Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 5 Nguyên Lý Tâm Lý Học Phật Giáo Và Bệnh Lý Xã Hội Đương Tiền

20 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 4580)
Chương 5 Nguyên Lý Tâm Lý Học Phật Giáo Và Bệnh Lý Xã Hội Đương Tiền

CHƯƠNG V
NGUYÊN LÝ TÂM LÝ HỌC PHẬTGIÁO
VÀ BỆNH LÝ XÃ HỘI ĐƯƠNG TIỀN


SỰ CẢI QUAN CỦA TÂM LÝ TRỊ LIỆU 

 Rollo May thảo luận đến “vấn đề khu vực” (problem areas) khi biến đổi một cách trọng đại trên phương diện Bệnh Lý Học tâm lý, ông đã giác sát đến 20 thế kỷ của thời kỳ đầu tiên, sự chú trọng đến vấn đề khó khăn của con người ngay trên phương diện bản năng, nhất là vấn đề phương diện tánh đã chiếm cứ toàn thể tâm tư của Sigmund Freud. Otto Rank và Alfred Alder thì biến đổi hứng thú đối với sự chuyên môn nghiên cứu vấn đề tự ti cảm, tội cảm và vấn đề không thích đáng trên mặt tinh thần. Chủ đề của nữ tướng của tân phái Sigmund Freud, bà Karen Horney, thì lại đặt trên sự xung đột cá thể và đoàn thể. Điểm nóng bỏng chủ yếu trong đời sống hiện nay thì lại đặt trên vấn đề bất an, cô đơn quạnh quẽ (loneliness) và trống rỗng hoang vu (emptiness). 

 Rollo May đã từng bảo : “Vấn đề của hiện tại không nằm ở chỗ xã hội cấm kỵ về hoạt động tánh hoặc là tội cảm của bản thân tánh mà trên thực tế nếu đối với rất nhiều người để nói thì tánh là kinh nghiệm, cơ giới thức là trống không và vô mục đích. Ông ta còn nêu rõ ràng loại “nội tâm trống vắng” nầy không nên chỉ giới hạn ở phòng chẩn đoán của bác sĩ tâm lý trị liệu mà nên sưu tập thêm nhiều tư liệu xã hội học để chứng thực một cách rộng rãi sự tồn tại của hiện tượng nầy. 

 Bệnh lý xã hội ngày nay như đã được đề ra với kiện tướng tân học phái Sigmund Freud là Erik Erikson đó là nguy cơ đồng nhất, đồng dạng (identity crisis) tức trong 8 giai đoạn (từ nhỏ đến già) của sự phát triển nhân cách, cá thể cần phải đạt thành đồng nhất cảm một cách chánh diện (như tự ngã xác nhận, thành tựu kỳ vọng, tánh đồng nhất v.v…), nếu không nhiễu loạn vai trò của cá thể, thì cũng sản sanh ra sự xa lìa, cách biệt (bệnh tinh thần) (alienation). Cái gọi là sơ ly (mối bất đồng, sự xa lánh) chính là lúc không thể nào giải quyết được nguy cơ đồng nhất, nên bèn sanh ra sự không tín nhiệm người khác, vô năng cảm v.v… do vậy lại càng cho rằng thế giới chung quanh là hiện tượng lạnh buốt như băng và đây chính là điểm đặc sắc của sơ ly (sự xa lánh). Học thuyết Erik Erikson đã không chỉ là tâm lý học mà còn có thêm xã hội học, quan điểm và sắc thái của nhân loại học… 

CÁ THỂ CỦA VÔ BIỂU TÌNH TRONG THẾGIỚI BIẾN THIÊN 

 Trong xã hội hiện đại và dưới thể chế kinh tế, vi phản nhân tánh là một sự kiện rất rõ ràng : cơ giới hóa và phân công lao lực đã khiến cho công nhân trở thành nô lệ một cách máy móc, công tác biến thành đon điệu, phiền chán và không có mảy may ý nghĩa nào. Sự hứng khởi to lớn của công xưởng được vận tác dưới thể chế quan liêu, công tác tập quán của cơ giới thức đã làm cho công nhân cảm nghiệm một cách sâu sắc về tâm bất xứng đối với công việc của chính mình. Thêm vào đó sau khi bị đô thị hóa, sinh hoạt của đô thị bị rơi vào tình trạng khẩn trương, thiếu an lạc, lưu động dời đổi luôn luôn đã khiến cho con người hình thành cảm giác vô cănvô năng

 Thiếu mục tiêu nội tại để chỉ đạo sinh mạng cá thể đã khiến cho cách điệu sinh mạng của sự không chân thật dẫm nát tâm linh. Thường xuyên cự tuyệt nhận thức của chính mình, khiến sự trưởng thành của tự ngà nhận (self-knowledge) bị cản trở. Thiếu tự ngã nhận thức và tự ngã hướng đạo (self-direction) là đặc sắc của con người hiện đại của chúng ta. Tình thế nầy, không những chỉ sáng tạo ra một loại nhân cách lẻ nát và thương tàn, mà còn khiến cho chúng ta và người khác trong vấn đề kiến lập sự quan hệ ấm áp sẽ biến thành ảnh bọt (bèo bọt và hình bóng), vì thế khiến cho con người biến thành một loại người bệnh thái của đạo hình (other-oriented). Do sự cạn cùng trống vắng của nội tại và vì để trốn tránh một nội tại trống hoang nên đã khiến cho con người hướng theo người khác và có ý đồ tìm đến những nơi cần viện trợ, nhưng, kết quả là cả hai bên đều trống rỗng, đây chính là đô thị bệnh thái (sick cities) của tâm cảnh nhân loại

 Cá thể, xã hộikhông gian tâm lýxã hội đã sáng tạo là một loại bệnh thái xã hội, cho nên tâm bệnh lý học (vốn là để chữa trị những người có hành vi đặc thù thất thường) hiện tại cần phải mở rộng cơ sở và cải biến mục tiêu trị liệu

NGUY CƠ ĐỒNG NHẬN DƯỚI SỰ PHÂN TÍCH TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO

 Phật giáo đề ra hai phương diện để nhận xét
Gia tăng trùng kiến “người chân chính” (authentic person), vì con người xã hội hiện đại thiếu tự ngã nhận thức và tự ngã hướng đạo. Do vậy chủ trương làm cho con người có được sự thâm tỉnh của Phật giáo có thể ứng hợp với nhu cầu của con người hiện đại, hơn nữa, chủ trương nầy của Phật giáo có thể phối hợp lẫn nhau với Tâm lý học nhân tính và Tâm lý học tồn tại
Ứng dụng của tâm lý học Phật giáo, tức là dùng quan điểm vô ngã để đối phó với nguy cơ đồng nhận, dùng vô ngã để phá trừ tự ngã lân ái (self-love), tự ngã ghét hận (self-hatred), tự ngã trừng phạt (self-punishment) và tự ngã chấp trước (ego-attachment) v.v… 

TỰ LUYẾN (NARCISSISM) 

 Căn cứ theo Orrine Klapp thì sau khi kiểm nghiệm có sự liên quan đến chứng trạng cộng đồng của vấn đề đồng nhận đã chỉ rõ : Tự ngã quan tâm quá đáng với tự luyến là khởi nhân của vấn đề nhận đồng. Tự luyến phát nguồn ở câu chuyện của một nhân vật thần thoại Hy Lạp là Narcissus đã ôm bóng hình của sự tiếc thương và gieo mình xuống nước. Sigmund Freud lợi dụng câu chuyện nầy để giải thích về tâm lý bệnh hoạn đối với sự chấp trước bệnh lý bản thân. Người tự luyến không những đối với thân thể mình cảm thấy kiêu ngạo, mà còn phát triển ý đồ cố chấpđịa vị xã hội, tài sản, phong thượng, khái niệm và ý thức hình thái. Đức Phật từng dạy tôn giả A Nan (Ananda) rằng : “Do bởi thân thể nên dẫn lên giả tưởng ngã và cảm giác, tri giác, hoạt độngý thức khác, đây là do ở giả tưởng hữu ngã mà suy diễn ra”. 

 Ngoài ra, tự hận (self-hatred) là phản ứng được tạo tác bởi tiêu trầm và ưu uất đối với tự luyến, là mặt phủ định của tự luyến. Tự hận cũng có thể nói là “Đồng nhận tuyệt vọng” (Identity despair), thông thường xảy ra ở thời kỳ cuối cùng của sinh mạng. Đồng nhận tuyệt vọng có thể đưa đến việc tự sát, rất nhiều người cũng đã trải qua một loại liều lĩnh tuyệt vọng một cách lặng lẽ (quiet desperation). 

CÔ ĐƠN, CÔ TỊCH (LONELINESS) 

 David Riesman trong sách “Quần chúng Cô Đơn” (Lonely Crowd) đã đề cập đến tình trạng nhân loại bị cưỡng bách xã giao tánh (compulsive gregrariousness) như tham gia câu lạc bộ và những tình hình cuồng nhiệt để bù vào những hoạt động trong lúc hư nhàn. Chúng ta có thể phát hiện được hiện tượng quái gỡ của nhân loại đó là sự trốn chạy tự ngã và ý đồ gia nhập đoàn thể có hành vi hành liệt. Rollo May cho rằng loại bệnh lý nầy là hành vi ngoại đạo hình (other-oriented), là hành vi được tạo tác bởi sự hãi sợ đối với sự cô đơn của nhân loại

 Căn cứ theo sự phân tích của Phật giáo thì có sự khu biệt giữa “cô tịch” (being lonely) và “đơn độc” hoặc “cô độc” (being alone) đã không có năng lực đi qua kinh nghiệm cô độc và không thích nghỉ ngơi một mình là do e sợ sự đơn độc. Bản thân cô tịch gồm có những phương diện như : cô lập dưới sự chế ước của văn hóa, nỗi cô tịch vì mất sự tôn trọng của người khác, trạng thái cô đơn dưới sự ép buộc của bệnh tật v.v… Tình trạng trốn tránh tự ngã là hình thức cô tịch đối với sự so sánh thông thường. 

 Phật giáo cho rằng kinh nghiệm cô độc là sự tầm cầu phương thức nội tỉnh tôn giáo một cách sâu sắc, loại kinh nghiệm nầy có sự khác biệt với nhu cầu cô độc nên thân cận với sơn thủy tự nhiên. Người xuất gia độn ẩn, người tại gia thiền định thực tiễn và phân tích tự ngã, hưởng thụ một thứ diệu lạc độc xứ đó là điểm Phật giáo tán thán, bởi vì sinh hoạt thiền định có thể giúp làm phong phú thêm đối với sự quan hệ xã hội giữa người và người và đồng thời cũng để con người càng có được thâm kiến và phát hiện được ý nghĩa của sanh mạng càng có thể phát huy được tác dụng tinh thần thì có thể xa lìa được sư cô liêu và phiền chán. 

 Phật giáo lại đề ra một loại kiến giải khác : Trên xã hội, cần kiến lập sự quan hệ nhân tế thành thục về sự tôn kính lẫn nhau và quan tâm đến người khác. Nhưng, quan hệ của loại nhân tế nầy và sự chung sống lẫn nhau và nương tựa vào nhau để hoạt động của bệnh thái ngoại đạo hình đã có sự khu biệt. 

CẢM TÍNH VÀ PHIỀN CHÁN (SENSUALITY AND BOREDOM) 

 Sự truy cầu khoái lạc cảm quan và sự truy lạc bại hoại nhân tánh của tính sinh hoạt đều có thể khiến cho nguy cơ đồng nhận thăng tiến; nhưng, phát triển một loại cách điệu sinh hoạt Phật giáo (Buddhist life-style) mới là nhiệm vụ chính yếu đối với hiện tại

 Theo đuổi sự biến thiên nhanh chóng, không ngừng tầm cầu sự biến hóa, và sau đó thì phiền chán, ảo diệt, có thể tìm thấy trong sách “Hoặc Đây Hoặc Đó” (Either Or) tác phẩm của Soren Kiekegard, Don Juan - người anh hùng của sắc tình lãng mạn trong câu chuyện truyền kỳ của Tây Ban Nha, là nhân vật đại biểu cho một loại hình khác, ông ta được quy loại là nhân vận thuộc sắc dục hình (lustful type). 

 Người thanh niên hiện đại, sau khi đuổi theo những âm thanhhình sắc, kế đến là phát hiện rằng sự quan hệ của nhân loại đã và đang thiếu vắng sự quan tâm chân chính về ái tình và mức độ thân thiết. Nhưng, từ trong đồng nhận tánh đã thấy được tâm lý học nhân tánh và luân lý học của Phật giáo rằng là chúng a có thể được thương yêu một cách chân chính, lương thiệntôn kính với tâm từ bi sâu xa vô lượng

 Kết quả theo đuổi của Don Juan sẽ sanh ra sự phiền chán, ưu uất, đau khổtuyệt vọng; vì vậy mà bảo rằng lý tưởng của Don Juan không thể biến thành triết học nhân sinh trường kỳ một cách thống nhất (consistent pholosophy of life). Phiền chán là một chứng trạng sâu nặng nhất trong vấn đề đồng nhận ngày nay. Phiền chán gồm có hai loại đó là do mục tiêu đặc thù gây nên (như hí kịch, sách vở v.v…) và không có mục tiêu nào cả, và đó là sự phiền chán được dẫn phát từ chính mình. Nếu chúng ta có thể dùng nội tỉnh để nắm vững cái “rỗng tuếch của vô danh” (nameless emptiness) nhằm tiến vào cửa ngõ trí tuệ thì có thể khắc phục tất cả một cách triệt để

TIÊU CỰCTÍCH CỰC ĐỐI PHÓ VỚI TRỐNG RỖNG 

 Trống rỗng, phiền chán, cô đơn, cô tịch và ọe mửa nội tại đã biến thành nghệ thuật và văn học cho đến ngay cả trong bộ phận lãnh vực của triết học đương kim. 

 Phật giáo đối với kinh nghiệm của không vô cùng đã thái dụng lấy hai loại phương pháp, đó là phủ định để đối phó với trống rỗng và phiền chán. Một loại khác là tích cực dùng Nội Tỉnh Pháp để liễu giải một cách rốt ráo rằng tính chất của thực tạihoàn toàn không có bản chất nội tại, không có kinh nghiệm của tự ngã vĩnh hằng và tâm linh đối với không tánh

 Do sự nghèo nàn của nội tại mà con người hiện đại đã không có đủ năng lực để biến đổi tánh tiêu cực thành tánh tích cực nhằm tiến tới quán sát một cách thấu suốt tính chất của thực tại

 Tự ngã và không vôchủ đề trung tâm của giáo nghĩa Phật giáo, chuyên gia Phật học Edward Conze đã từng bảo rằng không tánh theo Phạn văn “sùnya” cũng có ý nghĩa là nở lớn (trướng đại) (svi or swell), tức là nhìn từ ngoại biểu của một vật và đưa dẫn đến sự trướng đại; nhưng, nội bộ thì lại là Không. Đứng trên thuật ngữ Phật học để nói thì Ngũ Uẩn thuộc bộ phận ngoại biểu (biểu lộ bên ngoài) nở lớn nhưng bên trong thì hoàn toàn vô ngã, là Không. 

 Chỉ khi nào đi sâu vào thực tại mới liễu giải được một cách trọn vẹn nhân sinhthống khổquan niệm về vô ngã, và, như thế chúng ta mới có thể vượt qua tâm thức phiền chán tiêu cực và bệnh trống vắng, KHÔNG VÔ của thời đại một cách rốt ráo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 136)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 192)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 215)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 282)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 193)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 243)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 286)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 262)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 292)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 372)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 604)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 462)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 479)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 572)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 830)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 853)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 840)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 731)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 709)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 712)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 937)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 714)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 612)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 707)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 823)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 708)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 822)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 824)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 885)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1658)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1277)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1553)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2031)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1094)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 946)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1063)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1094)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1532)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1288)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant