương đối với những
giới hạn nhất định mà bất cứ nhà sử học nào cũng có thể dễ dàng
nhận ra.
Giả sử như có một nền
văn minh rực rỡ đã từng
hiện diện trên trái đất này và rồi cũng đã chìm sâu trong lòng đất, thì
chúng ta cũng không có cách gì để tái hiện,
mô tả lại điều đó
trong lịch sử.
Tuy nhiên, sự không biết của
chúng ta hoàn toàn không có
ý nghĩa phủ nhận sự
hiện hữu trước đây của nền
văn minh ấy. Và việc thông qua một số phương thức nào đó ngoài những cứ liệu
lịch sử mà
chúng ta có thể biết được ít nhiều về một nền
văn minh như thế cũng không phải là điều không thể xảy ra. Vì thế, một
thái độ thận trọng và cởi mở là
hết sức cần thiết khi tiếp cận với những khoảng trống không sao
tránh khỏi khi ngược dòng
lịch sử. Những gì chưa được biết đến hôm nay về sự hình thành của
Đại thừa hay
Mật tông hoàn toàn không thể là
lý do để
chúng ta hoài nghi về mức độ chân xác trong các phần
giáo lý đó.
Trong
chừng mực giới hạn mà các
dữ kiện đã có được hiện nay
cho phép, các nhà
nghiên cứu lịch sử đã phải
công nhận sự
hiện hữu trước đây của
đức Phật Thích-ca là một
sự thật. Điều này cũng chỉ mới xảy ra khá
gần đây, khi các nhà khảo cổ khai quật được trụ đá chôn từ thời vua A-dục (274 – 236
trước Công nguyên), tại vườn Lam-tỳ-ni (Lumbini), trên đó khắc những dòng chữ
xác nhận rằng đây chính là nơi đản sinh của
đức Phật Thích-ca.
Ngoài ra còn có nhiều trụ đá khác cũng do vị vua này tạo dựng ở nhiều
nơi khác trên lãnh thổ mà ông trị vì, trên đó khắc những lời dạy của
đức Phật. Các nhà
nghiên cứu tin rằng vua A-dục sống
vào khoảng hơn
một thế kỷ sau khi
đức Phật nhập diệt. Khoảng
thời gian này không phải là quá xa để có thể xóa mờ đi những
ảnh hưởng trực tiếp của một bậc thầy vĩ đại. Vì thế,
chúng ta có thể
tin chắc rằng những gì vua A-dục được biết về sự ra đời của
đức Phật là rất
đáng tin cậy.
Điều này dường
như không có
ý nghĩa nhiều lắm đối với những
tín đồ Phật giáo vốn đã đặt
niềm tin nơi
đức Phật từ hơn 25 thế kỷ qua, qua những lời dạy của ngài.
Tuy nhiên, từ góc độ của các nhà
nghiên cứu lịch sử thì điều này mở ra một hướng nhìn
hoàn toàn mới. Người ta bắt đầu
cảm thấy cần phải thay đổi
thái độ về những gì trước đây vẫn bị xem là
đáng ngờ. Khi một
tia sáng đã có thể lóe lên từ trong bức màn tối đen của
quá khứ hơn 25 thế kỷ, thì người ta
hoàn toàn có quyền
hy vọng về những
tia sáng khác nữa sẽ còn
tiếp tục được phát hiện. Hơn thế nữa,
tính cách hợp lý và sự
phù hợp của những gì được rút ra khi
nghiên cứu về nội dung
giáo lý Đại thừa, và
gần đây hơn là
giáo lý Mật tông, khi
so sánh với những
giả thiết về mặt
lịch sử có vẻ như càng
củng cố hơn nữa
niềm tin vào những cội rễ
sâu xa của
Đại thừa cũng như
Mật tông, vốn rất có thể đã được hình thành ngay từ thời
đức Phật còn
tại thế.
Đó là xét về mặt
lịch sử. Còn về mặt
giáo nghĩa,
chúng ta có sự
thuận lợi hơn nhiều khi
so sánh các phần
giáo lý khác nhau của
Đại thừa và
Mật tông với những gì được gọi là
kinh điển nguyên thủy. Dưới ánh sáng của những
giáo nghĩa căn bản mang
tính chất nhất quán và xuyên suốt trong mọi lời dạy của
đức Phật, không ai có thể
hoài nghi về những phần
giáo lý hoàn toàn phù hợp những
giáo nghĩa căn bản đó. Điều này đã được chính
đức Phật nói ra trong
kinh điển như một sự chỉ dạy về phương thức xác định những lời dạy của ngài. Theo đó, những
giáo nghĩa căn bản gọi là
Tam pháp ấn có thể được
sử dụng như những dấu ấn để
xác nhận một phần
giáo lý nào đó là do chính
đức Phật truyền dạy. Ngược lại, nếu một phần
giáo lý nào đó không
phù hợp với
Tam pháp ấn, điều đó sẽ có nghĩa là chúng không phải do chính
đức Phật nói ra.
Tam pháp ấn đó là
tính chất vô thường của các
pháp hữu vi (
chư hành vô thường),
tính chất vô ngã của tất cả các pháp (
chư pháp vô ngã) và
tính chất tịch tĩnh của
cảnh giới Niết-bàn
giải thoát (
Niết-bàn tịch tĩnh).
Khi được soi rọi dưới ánh sáng của
Tam pháp ấn, mọi sự
nghi ngờ về những
giáo pháp thực sự do
đức Phật truyền dạy sẽ dễ dàng tan biến,
tương tự như khi
chúng ta nhìn thấy
con dấu chứng thực của một giới chức có
thẩm quyền trong một văn bản của
thế gian.
Tuy nhiên, trong một
chừng mực nào đó, việc
nhận biết được
Tam pháp ấn ở
giáo lý Mật tông có phần khó khăn hơn so với ở
giáo lý Đại thừa.
Sở dĩ như thế là vì
giáo lý Mật tông theo
truyền thống vốn không hề được ghi chép để
giảng giải, phân tích. Phần lớn các phần
giáo lý này được các bậc thầy truyền thụ cho
đệ tử theo phương thức
khẩu truyền và trực tiếp. Vì thế, đối với những người không trực tiếp
tu tập trong một dòng phái nào đó thuộc
Mật tông thì việc
tìm hiểu hoặc
nghiên cứu giáo lý này là điều trước đây hầu
như không thể
thực hiện. Chỉ trong một
thời gian gần đây, do có những
biến động về mặt
lịch sử và
xã hội – mà
chúng tôi sẽ đề cập đến trong một phần sau – nên các phần
giáo lý mật truyền này mới
dần dần được
phổ biến một cách
rộng rãi đến với những người không thuộc
truyền thống này. Điều này
giải thích vì sao
cho đến nay
Mật tông vẫn còn là một
tông phái đầy
bí ẩn và khó hiểu đối với nhiều người, ngay cả những người
Phật tử.
Trở lại với sự hình thành của
Đại thừa và
Mật tông trong dòng
lịch sử phát triển của
đạo Phật,
chúng ta không có gì nhiều hơn là những mốc
thời gian được tạm xác định khi
kinh điển của các
tông phái này
xuất hiện và
lưu hành.
Trong
thực tế, nhiều thế kỷ sau khi
đức Phật nhập diệt vẫn chưa có bất kỳ một dạng
kinh điển nào
xuất hiện. Tất cả những lời dạy của
đức Phật được các vị tăng sĩ ghi nhớ và truyền miệng cho nhau qua nhiều
thế hệ, cũng như lan truyền ra khắp nhiều địa phương khác nhau trên toàn cõi
Ấn Độ. Mặt khác, nhiều nhà
nghiên cứu tin rằng
bản thân đức Phật đã
sử dụng ngôn ngữ Ardhamagadhi của xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) để
thuyết giảng, nhưng những lời dạy của ngài lại
chưa bao giờ được ghi chép bằng chính loại
ngôn ngữ này.
Hình thức xuất hiện đầu tiên của
kinh điển là những bản dịch sang các
ngôn ngữ Ấn Độ khác, mà chủ yếu còn lại
đến nay là tiếng Pāli ở miền Nam và tiếng Sanskrit ở miền Bắc. Vì thế, việc xác định riêng các
kinh điển Pāli là “nguyên thủy” có phần nào đó phải nói là
phiến diện và không
hoàn toàn chính xác.
Ngay trong
thời kỳ kinh điển chưa được ghi chép thành văn bản thì sự
phân chia các
bộ phái trong
Phật giáo đã bắt đầu
xuất hiện. Đó là
vào khoảng 150 năm sau khi
đức Phật nhập diệt, và sự
phân chia trước hết được
ghi nhận là giữa
Đại chúng bộ (Mahāsānghika) với
Thượng tọa bộ (Sthavirāvāda).
Những người nghiêng theo
Đại chúng bộ bắt đầu đặt
vấn đề nghi ngờ về
sự giải thoát rốt ráo của
quả vị A-la-hán. Thông qua đó, họ
mô tả lại
hình tượng đức Phật, bậc
giác ngộ hoàn toàn và không có bất
cứ sự khiếm khuyết hay
ô nhiễm nào.
Đại chúng bộ cho rằng vị A-la-hán tuy có
đạt được sự giải thoát nhưng đó chưa phải là
sự giải thoát rốt ráo và
toàn diện, vì các vị vẫn còn có những
giới hạn nhất định so với
đức Phật. Mặt khác,
Đại chúng bộ cũng dạy rằng
đức Phật là bậc
giải thoát hoàn toàn rốt ráo nên chưa từng có việc sinh ra và chết đi như sự nhìn thấy của
mọi người ở
thế gian.
Đức Phật Thích-ca mà tất cả
chúng sinh đã nhìn thấy sinh ra và lớn lên tại
Ấn Độ,
tu tập và
thành đạo,
thuyết pháp độ sinh và nhập Niết-bàn, thật ra chỉ là một
hóa thân của ngài nhằm
mục đích giáo hóa chúng sinh mà thôi.
Những
giáo lý ban sơ của
Đại chúng bộ được sự
ủng hộ của
đa số Phật tử đương thời, và đây chính là
lý do họ có tên là
Đại chúng bộ. Những người theo
Thượng tọa bộ không
phản đối giáo lý của
Đại chúng bộ, nhưng họ
bảo vệ và
nhấn mạnh quan điểm cho rằng những vị tăng sĩ là cao quý và đáng
tôn kính so với những người
thế tục. Đây là
lý do giải thích tên gọi
Thượng tọa bộ.
Chính quan điểm này đã ngày càng tách rời họ với đông đảo
quần chúng.
Những gì được biết hiện nay về sự
phân chia từ rất sớm giữa
Đại chúng bộ và
Thượng tọa bộ có thể giúp
chúng ta rút ra một số
nhận xét liên quan đến sự hình thành của
Đại thừa về sau này.
Thứ nhất, đây là thời điểm khá sớm sau khi
đức Phật nhập diệt, nên dấu ấn những lời dạy của
đức Phật vẫn còn đậm nét trong lòng người
Phật tử. Như vậy, những người theo
Đại chúng bộ chắc chắn đã không thể tự
sáng tạo ra một
giáo lý mới, vì nếu như
vậy thì họ không thể nào có được sự
ủng hộ của
đa số. Do đó, những
lập luận khác biệt của họ so với
Thượng tọa bộ phải
dựa trên chính những gì
đức Phật đã dạy. Điều này cho thấy trong quá trình truyền dạy
giáo lý, các tăng sĩ có thể đã
nhấn mạnh thiên lệch về một số
ý nghĩa nhất định nào đó và bỏ qua một số khía cạnh quan trọng khác.
Sự kiện này dẫn đến việc quá xem trọng
vai trò của tăng sĩ và
xem thường những
Phật tử cư sĩ, và không phải tất cả tăng sĩ đều tán thành như vậy. Một số vị đã sớm
nhận ra sự sai lệch này và nêu lên để
tranh luận ngay trong hàng ngũ tăng sĩ, và chính điều này đã tạo ra sự
phân chia giữa
Thượng tọa bộ với
Đại chúng bộ.
Thứ hai, có thể thấy rằng những
tư tưởng được
Đại chúng bộ truyền dạy chính là tiền đề của những
tư tưởng Đại thừa sau này. Như vậy, cho dù sự
xuất hiện của các
kinh điển Đại thừa được cho là khá
muộn màng, nhưng những
tư tưởng Đại thừa rõ ràng là đã có những cội rễ
sâu xa ngay từ một giai đoạn rất sớm, chưa hẳn đã là muộn hơn so với các
kinh điển Tiểu thừa.
Vào thời
đức Phật, các phần
giáo lý khác nhau vốn đã được ngài truyền dạy một cách
thận trọng và có chọn lọc đối tượng. Trong bối cảnh
hết sức phức tạp của
xã hội Ấn Độ đương thời, nhiều luồng
tư tưởng khác nhau vẫn
đồng thời chi phối, và
niềm tin đối với những điều
hoàn toàn mới lạ do
đức Phật truyền dạy không phải là chuyện dễ dàng có được. Rất nhiều
vấn đề ngày nay
chúng ta thấy là
đơn giản, nhưng vào thời
đức Phật vừa
lập giáo lại thực sự không
đơn giản chút nào.
Hãy lấy ví dụ như việc
ăn chay chẳng hạn. Đối với người
Phật tử cư sĩ ngày nay cũng biết rõ việc
ăn chay là đáng khuyến khích và không có gì để phân vân,
bàn cãi, chỉ có điều là
chúng ta có thể
thực hiện được việc tốt ấy đến mức nào mà thôi. Nhưng vào thời
đức Phật, ngay cả việc
yêu cầu các tăng sĩ
ăn chay cũng là việc không dễ dàng. Trước kia chưa từng có ai dạy cho họ điều đó. Hơn thế nữa, việc giết
súc vật để hiến tế vẫn còn rất
phổ biến trong hầu hết các
tôn giáo đương thời. Vì thế, ngay cả với các
đệ tử xuất gia,
đức Phật cũng đã không đưa ra
lời khuyên ăn chay ngay từ đầu. Ngài đã
cho phép họ được ăn ba loại thịt “sạch”, gọi là
tam tịnh nhục, nhằm
mục đích giúp họ có một khái niệm đầu tiên rồi sau đó mới
dần dần chuyển hướng, thay đổi những
nhận thức sai lầm trước kia. Ba loại “tịnh nhục” đó là: Thịt con vật mà mắt người ăn không nhìn thấy khi
bị giết; thịt của con vật mà tai người ăn không nghe biết khi
bị giết; và thịt con vật không phải vì người ăn mà
bị giết. Kinh Đại Bát Niết-bàn ghi lại sự việc này như sau:
“Như Lai chế định mỗi một
giới cấm đều có
dụng ý riêng. Vì có
dụng ý riêng, nên ta
cho phép ăn ba thứ
tịnh nhục... Và cũng vì có
dụng ý riêng, nên ta cấm hẳn tất cả
các loại thịt, kể cả thịt của những con thú
tự nhiên chết, không
bị giết hại. Này Ca-diếp! Kể từ hôm nay ta cấm tất cả các
đệ tử không được ăn bất cứ loại thịt nào cả.”[1][1]
Tính chất tùy duyên để
hóa độ chúng sinh là một
đặc điểm nổi bật cần phải lưu ý trong sự truyền dạy
giáo pháp của
đức Phật. Trong hầu hết các
kinh điển Đại thừa đức Phật đều có dạy rằng vì
tùy thuận căn cơ thấp kém của
chúng sinh nên ngài mới truyền dạy
giáo pháp Tiểu thừa, và ngài cũng dạy rằng
quả vị A-la-hán,
Niết-bàn của Tiểu thừa là một
quả vị chưa
rốt ráo, chưa phải
hoàn toàn giải thoát.
Người khởi xướng cuộc
tranh luận giữa
Đại chúng bộ và
Thượng tọa bộ được biết là một vị tăng tên Mahādeva (
Đại Thiên). Vị này đã nêu lên 5 điểm mà ông cho rằng vị A-la-hán chưa phải bậc
giải thoát rốt ráo. Trong các luận điểm đó, ông
nhấn mạnh rằng một vị A-la-hán vẫn còn có những chỗ
nghi ngờ, vẫn còn có nhiều điều chưa biết, và còn
phụ thuộc vào sự dẫn dắt của người khác để
đạt đến sự giải thoát rốt ráo.
Chúng ta có thể
tin chắc một điều là Mahādeva không tự mình nghĩ ra những điều này. Ông có thể đã
quan sát các vị A-la-hán trong
thời đại mình và
so sánh với những
lời Phật dạy để đưa ra
ý kiến bất đồng của mình. Chính vì thế mà ông nhanh chóng có được sự
ủng hộ của
đa số. Cũng cần
lưu ý,
kinh điển Tiểu thừa thường gọi
đức Phật là bậc A-la-hán, còn
kinh điển Đại thừa chỉ xem đây là một trong
Thập hiệu của Phật. Sự khác biệt này cho thấy
mục tiêu nhắm đến của hai
tông phái là
hoàn toàn khác nhau, và
Đại thừa chưa bao giờ xem
quả vị A-la-hán là
mục tiêu cuối cùng của sự
tu tập.
Quan điểm này của
Đại thừa rõ ràng là đã
xuất hiện ngay từ thời Mahādeva.
Những
hạt giống Phật pháp đầu tiên nảy mầm trên vùng đất
Ấn Độ chắc chắn đã là những
hạt giống Tiểu thừa. Điều này được nhắc đến trong nhiều
kinh điển và
hoàn toàn phù hợp với những gì
chúng ta biết được về sự phát triển của
Phật giáo trong giai đoạn đầu tiên.
Vào thời
đức Phật,
đa số trong
tăng đoàn đều là những vị
tu tập theo
giáo pháp Tiểu thừa. Các vị
đại đệ tử của Phật, mà
tiêu biểu nhất là 10 vị được tôn xưng các
danh hiệu đệ
nhất như Xá-lợi-phất, bậc
Trí tuệ đệ nhất, Mục-kiền-liên, bậc
Thần thông đệ nhất, A-na-luật, bậc
Thiên nhãn đệ nhất, Ưu-ba-ly, bậc
Trì luật đệ nhất... đều là những vị
chứng đắc Thánh quả Tiểu thừa, hay gọi theo danh xưng trong các
kinh Đại thừa thì họ đều thuộc về hàng
Thanh văn đệ tử. Điều này phản ánh một cách
hợp lý quá trình
truyền pháp của
đức Phật được ghi lại trong
kinh điển. Kinh
Chuyển pháp luân cho biết trong lần
thuyết pháp đầu tiên tại
vườn Lộc uyển,
đức Phật đã thuyết dạy về
Tứ diệu đế, nền tảng
căn bản của
giáo pháp Tiểu thừa.
Sau khi
đức Phật nhập diệt, những người
tu tập theo
giáo lý Tiểu thừa vẫn
tiếp tục chiếm ưu thế – ít ra là về số lượng – trong một
thời gian dài. Lần
kết tập kinh điển đầu tiên được tổ chức
ngay sau khi đức Phật nhập diệt, và nội dung chủ yếu là những
kinh điển Tiểu thừa mà sau này thường được biết đến với tên gọi là
kinh điển “nguyên thủy”.
Cũng cần
lưu ý rằng vào thời điểm đó chưa có
chữ viết để ghi lại
kinh điển. Phải đến khoảng thế kỷ 3
trước Công nguyên thì
chữ viết mới
xuất hiện ở
Ấn Độ. Vì thế, lần
kết tập kinh điển đầu tiên này được
thực hiện theo phương thức
truyền khẩu. Có tất cả là 500 vị tỳ-kheo
tham gia cuộc
kết tập này, và tất cả đều đã
chứng đắc quả vị A-la-hán. Dưới sự chủ trì của ngài Ca-diếp,
đại hội đã công cử ngài A-nan làm người đọc lại các
kinh điển mà
đức Phật đã thuyết dạy, và ngài Ưu-ba-ly làm người đọc lại các
giới luật mà
đức Phật đã chế định.
Sau khi ngài A-nan đọc lại cho tất cả các vị tỳ-kheo có mặt nghe một
bản kinh hay một
bài kệ mà chính ngài đã được nghe từ
kim khẩu đức Phật, tất cả những người
tham gia cuộc
kết tập cùng vận dụng
trí nhớ của mình để nhớ lại và
xác nhận hoặc góp ý
điều chỉnh,
sửa chữa những gì ngài A-nan vừa nhắc lại. Cứ như vậy, các vị
tuần tự nhắc lại tất cả những gì
đức Phật đã truyền dạy. Sau khi tất cả
mọi người đã thống nhất về nội dung những điều được nhắc lại, họ
đồng thanh tụng đọc lại tất cả để ghi sâu thêm vào
trí nhớ của mỗi người. Sau đó, chính những thành viên này lại
tiếp tục truyền dạy những
giáo lý ấy ra khắp nơi.
Luật tạng cũng được
kết tập theo cách
thận trọng tương tự như trên, với sự nhắc lại của ngài Ưu-ba-ly và sự
xác nhận của tất cả
mọi người. Có lẽ vì
tính chất cô đọng và
gắn liền với đời sống hằng ngày của tăng sĩ cũng như với số lượng không lớn lắm so với phần
Kinh tạng, nên việc
kết tập Luật tạng không để lại
vấn đề gì về sau. Các nhà
nghiên cứu tin rằng ngay từ khi chưa được ghi chép thành văn bản, khoảng thế kỷ 4
trước Công nguyên,
Luật tạng đã có được
hình thức ổn định như hiện nay.
Sự thật là, trong các
thời kỳ về sau khi có sự
phân chia các
bộ phái trong
Phật giáo thì
Luật tạng vẫn được tất cả các
tông phái khác nhau
tôn trọng và vâng giữ như nhau, hầu
như không có nhiều khác biệt.
Nhưng đối với
Kinh tạng thì
vấn đề không
hoàn toàn đơn giản như thế. Ngay trong
thời gian diễn ra cuộc
kết tập lần thứ nhất, đã có những dấu hiệu cho thấy có sự bất đồng trong
Tăng đoàn. Con số đại tỳ-kheo vào thời
đức Phật được
ghi nhận trong hầu hết
kinh điển là 1.250 vị, và có nhiều
lý do để
chúng ta tin rằng con số thực sự là lớn hơn nữa. Vì thế, số lượng các vị
tham gia kết tập chỉ mang tính
đại biểu, và không chắc rằng các vị còn lại có thống nhất
ý kiến với
hội nghị hay không.
Sự thật là ngài Ca-diếp tuy được xem là vị tu hạnh Đầu-đà đệ nhất, nhưng trước đó chưa từng thay thế
đức Phật lãnh đạo Tăng đoàn hay
thuyết giảng giáo pháp. Người nhận được danh xưng
Thuyết pháp đệ nhất là ngài Phú-lâu-na (Purṇa) lại
vắng mặt trong cuộc
kết tập này.
Ngoài ra, có hai vị
đại đệ tử trước đây đã từng thay mặt
đức Phật lãnh đạo Tăng đoàn trong một số
trường hợp, cũng như đã từng được
đức Phật chính thức giao phó việc thay
Phật thuyết giáo. Đó là hai vị Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Nhưng
thật không may là cả hai vị đều đã
viên tịch trước cả khi
đức Phật nhập diệt. Vì thế, có thể nói rằng thành viên quan trọng
nổi bật nhất trong cuộc
kết tập kinh điển đầu tiên này chỉ
duy nhất có ngài A-nan.
Nhưng có một
chi tiết mà
chúng ta cần
lưu ý là ngài A-nan vẫn chưa
chứng đắc quả vị A-la-hán vào thời điểm sắp diễn ra cuộc
kết tập. Với sự
nỗ lực tu tập trong đêm
cuối cùng trước đó, ngài mới
chứng đắc quả A-la-hán và được ngài Ca-diếp
chấp nhận cho
tham gia cuộc
kết tập. Mặc dù có một
trí nhớ kiệt xuất và được kề cận bên
đức Phật nhiều nhất so với các
đệ tử khác, nhưng kết quả
tu tập của ngài như thế không chắc là đã tạo được sự
tin tưởng tuyệt đối nơi tất cả
mọi người trong
Tăng đoàn. Và việc có những bất đồng nào đó nơi những người không
tham gia kết tập cũng không phải là điều đáng
ngạc nhiên.
Điều rất khó hiểu là vì sao lại có một sự
triệu tập chỉ 500 vị tỳ-kheo trong cuộc
kết tập kinh điển này mà không phải là
toàn thể Tăng đoàn? Điều này có vẻ
như không phù hợp với
tinh thần giáo hóa của
đức Phật khi còn
tại thế.
Chúng ta đều biết là
trong suốt gần năm mươi năm hoằng hóa,
đức Phật chưa từng tạo ra bất cứ một sự
phân chia nào trong
Tăng đoàn theo cách này. Chỉ có sự
phân biệt giữa những
đệ tử tu tập có nhiều
kinh nghiệm hoặc
trình độ tu chứng cao hơn được giao cho
nhiệm vụ dẫn dắt những người còn non kém, chứ không hề có sự
phân biệt một tầng lớp
trưởng lão hay cấp trên trong
Tăng đoàn. Tất cả các tỳ-kheo đều được đối xử
bình đẳng như nhau, và
tinh thần này vẫn còn được
ghi nhận trong
giáo pháp Lục hòa kính.
Trong rất nhiều
trường hợp có những
biến động quan trọng đối với
Tăng đoàn,
đức Phật cũng
chưa bao giờ triệu tập riêng một số vị tỳ-kheo nào đó mà không có sự
hiện diện của các vị khác. Suốt những năm hoằng hóa, ngài luôn
xuất hiện giữa
toàn thể đại chúng bao gồm cả hai giới
xuất gia và
tại gia. Đây chính là sự khác biệt mang tính đột phá trong
xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, bởi vì tất cả các
tôn giáo khác đều có sự
phân chia thành những tầng lớp cao thấp khác nhau trong giới
tu sĩ của họ, nhưng
Tăng đoàn Phật giáo thì không hề có việc này. Vì thế, việc
triệu tập riêng một
hội đồng gồm 500 vị
ngay sau khi đức Phật nhập diệt là một điều có thể nói là rất khó hiểu.
Càng khó hiểu hơn nữa khi
mục đích của
đại hội này là nhằm nhắc lại những
giáo pháp mà
đức Phật đã giảng dạy. Vào thời điểm đó, tất cả các vị tỳ-kheo trong
Tăng đoàn đều là những người ít nhiều đã từng được trực tiếp nghe
Phật thuyết pháp. Nếu
toàn thể Tăng đoàn được kêu gọi
tham gia vào cuộc
kết tập này,
ít nhất chúng ta cũng thấy được là sẽ có hai điều
lợi ích. Thứ nhất, cho dù quyền
xác nhận và
quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các vị
tôn túc có nhiều
uy tín nhất trong
đại hội, nhưng mỗi người đã từng được nghe
Phật thuyết pháp cũng đều có cơ hội để đóng góp theo
trí nhớ về những gì mà họ đã trực tiếp được nghe từ
kim khẩu Phật. Thứ hai,
bản thân mỗi vị trong
Tăng đoàn cũng đều có được một cơ hội quý giá để được lắng nghe lần nữa những lời trước đây Phật đã dạy, và như vậy sẽ giúp ích rất nhiều cho việc
tiếp tục lưu truyền giáo pháp. Như vậy, việc những người tổ chức cuộc
kết tập kinh điển lần này chỉ
giới hạn trong số 500 vị
quả thật là khó hiểu!
Một
chi tiết được
ghi nhận sau khi cuộc
kết tập đầu tiên này
kết thúc là ngài Phú-lâu-na khi ấy mới tìm đến.
Chúng ta không biết là vì trước đó ngài đã không được chọn mời vào
hội đồng kết tập hay chỉ vì ngài đang thuyết giáo ở rất xa không về kịp.
Tuy nhiên, khi được nghe kể lại về cuộc
kết tập kinh điển, ngài đã nói: “Mặc dù các vị đã có sự nhắc lại những
lời Phật dạy, nhưng tôi sẽ
tiếp tục giáo hóa bằng chính những gì đã được nghe từ
đức Phật.”
Sự
vắng mặt của một
đại đệ tử quan
trọng như Phú-lâu-na cũng như số lượng
giới hạn các vị tỳ-kheo
tham gia kết tập cho thấy là đã có dấu hiệu bất đồng. Mặc dù không có bất cứ
ý kiến nào
phản đối cuộc
kết tập kinh điển này, nhưng
quan điểm “sẽ
tiếp tục giáo hóa bằng chính những gì đã được nghe từ đức Phật” rất có
thể không chỉ là
của riêng ngài Phú-lâu-na mà còn là của nhiều vị tỳ-kheo khác đương thời.
Vấn đề mà
chúng ta cần
lưu ý ở đây là, điều đó cho thấy những
kinh điển được
kết tập lần đầu tiên này
rõ ràng chưa phải là tất cả những gì
đức Phật đã từng truyền dạy.
Tư tưởng Đại thừa có thể đã nằm trong số những gì được “tiếp tục giáo hóa” mà không thuộc về số
kinh điển đã được
kết tập. Và vì chưa có
hình thức ghi chép bằng văn bản, nên ngay cả những gì được
kết tập hay không có trong cuộc
kết tập đầu tiên này thì cũng chẳng có gì khác nhau. Tất cả đều bắt buộc phải được giảng dạy và
lưu truyền qua
trí nhớ.
Những phân tích như trên cho thấy có một sự
hợp lý nhất định khi vị tăng
Đại Thiên nêu lên những bất đồng về đường hướng
tu tập của những người thuộc
Thượng tọa bộ. Những phần
giáo lý khác nhau do
đức Phật truyền dạy
chắc chắn đã được
lưu truyền một
cách song hành bởi những đối tượng
tu tập khác nhau, và khi mà các tăng sĩ
Tiểu thừa tỏ ra không đủ
năng lực để
đáp ứng nhu cầu
tu tập của
đại đa số Phật tử thì
vai trò của họ tất yếu phải được
xem xét lại dưới ánh sáng của chính những
lời Phật dạy.
Cho đến khi những
tư tưởng Đại thừa đủ
chín muồi để được
thể hiện thành những kinh văn,
vào khoảng thế kỷ thứ
nhất trước và
sau Công nguyên, thì
lý tưởng tu tập của người
Phật tử được chuyển từ
Thánh quả A-la-hán sang đạo
Bồ Tát. Trong khi vị
chứng đắc quả A-la-hán được
mô tả là người dứt sạch mọi
phiền não, thì vị
Bồ Tát lại là người
phát nguyện thực hiện việc
cứu độ chúng sinh ngay cả khi chính
bản thân mình vẫn còn đang phải
chịu đựng mọi khổ đau,
phiền não. Sự khác biệt về
lý tưởng tu tập được
diễn đạt ngày càng rõ hơn qua các
bản kinh văn
Đại thừa xuất hiện ngày càng nhiều hơn.
Nhiều người cho rằng những kinh văn
Đại thừa hoàn toàn do người
đời sau trước thuật và do đó việc gán nó cho
đức Phật là không đúng thật.
Tuy nhiên,
quan điểm này có lẽ cũng cần
cân nhắc lại.
Thứ nhất, về mặt
lịch sử, các nhà
nghiên cứu tin rằng họ chỉ xác định được thời điểm
xuất hiện sớm nhất của các kinh văn
Đại thừa là
vào khoảng thế kỷ thứ
nhất trước Công nguyên.
Tuy nhiên, cũng không có một cứ liệu nào cho thấy là trước đó các kinh văn
Đại thừa đã không
hiện hữu dưới
hình thức truyền miệng, như đã từng xảy ra ngay cả với các
kinh điển được gọi là “nguyên thủy” trong
thời kỳ đầu.
Thứ hai, về mặt
giáo nghĩa, những điều được diễn giảng trong các kinh văn
Đại thừa không phải là những điều
hoàn toàn mới lạ, chưa từng được biết. Như
chúng ta đã phân tích trong phần trên, thật ra thì những
tư tưởng ấy đã có sự bắt nguồn từ rất sớm, có thể nói là
đồng thời với các kinh văn
Tiểu thừa.
Thứ ba, do
điều kiện lịch sử quy định, ngay cả các kinh văn được gọi là “nguyên thủy” cũng chỉ được ghi chép thành văn bản nhiều thế kỷ sau khi Phật
nhập diệt, nhưng không phải vì điều đó mà người ta
nghi ngờ về tính xác thật của nó. Tính
nhất quán và xuyên suốt trong các lời dạy của
đức Phật chính là sự bảo chứng cho những gì được ghi chép trong
kinh điển, bởi vì ngoài
đức Phật ra thì có thể nói là không một
tác giả nào có thể ngụy tạo được những
tác phẩm đồ sộ,
sâu xa và
nhất quán đến như thế. Điều này cũng
hoàn toàn đúng đối với các
bản kinh văn
Đại thừa. Việc ghi chép,
diễn đạt là điều mà người ta có thể làm được vào thế kỷ thứ
nhất trước Công nguyên
trở về sau, nhưng việc
sáng tạo những
tư tưởng, nội dung trong các
bản kinh văn đó thì không một
tác giả nào có thể
thực hiện được, trừ khi đó cũng là một vị Phật!
Vì thế
chúng ta có thể tin rằng, cho dù các
bản kinh văn
Đại thừa chỉ
xuất hiện sớm nhất là từ thế kỷ thứ
nhất trước Công nguyên, nhưng
giáo pháp Đại thừa thực sự đã được chính
đức Phật truyền dạy. Vào
thời kỳ đầu tiên,
giáo pháp Tiểu thừa tỏ ra phù hợp với nhiều người hơn nên đã được phát triển sớm hơn.
Tuy nhiên, một số
đệ tử vẫn âm thầm
tu tập và truyền dạy
giáo pháp Đại thừa,
cho đến khi
niềm tin và các
điều kiện xã hội có sự đổi khác và
tư tưởng Đại thừa trở nên
phù hợp hơn với nhiều người. Khi ấy họ mới nghĩ đến việc ghi chép,
diễn đạt lại thành các
bản kinh văn. Vì thế mà
kinh điển Đại thừa lần lượt ra đời. Mặc dù vậy, những người ghi chép
chắc chắn đã
hết sức trung thành với những gì
đức Phật truyền dạy, nên
chúng ta vẫn có thể
nhận ra được
tính chất nhất quán và xuyên suốt trong tất cả các
bản kinh văn.
Một số nhà
nghiên cứu đã đi
xa hơn khi cho rằng vào thời điểm của lần
kết tập kinh điển thứ nhất, những vị tỳ-kheo không tán thành đã có sự hội họp riêng và
kết tập kinh điển theo
trí nhớ của họ về những
giáo pháp đức Phật đã dạy. Nếu
quả thật có điều đó, rất có thể là
giáo pháp Đại thừa đã được các vị tỳ-kheo này
kết tập và
lưu truyền.
Lần
kết tập kinh điển thứ hai được các vị tỳ-kheo thuộc
Thượng tọa bộ tổ chức vào khi đã có sự
phân chia với
Đại chúng bộ, với sự
tham gia của 700 vị
trưởng lão. Ngay sau đó, tại vùng Tỳ-xá-ly (Vaiśāli), quê hương của vị
Bồ Tát cư sĩ Duy-ma-cật, các vị tỳ-kheo theo
Đại chúng bộ đã tập hợp để
thực hiện một cuộc
kết tập của riêng họ, với số lượng lên đến 10.000 vị. Chỉ riêng số lượng này cũng cho thấy họ
hoàn toàn xứng đáng với tên gọi
Đại chúng bộ. Vì không tán thành với các vị thuộc
Thượng tọa bộ, nên những
kinh điển mà họ
kết tập trong lần này rất có thể chính là những gì sau này được ghi chép lại thành các
bản kinh Đại thừa.
Sự
xuất hiện của
Mật tông còn
muộn màng hơn cả
Đại thừa, vì thế cũng không sao
tránh khỏi ít nhiều những sự
hoài nghi về nguồn gốc của nó.
Cho đến khi
Đại thừa phát triển mạnh mẽ và được
truyền bá rộng rãi khắp nơi thì
Mật tông vẫn chưa
xuất hiện như một
tông phái độc lập. Những
yếu tố sơ khai của
Mật tông có thể được
tìm thấy trong
Chân ngôn thừa khởi đầu
vào khoảng thế kỷ 4 nhưng chỉ thực sự phát triển
vào khoảng đầu thế kỷ 6.
Chân ngôn thừa tiếp tục phát triển tại
Ấn Độ với sự
xuất hiện của các
yếu tố và
hình thức thần bí như Tan-tra, mu-dra, mạn-đà-la...
Tuy nhiên, phải đến nửa sau thế kỷ 8, với sự ra đời của
Kim cang thừa thì các
yếu tố sơ khai của
Mật tông mới được
kết hợp một cách có
hệ thống và mở ra một hướng
tu tập mới trong
Phật giáo. Kể từ đó, một số lượng lớn các kinh Tan-tra ngày càng được
truyền tụng rộng rãi hơn kèm theo với các
chân ngôn,
mật chú, mạn-đà-la...
Thật ra,
niềm tin vào sự
huyền diệu, vào
thần thông và sự
mầu nhiệm bao giờ cũng là một
yếu tố nội tại của
Phật giáo, nghĩa là nó
xuất hiện ở mọi
tông phái khác nhau của
Phật giáo.
Tuy nhiên, điều đó chỉ được
thừa nhận như một kết quả
tu tập thực tế chứ không phải
mục tiêu nhắm đến của người
tu tập.
Kinh điển Tiểu thừa thực sự có nhắc đến khả năng
chứng đắc thần thông của người
tu tập.
Kinh điển Đại thừa có phần tiến
xa hơn khi có nhiều đoạn
mô tả khá
chi tiết về những
năng lực thần thông của các vị
Bồ Tát. Mặc dù vậy,
đức Phật vẫn
thường xuyên nhắc nhở,
cảnh giác các
đệ tử rằng
thần thông không bao giờ có thể được xem là
mục tiêu của người
tu tập.
Tuy nhiên, khi những
tác động tinh thần của
giáo pháp ngày càng yếu đi trong
hoàn cảnh lịch sử xã hội Ấn Độ ngày càng trở nên
bất lợi, những người
Phật tử bình dân dường như bắt đầu có khuynh hướng
trông cậy vào
phép mầu để xua tan những nguy hiểm và có được sự chở che
phù hộ. Tất nhiên là giới tăng sĩ cũng không khỏi
quan tâm đến những nhu cầu mới này, và trong
chừng mực những gì mà
giáo pháp giảng dạy, họ đã có sự
lưu tâm nhấn mạnh và phát triển những
yếu tố phù hợp với khuynh hướng mới.
Trong
thực tế, ngay từ khoảng đầu thế kỷ 4, rất nhiều loại
thần chú Man-tra[1][2] đã thấy
xuất hiện trong
kinh điển. Những
thần chú này cũng được gọi là Đà-la-ni,[1][3] bởi vì chúng có
mục đích hộ trì hay
duy trì đời sống tín ngưỡng. Từ đầu thế kỷ 6, các
hình thức huyền bí được vận dụng, như các
nghi lễ cũng như những hình tròn và đồ hình huyền bí. Những
hình thức này được dùng để
bảo vệ đời sống tâm linh của các
pháp sư – người
thực hiện nghi lễ,
đồng thời mang lại cho người
bình dân những gì họ
mong ước. Phép bắt ấn[1][4] thường được
sử dụng để tăng thêm
hiệu lực của những câu
thần chú.
Thêm vào đó còn có những mạn-đà-la,[1][5] với nét đẹp hài hòa mà
cho đến nay vẫn còn
hấp dẫn khiếu thẩm mỹ của
chúng ta. Những vòng tròn
huyền diệu này, thường được vẽ quanh một điểm
linh thiêng hay
thuần khiết về mặt
nghi lễ,
dĩ nhiên là cũng có nguồn gốc rất xa xưa như các
phép mầu từ thời
tiền sử.
Tuy nhiên, cách sắp xếp kỳ lạ của
Phật giáo trong các mạn-đà-la này dường như đã được phát triển ở vùng Trung Á. Các mạn-đà-la
diễn tả những
sức mạnh tâm linh và
sức mạnh vũ trụ dưới một
hình thức huyền bí hay được nhân hóa,
thể hiện những
sức mạnh ấy thông qua
hình ảnh các vị thần, được trình bày bằng hình dạng có thể nhìn thấy được, hoặc bằng những ký tự có khả năng gây ra sự
liên tưởng đến các vị thần và những gì tạo thành
tính chất huyền bí của họ.
Những
biểu tượng này, nếu được nhận hiểu một cách
thích hợp sẽ
cho phép chúng ta diễn đạt được những nỗi lo sợ sâu thẳm trong
tâm hồn, những
rung động từ thuở
sơ khai và những
cảm xúc từ xa xưa. Thông qua chúng, ta có thể
liên kết, khống chế và làm tan biến đi những
sức mạnh của
vũ trụ, tạo ra được sự
chán ghét đối với tất cả những điều giả tạo của
thế giới luân hồi, và
đạt đến sự hợp nhất với ánh sáng
tâm thức duy nhất và
tuyệt đối.
Những mạn-đà-la là một
hình thức đặc biệt của những đồ hình
vũ trụ xa xưa, được
xem như tiến trình thiết yếu phát triển từ một nguyên tắc cốt yếu và
xoay quanh một trục
trung tâm là núi Tu-di.
Những đồ hình như vậy không những được tái tạo trong các mạn-đà-la, mà còn có ở những loại bình dùng trong
nghi lễ, ở những cung điện
hoàng gia, ở các
bảo tháp và đền thờ. Nhờ sự tương đồng giữa
vũ trụ rộng lớn và
tiểu vũ trụ trong
con người mà mô hình của
vũ trụ được tái hiện trong mỗi
cá nhân, với
tâm thức cũng như xác thân có thể được
xem như là một mạn-đà-la, là bối cảnh của sự tìm cầu
giác ngộ.
Cấu trúc, sự thiết kế những mạn-đà-la, và sự
liên tưởng đến các
thần linh đều được khống chế một cách
tự nhiên bởi những
quy tắc nghiêm ngặt và
nghi thức hành lễ được xác định rõ.
Sự
bộc phát sáng tạo của những Tan-tra đầu tiên đã dẫn đến một sự
xuất hiện rối loạn của
vô số những
giả thuyết về các
sức mạnh vũ trụ và
tâm linh, và chính
Kim cang thừa là
bộ phái đã áp đặt
trật tự sắp xếp cho khối lượng khổng lồ những
truyền thống mới hình thành đó.
Bộ phái này
chấp nhận việc
phân chia tất cả
sức mạnh vũ trụ thành năm phần, mỗi phần thuộc về một trong 5
đức Như Lai. Đó là các vị
Đại Nhật Như Lai, A-súc-bệ
Như Lai,
Bảo Sinh Như Lai, A-di-đà
Như Lai và
Bất Không Thành Tựu Như Lai.
Tiếp theo đó là một
hệ thống phức tạp và rất
chi tiết của những mối tương quan huyền bí, sự xác định,
biến đổi và
chuyển hóa,
liên kết tất cả những
sức mạnh và
sự kiện trong
vũ trụ với 5 phần này.
Thân thể con người được
đặc biệt xem như một
tiểu vũ trụ, là biểu hiện của
toàn thể vũ trụ, và là
phương tiện để
nhận thức chân lý, chủ yếu là nhờ vào những
phương pháp đã hình thành nên một phần của môn Du-già Hatha ngày nay ở
Ấn Độ.
Chúng ta được nghe
nói nhiều về
bản chất tương đồng giữa những gì nhìn thấy, nghe biết và sờ mó được, và tất cả mọi
pháp môn tu tập đều được
thực hiện nhằm hợp nhất được những
sức mạnh của tâm ý,
lời nói và
thân thể (thân, khẩu, ý), hướng đến
mục đích nhận ra được
trạng thái rốt ráo của sự
hoàn tất, hay chính là sự
giác ngộ.
Kim cang thừa khi ấy được xác định rất
rõ ràng như là một “phương thức sống giúp người tu
sử dụng được mỗi một
hoạt động của thân, khẩu và ý đều như là
phương tiện giúp cho sự tiến đến giác ngộ”, và như vậy thật đáng
ngạc nhiên là rất gần gũi với
Thiền tông.
Tuy nhiên,
ý nghĩa chân thật của
Kim cang thừa không phải lúc nào cũng dễ dàng
nhận ra được, bởi vì ở đây đã hình thành một
thông lệ là, đưa cái cao nhất vào trong
hình thức thấp nhất, làm cho cái
linh thiêng nhất
trở thành tầm thường nhất, cái
siêu việt nhất
trở thành trần tục nhất, và
tri thức chân chánh nhất được che giấu bởi những
nghịch lý kỳ lạ nhất. Đây là một cách
đối trị có
dụng tâm với sự
tri thức hóa
quá độ của
Phật giáo vào thời đó. Việc dùng đến rất nhiều
hình ảnh gợi dục
đặc biệt có
dụng ý đánh thức thái độ nghiêm khắc quá đáng của tăng sĩ đối với mọi
vấn đề liên quan đến tính dục. Sự
giác ngộ, kết quả sự
kết hợp giữa
trí huệ và
phương tiện thiện xảo, được trình bày bằng sự hợp nhất nam và nữ trong khoái
cảm tình dục. Sự hợp nhất cả hai trong
trạng thái giác ngộ là niềm
hạnh phúc không thể
diễn đạt.[1][6]
Dưới
triều đại Pāla, những
trung tâm mới được
thành lập ở miền Đông Ấn,
đặc biệt là Vikramasila và Odantapuri. Những
trung tâm này, cùng với Jaggadala và Somarupa là những
trung tâm điểm mà từ đó
văn hóa Phật giáo lan
tỏa ra khắp châu Á
trong suốt từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 12.
Sức phát triển của bộ môn Tantra tại
Ấn Độ thiên về
tâm lực xảy ra
đồng thời với mối đe doạ hủy diệt ngày một lớn ở
biên giới tây bắc
Ấn Độ. Ngay từ đầu thế kỷ 8, khi
thế lực hùng mạnh của người Ả Rập trải dài từ Morocco đến xứ Sindh (Pakistan) thì tại
Ấn Độ, phần lớn những người
kế vị đế quốc
vinh quang Gupta lại bận rộn với cuộc chiến tranh
huynh đệ tương tàn, và nền văn hoá
Ấn Độ bắt đầu
đi vào thời kỳ suy sụp.
Cho đến khi quân Hồi tiến hành cuộc chiến tranh ở Trung Á thì
pháp môn Tantra càng
tiếp tục gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ,
đặc biệt là ở Oddiyana thuộc khu vực
ranh giới đông bắc
Ấn Độ. Tại đây,
triều đại Phật giáo Pāla
đang thời cực thịnh.
Gần 4 thế kỷ
trôi qua – kể từ giữa năm 711, khi xứ Sindh bị
xâm lược,
cho đến thế kỷ 12 –
giáo pháp của
Đức Phật Thích-ca
dần dần suy yếu do
ảnh hưởng của chiến tranh và sự
hỗn loạn trong
xã hội. May thay,
trong suốt thời kỳ này, các
vị đạo sư
Tây Tạng đã kịp thời nắm bắt tinh tuý của các Tantra
Phật giáo, và các
kinh điển Mật tông chính yếu đều được dịch sang tiếng
Tây Tạng, nhờ vậy đã tránh được sự thất truyền khi các đại
tu viện và thư viện của
Ấn Độ bị đốt phá.
Khi thủ phủ Java
trở thành thuộc địa thì
đồng thời một đại
tu viện được
xây dựng ở Borobohur. Mặc dù những
thành quả nghệ thuật ở
quê nhà bị quân Hồi hủy diệt, nhưng các
kinh điển Mật tông của đế quốc Pāla (gồm Bengal, Bihar, Orissa và Assam ) vẫn được
bảo tồn.
Các
di tích đền đài
tu viện do các
hoàng đế triều đại Pāla
xây dựng đã
chứng minh giá trị nghệ thuật
tuyệt vời dưới
ảnh hưởng của
Mật tông. Nền nghệ thuật chịu
ảnh hưởng đậm nét của các Tantra đã
miêu tả những
đặc điểm của nền
văn minh Ấn Độ thuộc
thời kỳ này. Vào thời ấy, đã có những
con người được xem là biểu trưng cho
đặc tính,
mục đích và
lý tưởng của một nền văn hoá; họ là động cơ, là lực lượng điều hướng những
năng lực đầy
sáng tạo để làm
chuyển biến cả một dân tộc và thay đổi
nền móng xã hội Ấn Độ; họ là những mẫu mực để
mọi người noi theo và là những ngôi sao sáng trên bầu trời huyền thuật của
pháp môn Tantra. Những
con người ấy được tôn vinh là các vị Tất-đạt (Siddha) hay
Đạo sư , cũng được gọi là các vị
Thành tựu giả.
Như vậy, trong
thực tế thì
Mật tông đã phát triển khá hoàn chỉnh tại
Ấn Độ trước khi truyền sang
Tây Tạng. Và nền tảng
giáo lý của
Mật tông cũng chính là những phần
giáo pháp đã được truyền dạy trong các
kinh điển Đại thừa. Điều này
giải thích vì sao tất cả các bậc
đạo sư của
Mật tông luôn có những phong cách rất gần gũi với các vị tăng sĩ
Đại thừa, và những
mật hạnh của họ tuy có khác nhau nhưng cũng đều
xuất phát từ ý nghĩa hoằng
hóa độ sinh của
Bồ Tát hạnh.
Truyền thuyết ghi nhận ít nhất là 84
vị đạo sư
Mật tông tại
Ấn Độ, được gọi là các vị
Chân sư Đại thủ ấn (Mahamudra).
Sự nghiệp hoằng hóa của các vị tuy mang đậm những nét huyền thuật nhiệm mầu, nhưng cũng
đồng thời tỏa sáng
tinh thần vị tha, bất vụ lợi và đức
hy sinh cao cả. Một số trong các vị chính là những người đã có công
truyền bá Phật giáo sang
Tây Tạng.
Sự phát triển của nền
văn hóa Tây Tạng nói chung và
Phật giáo Tây Tạng nói riêng có những nét
đặc biệt mà có lẽ không nước nào khác trên
thế giới có được. Vì thế, việc
tìm hiểu về những nét đặc thù này có thể sẽ giúp
chúng ta dễ dàng hơn đôi chút trong việc
tiếp nhận những phần
giáo lý độc đáo của
Mật tông Tây Tạng.
Chúng ta không biết gì nhiều về những thời điểm sớm hơn, nhưng có một cột mốc quan trọng được ghi lại
chính xác trong lịch sử Trung Hoa là vào năm 641, tức năm Trinh Quang thứ 15 đời nhà Đường, vua
Đường Thái Tông đã gả
công chúa Văn Thành cho vua
Tây Tạng, lúc bấy giờ được người Trung Hoa gọi là nước Thổ Phồn.
Vị
công chúa này là một người có học vấn và là một
Phật tử thuần thành. Một người vợ khác của vua
Tây Tạng là
công chúa Ba-lợi-khố-cơ của nước Ni-bạc-nhĩ cũng là một người có
học thức. Cả hai người đã đưa ra những
lời khuyên giá trị giúp vua
Tây Tạng phát triển
văn hóa đất nước. Ông đã cử người sang
Ấn Độ và Trung Hoa để thỉnh các vị tăng sĩ
Phật giáo đến
Tây Tạng truyền pháp (khoảng năm 650),
đồng thời cũng cử một
phái đoàn gồm 18 người do
quan đại thần là Đoan-mỹ-tam-bồ-đề (Thon-mi-sandhota)
dẫn đầu sang
Ấn Độ du học. Khi những người này học xong
trở về Tây Tạng, họ đã dựa theo
chữ viết tiếng Phạn (Devanāgari) để chế tác ra
chữ viết riêng cho
Tây Tạng, và ngay sau đó
sử dụng loại
chữ viết mới này để tiến hành việc
phiên dịch kinh điển Phật giáo sang Tạng ngữ. Chính đức vua
Tây Tạng cũng nêu gương học tập cách viết loại chữ mới này, và vì thế nó nhanh chóng được
phổ cập trong toàn
xã hội.
Sự hình thành một loại
chữ viết mới và
sử dụng vào việc
phiên dịch kinh điển là một quá trình phải mất nhiều thế kỷ ở các
quốc gia khác, nhưng lại chỉ diễn ra trong một
thời gian ngắn ở
Tây Tạng. Đây quả là một điều ít có và dễ làm cho người ta phải
kinh ngạc đến độ
hoài nghi.[1][7]
Khoảng hơn nửa thế kỷ sau đó, vào năm 710, tức năm Cảnh Vân thứ nhất đời nhà Đường, vua Đường Duệ Tông lại gả
công chúa Kim Thành cho vua
Tây Tạng đời thứ 35 là Khí-lệ-súc-tán. Vị
công chúa này
tiếp tục mang đến Tây Tạng nhiều
kinh thư, sách vở của Trung Hoa, và thông qua đó người
Tây Tạng đã
học hỏi được rất nhiều từ nền
văn hóa lớn này.
Năm 787, ngôi chùa đầu tiên của
Tây Tạng được
xây dựng hoàn thành ở Bsam-yas, có tên là chùa Tang-duyên (Samye),[1][8] nằm về phía đông nam của thủ đô Lhasa. Đây là nơi ngài
Tịch Hộ (Śāntarakşita),[1][9] một vị
cao tăng Ấn Độ đến hoằng hóa
trong suốt 13 năm sau đó, theo
lời mời chính thức của vua
Tây Tạng là Ngật-lật-sang Đề-tán (Trhisong Detsen).
Không bao lâu sau khi chùa Tang-duyên được
xây dựng hoàn thành, những vị tăng sĩ
Tây Tạng đầu tiên được
thọ giới với ngài
Tịch Hộ. Nhiều ngôi chùa khác
tiếp tục được
xây dựng ở khắp nơi, nhiều
cao tăng được mời từ
Ấn Độ sang,
chữ viết Tây Tạng được
sử dụng để
phiên dịch rất nhiều
kinh điển. Mặc dù chỉ phát triển trong một
thời gian ngắn và
xúc tiến với tốc độ khá nhanh, nhưng công việc này đã được
thực hiện một cách
vô cùng thận trọng và nghiêm túc. Có những
nỗ lực rất lớn để
đảm bảo tính
chính xác cho các bản dịch, và các
thuật ngữ được
tiêu chuẩn hóa
vào khoảng năm 835 bởi một ủy ban gồm những
học giả Ấn Độ (Pandit) và các nhà
thông thái Tây Tạng (Lotsaba). Các
tiêu chuẩn học thuật được
công bố rộng rãi qua việc phát hành quyển sách Mahāvyutpatti để hướng dẫn cho những người
tham gia dịch thuật
kinh điển. Vào
triều đại của vua Khri-ral-pa-can (817-836),
ảnh hưởng của
Phật giáo phát triển đến đỉnh điểm cao nhất.
Với sự
ủng hộ của triều đình,
Phật giáo đã đẩy lùi một cách nhanh chóng những
ảnh hưởng của
tôn giáo bản địa là đạo Bon để
chiếm ưu thế và phát triển mạnh mẽ. Mặc dù vậy, nếu phân tích một cách khách quan thì
tính chất ưa chuộng huyền thuật hay
phép mầu,
thần thông của người dân
Tây Tạng có phần nào đó là do
ảnh hưởng lâu đời của đạo Bon để lại.
Ảnh hưởng này sẽ
tiếp tục ngấm ngầm
chi phối người
Tây Tạng trong việc
tiếp nhận các luồng
tư tưởng Phật giáo khác nhau.
Trong suốt giai đoạn phát triển đầu tiên của
Phật giáo,
Tây Tạng đã
tiếp nhận ít nhất bốn luồng
tư tưởng khác nhau trong những
điều kiện hoàn toàn đặc thù của đất nước này.
Luồng
tư tưởng thứ nhất đến từ phía tây, vùng thung lũng Swat. Đây là những
tư tưởng Tan-tra của ngài Padmasambhava, thường được biết hơn với danh xưng là
Đại sư Liên Hoa Sanh. Ngài được vua
Tây Tạng cho người đến thỉnh từ xứ Udyāna (Ô-trượng-na) thuộc miền Bắc
Ấn Độ. Ngài là một
vị đạo sư
tinh thông Mật tông, đã nhận lời
thỉnh cầu của vua
Tây Tạng và đến nước này cùng với 25 vị
đệ tử, tương truyền là để đẩy lùi những cơn dịch bệnh quái ác vào lúc đó đang hoành hành tại
Tây Tạng.
Tinh thần Mật tông do ngài
Liên Hoa Sanh mang đến cùng với những Tan-tra, Đà-la-ni...
rõ ràng là có sự gần gũi
đáng kể với đạo Bon, và ngài đã
thành công vượt bực ở
Tây Tạng. Những
câu chuyện kể về ngài được người dân
Tây Tạng truyền tụng mãi
đến nay luôn
gắn liền với những phép
thần thông diệu dụng mà ngài đã
hiển lộ, nhưng trên tất cả là đức
từ bi và
tinh thần vị tha,
vô ngã trong
sự giáo hóa của ngài. Theo
suy đoán thì có lẽ ngài đã truyền dạy một
hệ thống giáo pháp thuộc
Kim cang thừa, nhưng ngày nay
chúng ta không thể biết
chính xác là như thế nào.
Ấn tượng mà ngài tạo ra đối với
Tây Tạng phần lớn là nhờ vào việc
thực hiện những
phép mầu, và những huyền thoại để lại về ngài có thể là đã
vượt quá những
sự kiện lịch sử. Ngài là người
sáng lập tông phái Nyingma (Ninh-mã), ngày nay vẫn còn
tồn tại và được gọi là Cổ phái vì
tính chất cổ xưa nhất của nó.
Luồng
tư tưởng thứ hai đến từ phía nam, là sự tổng hợp các
tư tưởng Đại thừa của
thời đại Pāla do một số
học giả hàng đầu của các
đại học ở Ma-kiệt-đà truyền đến. Sự
kết hợp hệ
tư tưởng Bát-nhã với Tan-tra đã
trở thành truyền thống trung tâm của
Phật giáo Tây Tạng, và nhiều lần được đổi mới mãi
cho đến nay. Dòng
tư tưởng này
xoay quanh bộ
Hiện quán trang nghiêm luận,[1][10] một
tác phẩm của
Ấn Độ vào thế kỷ 4, sắp xếp nội dung bộ
Bát-nhã Ba-la-mật-đa thành 25.000 cặp câu theo thể kệ, thành một bảng kê
rõ ràng có đánh số để có thể ghi nhớ được, như là
bước đầu tiên trong việc
thiền quán về
bộ kinh này, và
đồng thời cũng
diễn giải theo
tinh thần của
Trung quán tông với một sự dung hợp cùng
truyền thống ôn hòa hơn của
Duy thức tông.
Vốn đã được
chú giải rất nhiều ở
Ấn Độ từ trước đó, nên khi truyền đến
Tây Tạng thì bộ
Hiện quán trang nghiêm luận trở thành nền tảng
căn bản nhất cho sự đào luyện những
tư tưởng cao hơn không thuộc
hệ thống Tan-tra, và rất nhiều
chú giải cho bộ luận này đã được các
học giả Tây Tạng biên soạn.
Luồng
tư tưởng thứ ba đến từ phía tây nam là của phái
Nhất thiết hữu bộ. Từ rất sớm, theo
lời mời của nhà vua,
bộ phái này đã từ
Ấn Độ đến
Tây Tạng và có
xây dựng một
tu viện. Nhưng sự có mặt của họ không bao lâu đã trở nên mờ nhạt vì dân chúng
Tây Tạng không mấy người
quan tâm đến những
giáo lý thiếu vắng
yếu tố phép mầu,
thần thông.
Mặc dù không thể
duy trì sự
hiện diện lâu dài trong
một thế giới của những
pháp thuật và sự
mầu nhiệm, nhưng
Nhất thiết hữu bộ cũng tạo được một
ảnh hưởng đáng kể đối với
tư tưởng của
Tây Tạng, bởi vì kinh văn của
bộ phái này gần như là phiên bản
duy nhất của
kinh điển Phật giáo thuộc
thời kỳ trước kia đã được đưa vào trong số những
kinh điển phiên dịch sang tiếng
Tây Tạng.
Luồng
tư tưởng thứ tư đến từ phía đông, do các
thiền sư Trung Hoa truyền sang. Các vị này đã có rất nhiều
nỗ lực để
giáo hóa dân chúng ở đây theo
giáo lý Thiền tông. Nhưng không bao lâu họ đã gặp phải sự bất đồng với những
học giả chính thống của
Ấn Độ theo khuynh hướng Pāla và bị thất bại
hoàn toàn. Sau đó, họ bị buộc phải rời khỏi
Tây Tạng hoặc một số ít
đi vào hoạt động không
công khai, vì thế không tạo được mấy
ảnh hưởng đối với
Phật giáo Tây Tạng.
Sự dung hợp và
tiếp thu các luồng
tư tưởng theo khuynh hướng đặc thù của người dân
Tây Tạng đã nhanh chóng tạo thành một nền
Phật giáo Tây Tạng mang đậm màu sắc của những huyền thuật và
phép mầu. Vì thế, bất chấp những
ảnh hưởng có thật của
Phật giáo Đại thừa, từ khởi nguyên
đến nay Phật giáo Tây Tạng vẫn luôn được
xem như thuộc về
Mật tông.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của
Phật giáo tại
Tây Tạng không bao lâu đã gặp phải một giai đoạn
bất lợi kể từ năm 836, khi vua
Tây Tạng đời thứ 39 là Lang-dar-ma (836-842)
lên ngôi.
Vị vua này là một
tín đồ thuần thành của đạo Bon, nên sau khi
lên ngôi ông đã ra sức làm tất cả
mọi việc để
tiêu diệt Phật giáo.
Thật là một sự
trùng hợp tình cờ khi chỉ mấy năm sau đó, tại Trung Hoa cũng xảy ra
tình trạng đàn áp, hủy diệt
Phật giáo. Đó là vào năm 845, tức niên hiệu Hội Xương thứ 5, vua
Đường Vũ Tông ban sắc lệnh hủy hoại các nơi
thờ Phật, có đến hơn 1.600 ngôi chùa lớn đã bị
phá hủy,
bức bách các vị
tăng ni phải
hoàn tục, có đến hơn 260.000 vị... Vua còn sai thu gom và đốt hết
kinh điển đạo Phật, đập phá
tượng Phật, tịch thu ruộng đất nhà chùa, thu gom các chuông đồng, khí cụ trong nhà chùa về nấu chảy thành đồng dùng để đúc tiền và nông cụ...
Lại cũng như một sự
tương hợp tình cờ, sau pháp nạn
Đường Vũ Tông phá Phật thì nhà Đường ngày càng lâm vào cảnh
suy vi,
u ám và
loạn lạc, đến năm 907 thì bị
Chu Toàn Trung diệt mất mà lập ra nhà Hậu Lương. Trong khi đó thì tại
Tây Tạng tình trạng cũng không sáng sủa gì hơn, đất nước lâm vào cảnh
phân chia manh múm giữa các
thế lực đối nghịch,
loạn lạc kéo dài đến cuối thế kỷ 10.
Phật giáo Tây Tạng gần như bị
đàn áp và
tiêu diệt hoàn toàn trong giai đoạn này, và phải đợi đến sang đầu thế kỷ 11 mới được khôi phục.
Tình trạng đàn áp Phật giáo diễn ra được 6 năm thì vua Lang-dar-ma bị một vị Lạt-ma dùng cung tên bắn chết vào năm 842. Mặc dù vậy, cái chết của ông càng đẩy
Tây Tạng đi sâu vào
tình trạng rối rắm do các
thế lực tranh giành quyền lực. Ngay trong dân chúng, những kẻ có
sức mạnh cũng tập hợp nhau hùng cứ mỗi người một nơi, khiến cho toàn cõi
Tây Tạng bị chia năm xẻ bảy, làm cho
đời sống người dân trở nên cực kỳ khốn khó. Mặt khác, triều đình đương thời vẫn
tiếp tục thẳng tay
đàn áp Phật giáo bằng cách giết hại tăng sĩ hoặc buộc họ phải đi làm thợ săn, đồ tể;
nghiêm cấm việc
dịch kinh và thu gom đốt phá tất cả những
bản kinh đã dịch...
Nhưng sự
đàn áp của triều đình
Tây Tạng không bóp chết được
niềm tin mãnh liệt đã được gieo cấy vào lòng người dân
Tây Tạng. Vì thế, sau một
thời gian dài khi có sự thay đổi về mặt chính trị và sự
đàn áp không còn nữa thì ở những vùng xa xôi nhất về phía đông và phía tây, những người
Phật tử bắt đầu nghĩ đến việc
chấn hưng Phật giáo. Họ
tìm cách tái lập mối quan hệ với An Độ và Kashmir là những nơi mà
Phật giáo vẫn còn phát triển. Một số người
Tây Tạng tự mình tìm đến các vùng này để mời thỉnh các vị tăng sĩ sang
truyền pháp.
Một trong số những người đã có công rất lớn trong việc
chấn hưng Phật giáo Tây Tạng vào giai đoạn này là Rin-chen Bzangpo (958-1055). Ông không chỉ là một dịch giả tài ba mà còn là một người
xây dựng rất nhiều đền chùa và
tự viện ở miền tây
Tây Tạng.
Bản thân ông đã sang
Ấn Độ theo học
lần lượt với 70
vị danh tăng. Khi về nước, ông còn mời thỉnh được nhiều vị theo đến
Tây Tạng để hỗ trợ cho công việc
chấn hưng Phật giáo, như các vị Tức-la-đạt-sá-la-phạm-hạnh (Sraddhākaravarman), Ba-địch-ma-sát-la-cấp-đa (Padmakaragupta), Phật-đà-tức-lợi-tân-đa (Buddhāsīsānta), Phật-đà-ba-la (Buddhapata), Cưu-ma-la-cấp-đa (Kamalagupta)... Các vị này đều là những tăng sĩ tài ba có học lực
uyên bác. Họ
mang theo đến
Tây Tạng nhiều bộ luận và
đặc biệt là rất nhiều
kinh điển Mật tông. Trong giai đoạn này có
bộ kinh Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật Đại Giáo Vương được dịch sang Tạng ngữ. Những
yếu tố thiên về
Mật tông trong giai đoạn này càng góp phần làm cho hầu hết các
tông phái Phật giáo ở
Tây Tạng được hình thành về sau đều mang đậm sắc thái của
Mật tông.
Có một
sự kiện mang tính quan trọng
quyết định là việc ngài A-đề-sa (Atişa - 982-1054) rời khỏi chùa Vikramaśīla (chùa
Siêu Giới) ở Bihār (miền Bắc
Ấn Độ) để đến
Tây Tạng.
Sự giáo hóa của ngài đã
thành lập nền
Phật giáo Đại thừa theo kiểu Pāla ở miền trung
Tây Tạng.
Năm 1076, một cuộc
kết tập kinh điển lớn diễn ra ở Tho-ling, miền tây
Tây Tạng, nơi các vị Lạt-ma từ khắp nước
Tây Tạng tụ họp về. Đây có thể xem là cột mốc quan trọng
đánh dấu sự
thiết lập của
Phật giáo tại
Tây Tạng.
Hoạt động của ngài A-đề-sa không chỉ
giới hạn trong việc
tái lập Phật giáo trên khắp nước, mà còn
sáng tạo cả một
hệ thống tính toán niên đại,
cho đến nay vẫn còn được
sử dụng ở
Tây Tạng.
Hệ thống này xác định mỗi năm theo
vị trí của nó trong một chu kỳ 60 năm, được
thiết lập từ sự
kết hợp năm
yếu tố là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cùng với 12
biểu tượng bằng những con vật: Tuất, Hợi, Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân và Dậu. Vì thế, trong phần truyện kể về các vị
đại sư tái sinh,
chúng ta sẽ bắt gặp những cách
diễn đạt thời gian như năm Kim Tuất, năm Mộc Hợi... có phần khác lạ so với lịch
pháp Trung Hoa mà ta vẫn quen dùng như Giáp Tý, Ất Sửu...
Một trong những khó khăn của
giáo lý Phật giáo là có quá nhiều
giáo pháp và phương
thức thực hành, nhiều đến nỗi rất
cần phải có một sự hướng dẫn và phân loại. Ngài A-đề-sa đã
giải quyết khó khăn này qua
tác phẩm “Minh đăng thánh đạo” (
Ngọn đèn chiếu sáng
con đường đi đến
giác ngộ, cũng thường được gọi là
Bồ-đề đạo đăng luận), trong đó ông
phân biệt những phương
thức thực hành dựa theo ba
trình độ phát triển
tâm linh. Mức độ thấp nhất là những người muốn tìm cầu
hạnh phúc trong
thế gian này và chỉ nghĩ đến
lợi ích của riêng mình. Mức độ thứ hai là những người cũng nghĩ đến
lợi ích của riêng mình, nhưng khôn ngoan hơn nên chọn một cuộc sống đời
đạo đức và tìm cầu sự
trong sạch. Mức độ cao nhất là những người trong tâm đã
giải thoát được tất cả. Nhưng
tác phẩm này chỉ phát huy được tối đa
hiệu quả của nó
vào khoảng 300 năm sau với sự
xuất hiện của ngài Tông-khách-ba.
Sự hình thành của các
tông phái Phật giáo Tây Tạng diễn ra
trong khoảng 400 năm, do chính người
Tây Tạng thành lập và có sự
điều chỉnh thích hợp theo với những
điều kiện tinh thần và
xã hội của
Tây Tạng. Vì thế,
chúng ta không lấy làm
ngạc nhiên khi thấy rằng hầu hết đều mang đậm màu sắc của
Mật tông. Qua những gì được trình bày
sơ lược ở trên, ta đã thấy là các
yếu tố huyền thuật,
phép mầu hay
thần thông đã từng
gắn bó lâu dài với người dân
Tây Tạng như thế nào.
Các vị
Tổ sư khi
thành lập mỗi một
tông phái đều
thể hiện những nét
siêu việt, xuất chúng của mình về một trong những
yếu tố góp phần tạo nên
đời sống tâm linh phong phú của
Phật giáo Tây Tạng. Các
tông phái có sự khác nhau về phương thức tổ chức
tự viện, về
y phục, về các vị thần
bảo hộ, cách
giải thích về
Bản sơ Phật,[1][11] hoặc về
phương pháp thiền định v.v...
Tuy nhiên, họ luôn có sự
tác động lẫn nhau, và cũng có cả nhiều sự vay mượn lẫn nhau.
Trước khi nói đến các
tông phái chính của
Phật giáo Tây Tạng được
thành lập vào giai đoạn sau này,
chúng ta hãy
tìm hiểu đôi nét về phái Nyingma (Ninh-mã),
tông phái cổ xưa nhất của
Phật giáo Tây Tạng, được
thành lập từ thời của
Đại sư Liên Hoa Sinh.
Trải qua suốt một
thời gian dài bị
đàn áp dã man, sự
tồn tại của phái Nyingma quả là điều
hết sức kỳ diệu. Rất có thể là nhiều người trong
tông phái này đã phải
giả dạng như các
giáo sĩ đạo Bon, hoặc lẫn trốn trong những vùng
núi rừng hoang vắng. Mặt khác, khi
nghiên cứu về
giáo lý của
tông phái này,
chúng ta cũng không thể biết chắc được những phần nào là được phát triển trong giai đoạn sau này, và những phần nào là do chính ngài
Liên Hoa Sanh truyền dạy từ trước đó.
Tông phái này
phân chia truyền thống giáo lý thành hai phần. Những lời dạy rõ nghĩa (
hiển giáo) được truyền dạy bởi các vị
tăng Ấn Độ, và những “mật tạng” là
kinh điển bí mật được ngài
Liên Hoa Sanh hoặc
đức Phật Bản Sơ cất giữ, được gọi là các Terma. Từ năm 1150 đến 1550, một số lượng
đáng kể những
kinh điển thuộc loại
bí mật này được khai quật, và sự
khám phá ra những
kinh điển này rất có thể được xem là
lý do của những
cải cách về
tín ngưỡng. Chính bản
tiểu sử của ngài
Liên Hoa Sanh hiện nay cũng là được
khám phá vào khoảng năm 1350.
Tuy nhiên, rất nhiều
kinh điển bí mật loại này
quả thật lưu giữ trong đó những
truyền thống rất cổ xưa, như được thấy rõ nhất là trong cuốn
Tử thư[1][12]
nổi tiếng.
Về
giáo pháp, phái Nyingma (Ninh-mã)
phân biệt có 6 loại
kinh nghiệm trung gian, hiểu theo nghĩa là chúng nằm
đâu đó ở khoảng giữa, một bên là
thế giới giác quan bình thường này, và bên kia là
cảnh giới tâm linh thuần túy của Niết-bàn. Ba
kinh nghiệm đầu tiên là:
1. Trong
bào thai, kéo dài nhiều tháng trước khi sinh ra.
2. Trong một số những giấc mơ có sự
kiểm soát của
tâm thức.
3. Trong
trạng thái hoàn toàn xuất thần.
Với 3
kinh nghiệm còn lại,
ý nghĩa trung gian còn được hiểu thêm là vì chúng xảy ra
trong khoảng thời gian giữa sự chết và sự
tái sinh vào
đời sống mới, được cho là kéo dài trong 49 ngày. Trong
thời gian đó, thân xác bằng xương thịt thông thường này được thay thế bằng một loại thân xác rất
tinh tế. Cuốn
Tử thư đã
mô tả rất tỉ mỉ một số
chi tiết các
hình ảnh rất có thể sẽ
hiện ra với những ai
hiểu biết nhiều về
truyền thống tu tập trong suốt thời gian đó.
Tác phẩm này còn giữ lại được một số
kiến thức cổ xưa của
thời kỳ đồ đá về
đời sống sau khi chết, và cho thấy những điểm giống nhau đáng
kinh ngạc với những
truyền thống khác được
tìm thấy trong các văn bản cổ của Ai Cập, Ba Tư và
Thiên Chúa giáo.
Phái Nyingma (Ninh-mã) khác biệt với các
tông phái khác ở điểm là họ
sử dụng ngay cả những
yếu tố thường bị chê bỏ. Chẳng hạn như sự
sân hận và
dục vọng, và ngay cả xác thân nhục dục vốn bị xem là sự ngăn trở, nguồn gốc của
tội lỗi, đã được
tông phái này
sử dụng như những
phương tiện để làm
phong phú hơn nữa cho
đời sống tâm linh. Nói chung, những
tư tưởng của họ đều
phù hợp với
quan điểm Tan-tra được
cải tiến ở
Ấn Độ.
Trình tự
công phu của
tông phái này như sau:
1. Sự
sáng tạo tinh thần của các vị
hộ pháp, nhờ vào sự
trợ lực của các man-tra, các
hình ảnh tưởng tượng, và các vị
không hành nữ (dākinī).[1][13]
2. Sự
kiểm soát được thân xác
bí ẩn, gồm các mạch máu, tinh dịch .v.v...
3. Sự
nhận thức được
bản tánh chân thật của
tự tâm.
Bồ Tát Phổ Hiền (Samantabhadra), một vị
Bồ Tát hóa thân rất gần gũi với
đức Phật Đại Nhật, là nguồn
hiển lộ cao cả nhất của giai đoạn thứ ba. “Chân như,
bao gồm cả tự thân, về
bản chất không phải là sự
trói buộc, tại sao phải tự mình
tìm cách thoát khỏi sự trói buộc?
Chân như vốn không lừa dối, tại sao lại
tìm kiếm chân lý từ bên ngoài?”
Vì vậy, sự
kiềm chế bị phủ nhận trong những nguyên tắc
đạo đức Phật giáo. Một người
hoàn thiện về mọi mặt không hề
kiềm chế dục vọng,
sân hận... mà chỉ
chuyển hóa chúng một cách
thích hợp.
Trong những phần
giáo lý cao nhất, phái Nyingma (Ninh-mã)
tỏ ra rất gần gũi với
Thiền tông, theo đó
hình thức cao nhất của Du-già hàm chứa việc
nhận ra được
bản tánh chân thật của
tự tâm. Cũng giống như
Thiền tông,
tông phái này nói đến sự
giác ngộ với
ý nghĩa có phần nào khác với các nhà
Phật học Ấn Độ. Họ tin rằng một người đã
đạt đến Niết-bàn ngay tại nơi này và trong
hiện tại, với mọi
hành vi đã thoát ra ngoài
nhân quả thì có thể làm tan biến xác thân của mình vào một vệt sáng cầu vồng.
Tông phái Nyingma (Ninh-mã) tập trung nhiều vào phần
giáo lý bí truyền và sự
chứng ngộ tự thân, nghiêng về
trực giác nội tâm hơn là những
tri thức có thể
truyền đạt được. Mãi
cho đến thời gian cách đây chừng
một thế kỷ,
tông phái này không hề có những sự
nghiên cứu học thuật nào theo kiểu phái Gelugpa (Cách-lỗ, tức Hoàng phái, vì họ luôn
sử dụng y phục màu vàng). Nhưng
gần đây đã có một vài nơi
thực hiện việc này, do sự
ảnh hưởng của các
tông phái khác.
Phái Nyingma (Ninh-mã) có
ảnh hưởng rất lớn đối với dân chúng, nên phần lớn các
tông phái khác đều kính nể họ. Chẳng hạn, khi những người thuộc phái Gelugpa muốn tiên đoán tương lai, thường họ không tự làm điều đó mà nhờ đến một
nhà sư tiên tri của phái Nyingma (Ninh-mã).
Phái Nyingma đã
hấp thụ rất nhiều
yếu tố của đạo Bon, và chính trong
tông phái này
Phật giáo và đạo Bon
tiếp tục có sự
tác động qua lại.
Tiếp theo đây,
chúng ta sẽ
lần lượt đề cập đến các
tông phái khác, được hình thành vào giai đoạn sau này và hầu hết đều có ít nhiều chịu
ảnh hưởng sự giáo hóa của ngài A-đề-sa.
Trước hết là phái Kadam (Cam-đan) do một
đệ tử của ngài A-đề-sa là ngài Gyalwa Dromtonpa
thành lập vào khoảng năm 1050. Tên gọi của
tông phái này hàm nghĩa là họ
tuân theo những lời chỉ dạy của A-đề-sa, như được trình bày trong cuốn sách của ông về “phương thức
đạt đến giác ngộ”.
Tông phái này
tiêu biểu cho
truyền thống trung tâm của
Phật giáo Tây Tạng, và tạo thành mối
liên hệ giữa các
học giả An Độ trong
thời kỳ đầu với phái Gelugpa,
tông phái giữ quyền cai trị
Tây Tạng sau năm 1400. Họ rất chú ý đến
đạo hạnh và
giới luật,
giữ gìn phạm hạnh[1][14] một cách
nghiêm khắc.
Tông phái này đã sản sinh ra nhiều bậc
thánh giả uyên bác.
Một phái lớn khác nữa là Ca-nhĩ-cư (Kagyu) do ngài Marpa Lotsawa (1012-1097)
sáng lập, có một quan hệ chặt chẽ hơn nhiều với
đời sống của giới
quần chúng bình dân.
Trải qua sự
thử thách của
thời gian,
tông phái này đã
dần dần trở thành một
tông phái mang đậm bản sắc
Tây Tạng nhất so với tất cả các tông khác. Thường họ không
thành công nhiều trong việc nắm giữ hoặc
chi phối các
quyền lực xã hội như các phái Śākya (Tát-ca) và Gelugpa. Trong việc
tu tập, phái này không
nhấn mạnh những
kiến giải về
lý thuyết, mà nhắm đến sự
chứng ngộ thực tiễn. Hiện nay, phái này vẫn còn là một trong những
tông phái mạnh
nhất không cải cách. Về mặt
lý thuyết, phái này xem việc
lập gia đình không
cản trở tín ngưỡng.
Trong phái này có sự
xuất hiện của Milarepa (1040-1123), bậc
thánh giả và nhà thơ vĩ đại,
nổi tiếng nhất của
Tây Tạng, là
đệ tử trực tiếp của Marpa. Hầu hết người dân
Tây Tạng đều đã từng nghe qua một phần nào đó trong
tác phẩm nổi tiếng Thập vạn ca (100.000 bài ca) của ngài, và ai ai cũng
quen thuộc với những
sự kiện chính trong
cuộc đời ngài. Như việc ngài đã học
ma thuật như thế nào, rồi tự mình
trả thù những
kẻ thù của
gia đình bằng cách làm cho nhà sập đè lên họ, và làm mưa đá rơi trên ruộng của họ. Và ngài đã nhanh chóng
nhận thức được
tội lỗi của mình, rồi vì sợ phải bị đọa
địa ngục nên tìm cầu sự
trong sạch bằng những
phương pháp trực tiếp của
Kim cang thừa. Rồi năm 38 tuổi ngài tìm gặp Marpa, người đã
hành hạ ngài suốt trong 6 năm để giúp ngài trả hết những
nghiệp ác đã tạo. Và năm 44 tuổi ngài sẵn sàng để được
khai ngộ, rồi sống 39 năm còn lại như một nhà ẩn tu trên núi Hy-mã-lạp gần
biên giới Nepal, hoặc đi lại đây đó để
giáo hóa dân chúng,
cho đến khi ngài tịch vì uống sữa pha thuốc độc của một người
ganh ghét ngài.
Một số những
sự kiện có kịch tính nhất của đời ngài Milarepa xảy ra trong những năm đầu sau khi được
khai ngộ, khi ngài sống
một mình trong hang động, chỉ ăn toàn rau cỏ
cho đến khi trở nên xanh mét, và chỉ mặc một bộ
y phục bằng vải mỏng trong sự rét buốt của
mùa đông. Ngài không bao giờ
quan tâm đến
tài sản và
tiện nghi, và luôn giữ
lòng từ bi đối với tất cả
chúng sanh.
Những
tác phẩm văn chương phong phú của
tông phái này
bao gồm phần lớn là những tập sách mỏng hướng đến việc dạy cách
thực hành những phép Du-già khác nhau. Với tính
thực tiễn, họ luôn
đặc biệt chú ý đến phép gtum-mo, tức là cách tạo ra hơi ấm
huyền diệu trong
thân thể. Không có phép luyện
công phu này,
đời sống trong các túp lều
ẩn dật sẽ không thể nào
chịu đựng được. Đây cũng là điều mà những người ở tầm mức trung bình có thể
nhận biết được, và có thể làm cho họ tin được vào sự
chân thật và
hiệu quả của phép Du-già.
Phái
tiếp theo là Shi-byed-pa,
chú tâm đến một
hình thức đặc biệt của
giáo lý Bát-nhã được
giới hạn cho một số ít những người có
trình độ cao.
Tông phái này được
thành lập khoảng năm 1090,
nổi bật về mặt
tín ngưỡng nhiều hơn so với mặt
xã hội. Họ không tổ chức chặt chẽ bằng các
tông phái khác, và
bao gồm những nhóm người luyện Du-già, hoặc các nhà ẩn tu. Họ dành trọn
tâm trí cho việc
thực hành thiền định ở những nơi
cách biệt, và có mối quan hệ nội bộ khá mờ nhạt.
Giáo lý của phái Shi-byed-pa
trước tiên do Pha-dam-pa
đề ra. Ông là một vị thầy người Nam Ấn, với những
giáo lý ảnh hưởng rất nhiều từ ngài
Thánh Thiên (Āryadeva) và
từ bộ Trung quán luận. Đây là một sự
điều chỉnh những điểm cốt yếu về mặt
tâm linh của
Phật giáo cho
phù hợp với
giáo lý Tan-tra. Sự
tu tập được chia thành hai giai đoạn: Trước hết là làm
trong sạch tinh thần bằng cách
lìa bỏ dục lạc; sau đó là làm
an định tinh thần bằng cách loại trừ mọi
đau khổ và
đạt đến tâm bình thản.
Đối với giai đoạn thứ nhất,
hành giả dựa vào các
phương pháp thiền quán nhắm đến
dẹp bỏ những
ác tâm vốn luôn
cám dỗ con người vào những
tư tưởng xấu. Đối với giai đoạn thứ hai,
hành giả chủ yếu
dựa vào việc trì tụng các man-tra, chẳng hạn như man-tra của
Tâm kinh[1][15]
xoa dịu mọi
đau đớn, hoặc tụng đọc những câu
châm ngôn ngắn nói về
bệnh khổ, niềm vui, cái chết và
dục lạc.
Tông phái tiếp theo là phái Saskya (Tát-ca), có những nét gần gũi hơn với
đời sống thế tục. Phái này được đặt tên theo
tu viện chính của họ là Saskya,
thành lập vào năm 1073. Họ tạo ra đối trọng cân bằng với hai phái Kadam (Cam-đan) và Shi-byed-pa bằng sự
hoàn hảo trong cách tổ chức. Sau khi chế độ quân chủ sụp đổ,
Tây Tạng không có chính quyền trung ương. Các tăng sĩ của phái này đã nắm lấy chính quyền, và truyền nối ngôi vị cho con cháu. Phags-pa (1235-1280) là một trong những người xuất sắc nhất trong số những nhà cai trị mới được
kế thừa, và
địa vị lãnh đạo này của ông đã được đại đế Khubilai[1][16]
thừa nhận.
Tông phái này đã
đào tạo được nhiều nhà
thông thái. Hiện nay họ vẫn
tồn tại nhưng đã từ lâu không còn nắm quyền cai trị đất nước.
Một
tông phái nổi tiếng khác nữa phải nhắc đến là phái Gelugpa (Cách-lỗ).
Tông phái này được
sáng lập bởi ngài Tông-khách-ba[1][17] (1357-1419), nhà
tư tưởng vĩ đại của
Phật giáo Tây Tạng. Ngài là một nhà
cải cách đã
tiếp tục công việc
giáo hóa của ngài A-đề-sa,
nhấn mạnh đến việc
tuân theo các chuẩn mực
đạo đức và
giới luật,
điều hành chặt chẽ công
việc hằng ngày của
chư tăng, giảm nhẹ
ảnh hưởng của
pháp thuật bằng cách
nhấn mạnh vào khía cạnh
tâm linh. Phái Gelugpa (Cách-lỗ) hay Hoàng phái do ngài
sáng lập là phái đã nắm quyền cai trị
Tây Tạng cho đến năm 1950. Ngài là vị
học giả vĩ đại, luôn
cố gắng để tìm một
vị trí trung dung giữa những
cực đoan, tránh sự
thiên lệch, và nhờ đó
đạt đến kiến thức bao quát
toàn diện.
Ảnh hưởng của ngài Tông-khách-ba được kéo dài nhờ vào số
đệ tử rất đông, nhờ vào việc
thành lập các
tự viện sung túc, nhiều
thế lực, và nhờ vào 16 bộ sưu tập các
tác phẩm của ngài. Trong số đó, phải kể đến 2 tập yếu lược chỉ rõ những phương thức
tu tập để
đạt đến sự giải thoát, một tập trình bày đầy đủ về sáu phép ba-la-mật của
Đại thừa, và tập kia nói rõ những phương thức
công phu theo
Mật tông. Tập sách đầu gọi là “Từng bước
đi lên giác ngộ”, dựa theo khuôn mẫu từ tập sách Minh đăng
thánh đạo của ngài A-đề-sa, nhưng chú ý nhiều hơn đến những người không có năng khiếu
đặc biệt.
Sau khi
viên tịch, ngài Tông-khách-ba được dân chúng thờ kính nhiệt thành, và được tin là đã sinh về
cung trời Đâu Suất để
thành Phật trong tương lai.
Với sự hình thành đa dạng của các
tông phái,
tăng đoàn Phật giáo đã bám rễ
vững chắc trong đời sống dân chúng
Tây Tạng. Vào thế kỷ 15, những
môn đồ của ngài Tông-khách-ba đã
diễn giải một số
giáo lý cổ xưa theo cách
phù hợp với những
điều kiện xã hội hiện tại. Họ tin rằng chư Phật và
Bồ Tát có thể
hóa hiện ra những thân xác
hoàn toàn không khác gì với thân xác của người thường (
hóa thân), và
sử dụng những
hóa thân ấy để
cứu độ,
giáo hóa. Đây không phải là sự
tái sinh, mà là sự
sáng tạo vô ngại bằng
năng lực thần thông của các ngài để
thực hiện những
hạnh nguyện của mình, trong khi các ngài vẫn thường
an trú trong
trạng thái không tạo tác.
Cũng vào thế kỷ 15, phái Gelugpa (Cách-lỗ) đưa ra một
hình thức minh chứng
cụ thể cho phần
giáo lý này. Họ tin rằng các vị
Bồ Tát (như đức
Quán Thế Âm và Di-lặc) và chư Phật (như
đức Phật A-di-đà)
chắc chắn đã có
hóa hiện ra những
hóa thân của các ngài để làm các vị
giáo chủ độ sinh.
Những
hóa thân tái sinh này được các vị
cao tăng tìm kiếm và
xác nhận một cách
hết sức cẩn thận,
dựa trên những
quy luật cũng chi ly và
phức tạp như là những
quy luật đã giúp cho
Hội đồng Lễ nghi có thể
phân biệt được những
phép mầu chân chính với
ma thuật.
Vai trò lãnh đạo của những vị
hóa thân tái sinh này là nét đặc trưng của
Tây Tạng trong suốt gần 5 thế kỷ qua.
Vai trò lãnh đạo này cũng mang lại một sự ổn định
xã hội, và
cho đến năm 1950 đã
tỏ ra hiệu quả trong việc
bảo vệ Phật giáo trước sự tràn ngập của nền
văn minh hiện đại. Hơn thế nữa, các vị Lạt-ma còn
chứng tỏ một cách đáng
ngạc nhiên là họ
hoàn toàn không bị
ảnh hưởng của
lòng ham muốn như những người thường, vốn là
nguyên nhân chính dẫn đến mọi khổ đau và
tội lỗi.
Vai trò lãnh đạo đương nhiên của các vị Lạt-ma được hỗ trợ bởi sự
nới rộng các
lãnh vực tinh thần mà họ
quan tâm, có thể thấy trong những
chương trình học tập mà phái Gelugpa (Cách-lỗ)
áp dụng, trong
hệ thống các vị thần
rộng rãi và đa dạng, và trong sự
hiện diện khắp nơi của những đối tượng
tín ngưỡng.
Các
trường hợp tái sinh không phải là điều mà
thế giới phương Tây dễ dàng
chấp nhận như một
sự thật. Điều tất nhiên là họ cố
tìm ra những cách
giải thích “hợp lý” nào đó về sự
tái sinh của các ngài để không phải tin rằng đó là những biểu hiện
cụ thể của
năng lực tâm linh.
Tuy nhiên, nhiều thế kỷ đã
trôi qua và câu
trả lời cho
vấn đề chính là sự
xác nhận bằng
thực tế. Không chỉ có một, mà là nhiều
dòng truyền thừa khác nhau tại
Tây Tạng vẫn
duy trì được
hình thức tái sinh của các vị
Tổ sư đứng đầu tông phái, cho dù họ có những khác biệt
nhất định về sự chọn lựa
tái sinh cũng như các
phương pháp tìm kiếm.
Dòng
tái sinh được nhiều người biết đến nhất tại
Tây Tạng là các vị Đạt-lai Lạt-ma của phái Gelugpa. Sự
nổi bật của các vị Đạt-lai Lạt-ma là do
vai trò nắm quyền cai trị đất nước của họ
trong suốt nhiều thế kỷ qua.
Cho đến nay, đã có 14 vị Đạt-lai Lạt-ma ra đời, được tin rằng chỉ là
hóa thân tái sinh của
duy nhất một vị mà thôi. Tên các vị được kể ra như sau:
1. Gendun Drub 1391-1475
2. Gendun Gyatso 1475-1542
3. Sonam Gyatso 1543-1588
4. Yonten Gyatso 1589-1617
5. Losang Gyatso 1617-1682
6. Jamyang Gyatso 1683-1706
7. Kelsang Gyatso 1708-1757
8. Jampel Gyatso 1758-1804
9. Lungtog Gyatso 1806-1815
10. Tsultrim Gyatso 1816-1837
11. Kedrub Gyatso 1638-1856
12. Trinle Gyatso 1856-1875
13. Tubten Gyatso 1876-1933
14. Tenzin Gyatso 1933 –
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 hiện vẫn đang còn sống và là một trong số các vị
lãnh đạo tinh thần của
Phật giáo thế giới nói chung, của
Tây Tạng nói riêng.
Sự
nổi bật của các vị Đạt-lai Lạt-ma đã khiến cho rất nhiều người lầm tưởng rằng các ngài là những vị
lãnh đạo tinh thần của
toàn thể nhân dân Tây Tạng. Nhưng thật ra, như
chúng ta vừa
tìm hiểu trên,
Tây Tạng có rất nhiều dòng phái khác nhau, và mỗi phái đều có một vị
lãnh đạo tinh thần tối cao của riêng mình. Vì thế, mặc dù đức Đạt-lai Lạt-ma được xem là người
lãnh đạo cao nhất của
Tây Tạng về mọi mặt, nhưng mỗi một
truyền thống tâm linh của đất nước này đều có một vị
đứng đầu để dẫn dắt họ.
Trường hợp của dòng Karma Kagyu (Cát-mã Ca-nhĩ-cư) là một ví dụ
cụ thể. Hơn thế nữa,
truyền thống tái sinh của các vị Karmapa phái Karma Kagyu còn được khởi đầu từ thế kỷ 12, nghĩa là sớm hơn so với các vị Đạt-lai Lạt-ma
đến gần 3 thế kỷ. Vì thế, họ được xem là những người đầu tiên đã khởi xướng
truyền thống tái sinh tại
Tây Tạng.
Kagyu (Ca-nhĩ-cư) là một trong các
tông phái lớn tại
Tây Tạng. Theo sự phát triển về
giáo pháp và phương thức
tu tập, phái này đã
phân chia thành nhiều dòng phái nhỏ hơn. Có
ít nhất bốn dòng phái được phát sinh từ phái này là Karma Kagyu, Tsalpa Kagyu, Baram Kagyu và Phagmo Drukpa Kagyu.
Ngoài ra còn có dòng Shangpa Kagyu được
thành lập vào khoảng thế kỷ 14, tuy có một
hệ thống giáo pháp riêng biệt nhưng cũng có quan hệ rất chặt chẽ với phái Kagyu.
Karma Kagyu (Cát-mã Ca-nhĩ-cư) là một trong các dòng kể trên của phái Kagyu, với sự
truyền thừa liên tục qua sự
tái sinh của vị
đứng đầu dòng phái kể từ đầu thế kỷ 12
cho đến nay. Trong dòng phái này, không chỉ có sự
tái sinh của các vị Karmapa (Cát-mã-ba)
đứng đầu dòng phái, mà còn có cả sự
tái sinh của các vị Shamar, Situ và Gyalashab là những người luôn
tiếp nối làm
đệ tử nối pháp của đức Karmapa.
Những
câu chuyện về các vị
đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà
chúng ta sẽ
tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa
sống động cho
truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
Trải qua quãng
thời gian dài hơn 8 thế kỷ, các vị vẫn
kiên trì thực hiện tâm nguyện độ sinh của mình qua các
hình thức tái sinh không
gián đoạn. Những gì được ghi lại nơi đây về
cuộc đời của các vị
đại sư tái sinh – hay phải nói
chính xác hơn là những lần
tái sinh của chỉ một
hóa thân Bồ Tát, vì hiện nay vị Karmapa đời thứ 17 vẫn đang còn sống –
hoàn toàn là những
sự kiện khách quan, đúng thật như chúng đã từng xảy ra.
Nếu như có những
ý nghĩa về
giáo pháp hay
niềm tin tỏa sáng từ chính những
sự kiện này khi chúng được kể lại, thì đó cũng chính là
công đức vô lượng của
hạnh nguyện Bồ Tát mà bậc
đạo sư đã nêu cao bằng sự dấn thân không
mệt mỏi của chính mình.
Nguyên Minh [1][1] Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 4, phẩm
Như Lai tánh, phần 1, bản Việt dịch của Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến, NXB
Tôn giáo.
[1][2] Mantra, những
âm thanh đặc biệt khi đọc lên có
công năng gợi một
sức mạnh siêu hình hoặc gây ra một
tác động huyền bí nào đó.
[1][3] Dhāranī, dịch nghĩa là
Tổng trì (總持), nghĩa là thâu nhiếp tất cả. Thật ra, tuy cũng là dạng
thần chú như Mantra, nhưng những câu đà-la-ni
thường có độ dài hơn.
[1][4] Ấn: Mudrā, tức là việc
sử dụng hai bàn tay đặt theo những tư thế
nhất định trong khi đọc chú,
hành lễ hoặc
cầu nguyện.
[1][5] Maņdala, dịch nghĩa là
Viên tướng, hay vòng tròn, được
sử dụng như những
hình ảnh thiêng liêng nhắm đến những
mục đích nhất định trong các
nghi lễ.
[1][6] Mahāsukha, Hán dịch nghĩa là
đại an lạc (大安樂).
[1][7] Nếu so với quá trình hình thành chữ Nôm ở nước ta cũng có thể thấy được sự
phi thường này. Chữ Nôm được bắt đầu chế tác từ rất sớm – có thể là trước thế kỷ 10 – nhưng mãi đến khi được thay thế bằng chữ Quốc ngữ như hiện nay vẫn
chưa bao giờ được
sử dụng như một loại
chữ viết chính thức và hoàn chỉnh của cả nước.
[1][8]
Chúng tôi dẫn theo Edward Conze trong A Short History of Buddhism. Có
tài liệu khác cho rằng chùa này được khởi công
xây dựng vào năm 749, tức năm Thiên Bảo thứ 8 đời Đường
Huyền Tông. Không biết là do
thời gian xây dựng chùa kéo dài hay có sai lệch giữa hai nguồn tài liệu?
[1][9]
Tịch Hộ (寂護) là một vị
cao tăng Ấn Độ, thuộc
Trung quán tông, người đã truyền
Phật giáo sang
Tây Tạng trong
thời kỳ đầu tiên. Tuy có một số tăng sĩ
truyền giáo đã đến
Tây Tạng trước đó, nhưng ngài là người đầu tiên còn để lại dấu vết
cho đến nay. Niên đại của ngài không được
rõ ràng. Có thuyết cho là ngài sinh năm 725 và mất
trong khoảng năm 784 hoặc 788 (Trung Hoa
Phật học toàn thư). Nhưng theo
Phật Quang Từ điển thì niên đại của ngài là 700–760. Và còn có một thuyết nữa cho là ngài sinh năm 750 và mất năm 802 (Từ điển
Phật học của
Chân Nguyên). Căn
cứ theo năm
xây dựng chùa Tang Duyên và số năm ngài hoằng hóa tại chùa này thì
giả thuyết sau cùng này có lẽ là
chính xác nhất.
[1][10] Abhisamayālańkāra, Hán dịch là
Hiện quán trang nghiêm luận (現觀莊嚴論), tên đầy đủ là Abhisamayālaṃkāra-nāma-prajđāpāramitopadeśa-śāstra, Hán dịch là
Hiện quán trang nghiêm Bát-nhã ba-la-mật-đa Ưu-ba-đề-xá luận (現觀莊嚴般若波羅蜜多優波提舍論), được cho là bộ luận của ngài Di-lặc.
[1][11] Ādibuddha, Hán dịch âm là
A-đề Phật (阿提佛), dịch nghĩa là
Bản sơ Phật (本初佛).
[1][12] Bardo Thődol – tập sách
nổi tiếng mô tả về cái chết và những
trạng thái tâm thức sau khi chết, đã được dịch sang Anh ngữ với nhan đề “The Tibetian Book of the Dead”. Hiện đã có bản dịch Việt ngữ của Nguyên Châu - Nguyễn Minh Tiến, nhan đề “Người
Tây Tạng nghĩ về cái chết” (hay Người chết đi về đâu), NXB
Văn hóa Thông tin.
[1][13]
Không hành nữ hay
không hành mẫu,
nghĩa đen là những người nữ có khả năng
phi hành giữa không trung. Trong
truyền thống Mật tông, các vị này được
xem như những biểu hiện của sự
giác ngộ, thường
hiện ra để truyền dạy
pháp yếu cho các
hành giả khi họ
tu chứng đến một
cảnh giới nhất định.
[1][14]
Phạm hạnh: hạnh
trong sạch được
thể hiện qua việc dứt hẳn sự
dâm dục.
[1][15] Tức Bát-nhã
tâm kinh (般若心經),
hay nói đủ là
Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh (摩訶般若波羅蜜多心經). Ở đây được
sử dụng như một
thần chú.
[1][16] Cũng viết là Kublai Khan hay Kubla (1215-1294),
hoàng đế đầu tiên (1279-1294) của
triều đại do
Mông Cổ thiết lập cai trị Trung Hoa, có
thế lực bao trùm vào thời đó. Ông là cháu nội của
Thành Cát Tư Hãn, và là người đã
mở rộng đế quốc
Mông Cổ thành một trong những đế quốc lớn
nhất thế giới.
[1][17] Tsongkhapa (1357-1419), người đã
áp dụng hệ thống giáo dục Geshe
nổi tiếng, theo đó tăng sĩ được
đào tạo ở các
tự viện cho đến khi đạt
trình độ tương đương với học vị
tiến sĩ triết học Phật giáo. Ngày nay, tăng sĩ thuộc phái Gelugpa (Cách-lỗ) vẫn được
đào tạo theo
hệ thống giáo dục này.
(rongmotamhon.net)