Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Nói Đầu

28 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 10371)
Lời Nói Đầu


KHẢO NGHIỆM DUY THỨC HỌC

TÂM LÝ HỌC THỰC NGHIỆM
Thích Thắng Hoan

LỜI NÓI ĐẦU

Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động, có giá trị thời giankhông gian trong mọi lãnh vực xây dựng con người tiến bộ cũng như kiến tạo xã hội văn minh theo chiều hướng tâm linh. Ngoài sự thỏa mãn phần nào vấn đề thắc mắc của lý trí. Duy Thức Học nhằm mục đích hướng dẫn con người cải tạo bản thânbiến đổi hoàn cảnh theo nhu cầu của Duy Thức để họ sống được hạnh phúc an vui chân thật.

Duy Thức Học dựa trên tâm lý để khai triển tận cùng về nguyên lý cấu tạo vũ trụnhân sinh theo chủ thuyết Nhân Duyên của đức Phật Thích Ca chủ trương. Chủ thuyết Nhân Duyên chính đức Phật Thích Ca đã tuyên ngôn đầu tiên nơi vườn Lộc Uyển để độ năm anh em ông Kiều Trần Như sau khi thành đạo nơi cội Bồ Đề. Căn cứ theo chủ thuyết Nhân Duyên, Duy Thức Học phân tích tính chất, giá trị, ý nghĩavai trò của mỗi Tâm Thức, cũng như tìm hiểu thấu đáo sự quan hệ lẫn nhau giữa các Biểu Thức (sáu Tâm Thức ở trước), Tiềm Thức (Thức Mạt Na thứ bảy) và Siêu Thức (Thức Alaya thứ tám) trong mọi lãnh vực sinh hoạt, hỗ trợ nhận thức cũng như sự sáng tạo vũ trụnhân sinh. Tư tưởng này, đức Phật Thích Ca đặc biệt chỉ truyền lại cho Bồ Tát Di Lặc (Maitreya), biệt hiệu A Dật Đa (Ajita), là bậc đại trí thức đương thời. Khoảng 900 năm sau Phật nhập diệt, có hai bậc đại luận sư là Ngài Vô Trước (Asanga) và Ngài Thế Thân (Vasubandhu) kế thừa Bồ Tát Di Lặc phát huy Duy Thức Học thành một hệ thống triết học siêu đẳng, vượt hẳn tất cả triết học cổ kim, đông tây, có khả năng định hướng đích thực cho tư tưởng con người và cũng là ý sống thiết yếu của con người trên lãnh vực thăng hoa. Do đó, Duy Thức Học được gọi là Tâm Lý Học Thực Nghiệm.

Ở vào thế kỷ 20 này, Duy Thức Học cũng có thể là nền tảng căn bản cho Nguyên Tử Học, nếu như các nhà Nguyên Tử không có thái độ thành kiếnquan tâm nghiên cứu đến một cách vô tư. Bởi vì Chủng Tử Học của Duy Thức Học cũng giống như Nguyên Tử Học của Khoa Học hiện đại.

Đến thế kỷ thứ VII Tây Lịch, Ngài Huyền Trang đời Đường, sau khi tốt nghiệp tại Viện Đại Học Nalanda ở Ấn Độ, trở về nước cổ võ Duy Thức Học, gây ảnh hưởng rất lớn trong giới Trí Thức khắp Trung Hoa. Tư tưởng Duy Thức Học do Ngài chủ trương tạo tiếng vang một thời ở Trung Hoa và lập thành một tông phái lớn trong mười tông phái, gọi là Pháp Tướng Tông. Về sau, tư tưởng môn học này được tràn lan trên thế giới.

Riêng ở Việt Nam, Duy Thức Học cũng được phổ biến từ lâu trong hàng ngũ Phật Giáo và giáo sư dạy về môn học này cũng rất nhiều, nhưng hầu như các vị ấy chưa tạo được cho Tư Tưởng Duy Thứcmột thế đứng khả dĩ vững vàng trong hàng ngũ Trí Thức Việt Nam, nghĩa là những giáo sư dạy về môn học này không lột trần được ý sống của Duy Thức trong con người và trong vũ trụ của loài người, mặc dù Duy Thức Học lấy con ngườivũ trụ của loài người làm trung tâm khảo sát. Dẫu rằng có một vài minh sư như: Thiện Hoa, Thạc Đức, Nhất Hạnh, Tuệ Nhuận v.v... đã làm sống dậy một thời Duy Thức Học trong giới trí thức Việt Nam bằng phương pháp nhận thức khoa học thực nghiệm. Rất tiếc một vài con én không đem lại mùa xuân như Ngài Huyền Trang đời Đường.

Ngày nay, Phật Tử Việt Nam hầu như bị giao động đức tin bởi một luồng tư tưởng mới của nền văn minh khoa học cơ giới cực thịnh. Nhất là thế hệ Thanh Niên Phật Tử, lớp trẻ trí thức này rất ngỡ ngàng trước vấn đề giữa Khoa Học và Phật Giáo, giữa học thuyết Duy VậtDuy Tâm mà trên thực tế, lớp trẻ này rất cần có một học thuyết chân thật để làm phương châm lý tưởng cho cuộc sống chân chính, làm cẩm nang cho việc xây dựng một xã hội hòa bình an lạc.

Để minh định tư tưởng Phật Giáo đối với cao tràn văn minh khoa học cơ giới đang lên, tôi cấp tốc mở khóa Duy Thức Học hy vọng định hướng đức tin cho Phật Tử Việt Nam, nhất là Sinh Viên Phật Tử hiện đang đứng trước ống kính muôn hoa tư tưởng xuất hiện. Tôi không dám cao vọng lột trần được tinh thần Phật Giáo qua Duy Thức Học mà ở đây, điều duy nhất tôi chỉ hy vọngcủng cố đức tin trong hàng ngũ trí thức Phật Tử đối với Phật Giáo hiện đại. Sau những khóa học Duy Thức, hơn 200 sinh viên trí thức tham dự, trong đó đa số yêu cầu tôi phổ biến tài liệu khóa học này để anh chị em nương theo đó nghiên cứu Phật Giáo. Tôi đồng ý góp nhặt lại đóng thành sách với nhan đề là "KHẢO NGHIỆM DUY THỨC HỌC". Nội dung thiên khảo luận này dựa theo sự phân loại của Duy Thức Phương Tiện Đàm do Đường Đại Viên Cư Sĩ sáng tác và có thêm bớt đôi mục, nhưng trong nội dung này, tôi chia làm hai phần:

1. PHẦN PHÂN TÍCH: là phần mổ xẻ chi ly từng loại một của các pháp để nghiên cứu về tính chất, giá trịý nghĩa của môn Duy Thức Học.

2. PHẦN TỔNG HỢP: là phần giải thích sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các loại, giữa các yếu tố trong cộng đồng duyên sanh của vạn pháp hiện khởi.

Biên soạn nội dung quyển Khảo Nghiệm Duy Thức Học này, tôi căn cứ theo quyển "Duy Thức Học" của Thạc Đức và quyển "Nhận Thức Duy Thức Học" của Nhất Hạnh để diễn giải.

Ngoài ra, tôi còn nương theo tinh thần của Ni Sư Phật Oánh trong quyển "Bát Thức Quy Củ Tụng" và quyển "Duy Thức Tam Thập Tụng" của Tuệ Nhuận để phát huy tư tưởng theo đường hướng nhận thức mới. Với tính cách khoa học, tôi chỉ ghi lại đại cương những gì đã khảo nghiệm về Duy Thức Học mà ở đây tôi không thể nào trình bày một cách tường tận toàn bộ những kiểm chứng môn học này trên quyển sách hạn cuộc. Như vậy quyển "Khảo Nghiệm Duy Thức Học" đòi hỏi những đọc giả khi nghiên cứu đến cần phải theo đường lối nói trên phát huy thêm để cụ thể hóa nhận thức.

Phương thức diễn dịch của Duy Thức Họcphương pháp quy nạp, nghĩa là phương pháp trở về nguồn, tức là từ khảo nghiệm về hiện tượng (hiện tượng luận) cho đến khào nghiệm về siêu nhiên (siêu niên luận), từ phân tích sự tướng để hiển bày lý tánh, từ căn cứ nơi vọng tâm để tìm về chân tâm bằng phương pháp kiểm chứng: "Nhứt Thiết Duy Tâm Tạo hay là Vạn Pháp Duy-Thức Biến". Sự cấu tạo vạn pháp trong vũ trụ đã là phức tạp thì tất nhiên sự phân tích vạn pháp của Duy Thức Học nhất định phải chi ly. Duy Thức Học phân tích vạn pháp không thể đơn giản mà có thể hiểu được nghĩa là thâm sâu của chúng. Duy Thức Học khởi đầu từ con người đơn giản làm trung tâm khảo sát để chứng nghiệm cho sự phân tích về nguyên lý cấu tạo vạn pháp trong vũ trụ. Chúng ta hiểu thấu được nguyên lý cấu tạo con người và những gì quan hệ sanh ra con ngườiquán thông được vạn pháp trong vũ trụ. Duy Thức Học chỉ đòi hỏi nơi đọc giả một sự kiên nhẫn lâu bền.

Nhằm mục đích củng cố đức tin của người Phật Tử Việt Nam trước thời đại mới là thời đại khoa học cơ giới cực thịnh, việc làm đây của tôi nhất định có nhiều khuyết điểm và thiếu sót rất lớn đối với nền tư tưởng cao siêu của Duy Thức Học. Tôi ước mongchân thành tiếp nhận được nhiều ý kiến của các bậc cao minh chỉ giáo những lỗi lầm mà quyển sách này thiếu sót để tu chỉnh lại cho hoàn bị hơn, ngõ hầu gieo vào Tâm Trí các bạn đọc một niềm tin yêu Đạo Pháp không mờ phai.

Cẩn Bút

THÍCH THẮNG HOAN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33302)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6560)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11307)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30421)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30447)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7996)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12225)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12271)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11621)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12853)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34814)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9860)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52286)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10767)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10540)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10730)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10479)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13098)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16308)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21869)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9638)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7138)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12784)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12808)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16253)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16549)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13881)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16616)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12142)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13855)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14342)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9226)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11768)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11291)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16354)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14369)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16212)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12703)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12099)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11808)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11527)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14032)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12681)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11976)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13143)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14570)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20747)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10980)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20735)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14380)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20411)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17678)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14039)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31870)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12030)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant