Bồ-đề Đạt-Ma - Trúc Thiên dịch 1969
Sách Ấn Tống: 337 N. Keystone st., Burbank, CA 91506 USA
CỬA
THỨ TƯ
AN
TÂM PHÁP MÔN
Lúc tỉnh, pháp đuổi theo người.
Tỉnh, ấy tâm thức thâu nhiếp vật sắc.
Mê, ấy vật sắc thâu nhiếp tâm thức.
Chỉ một chút phân biệt cân nhắc của tâm là tự nơi mình mọi hiện tượng đều là mộng cả. Nếu nhận biết tâm mình vốn tịch diệt, không đâu là chỗ niệm, đó gọi là chánh giác.
Hỏi: Sao gọi là hiện lượng của tâm mình?
Đáp:
Khi thấy các pháp lá "có": có, nhưng chẳng phải tự nó có,
nhân suy lường nên cho là có.
Khi
thấy các pháp là "không": không, nhưng chẳng phải tự nó
không, nhân suy lường nên cho là không.
Nói
rộng ra thì tất cả đều như vậy cả, toàn do tâm mình suy
lường ra mà cho là có, cho là không.
Còn
người nào trót gây đủ thứ tội mà tự thấy vị pháp vương
của chính mình, tức được giải thoát.
Tự
trên "sự" vươn lên tỏ suốt, đó là hàng khí lực mạnh,
Tự
trong "sự" thấy được pháp, người ấy đâu đâu cũng chẳng
mất niệm.
Theo
chữ nghĩa mà thông rõ, đó là người khí lực kém.
Sự
tức là pháp, pháp tức là sự, ai rõ sâu lẽ ấy tự nhiên
thuận theo mọi động tác của thân mình, thế tất người
ấy chẳng ra pháp giới mà cũng chẳng vào pháp giới.
Nếu
đem pháp vào pháp giới, đó là người si.
Hễ
thấy có thi vi, rốt cũng không ra được tâm pháp giới.
Tại
sao vậy? Vì thể của tâm tức là pháp giới vậy.
Hỏi: Người đời học hỏi đủ thứ, tại sao không được đạo?
Đáp: Vì người ấy còn tự thấy mình nên không được đạo. "Mình" ấy tức "Ta" vậy.
Bậc
chí nhân gặp khổ chẳng lo, gặp vui chẳng mừng, vì không
thấy có mình trong đó. Sở dĩ không biết khổ vui, vì quên
mất mình trong hư vô.
Chính
mình, mình còn quên, thì còn cái gì nữa mà chẳng quên được?
Hỏi: Các pháp đã là không thì dựa vào gì mà tu đạo?
Đáp:
Nếu có dựa vào gì, thì cần tu đạo.
Nếu
không có gì để dựa, tức chẳng cần tu đạo.
"Cái
gì" tức "cái ta". Nếu không có cái ta thì đối với sự vật
chẳng sanh lòng phải quấy.
Phải,
chính là tự "ta" phải, mà vật thì chẳng phải.
Quấy,
chính tự "ta" quấy, mà vật thì chẳng quấy.
Đối
tâm mà không tâm mới thông đạt đạo Phật.
Đối
vật không dấy lên cái thấy, mới là đạt đạo.
Đứng
trước vật, người nào đạt thẳng biết suốt đến căn
nguyên, tức người ấy mở thông mắt huệ.
Người
trí tùy vật chẳng tùy mình, nên không có giữ bỏ, thuận
nghịch.
Người
ngu tùy mình chẳng tùy vật, nên có giữ bỏ, thuận nghịch.
Chẳng
thấy gì hết, gọi là thấy đạo.
Chẳng
làm gì hết, gọi là làm đạo.
Cho
nên bất cứ đâu đâu, cũng như không đâu, bất cứ làm gì
cũng như không làm, đó tức là thấy Phật.
Bằng
thấy tướng ở đâu, tức thấy quỷ ở đó.
Vì
giữ tướng nên đọa địa ngục.
Vì
xét pháp nên được giải thoát.
Nếu
thấy tướng, nhớ tướng, rồi phân biệt tức chịu mọi
cảnh khổ lửa phỏng nước sôi, thấy hiện trước mắt tướng
sanh tử.
Thấy
tánh của pháp giới, tức là tánh của Niết bàn.
Không
tưởng nhớ phân biệt, tức là tánh pháp giới.
Tâm
chẳng phải sắc nên chẳng phải có.
Dùng
mấy vẫn không hết nên chẳng phải không.
Dùng
mà vẫn thường không nên chẳng phải có.
Không
mà vẫn dùng hoài nên chẳng phải không. Tức nói kệ rằng:
1.-
Tâm tâm tâm,
Nan
khả tầm.
Khoan
thời biến pháp giới,
Trách
giã bất dung châm.
Tâm
tâm tâm,
Khó
nổi tầm.
Tung
ra bao trùm pháp giới,
Thâu
lại chẳng đầy mũi kim.
2.-
Diệc bất đổ ác nhi sanh hiềm,
Diệc
bất quán thiện nhi cần thố.
Diệc
bất xả trí nhi cận ngu,
Diệc
bất phao mê nhi tựu ngộ.
Đạt
đại đạo hề quá lượng,
Thông
Phật tâm hề xuất độ.
Bất
dữ phàm thánh đồng triền,
Siêu
nhiên danh chi viết Tổ.
Cũng
đừng thấy dữ mà sanh ghét,
Cũng
đừng ham lành mà đâm mộ.
Cũng
đừng bỏ trí mà gần ngu,
Cũng
đừng buông mê mà cầu ngộ.
Được
vậy thì:
Chứng
đạo lớn hề rộng vô lượng,
Sáng
Phật tâm hề lớn vô biên.
Chẳng
cùng phàm thánh quàng xiêng,
Vượt
hết mà lên gọi là Tổ.