Tác Giả-HIROSACHIYA - Dịch Giả-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
HƯỚNG CAO TĂNG HỌC TẬP THIỀN TÂM
SINH
HOẠT TRÍ HUỆ THẲNG THẮN LỖI LẠC
ĐỨC THÍCH TÔN
Đức Thích Tôn (Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn) là tổ sư của Phật giáo, từ đây, xin bắt đầu từ ngài để luận cập
Tuy bảo là từ đức Thích Tôn trở về sau, nhưng nếu chỉ tuỳ tiện bàn về cuộc đời của đức Thích Tôn, thì lại có lỗi với độc giả. Tôn chỉ chủ yếu của quyển sách này là muốn đưa quý vi bước vào “Cảnh địa thiền”. Mặc dù thiền sở nghiễm nhiên có thể là đại danh từ của Phật giáo, nhưng chắc chắn phải có điểm vô cùng đặc sắc hướng dẫn mọi người lần lượt thể nhập vào diệu cảnh, nếu không thấy ngay điểm này, mà chỉ nói về thuở bình sanh của đức Thích Tôn, thì đó là sự sơ suất của bút giả.
Mặc dù nói thế, nhưng trong việc ghi chép nếu có bất cứ sự kiện nào có liên quan đến cuộc đời của đức Thích Tôn, cũng điều có những lời lẽ có thể làm kim chỉ nam để Phật giáo thành một nhất thể. Đồng thời, bởi vì kinh điển nguyên thuỷ của Phật giáo (A Hàm Kinh) (1) đã ghi chép về những bài thuyết pháp đối với đệ tử của ngài, vì thế việc hướng dẫn quý vị lý giải giáo nghĩa Phật giáo cũng là một trợ ích rất lớn. Như thế, bút giả đã không thờ ơ đối với quý vị.
Mặc dù đọc qua đoạn trên có lẽ có gì rất nghiêm túc, thật sự, nội dung đã chẳng có gì hứng thú. Tôi cũng muốn ở ngay nơi khởi đầu bắt chước các thiền sư “thét” một tiếng lớn trước, để triển hiện nhiều phương diệu dụng của tâm thiền ngộ, nhằm dễ tạo cho độc giả thêm phần hứng khởi, và dần dần sẽ đưa tới thoại đề sâu hơn. Trong đầu tuy sắp xếp bài bản đại cương như thế, thực tế đã không tiến hành theo ý nghĩ. Mong rằng quý vị độc giả chịu khó nhẫn nại:
“Này các Tỳ Kheo (2): Phàm phu quả văn (ít nghe) có cảm thụ chân tình, đệ tử hữu văn cũng có cảm thụ chân tình, thế thì đệ tử hữu văn và phàm phu có học đã khác nhau điểm nào?”
Đức Thích Tôn khi bắt đầu thuyết pháp, thường có vấn đề được khơi mào trước để mở đầu. Đoạn mào đầu này đương nhiên liên quan đến chủ đề thuyết pháp hôm ấy. Thường là lúc ấy có những đệ tử tác bạch rằng:
“Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, chúng con đều là người tính phụng những lời đã dạy của đức Thế Tôn (Thích Tôn), cúi xin đức Thế Tôn từ bi dạy dỗ chúng con!”
Quan lời thỉnh cầu này, đức Thích Tôn bắt đầu thuyết pháp. Đây là phương thức thường được sự dụng để dạy Phật tử của Phật giáo nguyên thuỷ.
Nói đến thánh đệ tử hữu văn và phàm phu quả văn, thì cái gọi là “văn”, là lắng nghe giáo pháp, là ý nói học tập. Giữa những đệ tử học Phật và phàm phu không học Phật đã có điểm nào sai biệt? cả hai đều có tác dụng cảm thụ, có đúng thế không? Đức Thích Tôn đã đưa ra vấn đề như thế.
Tác dụng cảm thụ nếu lấy dụng ngữ Phật giáo để bàn luận thì bảo đó là “Thọ”. Ví như vào một buổi sáng tuyết phủ khắp nơi, khi chúng ta vừa chợt mở mắt đã thấy chung quanh là một thế giới phủ đầy màu bạc trắng, trên không trời lại trong xanh, vì không dằn được xúc cảm, chúng ta bật miệng la lớn: “A! đẹp quá!” cảm quan như thế chính là “THỌ”.
Đương nhiên, “Thọ” không chỉ là một khoái cảm không thôi, ngược lại nó còn bao gồm cả thứ cảm giác khó chịu giống như bị một người nào dẫm phải chân mình trên xe bus. Ngoài ra, còn có một loại cảm ứng không khổ không sướng. Trong ngôn ngữ Phật giáo, khoái cảm gọi là “lạc thọ”, cảm giác không vui gọi là “khổ thọ”, cảm giác không nhớ gọi là “không khổ không sướng thọ hay “xả thọ”. Ba loại thọ này dù bất cứ người đệ tử nào của Phật dạy hay phàm phu cũng đều có cùng cảm thọ như nhau. Nói thế, cuối cùng đệ tử Phật và người phàm tục đã khác nhau điểm nào?
Đức Thích Tôn đã giáo thị như sau:
Này các Tỳ Kheo! Ví như lấy tên đâm người, đâm một mũi rồi đâm tiếp mũi thứ hai. Này các tỳ kheo! người như vậy có cảm thọ hai mũi tên. Giống như thế, phàm phu chưa tu tập giáo pháp, ngay khi cảm nhận khổ thọ khó chịu nếu không ưu sầu, não nộ hoặc bi thương thì cũng đấm ngực dậm chân, rên rỉ khóc lóc. Loại phàm phu này có cùng một thức cảm thọ đồng thời, tức là vừa đau khổ trên nhục thể vừa đau khổ trên tinh thần.
Này các tỳ kheo! Ví như lấy tên đâm người, sau khi đâm mũi tên đầu rồi đâm tiếp mũi thứ hai. Này các tỳ kheo! Người bị như vậy cảm thọ chỉ một mũi tên. Giống hệt như thế, những thánh đệ tử đã tu tập giáo pháp, từ cảm thọ tới cảm thọ khó chịu, nhưng chẳng ưu sầu, khổ não và bi thương, cũng không đập ngực dậm chân, rên rỉ khóc lóc. Những thánh đệ tử chỉ có một loại cảm thọ, tức là chỉ có đau khổ trên nhục thể, mà không có đau khổ trên tinh thần...
“Tương ứng bộ kinh điển” 36.6 (Tiễn) (3)
Đức Thích Tôn lấy việc tên đâm để ví dụ tác dụng cảm thọ chớp nhoáng của chúng ta. Trong mỗi sát na chớp nhoáng, những đau khổ, tốt đẹp, chê ghét, vui thích, lạnh, nóng, đẹp, xấu mà chúng ta đã cảm thọ v.v. giống như cảm thọ giác bị đâm trúng một mũi tên.
Những cảm thọ này, dù là người đã khai ngộ hay người chưa khai ngộ cũng đều giống hệt như nhau. Nhưng phàm phu sở dĩ là phàm phu, chủ yếu vấn đề sau khi trúng tên. Thông thường, bị trúng mũi tên thứ nhứt, kế tiếp lại trúng mũi tên thứ hai. Ví như, khi bị dẫm trúng chân trên xe buýt: “Đau quá!” sau khi ý niệm này chợt thoáng qua trong óc, tiếp đến lại nổi lên ý niệm thứ hai: “Đồ khốn nạn! mày muốn chết à!” chẳng khác nào mống khởi tâm tính giận ghét đối với đối phương. Hoặc giả khi đi trên đường, trông thấy bên lề có đoá hoa đẹp, thì trong lòng phát sinh suy tính: Sau khi thốt lên “Chà! đẹp quá!”, thì sau đó đưa tay hái đoá hoa ấy mang về để cắm trong bình. Đây tức là mũi tên thứ hai mà phàm phu nhận lấy. Nhưng đối với Phật tử đã khai ngộ thì khác. Trông thấy cảnh vật đẹp, chỉ cảm thấy là đẹp để thưởng thức; lúc đau, chỉ la lên bởi trực giác: “Đau qua!” Vì khác nhau như thế, nên giữa thánh đệ tử và phàm phu có sự cách biệt rất xa.
Quý vị độc giả còn nhớ mẫu chuyện “Cô mộc hàn nham” ở đoạn đầu? Tôi từng đề cập câu nói mà ta cho rằng không đúng của Thanh tăng. Quý vị có lẽ lúc đầu đã không hiểu được ý của tôi, nhưng nay đã tỏ tường tại sao đối với lời nói ấy tôi lại cảm thấy không đúng.
Bởi vì đối với ông ta cả đến “mũi tên thứ nhất” cũng đều bị phủ định. Trông thấy gái đẹp thì trực giác cảm thấy: “Đẹp quá!”, đây là mũi tên thứ nhất. Mũi tên này không luận là phàm phu hay thánh đệ tử đều có cùng cảm thọ.
Mặc dù như thế, nhưng ngay cả cái cảm thọ lẽ ra nên có nầy đã bị ông cố ý phủ định. Có lẽ vì ông cho rằng, là người xuất gia, cho nên thậm chí mũi tên thứ nhất cũng không thể cảm thọ! Đây thực là lối kiến giải hoàn toàn sai lầm. Đức Thích Tôn chưa từng dạy bảo như thế. Trông thấy mỹ nữ cảm thấy “đẹp” là lẽ tự nhiên. Chỉ cần không nhận thêm mũi tên thứ hai.
Dù bảo như thế, nhưng làm thế nào để khỏi cảm thọ mũi tên thứ hai? Đó là trọng điểm. Khi gái đẹp gọi: “Lại đây! Ôm lấy tôi”, lúc ấy nên ôm hay không? Mũi tên thứ nhất dứt từ lúc nào và khi nào mới có thể bắt đầu tính là mũi tên thứ hai?
Có một mẫu chuyện như sau:
Một vị thiền sư nọ dẫn theo một số đồ đệ đi vân du. Một hôm, đoàn người gặp một cô gái ở bờ sông. Cô này muốn qua bên kia sông nhưng ngặt không có ai giúp cho, nên đành buồn bã ngồi đó chịu đựng. Khi đoàn người của thiền sư vừa đi đến, cô liền thỉnh cầu giúp đỡ.
“Ô! được! được!”
Thiền sư không chút do dự, thản nhiên ẵm cô gái lội qua sông.
“Thật là một sư phụ sảng khoái, nhanh nhẹn!” Cô gái thốt lời dịu ngọt tâng bốc trêu ghẹo thiền sư. Sau khi qua sông cô cảm ơn rồi từ biệt, đoàn thiền giả lại tiếp tục cuộc hành trình.
Một lúc sau, có một vị đệ tử trong đoàn không nhịn được, cuối cùng mở miệng: “Bạch thầy! Vừa rồi thầy làm như vậy có đúng không? Chúng con xưa nay vốn rất tôn trọng thầy, nhưng vừa rồi trông thấy hành động và lời nói của thầy, thật là khiến chúng con vô cùng thấy vọng”. Những đệ tử khác hùa theo, tỏ ra thái độ bất mãn, kích động hỏi gằn thiền sư “Thái độ vừa rồi của Thầy thật khác xa những điều dạy dỗ thường ngày...” Không trách được sự bắt lỗi của họ. Nguyên là từ khi qua sông đến giờ, họ mãi canh cánh sự việc này trong lòng cho nên tức nước vỡ bờ, thế là hằng loạt kiểu trách móc áo ra đến độ không nghe kịp.
Thiền sư nghe đám đệ tử chỉ trích như thế, chỉ bật cười.
“A! Ha ha!...Cái gì? Các con mãi đến bây giờ vẫn còn ôm ẵm người con gái ấy!. Ta thì đã đặt cô gái ấy xuống từ lâu rồi”. Thì ra là thế, chấp trước và không thể buông bỏ chính là nhóm đệ tử kia. Loại chấp trước này, có thể ví như mũi tên thứ hai. Đối với thiền sư, ông không cảm thọ mũi tên thứ nhì.
Đức Thích Tôn đã chỉ rõ, điểm sai biệt giữa người khai ngộ và phàm phu chính là mũi tên thứ hai này. Vì chúng ta chỉ là phàm phu, cho nên không thể tránh khỏi cảm thọ mũi tên thứ hai. Dù chúng ta có muốn hấp tấp tránh nó thì củng không thể thực hiện được. Chấp trước những việc mà sức mình không thể kham được thì đó chính là người ngu xuẩn nhất. Khi nhận thức được những sự việc mà chúng ta không đủ năng lực để thực hiện nhưng không chấp trước nó, đó mới đích thật là giáo nghĩa của Phật giáo. Tuy nhiên, ít ra chúng ta cũng thể phân biệt được điểm sai biệt mũi tên thứ hai, bằng tự giác:
“À! hiện tại mình đang cảm thọ mũi tên thứ hai....”
Có thể nhận thức như vậy, là đã nắm vững vấn đề. Lây ngày công phu thâm cao, nên trong khi sinh hoạt nếu có gặp bất cứ vấn đề gì, tất nhiên đều có thể giải quyết một cách tức khắc. Hoặc nói cách khác, ngày nào nhận chân ra mình, thì vấn đề sẽ không nghiêm trọng như mình tưởng tượng. Bởi vì vấn đề sở dĩ phát sinh, phần lớn là do không thể tri nhận bản tâm của mình một cách rõ ràng chân xác.
Chú (1): “A Hàm Kinh” là danh xưng của kinh điển Phật giáo nguyên thuỷ. Trong ấy bao gồm các kinh “A Hàm Kinh”, “Pháp Cú Kinh”, “Kinh Tập”.v.v...Chú (2): Phát chỉ thế độ (cạo đầu) xuất gia, là đàn ông chịu đủ giới. Đàn bà thì gọi là tỳ kheo ni
Chú (3): Xem quyển thứ 15 “Nam Truyền Đại Tạng Kinh” (Trang 322 – 325)
KHÔNG
PHẢI GIÓ ĐỘNG CŨNG KHÔNG PHẢI
PHƯỚN
ĐỘNG MÀ CHÍNH LÀ TÂM
CỦA
NHƠN GIẢ ĐANG ĐỘNG
LỤC TỔ HUỆ NĂNG
Đời Đường có một vị thiền tăng vĩ đại, đó là Lục Tổ Huệ Năng đại sư (Tây nguyên 638-713) “Cao Tăng truyện” ghi chép rằng ngài mất cha, nhà nghèo, và vì phụng dưỡng mẹ già nên phải bán củi để duy trì sự sống. Đối với đoạn truyền ký này, tôi cảm thấy hoài nghi về tính chân thật của nó. Có lẽ người đời sau vì muốn cường độ sự so sánh giữa Lục Tổ Huệ Năng đại sư và đối thủ của Ngài là Thần Tú (Đại Thông Thần Tú thiền sư), mà cố ý miêu tả ngài là người nghèo khổ lại mù chữ để nhấn mạnh tánh chất bình phàm và thảo căn của Ngài!
Tạm thời xin miễn luận việc chân giả, để chúng ta tiếp tục suy xét về sự nghiệp bán củi để duy trì sinh sống của Lục Tổ Huệ Năng
Một hôm nọ, trong lúc vô tình Huệ Năng đã nghe một vị khách đến từ Huỳnh Mai Am niệm tụng “Kim Cang Kinh” (1) mà khai ngộ. Cũng do chính người khách cho biết là Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đại sư đang ở Huỳnh Mai Sơn, thế là ngài phát tâm cầu pháp và liền bái biệt mẹ già để dấn thân đi đến Huỳnh Mai Sơn.
Trên sự thật, sự tu hành của Huệ Năng tại Huỳnh Mai sơn mà người tu hành chúng ta thường biết đến, những tương truyền ấy đã không giống nhau, chỉ biết là mỗi ngày ngài phải đạp cối đá không ngừng ở phòng giã gạo, thế thôi. Đấy là khóa tu hành thường nhật của Tổ Huệ Năng.
Chợt đến một ngày.
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn muốn chọn người để kế thừa trong
số các đệ tử, nên đã ra lệnh cho những đệ tử mỗi
người cần đem cảnh địa mà mình đã liễu ngộ viết thành
một bài kệ để biểu đạt. Đương thời trong đám đệ
tử của ngài, ưu tú nhất là Thần Tú thiền sư. Thiền sư
Thần Tú làm và dâng lên Ngũ Tổ một bài kệ như sau:
Thân thị Bồ Đề thọ
Tâm như Minh Kính dài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhá trần ai
Tạm dịch:
Thân là cây Bồ Đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn cần mẫn lau chùi
Đừng để cho bụi bám
Đại ý là: Chúng ta vốn có sẵn tâm thức thanh tịnh, giống như tấm gương sáng nhưng đang bị che phủ bởi bụi bặm phiền não, vì thế để khôi phục sự chiếu sáng của nó, cần phải lau chùi liên tục bụi bặm đang phủ bám bên trên.
Đối lại, Huệ Năng cũng củng làm một bài kệ:
Bồ Đề bổn vô thọ
Minh Kính diệc phi đài:
Bản lai vô nhứt vật
Hà xứ nhá trần ai?
Tạm dịch:
Trí giác vốn không cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào bụi nhuốm đây?
So sánh hai bài kệ này, quả thật Thần Tú là một vị Thiền sư cố gắng không ngừng để đoạn trù phiền não mà siêng năng cần mẫn, còn Huệ Năng thì giác ngộ đến tận đầu nguồn đạo lý phiền não vốn là không thật. Bởi vì tự tánh tốn thanh tịnh, căn bản đã không có cái gọi là phiền não. Đã không phiền não, thì cần gì phải khổ cực bận tâm đoạn trừ phiền não? Sự phát biểu của Huệ Năng đích thật là một lời nói đã mở toang (đập vỡ) sự chấp trước của thường nhân đối với phiền não.
Đúng thế, sau khi so sánh hai bài kệ, rõ ràng cảnh giới của Huệ Năng thật cao siêu mầu nhiệm. Nếu xét trên mặt hiện tượng, có thể dùng đao chặt đứt phiền não thành hai đoạn quả thật đó là một vấn đề tương đối khá lợi hại. Người thường vì thế mà đã cho rằng chỉ có thiền tài của Huệ Năng mới là nguồn thiền chân chính, nhưng thực ra, nếu nhận xét như vật thì đã không chính xác. Bởi lẽ, nếu muốn đạt đến cảnh giới mà Huệ Năng đã có, mà không trải qua gia đoạn mà Thần Tú đã đề cập là một điều bất khả. Điểm này tuyệt đối chúng ta không thể thờ ơ.
Đúng vậy, nếu đứng trên lập trường khai ngộ để khẳng định thì căn bản đã không có phiền não để nói, nhưng, muốn đạt đến cảnh giới như thế thì đó không phải là một việc dễ dàng. Hãy lấy thí dụ về kinh nghiệm cai thuốc lá của tôi:
Đã từng bao phen thử cai thuốc, nhưng cuối cùng vì không cách nào khắc chế được mình nên tôi đã tuyên bố thất bại. Rồi có một lần, tôi quyết định thử thả lỏng tâm tình để theo dõi việc cai thuốc, nên đã cố ý mang thuốc lá đặt trong túi áo. Trải qua thời gian không lâu, phương pháp của tôi quả nhiên có hiệu nghiệm, kết quả tôi không phí sức chút nào mà đã cai được thuốc.
Sau khi cai thuốc thành công, tôi mới hiểu rõ rằng phàm sự việc khi bắt đầu không cần thiết phải khổ cực và khẩn trương quá độ như thế, nhưng, những lời nói này chỉ có thể nói được sau khi đã thành công. Đối với một số người đã cố gắng không ngừng để cai thuốc, quá trình kỷ luật chắc chắn là cả một tích luỹ của vô số đau khổ, và trước khi cai thuốc thành công, dầu sao thì vẫn phải trải qua cái khảo nghiệm đau khổ ấy. Vì thế, để giác ngộ thấu triệt cái đạo lý phiền não vốn không của Huệ Năng đại sư cố nhiên đó là việc trọng yếu, nhưng trước khi giác ngộ một cách thấu triệt, thì cái giá đau khổ phải trả trong một giai đoạn vẫn là một sự cần thiết.
Điều đó có nghĩa là, chúng ta cần trải qua giai đoạn tu hành “Thời thời cần thiết phất thức, vất sử nhá trần ai”, mới có thể liễu ngộ cảnh giới “Bản lai vô nhứt vật, hà xứ nhá trần ai”. Tình hình này giống như đạo lý trông thấy một con chim nước với thần thái tự tại đang bơi trên mặt nước, trong khi đôi chân của nó ở dưới nước quạt đi quạt lại không ngừng. Vì thế nếu một mực cố chấp lấy bài kệ ngữ của Huệ Năng đại sư để lý giả sai lầm về thiền, rằng là, không cần thiết phải trải qua bất cứ sự tu hành nào, như thế là rơi vào cạm bẫy nguy hiểm mà tự mình không hay. Đây là điểm cần lưu ý khi bình phẩm và tán dương bài kệ kiến tánh của Huệ Năng đại sư.
Lục Tổ Huệ Năng đại sư còn có một truyền thuyết khác, miêu tả rằng sau khi thừa kế y bát của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, Huệ Năng đại sư đã vì sự tu hành sau khi ngộ đạo mà đời chân đến Nam Hải.
Bấy giờ tại Pháp Tánh Tự Quảng Châu có vị Ấn Tôn thiền sư đang giảng về “Kinh Niết Bàn”, thế là Huệ Năng đại sư quyết định ở lại mấy ngày tại Pháp Tánh tự để nghe Thiền sư giảng kinh.
Hôm ấy, vì thiền sư giảng kinh nên trước chùa dựng rợp cờ phướn.
Ấn Tôn thiền sư nổi tiếng khắp nơi, do đó đã rất đông người từ mọi miền ào ạt tìm đến. Trong ấy có hai vị hoà thượng, trông thấy cờ phướn phất phới trước cửa chùa nên liền bắt đầu nghị luận. Một trong hai vị phát biểu:
“Phướn động”.
Người kia cãi lại:
“Không phải, gió động”.
Kết quả hai người đã tranh luận không ngừng, dẫn đến tình trạng rất đông người dừng bước đứng xem.
Lúc ấy Huệ Năng đại sư cũng đến để xem, nghe xong ngài liền lên tiếng: “Không phải phướn động, cũng không phải gió động, mà chính là tâm hai vị đang động”.
Hai người đang tranh luận, nghe Huệ Năng đại sư phê chỉnh, tức thời hoát nhiên diạ ngộ. Khi nghe việc này, Ấn Tôn pháp sư tức khắc hiểu rằng những lời nói của Lục Tổ Huệ Năng đại sư, chính là trung tâm tư tưởng của “Kinh Niết Bàn” mà mình đang khai giảng, thế là ngài lập tức cung thỉnh đại sư thăng đàn thuyết pháp và đảnh lễ tôn Lục Tổ làm thầy.
Đây chính là trường cảnh khiến người vô cùng cảm động. Thật vậy, phàm phu chúng ta vì cứ chấp trước hiện tượng ngoại giới mà thờ ơ đối với nội tâm của mình. Phần lớn vấn đề sanh ra lại chính là được xuất phát từ trong nội tâm của chúng ta.
Ví như, không biết quý vị có kinh nghiệm giống như sau đây hay không?
Một hôm, có người được cấp trên khen thưởng nên vui mừng ra mặt. Nhưng sau đó không lâu, không rõ vì nguyên nhân nào, mỗi lần gặp cấp trên là ông ta biểu lộ nét mặt chán ghét giống như kẻ thù k hông đội trời chung. Cũng chỉ một người, nhưng vì tác dụng của chính nội tâm chúng ta nên hiện ra diện mạo khác nhau.. Vì thế, những đối tượng mà chúng ta thấy, kỳ thực đều là vọng tưởng được phát sanh từ trong nội tâm của chúng ta, căn bản đã không có bất cứ một thực thể nào tồn tại cả.
Có lần tại Sát Nhữ Nạp Đức (2) Ấn Độ, tôi đã gặp
phải một việc thế này:
Có một thiếu niên Ấn Độ chiêu dụ khách du lịch để bán
vật phẩm, chận một du khách người Mỹ là một bà lão khoảng
60 tuổi, thiếu niên áo quần lam lũ này nhanh tay móc túi ra
một vật phẩm và nháng qua mắt bà.
“20 đô la”, thiếu niên kêu giá.
Bà Mỹ trông thấy vật phẩm, cặp mắt bỗng sáng trưng, vội vàng mở xách tay móc tờ 20 đô trao cho anh ta và chộp ngay vật trên tay thiếu niên nhanh nhẹn dúi vào ví xách của mình> Chiếu theo tình cảnh này, thì rõ là người đàn bà dường như đã rất ưa thích vật phẩm đó, đại khái bà đã cho rằng mình mua đúng bảo vật!
Kết quả bà đã mua được vật gì mà khiến tôi cảm thấy hết sức hiếu kỳ như thế? Theo chỗ tôi biết, tại Ấn Độ du khách không thể mua được bảo vật gì cả. Một trăm phần trăm là bà ấy đã bị lừa. Tôi nhủ thầm: “Lại một người nữa bị gạt, thân đáng thương hại”
Sau khi bà ta đi khỏi, tôi gọi người thiếu niên Ấn Độ lại và dùng vài tiếng Ấn Độ đơn giản bảo hắn: “Khoan đi, hãy cho tôi xem cái vật mà chú vừa bán cho bà nọ!”
Thiếu niên lấy từ trong túi ra một pho tượng Phật cao độ 5,6 tấc, được cố ý trạm trổ lồi lõm, thoạt nhìn qua cứ tưởng đó là di vật cổ xua được đào lên từ dưới lòng đất. Bởi lẽ Sát Nhữ Nạp Đúc là một vùng đất đai của những di tích cổ xưa, có rất nhiều di sản văn hoá vô giá. Người đàn bà Mỹ chắc chắn đã cho rằng tượng Phật do thiếu niên bán là một cổ vật, nên mới vội vàng mua và thủ ngay vào xách tay của mình.
Kỳ thực, tượng Phật đó chỉ là loại thủ công phẩm dùng đất nhào nắn tái tạo lại.
“Pho tượng Phật này dại khái chỉ đáng 30 đồng Ấn”
“Hừ!”
30 đồng Ấn Độ trị giá bằng 3 đồng tiền Đài Loan, nhưng trên thực tế có thể không tới 3 đồng. Cuối cùng, tôi mua của thiếu niên nọ hai pho tượng với giá 7 đồng tiền Đài Loan.
“Hưu khô ly a! (Dhanyavad: Cảm ơn)” Gã thiếu niên vô cùng mừng rỡ, dù hai pho tượng chỉ bán được 7 đồng Đài Loan, nhưng đối với họ đã là có lời. Tôi nghĩ có lẽ trong nhà của thiếu niên này dám có đến trên 100 pho tượng như thế!
Tôi manghai pho tượng trở lại lên xe bus của đoàn du lịch. Vì với danh nghĩa cố vấn của đoàn hành hương Ấn Độ, nên mọi người trong đoàn đều gọi tôi là “Thầy”
“Thưa thầy! tôi cũng định mua loại tượng Phật này, không hiểu thầy mua bao nhiêu?”
“Hai pho tượng chỉ 1 đồng Ấn?”
“Cái gì, chỉ có 1 đồng Ấn?”
Người hỏi đột nhiên sắc diện tái xanh, ông thú nhận là đã mua một tượng giống hệt tôi đã mua đến 200 đồng tiền Ấn.
“Bậy rồi!”, tôi nghĩ, tưởng chỉ có bà Mỹ bị gạt 20 Mỹ kim, nào ngờ ông bạn đồng hành cũng bị mua lầm. Nếu biết như thế thì tôi đã không nói thật giá.
Ngẫm nghĩ cho cùng, bà Mỹ vẫn hạnh phúc hơn vì có lẽ mãi cho đến giờ này bà vẫn tin rằng tượng Phật ấy là một di vật cổ xưa! Và vì gặp vận hên nên chỉ tốn 20 đô la mà đã mua được, có thể bà còn cảm ơn ân tứ của Thưọng đế!
Thương hại nhất là người nghe giá tôi mua. Ban đầu ông
ta chắc rằng với cái giá trên 1000 đồng Đài Loan mà mua
được báu vật vô cùng trân quý thế này đã là rẻ chán.
Không ngờ chỉ trong khoảnh khắc, ông phát giác rằng bảo
vật chỉ là loại thủ công nghệ phẩm làm bằng thứ đất
sét thô thiển! Chỉ e sau này mỗi khi trông thấy bất cứ
tượng Phật nào cũng sẽ khiến ông dấy lên cảm giác khó
chịu.
Nhưng,
tượng Phật vẫn là Phật tượng, tự nó vốn không có gì
thay đổi. Thuỷ chung cũng đều là một pho tượng. Có thay
đổi chăng thì đó chính là cái tâm của ta. Tuỳ theo sự
thay đổi của tâm tình mà Phật tượng giống nhau đó bị
tặng cho những ý nghĩa khác nhau.
Sau này tôi đã mang một pho tượng làm lễ vật để tặng
bạn tôi, tuy không nói ra trị giá, nhưng bạn tôi rất mừng
và bày tỏ là ông đã mãi ao ước một pho tượng như thế
và nay vì do phúc duyên nào đó mà ông có thể có được một
tượng Phật có pháp tướng tôn nghiêm từ bi thánh thiện
như thế.
Thật
vậy, Phật tượng ấy đã có một khuôn mặt từ bi vô cùng
khả kính và tôi cũng đã tôn trí pho tượng còn lại để
thờ phụng trên một hương án.
Chú
(1): Toàn danh là “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh” lược gọi
là “Kim Cang Kinh” Toàn kinh thuật rõ đạo lý của “Không”
và “Vô Ngã”, là một trong những kinh điển đại biểu
cho Đại Thừa Phật Giáo.
Chú
(2): Tức “Lộc đã uyển” đã nói trong kinh Phật. Đức
Thích Tôn đã chuyển pháp luân ở đây và đã trở thành một
trong những thánh địa của Phật giáo.
HÀNH
ĐỘNG NGU MUỘI CỦA VIỆC
MÀI
GẠCH LÀM KÍNH
(MA
CHUYÊN TÁC KÍNH)
MÃ TỔ ĐẠO NHẤT
Trong
số đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng đại sư có hai vị thiền
sư ưu tú, đó là Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành
Tư. Thanh Nguyên thiền thiền sư có đệ tử là Thạch Đầu
Hy Thuyên, còn Nam Nhạc thiền sư thì có Mã Tổ Đạo Nhất.
Thạch Hầu Hy Thuyên thiền sư đã truyền bá thiền pháp ở
Hồ Nam một cách rực rỡ, còn Mã Tổ Đạo Nhất thiền sư
thì hoằng dương ở vùng Giang Tây. Có thể nói, Thiền Tôn
của Trung Quốc đã do bốn vị thiền sư là Nam Nhạc, Mã Tổ,
Thanh Nguyên và Thạch Đầu mà Thiền tôn đã rực sáng một
cách dị thường.
Mẫu
chuyện dưới đây là mẫu chuyện có liên quan đến Mã Tổ
Đạo Nhất (709-788) khi ngài còn tu hành dưới môn hạ của
Nam Nhạc Hoài Nhượng.
Trong
truyền thuyết, Mã Tổ thiền sư là người có vóc hình khôi
vũ “Ngó như hổ, đi như trâu, lưỡi thè khỏi mũi, chân
đạp thành chữ”. Khi ngài còn là môn hạ của Hoài Nhượng
hằng ngày đều rất tinh cần và thường ngồi xếp bằng
tham thiền nhập định. Mãi đến một hôm, Hoài Nhượng thiền
sư hỏi Mã Tổ:
“Ngươi làm gì đó?”
“Ngồi thiền mà!”
“Tại sao phải ngồi thiền?”
“Vì muốn thành Phật”.
Hoài
Nhượng thiền sư nghe câu trả lời của Mã Tổ, liền ngồi
xuống bên cạnh Mã Tổ, tiếp đó ngài nhặt những thớt gạch
chất kế bên chân chẳng nói chẳng năng gì, cứ cắm cúi
mài gạch trên đá.
Trông
thấy cử chỉ quái gở của sư phụ, Mã Tổ giật mình hỏi:
“Sư phụ! Ngài làm gì thế?”
“Mài gạch”.
“Tại sao mài gạch?”
“Vì muốn mài gạch thành gương soi”.
“Nhưng bạch sư phụ! gạch có mài thế nào cũng không thể
thành kiếng gương được!”
“Ồ, vậy sao? Nếu ngươi hiểu rõ đạo lý này, tại sao
ngươi còn muốn ngồi thiền để thành Phật? Tọa thiền cũng
không thể thành Phật đâu!”
Mã Tổ nhất thời đã không lời đáp lại.
Một
lát sau, Mã Tổ lại thỉnh giáo với Hoài Nhương thiền sư:
“Đệ tử phải làm thế nào?”
“Một người đang khiển xe bò, xe bò bất động, theo ngươi
nên dùng roi đánh xe, hay dùng roi đánh bò?”
Mã
Tổ hoát nhiên tức khắc đại ngộ. Nguyên là mình cú mãi
làm công việc lấy roi đánh xe, một hành vi xuẩn ngốc. Cũng
nhờ cơ duyên này mà sau đó Mã Tổ đã kế thừa y bát của
Hoài Nhượng.
Đoạn
đối đáp này đối với chúng ta có phần nan giải. Đại
khái thì dụng ý mài gạch của Hoài Nhượng là để kho8i
dậy cái đạo lý ngồi thiền vô dụng của Mã Tổ? Bề ngoài
thì bảo rằng ngồi thiền là vô dụng, nhưng thực tế có
đúng như thế không?
Biểu
đạt của Hoài Nhượng kỳ thực chỉ muốn sửa đổi lại
kiến giải sai lầm “Ngồi thiền tức có khai ngộ thành Phật”
của Mã Tổ. Thật vậy, vì mọi người đều có Phật tánh,
nên có thể nhờ vào phương thức ngồi thiền mà kiến tánh
thành Phật. Nhưng, nếu cừ bảo thủ rằng ngồi thền thì
sẽ có thể thành Phật, thành Tổ, thì phải chăng đó chính
là một loại chấp trước? Như thế, không những ngồi thiền
dã không thể giải thoát mà trái lại còn bị phương pháp
tọa thiền ràng buộc. Hoài Nhượng thiền sư đã giảng dạy
quan niệm quan trọng này cho Mã Tổ.
Ví
như những người làm việc ở Nhật Bổn, công tác luôn luôn
được đạt lên hàng đầu. Nhất là những người đảm nhiệm
chức vụ trung cấp trở lên, ngày đêm thường phải cắm
cúi trong công tác mà không tự biết. Tuy nhiên chính nhờ sự
nhiệt tình công tác này đã biến đổi cục diện Nhật Bản
trở nên một quốc gia siêu cường về kinh tế, nhưng, cũng
vì thế mà bị các nhân sĩ Âu Mỹ phê bình là “Động vật
kinh tế”.
Đối
với “Động vật kinh tế” của người Nhật, thì rõ ràng
lời của Hoài Nhượng thiền sư đã gọi họ quay về “Nhân
tính”. Công tác cố nhiên rất trọng yếu, nhưng không thể
vì đó mà biến thành nô lệ của công tác. Theo ví dụ của
Hoài Nhượng thiền sư, thì chẳng khác nào người khiển xe
bò đã không đánh bò mà cứ đánh xe, quả thật đây chính
là một việc làm điên đảo.
Nhưng,
phải chăng khi bị phê bình là một “Động vật kinh tế”
thì lại bỏ bê toàn bộ trách nhiệm công tác? Cũng thế,
tọa thiền để mong thành gương soi, nói thế phải chăng cho
rằng tọa thiền là điều hoàn toàn không có ý nghĩa? Nếu
nghe lời của Nam Nhạc thiền sư mà giải thích như thế thì
bị rơi vào tình trạng đổi thay quá quắt.
Điểm
khó của thiền là chỗ này.
Chấp
trước vào việc tọa thiền không thành Phật đã đành, nhưng
nếu không tọa thiền thì cũng không thể thành Phật. Phàm
mọi sự đều nên hành trì theo lý Trung đạo. Đối với thiền
biết một mà giải nữa là việc hết sức nguy hiểm.
Trong
điển tịch thiền học, đã có hai đoạn liên quan đến sự
vấn đáp của Mã Tổ thiền sư, đó là nhắm vào câu hỏi
“Thế nào là Phật” để khai triển. Do ở nội dung trả
lời khác nhau, nên khi nghe qua có thể khiến cho người nghe
thu thập ít nhiều.
Một
tăng nhân hỏi Mã Tổ:
“Thế
nào mới gọi được là Phật?”
Mã
Tổ trả lời:
“Tức
tâm tức Phật”.
“Tức
tâm tức Phật”, có nghĩa “Tâm tức là Phật, Phật tức
là tâm”. Nhưng khi một tăng nhân khác cũng khỏi cùng một
vấn đề, Mã Tổ lại trả lời:
“Phi
tâm phi Phật”.
“Phi
tâm phi Phật”, tức là phủ định câu “Tức tâm tức Phật”
như đã dìễn thuật ở trên. Sự thật, tâm tức là Phật,
có lẽ vì muốn tránh sự thiên chấp ở tâm quá đáng, có
nghĩa là đạo lý của Phật mà bị tâm sở sai khiến nên
biến thành một vật nô lệ của tâm, cho nên Mã Tổ thiền
sư mới trả lời như thế?
Tôi
xin lấy bản thân tôi làm thí dụ: Tôi thường bị đứa con
của tôi chất vấn:
“Có
lúc ba nói chuyện quá mâu thuẩn!”
“Ồ!
Mâu thuẩn thế nào?”
“Mấy
ngày trước ba nói với con, gát bài lại cũng không quan hệ
gì, ba bảo đừng nên quá chú ý đến bài vở của nhà trường.
Nhưng tại sao vừa rồi ba lại bảo con phải ngoan ngoãn cố
công đọc sách?”
Con
tôi mới học lớp 6, mà đã mạnh dạn kháng nghị với tôi.
Tôi đáp:
“Không
có chổ nào mâu thuẩn cả!”
“Nhưng
rõ ràng là ba đã nói không dụng công cũng chẳng sao mà!”
“Đúng,
ba có nói như vậy”.
“Thế
thì tại sao đêm nay ba lại nói khác? Bao bảo hãy ngoan ngơãn
dụng công đọc sách”.
“Ba
thấy chưa, điều đó không phải mâu thuẫn sao?”
“Không!
chẳng mâu thuẫn. Có lẽ nghe qua con cảm thấy mâu thuẫn,
nhưng đứng trên lập trường của ba, một chút cũng không
có điểm nào mâu thuẫn”.
Thực
ra, tiểu học sinh làm gì biết được đạo lý này? Nghĩ đến
đây, bên tai tôi dường như có lời nói của Mã Tổ đang
văng vẳng:
Phi tâm phi Phật---
Không mâu thuẫn tí nào
ĐÓI
THÌ ĂN CƠM BUỒN NGỦ THÌ NGỦ
ĐẠI CHU HUỆ HẢI
“Đói
thì ăn cơm, buồn ngủ thì ngủ” – đây chính là thiền,
nếu thực hiện được điểm này, thì đó gọi là hiểu biết
về thiền. Thời đại Cao Trung, tôi đã đọc một tác phẩm
lớn của Linh Mộc Đại Chuyết tiên sinh một câu như thế.
Lúc ấy tôi cho rằng câu nói đó là của Linh Mộc [Suzuki(?)]
tiên sinh, nhưng sau này khi tiếp xúc với nền Phật học, tôi
mới biết là thiền ngữ này đã được trích từ “Đốn
Ngộ Yếu môn” của Đại Chu Huệ Hải thiền sư đời Đường.
Dưới đây là nguyên văn:
Hữu
Nguyên Luật sư đến hỏi: “Hòa thượng tu đạo, có dụng
công không?” Thiền Sư Đại Chu Huệ Hải đáp: “Dụng công”
Hỏi: “Dụng công thế nào?” Thiền sư trả lời: “Đói
thì ăn cơm, buồn ngủ thì ngủ” Hỏi: “Tất cả mọi người
đều vậy, như thế thì vấn đề dụng công có giống với
thiền sư hay không?” Thiền Sư trả lời” “Không giống”
Hỏi: “Tại sao không giống?” Đáp: “Khi họ ăn cơm, nhưng
họ không chịu ăn cơm vì bị trăm điều đòi hỏi; khi ngủ
thì không chịu ngủ, vì phải so sánh tính toán vạn sự”.
Hữu Nguyên bí lối.
[Đốn ngô yếu môn]
Có
người tên Nguyên Luật Sư đến hỏi “Khi hoà thượng tu
hành có cần dùng đến công phu?” Đại Chu thiền sư trả
lời: “Cần”. Hỏi: “Công phu ấy như thế nào?” Trả
lời: “Đói thì ăn cơm, buồn ngủ là ngủ”. Hỏi: “Người
thông thường đều như vậy cả, công phu của Hoà thượng
chỉ có thế sao?” Đáp: “Chẳng giống nhau”. Hỏi: “Có
gì khác nhau?” Đáp: “Khi người khác lúc đáng ăn cơm thì
không chịu ăn, lại phải đủ điều đòi hỏi; khi đáng ngủ
thì không yên tâm để ngủ, vì còn ngàn việc đán đo. Vì
thế ta với họ khác nhau”. Nguyên Luật Sư lặng im vì đã
không còn lời nào để chất vấn.
Vừa
thoạt nghe qua đã có đồng cảm. Có lúc dù cho một chút ý
ngủ cũng không, nhưng trong quan niệm thì cứ cảm thấy là
không ngủ thì không được nên tự cưỡng bức: Mình phải
ngủ. Thì ra như thế, một mặt trong não ý nghĩ lung tung, một
mặt vì tiếng đống hồ tích tắc mà cảm thấy tâm trí phiền
não nóng nảy, kết quả càng không cách nào ngủ được. Mãi
đến tảng sáng 2, 3 giờ...cuối cùng chỉ thấy bi ai tuyệt
vọng.
Ăn
cơm cũng thế, khi phải ăn cơm thì ăn cơm, nhưng thông thường
ngưuời ta cứ phải tống điều phối thức ăn dinh dưỡng
trước, sau đó mới chịu ăn, vì thế mà bao tử đã bị khổ
sở vì đói.
Do
vậy, “Đói là ăn, buồn ngủ là ngủ, đó tức là thiền”.
Lời nói đơn giản này, tuy trên mặt chữ rất dễ lý giải,
nhưng trên thực tế lại là việc mà những người phàm tục
không thể làm được, mặc dù câu nói này lúc nào cũng “Nao
nao trong lòng”, nhưng ban đêm vẫn không ngủ được, khi đang
ăn cơm thì nghĩ bậy nghĩ bạ, nếu không thì một mặt vừa
xem báo một vừa ăn cơm, hoặc một mặt vừa xem báo một
mặt vừa ăn cơm, hoặc một mặt đánh cờ một mặt ăn cơm,
muốn ăn bữa cơm ngon lành đúng nghĩa dường như là việc
không phải dễ.
Nhất
là đối với những ai đang đi làm, đói thì ăn, muốn ngủ
thì ngủ, điều đó chẳng khác nào như một mộng tưởng
xa xăm vói không bao giời tới. Ví như, lúc 2, 3 giờ chiêu
đang cơn buồn ngủ, nếu phải ngủ ngon trên chiếc bàn làm
việc, thì bảo đảm là không bao lâu sẽ bị sa thải khỏi
sở. Nghĩ đến thời đại cao trung, khi thầy đứng trên bục
giảng say sưa giảng đến nước mồm tung tóe còn mình thì
ở dưới lén ăn thức ăn mang sẵn theo, tâm trạng vừa có
phần sợ hãi vừa có phần vui thú ấy, đối với một viên
chức cũng là một loại luận đàm xa xôi. Có thể nói: “Đói
thì ăn, buồn ngủ thì ngủ”, đại khái chỉ có những người
xuất gia xa lìa trần tục mới có thể làm được, đối với
chúng sanh thường tình như chúng ta, thì đó là vấn đề “có
thể gặp mà không thể cầu”.
Nhưng,
kỳ khôi nhất là tại sao sau 2, 3 giờ chiều chúng ta lại
buồn ngủ? Phải ngủ bao nhiêu tiếng đồng hồ mới đủ?
điều này đương nhiên tuỳ theo mỗi người mà có sự sai
biệt. Trong truyền thuyết, Nã Phá Luân vị anh hùng của nước
Pháp, mỗi ngày, chỉ ngủ 3 tiếng đồng hồ, vì thế ông
thường hay ngủ gật, thậm chí có một chuyện khôi hài đó
là vì ngủ gật mà ông đã bị rơi từ trên lưng ngựa xuống
đất. Đời nay, chúng ta thường thấy trên công xa đầy khác,
nhiều người tay nắm cái móc, và cứ như thế mà đứng ngủ
ngon lành. Nghe bảo trước đây trong quân đội đã có người
vừa hành quân vừa ngủ gật. Khi thời gian ngủ bị thiếu
thốn nhiều, đương nhiên rất dễ ngủ gật. Nói theo thường
thức, bình quân mỗi người mỗi ngày ngủ khoảng 6 đến
7 tiếng đồng hồ, vì thế ban đêm nếu ngủ đầy đủ, thì
ban ngày sẽ không bị tình trạng ngủ gà ngủ gật. Sau cùng,
chúng ta cần kết luận là: Sinh hoạt cần phải có những
quy luật rõ ràng.
Cái
gọi là quy luật sinh hoạt, đó là 3 bữa ăn nên định lượng,
và phải ngủ nghê đầy đủ, như thế thì khi đi làm, sẽ
không bị ngủ gật và đói bụng, và ban đêm cũng tự nhiên
vì không buồn ngủ mà mất ngủ.
Nếu
có thể làm được quy luật sinh hoạt như thế -- Đói ăn
cơm, buồn ngủ thì ngủ thì đó tức là thiền. Đó là sự
thể ngộ gần đây nhất của tôi. Có lẽ là vì liên quan
đến tuổi cao! Khi con người đến tuổi trung niên, thì không
thích sự vật mới mẻ khác lạ. Đối với tuổi trẻ, có
lẽ cho rằng thiền như thế hơi bị gò bó, hơi “tượng
gỗ” (không linh hoạt), và vì muốn truy cầu cảnh giới thiền
mà đã có rất nhiều thay đổi không chừng.
Tôi
đã từng nói, phương thức thực tiễn của thiền không phải
chỉ có một loại. Có loại thiền thích hợp vời người
tuổi trẻ, có loại thiền thích hợp cho người trung niên,
và cũng có loại thiền thích hợp với bậc lão niên. Tóm
lại, thiền không rơi vào bất cứ cái ổ cố định nào.
ĐỐI
VỚI VẬT XẢ BỎ MÀ CẢM THẤY TIỀN NUỐI
THÌ
CHÍNH NÓ LÀ MỘT LOẠI PHIỀN NÃO
BÀNG CƯ SĨ
Quyển
sách “Chánh Pháp Nhãn Tạng Tuỳ Văn Ký” này, là ngũ lục
của Đạo Nguyên thiền sư – Khai sơn tổ sư của Tào Động
Tôn Nhật Bổn. Người soạn là cao túc (học trò) của Ngài
là Hoài Trang thiền sư. Tôi muốn đem nội dung của quyển
sách này để giới thiệu tỉ mỉ đến quý vị, nhưng, vì
trang giấy có hạn nên chỉ có thể dẫn dụng những phần
có liên quan đến nội dung thảo luận trong sách, và dưới
đây là trích đoạn dịch văn đã tiết lục:
Một
hôm, có một vị tăng đến hỏi tâm yếu của tâm hành. Tôi
bảo với ông thế này: “Người học đạo có thể cần phải
“Nghèo” trước, vì tiền bạc nhiều thì dễ mua sắm đắm
đuối vào vật chất mà nản chí tinh thần, người tu hành
tại gia thường lo lắng tiền tài, lưu luyến chỗ ở, và
giao dịch qua lại với bao nhiêu thân hữu, do vậy dù mà có
chí tu hành, cũng bị cản trở rất nhiều trong phần nhân
duyên chứng đạo. Cho nên xưa nay dù người tham gia tu học
đông đảo, nhưng số người ưu tú vẫn không bằng người
xuất gia. Người xuất gia ngoại trừ ba y một bát tất cả
đều không có tiền tài, không truy cầu chổ ở yên ổn, không
tham áo gấm khăn ngọc, một lòng chuyên chú đạo nghiệp,
cho nên việc tu hành phần nhiều đều đạt kết quả. Đó
là duyen do của “An bần chi sở dĩ lạc đạo”.
Bàng
Cư Sĩ tuy là tục nhân tại gia, nhưng tu hành không thua gì
người xuất gia, và ông đã chiếm được một vị trí quan
trọng trong Thiền Lâm. Bàng Cư Sĩ khi mới tham thiền, liền
đã gom góp toàn bộ sở hữu tài vật trong nhà để chuẩn
bị bỏ vào biển cả. Người đi đường thấy thế khuyên
lơn là nên mang tài vật đó là dùng vào việc cứu nhân tế
thế hoặc tạo tháp lập chùa thì tốt hơn. Cư Sĩ bảo rằng:
“Vật này vì có hại đối với tôi nên tôi mới mang nó
vứt bỏ, làm gì có cái đạo lý lấy cái vật hại mình đem
tặng người khác!” Nói xong, không chút luyến tiếc ông đã
đổ hết tiền tài xuống biển. Cư Sĩ tuy người tại gia,
nhưng sự không tham luyến tài sản thế gian, thật đáng được
gọi là một xuất gia hành giả”.
Khi
tôi đang cai thuốc lá đã từng mang một máy quẹt đắt tiền
tặng cho người khác. Lúc ấy cơn nghiện thuốc của tôi rất
lớn, mỗi ngày phải hút độ khoảng 50 chục điếu thuốc.
Vì nghĩ đến sức khoẻ nên mới nhất quyết cai thuốc, đó
là chuyện dĩ vãng 20 năm trước. Khi đó tuy quyết lòng cai
thuốc, nhưng tự biết mình không phải là người ý chí kiên
định, nên đối với kỷ luật bản thân tôi đã không đủ
tự tin để dứt khoát quyết tâm cai thuốc do thế mới nhất
định tặng cái quẹt máy cho người khác.
Khi
đọc giáo thị của Đạo Nguyên thiền sư, tôi đã không khỏi
nghĩ đến dĩ vãng. Vì sức khoẻ mà mang vật không dùng tặng
lại bạn bè, đây có phải là một việc làm thiều đạo
đức? Đúng ra phải quăng bỏ nó đi mới phải...
Đa
phần con người thường sa vào lề lối suy tư mê man như thế.
Hiển
nhiên, cái quẹt máy sở dĩ có hại là vì dùng nó để đốt
thuốc. Nếu không nhận thức được điểm này thì đối với
suy tư trên mặt tiền tài lại càng không thể phân tích xác
đáng. Tiền tài đối với kẻ tu hành Phật đạo có lúc đích
thị là một chướng ngại, nhưng, cũng không thể phủ nhận
sự hữu ích của nó. Ví như chúng ta có thể dùng nó để
cứu tế kẻ nghèo khó, hoặc sử dụng nó để kiến tạo
chùa chiền, chấn chỉnh đạo tràng v.v...Có khi cũng có thể
dùng để quyên giúp cho các hội Bảo Trợ Nhi Đồng Quốc
Tế ở Liên Hiệp Quốc v.v...chẳng hạn. Nếu đứng trên khía
cạnh này đề suy gẫm, thì mang bạc tiền liệng vào lòng
biển là một sự việc đáng tiếc.
Nhưng,
cái tình cảm “Bỏ đi thất tiếc” này đã không là cái
khổ não chướng ngại của việc tu hành ư? Vì thế, nếu
còn luyến tiếc khi mang tài vật vứt bỏ thì không thể hoàn
toàn chấm dứt khổ não. Bàng Cư Sĩ sở dĩ đáng kính, ,vì
ông không do dự tí nào khi đoạn tuyệt tài vật. Thế mới
mong kiên trì ôm cái chủ nghĩa “xuất thế trên hết” (tức
là “chủ trương không xuất gia thì không thể hiểu rõ thiền”
của Đạo Nguyên thiền sư), đồng thời cũng rất đáng tôn
sùng công phu “năng xả” của Bàng Cư Sĩ vì ông can cường
hơn cả những người xuất gia.
Ở
chương thứ 10 “Tân Ước Thánh Kinh, Mã Khả Phúc Âm” ghi
lại một mẫu chuyện thế này:
Lúc
Gia Tô đi đường, có một thanh niên đến sụp xuống lạy
và thưa rằng: “Lạy Thầy nhân hậu, tôi phải làm gì để
được sống mãi?” Gia Tô bảo anh ta: “Tại sao gọi ta là
nhân hậu? Không có ai là nhân thiện trừ Thiên Chúa. Để
được sống mãi mãi ngươi phải giữ các giáo răn. Những
giáo răn như ngươi biết: Chớ giết người, không trộm cướp,
không tà dâm, đừng hại người, không làm chứng dối, phải
hiếu kính cha mẹ và thương nguời thân như bản thân”.
Người
thanh niên thưa với Gia Tô: “Tất cả những điều răn đó
tôi đã tuân thủ từ thuở bé, thế thì tôi phải làm gì
thêm?” Gia Tô người thanh niên, tỏ tình âu yếm và bảo:
“Ngươi còn thiếu một việc: ngươi hãy về bán hết tài
sản và chia phát cho người nghèo, làm thế ngươi sẽ được
tài sản trên trời, rồi ngươi đến đây để theo ta”. Anh
ta nghe Gia Tô nói xong, buồn rầu bỏ đi vì anh ta là người
giàu có nhiều ruộng đất và lợi tức. Gia Tô buồn rầu
nhìn các môn đồ rồi bảo rằng: “Các con hãy xem, người
giàu muốn vào thiên đàng quả thật khó khăn! Này các con!
Thầy bảo thật: Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người
giàu có vào nước thiên đàng”.
Lời
nói của Gia Tô trọng điểm là không phải mang tiền tài thí
xá cho người nghèo mà nhấn mạnh đến sự vướng mắc tiền
tài chính là sự chướng ngại cho con đường thông đến thiên
quốc, điểm này mà chủ trương của Đạo Nguyên thiền sư
giống nhau.
So
với phú ông truy cầu con đường đi đến thiên quốc thì
quyết tâm của Bàng Cư Sĩ đáng tôn kính hơn. Ông vì cầu
đạo mà mang hết tài sản trút bỏ xuống biển, đích thật
cần có quyết tâm và dũng khí. Không luận là Phật giáo hay
Cơ Đốc giáo, đều cần những người có quyết tâm và dũng
khí lớn như vậy để thực tu.
Bàng
Cư Sĩ(? – 808) là một trong số ít người với thân phận
tại gia mà lư danh trong thiền sử. Càng đáng đề cập hơn,
Bàng Cư Sĩ cả nhà gồm có bốn người đều xứng đáng gọi
là “Gia tộc của thiền”, bởi vì cái chết của họ tương
đối khác thường, có thể nói đó là lối chết của thiền
giả chính tông.
Những
thiền gia tu hành cao thâm, phần đông đều có thể biết trước
ngày chết của mình. Sự việc này thường thấy trong “Cao
Tăng truyện”. Thậm chí không những biết trước ngày giờ
ra đi mà nhiều thiền giả còn có thể tuỳ theo ý chí của
mình mà quyết định công việc tử sanh. Bàng Cư Sĩ là một
trong số những vị ấy. Giai thoại dưới đây được ghi trong
lời tựa của “Bàng Cư Sĩ ngữ lục”:
Một
hôm, Bàng Cư Sĩ quyết định vãng sanh (đương nhiên khác với
tự tử, tuy chúng ta không rõ nguyên nhân trong ấy).
Bàng
Cư Sĩ đem ý định của ông nói với cô con gái là Linh Chiếu
và dặn dò:
“Thế
gian hư ảo không thật. con ra ngoài cửa giúp ta để canh cao
độ của mặt trời, đến khi đúng ngọ thì hãy thông tri
cho ta một tiếng”
Bàng
Cư Sĩ dự tính vừa đúng chánh ngọ thì sẽ vãng sanh.
Đến
chánh ngọ, cô con gái vào nhà báo:
“Phụ
thân đại nhân, đã chánh ngọ rồi, nhưng hôm nay là ngày
nhật thực, không tinh cha hãy ra xem!”
“Thật
có việc như thế sao!”
Thừa
lúc Bàng Cư Sĩ bước ra ngoài nhà, Linh Chiếu cô nương đã
toạ vãng sanh.
“Động
tác con nhỏ này thật lanh lợi”
Bàng
Cư Sĩ vừa mắng yêu vừa nhặt củi khô lo việc thiện hậu
cho người con gái.
Bảy
hôm sau, thái thú sở tại đến phúng điếu. Vị thái thú
này bình thời đã dành rất nhiều sự kính ngưỡng đối
với Bàng Cư Sĩ. Bàng Cư Sĩ gặp thái thú liền bảo:
“Phàm
các hiện tượng đang hiện hữu điều là không tướng, nếu
chấp không lmà có thì không thể được. Vì thế...” Lúc
ấy trong nhà tràn đầy mùi thơm lạ và, Bàng Cư Sĩ đã vãng
sanh.
Thế
là thái thú phải long trọng cử hành tang lễ cho cư sĩ, và
thông báo tin này cho Bàng phu nhân. Nghe tin, Bàng phu nhân bảo
rằng:
“Thật
là đáng ghét, không thông tri cho tôi một tiếng mà đi trước,
làm sao chịu nổi!”
Bàng
phu nhân lập tức truyền tin này cho người con trai đang làm
ruộng hay.
“Ba
con và Linh Chiếu đều đã chết rồi!” Bàng phu nhân vừa
nói dứt lời, thì người con đang cầm cuốc đã buông lỏng
và tằng hắng một tiếng rồi đứng đó vãng sanh.
Bàng
phu nhân một mặt lo hậu sự cho con một mặt mắng yêu: “Thằng
con thật bất hiếu!” sau đó đến từng nhà cáo biệt những
người lân cận và từ đó không biết bà đã đi đâu.
TRẺ
NÍT 3 TUỔI TUY BIẾT, ÔNG GIÀ 80 KHÔNG LÀM ĐƯỢC
ĐIỂU SÀO ĐẠO LÂM
Đường
triều có vị Đạo Lâm thiền sư (741-824), do khi ngài tu hành
tại Tần Vọng sơn Hàn Châu, chim trúc kéo đến làm ổ trên
những cành cây tùng trong núi, cho nên được phong hiệu là
“Điểu Sào thiền sư”.
Ngoài
ra, chung quanh chỗ ở của ngài có rất nhiều chim ô thước
làm tổ (đại khái có thể chúng cho rằng thiền sư là người
cùng chủng loại), cho nên chúng rất ôn thuần với thiền
sư, vì thế người ta cũng gọi ngài là “Thước Sào hoà
thượng”. Vị Điểu Sào thiền sư này là vai chính trong câu
chuyện.
Nhưng,
nếu chúng ta không đề cập đến một vai chính khác, thì
mẫu chuyện này không thể diễn xuất được. Vị đó là
thi nhân Bạch Cư Dị đã rất nổi tiếng trong thi đàn Trung
Quốc (772-846). Ông vì nhậm chức Thích Sử mà đến Hàng Châu.
Thích Sử là quan lớn nhất của một châu, cũng gọi là “Thái
Chú”, một quan chức có ngôi vị khá cao. Bạch Cư Dị lần
đầu đến Hàn Châu, nghe cách đi đứng đặc dị của Điểu
Sào thiền sư, bèn muốn đến bái kiến một phen.
Khi
đến nơi, trông thấy chỗ ở của thiền sư, ông không thể
tự chủ, lớn tiếng la hoảng:
“Chỗ
ở của thiền sư rất nguy hiểm đấy!”
Bạch
Cư Dị là người học Phật, ít nhiều cũng biết đôi chút
Phật Pháp, vì thế ông thốt ra lời nói vừa có tính cách
tỉnh nhưng đồng thời cũng nhắm vào hành vi đi đứng hiển
dị khác thường của thiền sư đang mê hoặc dân chúng mà
ngầm chứa mùi vị mai mỉa.
Khi
đọc công án này lần đầu, tôi cũng đã có cùng cảm giác
bực ghét như thế vì cảm thấy kẻ tu hành học Phật không
cần thiết phải biểu lộ những hành động kỳ khôi lập
dị.
“Nguy
hiểm đấy!” lời nói của Bạch Cư Dị thật đúng chỗ.
Bởi vì chúng ta có thể vin vào sự trả lời của thiền sư
để hiểu rõ công phu tu hành của ngài. Và ngược lại, phản
ứng của thiền sư sẽ cho thấy được công lực của Bạch
Cư Dị đến đâu. Vì thế cuộc vấn đáp này có thể được
coi là một trận biện luận tinh vi.
Điểu
Sào thiền sư đã trả lời câu nói “Nguy hiểm lắm đấy!”
rằng:
“Thái
thú, cảnh ngộ của ông còn nguy hiểm hơn tôi!”
Quả
thật, cảnh ngộ của chánh trị gia ngấm ngầm nguy cơ tứ
phía. Chẳng hạn như bị giáng chức, đỗ hỏng, cách chức,
bị hãm hại, làm ma thế mạng v.v... Không luận là giới chánh
trị hay giới công thương đều đầy dẫy những loại nguy
cơ như thế. Bạch Cư Dị vì giáng chức nên mới được điều
từ kinh thành đến Hàn Châu. Trước những hiểm hoạ vô chừng
ấy thà chấp nhận thế giới thiền định trên cây tùng còn
an toàn hơn.
“Ông
này! Thật lợi hại!”
Có
lẽ trong lòng Bạch Cu Dị đã nghĩ như thế. Đến đây, thoại
đề lại chuyển đổi.
Để
bảo trì tính liên đới của toàn bộ cuộc đối đáp, chúng
ta hãy thay đổi phương thức bằng cách tạm không giả thích
từng câu, đợi sau khi phân rõ thắng bại, sẽ lần lượt
giải thích tỉ mỉ, dưới đây là dịch văn:
Thái thú Bạch Cư Dị: “Chỗ ở của thiền sư nguy hiểm
qua!”
Thiền sư: “Thái thú, cảnh ngộ của ông càng nguy hiểm hơn!”
Thái thú: “Thế nào mới là đại ý của Phật pháp?”
Thiền
sư: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” (đừng làm
những việc ác, hãy thực hiện những việc lành).
Thái thú: “Việc đó trẻ nít 3 tuổi cũng biết”.
Thiền sư: “Nhưng, ông già 80 cũng khó mà làm được!”
Thái thú: “...”
Vấn đáp kết thúc, hiển nhiên Bạch Cư Dị đã thua.
Bạch
Cư Dị hỏi: “Thế nào mới là đại ý của Phật Pháp?”
không phải lấy cương vị học sinh để thỉnh giáo đại
ý Phật pháp, mà là muốn Điểu Sào thiền sư trần thuật
ra những gì đã liễu ngộ, đó là có ý trắc nghiệm thiền
sư.
Còn
Điểu Sào thiền sư đối với sự trắc nghiệm đã đưa ra
lời giải đáp “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”.
Thoáng nghe dĩ nhiên xuôi tai, không có chỗ nào sai lầm, nhưng
lại cho người có trực giác nhận thấy câu trả lời quá
tầm thường, Bạch Cư Dị đã nghĩ như thế.
Nào
ngờ, câu nói này rất nổi tiếng trong Phật giáo [Thất Phật
thông giới kệ]. Đó là kệ ngữ chung để chỉ dạy chúng
sanh của bảy đức Phật đã từng thị hiện ở thế giới
sa bà, trong đó có đức Thích Tôn. Toàn văn kệ ngữ này như
sau:
Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo
(Đừng làm những việc ác, hãy thực hiện những việc lành,
tự thanh tịnh tâm ý, đó là lới Phật dạy)
Bạch
Cư Dị cảm thấy câu trả lời này thật tầm thường không
có gì ly kỳ, nên thốt “Việc này đến con nít lên 3 cũng
biết”, ý ngầm bảo nếu sớm biết như thế thì không cần
thiết phải lặn lội đến thâm sơn bái kiến.
Nhưng
không hổ danh Điểu Sào thiền sư, sau khi Bạch Cư Dị trả
lời “Đến như trẻ nít 3 tuổi cũng biết”, thì ngài không
chút do dự tức khắc đáp: “Hẳn thế, nhưng lão ông 80 tuổi
chưa chắc làm được!”, bị thiền sư phang câu này, Bạch
Cư Dị chỉ biết trợn mắt thè lưỡi, không sao có thể biện
đáp thêm được.
Thiền
hay Phật giáo cũng vậy, bất cứ là đạo lý gì, đều dạy
con người bỏ theo thiện. Chỉ đơn sơ như thế, đơn thuần
như vậy, mà chính là thiền, là Phật giáo.
Một
thí dụ khác, khi qua đường lớn, tuy gặp đang lúc đèn đỏ,
nhưng thấy không có xe cộ nên định băng qua, con tôi đứng
bên cạnh vội cản tôi lại. Tôi bảo “Không được phép
băng đèn đỏ thì đúng rồi, nhưng...có quan hệ gì đâu!”
Con
tôi bấy giò chỉ đang học Ấu Trĩ Viên. Kết quả, cái quy
tắc giao thông “Không thể vượt đèn đỏ” cả con nít
5 tuổi cũng biết, nhưng người lớn lại rất dễ vi phạm.
“Không
quan hệ gì!” Vừa nói xong, trong đầu tôi tức khắc hiện
lên lời nói của Điểu Sào thiền sư. A! cho dù người lớn,
đã 40 như tôi, cả cái quy tắc giao thông thông thường cũng
không cách nào tuân hành nghiêm túc. Như thế, đàn ông trung
niên trên tuổi 40 chỉ biết cãi lời đoạt lý thôi sao?
Thiền
không lý luận nhưng hiểu rõ đạo lý, “Thiền không phải
là lý luận” chưa hẳn là đại biểu cho sự thấu hiểu
về thiền. Nghe qua dường như có vẻ đáng buồn, nhưng xin
hãy bình tĩnh, chớ nóng nảy, nóng giận là kẻ địch lớn
của thiền. Hãy thong dong chậm rãi mà thể hội! Cuối cùng
từ trong ấy bạn sẽ hiểu rõ đạo lý của thiền.
THẾ
NÀO MỚI TRÁNH CHO MÈO KHỎI BỊ GIẾT?
NAM TUYỀN PHỔ NGUYỆN
Nam
Tuyền Phổ Nguyện (748-834) vốn là một vị tăng có trình
độ học vấn rất cao, ngài tinh thông “Kinh Hoa Nghiêm” (1),
lãnh ngộ “Không” lý (2) của Bát Nhã” và sau này còn chuyên
nghiên cứu về giới luật. Dù thế, sau cùng ngài vẫn vứt
bỏ tất cả học vấn, theo phụng sự Mã Tổ Đạo Nhứt thiền
sư và tự nhận là một thiền giả suốt cả cuộc đời.
Mẫu
chuyện dưới đây là một công án nổi tiếng của Thiền.
Cái gọi là công án, cũng có thể gọi là trắc nghiệm vấn
đề. Tốt nhất xin quý vị độc giả hãy trắc nghiệm ở
đây rồi tự nêu ra một đáp án mà quý vị cho rằng tiêu
chuẩn nhất.
Một
hôm, có một số thiền sinh đã chỉ vì chuyện của một con
mèo mà tranh cãi không ngừng, lúc bấy giờ Nam Tuyền thiền
sư thấy thế, nắm cổ con mèo giơ lên cao và bảo:
“Này
chư vị, trong số chư vị nếu có ai vì mèo mà có thể nói
được một lời thì tôi sẽ không giết con mèo này, nếu
không, tôi lập tức chém nó ngay. Hãy thử nói một câu!”
Lúc
ấy, đám đông lặng thinh.
Thế
là Nam Tuyền lập tức giết chết con mèo.
Đến
đêm, một đệ tử của Mã Tổ là Triệu Châu (Tùng Phẩm)
từ ngoài về, Nam Tuyền thiền sư đem câu chuyện xảy ra ban
ngày thuật lại cho ông. Triệu Châu nghe xong, đã không một
lời nào đáp lại, cởi đôi giầy rơm đội lên đầu rồi
bước ra khỏi phòng
Nam
Tuyền thiền sư thấy vậy bèn nói:
“Lúc ấy nếu ngài có mặt, con mèo đã không bị giết...”
Vấn đề ở chỗ, Triệu Châu tháo giầy rơm đội lên đầu
có ý gì?
Quý vị độc giả, quý vị có thể cứu sống con mèo này
không?
Đề mục nêu trên, nếu mách với quý vị:
“Xin
lỗi! tôi cũng không trả lời nổi” thì sẽ không khỏi bị
độc giả mắng cho một trận! May mà vấn đề này có sẵn
trong điển tích Thiền Tôn “Vô Môn Quan”, vì thế tôi mới
có thể mạnh dạn thú nhận là tôi không có giải đáp. Xin
độc giả tự căn cứ vào trí tuệ của mình mà tìm đáp
án.
Nếu
trong số quý vị có người muốn khống cáo Nam Tuyền hòa
thượng là lẻ ngược đãi động vật, tôi khuyên độc giả
ấy hãy giữ im lặng thì tốt hơn. Bởi vì bản ý của Nam
Tuyền là muốn cứu con mèo, thật sự, để cho con mèo bị
giết chính là những người đã đặt Nam Tuyền hòa thượng
vào tình thế khó xử!
Chú (1): Một trong những đại biểu kinh điển của Đại Thừa Phật giáo. Toàn Kinh thuật rõ đạo lý “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất”.
Chú (2): “Không” là lý niệm cơn bản của Đại Thừa Phật pháp, cũng là trung tâm tư tưởng của “Bát Nhã Kinh”. Thuyết minh sở hữu thực thể tồn tại đều là đạo lý “Không” cùng với tư tưởng “Thiền” tương thông với nhauKHÔNG
NÊN MIỆNG LƯỠI,
ĐA
NGÔN KHÔNG SAO KHỎI LỖI
TRIỆU CHÂU TÙNG PHẨM
Phần
trước đã đề cập về mèo, bây giờ thì đến chó. Bút
giả vốn không cố ý đùa bỡn văn chương, nhưng một khi
nói đến Triệu Châu Tùng Thẩm thiền sư, đương nhiên không
thể không đề cập đến công án nổi tiếng của “Con chó
Triệu Châu”. Công án này được ghi ở chương nhất, mở
đầu của “Vô Môn Quan”
Có
một tăng nhân thỉnh giáo Triệu Châu thiền sư (777-897): “Thưa
thiền sư, chó có Phật tánh không?” Triệu Châu thiền sư
đáp: “Không!”
Chỉ
một câu vấn đáp đơn giản và ngắn ngủi như thế, vả
lại đây chỉ là một vấn đề chúng ta thường thấy. “Chó
không có Phật tánh” -- chỉ có thế thôi
Nhưng
công án này tương đối vốn được chú trọng vì lẽ nó
được sắp xếp ngay nơi trang đầu của quyển “Vô Môn Quan”
bất luận thế nào cũng phải có một bài được sắp ở
trang nhất, nếu không thì làm gì có trang hai, trang ba...? Nếu
có lối nghĩ như thế, độc giả có lẽ sẽ nói: “Con chó
Triệu Châu” chẳng qua gặp may mà được sắp ở bài thứ
nhất, điều đó có gì đáng nói?” nhưng, sự “ngẫu nhiên”
này dường như có sự tất nhiên của nó. Then chốt là chữ
“không” trong câu trả lời của thiền sư.
Chọn
công án có liên quan đến “Vô” làm đầu bài này, là tương
đối phù hợp với tên sách “Vô Môn Quan”. Cái gọi là
“Vô Môn Quan” có nghĩa là “Không có ai kiểm tra”. Ý nói
phàm những người muốn vào cảnh địa của thiền đều cần
phải thông qua trước cái ải “Vô” này, điểm này phải
là điểm chủ ý của tác giả Vô Môn Huệ Khai thiền sư nên
ngài đã đặt cho tên sách là “Vô Môn Quan”. Chữ “Vô”
của tên sách tương đương với ý chữ “Vô” của Triệu
Châu thiền sư. Cho nên, chúng ta cần phải nhìn thẳng vào
câu nói “Con chó không có Phật tánh” lần nữa. Ồ, không!
Nói vậy, khác chi bảo rằng chúng ta cần phải lý giải ý
nghĩa của “Vô”. Điều này không thể sử dụng thường
lý để giải lý được.
Ở
đây xin độc giả cho phép tôi được nhiều lời, ý tôi muốn
nói: Nếu các vị thật tình nghĩ mãi mà không hiểu được,
thì chi bằng thử cái “diệu kế” của tôi, cái được
gọi: Phương pháp “Đánh mèo mà trúng chỉnh”. Tục ngữ
thường bảo: “Mèo đui gặp chuột chết”. Tay súng không
thiện xạ nhiều khi bắn thêm vài phát và có thể vì “bất
cẩn” mà trúng mục tiêu. Vì thế tôi khuyến khích quý vị
hãy phát huy toàn bộ sức tưởng tượng của mình, cho dù
đoán đông đoán tây, biết đâu chừng cũng sẽ rất có thể
trúng câu đó.
Tiếp
đến, chúng ta hãy bàn về thoại đề liên quan đến chó.
Căn
cứ trong Cơ Đốc giáo, đặc biết là Thiên Chúa Giáo, cho
rằng chó là loài không có linh hồn. Nột dung dưới đây,
do vị linh mục Phi Na Thái Lợi người Ý miêu tả khi ông đến
Nhật Bổn, đối với việc một phụ nữ Nhật đã yêu cầu
ông làm phép và tế lễ cho con chó cưng của bà mà kinh hãi:
Cái
gọi là tế lễ là vì những việc làm khi còn sống của người
chết mà lmà nghi thức chuộc tội và kỳ đảo khẩn cầu
thiên thần giáng ân. Tiếng La Tinh gọi là “An hồn tế lễ”,
hoặc tục gọi là “Trấn hồn tế lễ, và “Truy điệu tế
lễ” v.v. Tôi làm chức linh mục nên thường trong ngày giỗ
kỵ của người chết được yêu cầu tế lễ cho người chết.
Nhưng
còn tế lễ cho con chó đã chết là điều xưa nay chưa từng
có, ít nhất, đối với người Ý như tôi thì quả thật là
điều không thể tưởng tượng.
Không
những đây là vấn đề chưa có tiền lệ, hơn nữa đối
tượng của tế lễ phải là con người, chó thì không. Dù
gì tế lễ cũng là một nghi thức cầu cho linh hồn được
yên nghỉ, còn đối với loài chó không có “linh hồn” thì
như đã được lý luận, “Tế lễ vì chó” là việc không
cách nào có thể làm lễ được.
Tại
nước Ý, dù người không có trình độ trí thức đến đâu
đi nữa cũng không đưa ra yêu cầu như vậy, nhưng đối với
sự tín ngưỡng kiên thành của bà lão Nhật thì lại có thể
do lòng quá thương con chó đã chết mà đã đưa ra sự thỉnh
cầu một cách rất tự nhiên. Sự kiện ấy thật tình đã
tạo cho tôi một niềm xung kích tương đối rất lớn. [Cha Phi Na Thái L?i (Thu?ng th?c Co Đ?c Giáo)]
Vì
chó không có linh hồn, cho nên chó không thể lên thiên đàng
được -- Đối giáo đồ Cơ Đốc Tây Phương thì đây là
vấn đề thường thức phổ thông. Nhưng đối với người
Nhật thì nó lại là nan đề khó giải thích. Theo cách nghĩ
của người Nhật thì chó hay người cũng đều là sinh vật
như thế tại sao lại có sai biệt? Chó vẫn có thể lên thiên
đàng mới đúng...
Người
Nhật sở dĩ có lối nghĩ như vậy, vì lẽ họ hoàn toàn chịu
ảnh hưởng của Phật giáo. Phật giáo cho rằng dẫu là người
hay động vật, nếu đã thuộc về sinh mạng có linh tánh thì
đều có thể thành Phật. Chúng ta tạm thời không bàn đúng,
sai, tốt, xấu, nhưng từ chỗ này có thể thấy rằng Phật
giáo và Cơ Đốc giáo (hoặc Thiên Chúa Giáo) khác nhau rất
lớn.
Nói
đến cái gọi là “Phật tánh” hay về tính chất có thể
thành Phật, thì câu nói này tương đương với Cơ Đốc giáo,
đó là, có khả năng sanh lên thiên đường. Cho nên vấn đề
được hỏi đến của Triệu Châu thiền sư: “Chó có Phật
tánh không?” đổi theo cách nói của Cơ Đốc giáo thì: “Chó
có thể lên thiên đàng không?”
Như
thế, câu trả lời cho vấn đề đó là đối với Cơ Đốc
giáo thì phải là “No!” nhưng đối với Phật giáo thì “Yes!”
Đứng trên giáo nghĩa của Phật giáo thì trả lời như thế
rất là chính xác, còn trên phương diện Cơ Đốc giáo thì
dựa vào những lời của linh mục Phi Na Thái Lợi cũng có
thể suy luận được.
Trở
lại câu trả lời của Triệu Châu thiền sư, đương nhiên
“Không” cũng tức là cái ý “No”. Nếu vấn đáp thì sẽ
như thế này:
“Chó cũng có Phật tánh sao?”
“Vô lý, đừng nói ngốc!”
Trả
lời thế nếu sơ với cách nói của Cơ Đốc giáo thì có
gì sai khác? Không lẽ Triệu Châu thiền sư không biết Phật
pháp, hoặc giáo nghĩa: “Tất cả chúng sanh đều có Phật
tánh” hay ngài đã quên tất cả?
Hai
điểm này đều không đúng.
Bút
giả cho rằng cái “không” của Triệu Châu thiền sư đã
khẳng định phải là cái ý “No”, trái lại so với sự
khẳng định của “Yes” còn ở vào tấng cấp cao hơn.
Tại
sao nói thế?
“Chó cũng có Phật tánh sao?” hỏi như thế rõ ràng đã đặt Phật tánh sao?” hỏi như thế rõ ràng đã đặt Phật tánh là vật ở tầng thứ thấp mà tra thúc thuộc tánh của nó, như thế bản thân của vấn đề tự nó đã nổi bật lên sự ngu xuẩn.
Phật tánh là Phật tánh
Trong Phật tánh không có vấn đề phân biệt sai dị của cái gọi là con người, hoặc chó hoặc khỉ v.v... Phật tánh xưa nay vốn đang tồn tại, thế thì làm gì có vấn đề ở người mà không ở trên thân khỉ? Phật tánh tồn tại trên mọi phân biệt như thế.
Tôi nghĩ, ý của Triệu Châu thiền sư là vậy!
Tất cả chúng sanh đều sẵn có Phật tánh –
Nhưng đã không có cái loại “Phật tánh của chó” như vậy.
Cho nên Triệu Châu thiền sư bất đắc dĩ phải trả lời như thế:
“Chó cũng có Phật tánh sao?”
“Không!”
“HÀNH
VI” GIỐNG NHAU NHƯNG HOÀN TOÀN
KHÔNG
THỂ BIỂU ĐẠT “Ý TƯỞNG” NHƯ NHAU
CỤ CHỈ HÒA THƯỢNG
Cái
gọi là “Chân lý”, kỳ thực rất là bình thường.
Nói
theo lý, muốn thực hiện việc bình thường đáng lẽ rất
dễ, nhưng thực tế lại không phải thế.
Tôi
từng được nghe về một sự kiện thế nào:
Tại
một cơ quan công cộng, có hai vị khóa trưởng họ Lâm và
Trần. Trong cơ quan ấy, Lâm khóa trưởng có nhân tâm hơn,
nên các thuộc cấp đều thích gần gũi.
Một
hôm, cơ quan có một viên chức qua đời vì tai nạn xe cộ.
Tin buồn trên được truyền đến văn phòng đang khi Lâm khóa
trưởng chuẩn bị đi công tác cán xa. Do nhiệm vụ trọng
yếu, ông không cách chi có thể thay đổi hành trình để ở
lại.
Vì
thế, Lâm khoá trưởng căn dặn thư ký mang phẩm vật đến
nhà người chết để phúng điếu và thay mặt gửi lời phân
ưu đến phu nhân người quá cố.
Số
tiền mang đi phúng điếu là 10.000 đồng. Trị giá theo lúc
ấy là con số vừa phải. Nhưng vấn đề không phải số tiền
nhiều hay ít, mà là nội dung của cái túi phúng điếu.
Loại mới, bạc giấy 100 đồng...5 tờ
Loại mới, bạc giấy 50 đồng...8 tờ
Lóng tánh loạn tiền đúc 10 đồng....10 đồng
Có lẽ có người sẽ hỏi tại sao không gói gọn 10 tờ loại 1,000 đồng? Đúng vậy, nếu không thì không được.
Theo cái gọi là điện nghi, vật phúng điếu trong lúc an ủi tang gia để biểu đạt tâm lý và không để tang gia bị bất cứ trở ngại khó khăn nào về mặt tiền bạc. Thông thường, bởi sự việc bất ngờ xảy ra nên phúng điếu dù giấy bạc cũ cũng không can chi, còn nếu bì thư chứa toàn bạc mới, sẽ khiến tang gia hiểu lầm phải chăng trường hợp nào đó đối với sự phát sinh tang tóc hình như đã được đợi chờ sẵn. Đồng thòi, vì để biểu hiện lòng cảm thông trước sự việc ngoài ý muốn nên cố tình đặt nhiều loại tiền như 1000, 100, 50, 10 đồng v.v... để tỏ ý là vì đột ngột không thể chuẩn bị kịp nên chỉ nhất thời góp lại.
Nhưng, Lâm khóa trưởng sử dụng bạc mới là để biểu hiện cá nhân ông có tác phong tế nhị khác với người bừa bãi, đó là một dụng tâm khéo léo chứng tỏ mình thuộc hạng người nào.
Người vợ nhận phúng điều, rơi lệ cảm kích trước sự tế nhị của Lâm khoá trưởng. Không những không trách cứ việc ông không đến viếng tang lễ mà còn tỏ ra cảm kích muôn phần
Việc này đến tai Trần khoá trưởng, trong lòng ông ta chợt có chủ ý: Sau này nếu gặp cơ hội như thế thì cũng y theo đó mà bào chế một phen...
Quả nhiên, không lâu cơ hội lại đến (sự việc tựa hồ phát triển thuận lợi đến độ giống như sắp xếp một mẫu chuyện. Tuy tôi hoài nghi như vậy nhưng cho dù bịa đặt cũng không sao. Tóm lại, Trần khóa trưởng học theo Lâm khóa trượng, cũng gói loại giấy bạc mới để đi phúng điếu)
Nhưng, nghe nói sau đó vợ của người chết đã oán trách và bảo với người khác rằng:
“Con người của Trần khóa trưởng thật là không có hảo ý...”
Mẫu chuyện trình thuật trên đây, trọng điểm muốn được biểu đạt đó là: Tuy là hành vi giống nhau, nhưng con người khác nhau nên động cơ làm việc khác nhau. Cũng một hành động giống hệt như thế nhưng sẽ mang lại cho người sự vui thích và chán ghét khác nhau.
Cụ Chỉ hòa thượng mỗi khi có ai cật vấn Phật pháp thì ngài đưa lên một ngón tay. Sau đó có một đồng tử vì có người ngoài hỏi là hòa thượng đã dạy pháp nào trọng yếu nhất, đồng tử cũng đưa ngón tay lên để trả lời. Việc này sau khi hòa thượng nghe được, đã dùng dao chặt đứt ngón tay của đồng tử ấy. Đồng tử bị đau đớn khóc lóc rồi bỏ đi, hòa thượng gọi lại, đồng tử quay đầu, Cụ Chỉ lại đưa ngón tay lên, đồng tử đột nhiên lãnh ngộ. Khi Cụ Chỉ sắp viên tịch, ngài bảo với những đệ tử rằng: “Sau khi ta đã thể ngộ được Nhất Chỉ thiền từ Thiên Long Hòa Thượng, thọ dụng cả đời không hết”. Nói xong thì viên tịch. [ Vô Môn Quan]
Năm tháng sanh thác của Cụ Chỉ hòa thượng đã không thể tra khảo được. Bài tựa bảo rằng sở học của ngài được truyền từ Thiên Long hòa thượng nhưng Thiên Long hòa thượng sanh và tịch vào năm nào thì cũng không thể tra cứu, chỉ biết thiền tăng là người ở vào cuối đời Đường. Nhưng việc này không trọng yếu, cái mà chúng ta muốn học là ngữ lục và hành nghi của ngài.
Cụ Chỉ hòa thượng nhờ thầy của ngài là Thiên Long hòa thượng đưa ra một ngón tay (phải là ngón trỏ?) mà khai ngộ. Có lẽ đương thời Cụ Chỉ đã thỉnh giáo với Thiên Long hòa thượng “Cái gì là Phật?”, nên Thiên Long hòa thượng đã làm động tác như vậy?
Nhưng, điều quan trọng xin quý vị chớ nên hiểu lầm rằng, ý của Thiên Long hòa thượng đã chẳng phải cho rằng ngón tay trỏ là Phật. Đại khái là khi Cụ Chỉ hỏi cái gì là Phật thì Thiên Long hoà thượng đã nhìn thấu rõ trong tận cùng tâm khảm của người đệ tử đã xem Phật là một tuyệt đối thể vừa sùng cao vừa uy nghiêm, vì thế để đánh tan thiên chấp của Cụ Chỉ nên ngài đã dùng ngón tay để điểm tỉnh sự mê vọng đó.
Cụ Chỉ thấy thế tức khắc đại ngộ.
Vẫn xin quý vị chớ nên hiểu lầm rằng, tuy chấp rằng ý nghĩa Phật là chí cao vô thượng vẫn là một sự chấp trước sai lầm, nhưng trước hết cũng không nên vì đó mà hiểu lầm rằng Phật là vật thuộc tầng thứ kém giống như ngón tay trỏ. Tóm lại, Phật là Phật, biết rõ Phật chỉ là Phật thì sẽ giác ngộ được chân lý.
Về sau, khi những đệ tử thỉnh thị Cụ Chỉ hòa thượng bất cứ vấn đề gì, hòa thượng đều bật một ngón tay ra để đáp. Ở đây dường như lại dẫn đến một hiểu lầm khác cho độc giả, rằng ngài đã chấp vào Nhất Chỉ thiền. Tuy Phật pháp có đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn, Cụ Chỉ hòa thượng chỉ độc chọn một pháp thì cũng đành chịu, nhưng nhất nhất đều sử dụng phương pháp này như thế có đúng không?...Có lẽ những pháp khác ngài cho rằng phiền phức nên dùng Nhất chỉ thiền thì cũng thế, mà làm mặt ma quỉ thì cũng vậy, thét một tiếng lớn cũng chả sao, bảo rằng “Sáng khoẻ” cũng không can chi, miễn sao sử dụng bất cứ pháp gì mà mục đích tối hậu có thể biểu đạt cái ý giống nhau là được. Đã vậy, cứ sảng khoái và đơn giản dùng Nhất Chỉ thiền để biểu thị lối nghĩ gọn gàng thuần nhát thì cũng chẳng có gì sai trái. Không cần làm bộ làm tịch, tất cả đều dùng một ngón tay lmà phương tiện tiêu biểu, trước sau gì Cụ Chỉ hòa thượng vẫn một mực lấy Nhất Chỉ Thiền để nhất tâm trả lời.
Vì tiểu đồng chưa lãnh ngộ được đạo lý này, nên thấy hòa thượng giơ ngón tay trả lời đã lầm tưởng chìa ra một ngón tay tức là Thiền, là biểu đạt được thiền ý. Sự lãnh hội sai lạc về thiền này đã khiến tiểu đồng tử sinh ra bắt chước y hệt mà không tự biết mình đang sa vào mê vọng thiên chấp.
Kỳ thực, bất cứ sử dụng phương thức nào cũng đều không thể biểu hiện thiền chân chính – Chính vì thế, thiền có thể biểu hiện qua bất cứ phương tiện thiện xảo nào, trong ấy bao gồm cả phương pháp sử dụng một ngón tay. Riêng trường hợp tiểu đồng tử vì chưa triệt ngộ được đạo lý này nên chỉ đơn thuần nghĩ là muốn biểu hiện là biểu hiện, thế thôi.
Chính thế nên khi người khác hỏi: “Cái gì là Phật?” Tiểu đồng tử học theo cách biểu thị của hòa thượng mà đưa lên một ngón tay.
Nhưng khi Cụ Chỉ hòa thượng biết được, ngài đã không cho giải bày điều gì mà lập tức chặt đứt ngón tay của tiểu đồng, sau đó đang khi đồng tử còn đớn đau khóc lóc, ngài lại đưa ra một ngón tay, ngay sát na chớp nhoáng ấy, tiểu đồng tử đã nhờ đó mà khai ngộ.
Tiểu đồng tử đã liễu đạt được đạo lý gì mà khai ngộ? Thật rất khó thuyết minh. Nếu lấy lý mà luận đoán về thiền, trên căn bản đã là phí uổng miệng lưỡi, huống hồ muốn kẻ phàm phu chúng ta thuyết minh về cảnh giới khai ngộ. Cuối cùng thì việc sẽ như thế nào? Cảnh giới của người khai ngộ giống như người giàu thưởng thức sơn trân h ải vị và người nghèo nhất định không có cách nào có thể thẩm thấu được mùi vị thơm ngon trong ấy.
Nhưng, ở đây tôi cần thuyết minh, nếu không, e sẽ làm cho độc giả hiểu lầm rằng phương thức “Miễn ngồi thiền” mà tôi đã đề xướng đó là sự treo đầu dê để bán thịt chó.
Đối với tiểu đồng, có thể đây đúng là một loại “Khế cơ của phủ định” -- Đồng tử vì tin tưởng rằng Nhất Chỉ thiền có nghĩa là Phật, vì thế mà có thiên chấp mê vọng nên bị Cụ Chỉ hòa thượng chặt ngón. Tuy hơi tàn nhẫn, nhưng vì muốn phá trừ chấp trước của nó mới cắt đứt ngón tay của nó. Có lẽ sẽ có người chỉ trích việc làm tàn nhẫn này vì cho dù là thầy của người cũng không nên có hành động nhẫn tâm như thế. Không biết quý vị có từng nghe rằng thầy thuốc vì muốn cắt bỏ tế bao ung thư nên đã cắt bỏ một trong năm ngón tay. Có sao đâu. Huống chi đối với đồng tử chấp trước về Nhất Chỉ Thiền, thì ngón tay ấy khác gì tế bào bị ung thư. Cho nên, cắt đứt một ngón tay mà phá trừ được vọng chấp của tâm là điều rất cần thiết.
Dẫu sao thì ngón tay cũng đã không còn nữa, nhưng, Cụ Chỉ hòa thượng vẫn chìa ra ngón tay để minh chứng rằng đây là Phật. Ý muốn nói rằng, đã không phải là ngón tay nữa, mà đích thị là Phật.
Tiểu đồng vì mất ngón tay nên chợt hoàn toàn liễu ngộ.
Vấn đề của Lâm khóa trưởng và Trần khóa trượng cũng thế. Trần khóa trưởng không được mọi người trọng vọng vì lẽ cho rằng giấy bạc mới mang ý nghĩa “kính trọng nhân viên dưới quyền”. Theo lý luận, thì dấu hiệu đồng nghĩa này quả tình đã không thuận hợp với luận lý, nhưng ông ta lại cả tin là muốn “kính trọng thuộc hạ” thì phải dùng bạc giấy mới để biểu hiện, vì thế mà ông đã y theo đó mà bày tỏ ý nghĩ của mình.
So với tiểu đồng tử, vị Trần khóa trưởng đã thiếu mất “khế cơ của phủ định”, vì thế mà ông bị sự phản cảm của thuộc cấp và tang gia, có thể nói đó là việc làm phí uổng tâm sức.
Theo cá nhân tôi thì tôi cho rằng cái gọi là thiền thường thường trong sự “phủ định” có mặt nghiêm túc và nhận chân của nó. Phủ định ngón tay, phủ định giấy bạc mới, phủ định chủa nghĩa hình thức, thậm chí phủ định cả “Phật”..., nhưng, trong tất cả phủ định, phải xô đẩy tư tưởng con người đến chỗ không còn bị cục hạn nữa mới đạt tới tự do thật sự. Như thế, vạn sự vạn vật lại được phú cho cái ý nghĩa hoàn toàn nguyên mới mẻ, như ngón tay có thể là Phật thì bạc giấy mới cũng có thể đồng nghĩa là “kính trọng thuộc hạ” vậy.
NHẬN
RÕ BẢN LAI DIỆN MỤC CỦA MÌNH
LÂM TẾ NGHĨA HUYỀN
“Lâm
Tế Lục” là cách nói gọn của “Trấn Châu Lâm Tế Huệ
Chiếu thiền sư ngữ lục”, Huệ Chiếu thiền sư là thiền
tăng Lâm Tế Nghĩa Huyền (? – 867) rất nỗi tiếng ở đời
Đường.
Lâm
Tế thiền sư là thủy tổ khai sơn của Lâm Tế Tôn, đầu
tiên ngài theo học thiền với Huỳnh Bá thiền sư, vì thế
một mạch ngài đã thừa tậpt thiền phong nghiêm tuấn của
Huỳnh Bá.
“Hu?nh
Bá B?ng, Lâm T? Hát”
Đã
có câu truyền tụng như thế để biểu tỏ phương thức giáo
đạo tham thiền tu hành của hai vị này, Huỳnh Bá dùng cây
thước bảng đế đánh và Lâm Tế thì lớn tiếng la hét.
Trong “Lâm Tế Lục” đã thể hiện đầy đủ phong cách
nghiêm lệ của cá nhân Lâm Tế thiền sư.
Khi
Lâm Tế thượng đường, ngài tuyên bố: “Trên Xích Nhục
Đoàn có một vị Vô Vị Chân Nhân thường ra vào trước mặt
các ngươi, ai là người chưa chứng cố mà có thể nhận diện”.
Lúc ấy có một tăng nhân hỏi: “Thế nào là Vô Vị Chân
Nhân?” Thiền sư vội bước xuống thiền sàng nắm lấy ông
ta và hét lớn: “Đạo! Đạo!” Vị tăng ấy định muốn
nói điều gì thì thiền sư đã buông ra và bảo: “Vô Vị
Chân Nhân là cái thẻ gỗ quẹt thân!” (1)
Một
hôm, Lâm Tế thiền sư đứng trên pháp đường và bảo: “Trong
thân sanh nhục thể của mỗi con người, đều có một vị
tuyệt đối chân nhân vô hình vô tượng, thường xuyên ra
vào từ khí qua cảm giác của các vị. Vẫn không cách nào
có thể thấy rõ Vô Vị chân nhân này. Hãy xem đây! Xem đi!”
Lúc
bấy giờ, có một tăng nhân bước ra hỏi rằng: “Vị chân
nhân vô hình vô tượng này là gì?” Thiền sư rời khỏi
thiền tọa, chụp vị tăng nhân rồi hét lớn: “Nói đi! Nói
đi!” Trong khi vị tăng nhân ấy đang lúng túng, do dự, thiền
sư liền buông tay và thét lớn: “Vị Vô Vị chân nhân này
chính là cái gì giống cái nẹp bản quẹt phân...”
Hy
Lạp trước kia, có một triết gia vĩ đại là Tô Cách La Đê,
ông đã để lại ngay trước cửa ra vào của thần điện
A La Ba (2) một đoạn minh văn như sau:
GNOTHI
EAUTON
Bia
năm này là câu cách ngôn để ông thường xuyên cảnh giác,
cảnh tỉnh, phiên dịch ra Hán ngữ là “Tự tri bản thân”
nghĩa là “Tự mình biết mình”. Ông đem câu nói này khắc
ngay chỗ vào thần điện, điều đó không khác nào để cảnh
cáo thế nhân.: Từ của vào, bước thêm một bước là lãnh
vực của thần linh. Nhân loại các ngươi dù hô phong hoán
vũ trong chốn nhân gian nhưng dưới mắt thánh thần thì chẳng
qua chỉ nhỏ bé như hạt cát. Khi muốn vào thế giới của
thần, tốt nhất các người nên tự biết thân phận như vậy.
Thực
ra, ý của Tô Cách Lan Đê không phải như thế. Ý của ông
là: “Phải tự biết rõ chính các ngươi!”
Nhưng
muốn hiểu rõ chính mình là gì và làm sao để hiểu rõ thì
phải làm thế nào mới đúng?
“Tôi
mang chức khóa trưởng, thuộc giai cấp công nhân, tiền lương
đủ xài, tướng mạo bình thường, có một vợ một con, thân
thể thuộc loại máu O...” thí dụ này cũng là một cách
hiểu rõ chính mình, nhưng, đấy chỉ là bên ngoài. Tôi không
cho rằng lời của Tô Cách La Đe mục đích chỉ để diễn
đạt về những bộ phận có tính cách hời hợt bên ngoài
như thế.
Tô
Cách Lan Đê đã bảo.. Đừng lo, không phải tôi muốn lên
lớp triết học cùng quý vị, chẳng qua trước khi tôi nói
về “Vô Vị chân nhân” của Lâm Tế thiền sư, nên bất
đác dĩ phải nói rõ trước việc này vì đó là điều cần
thiết. Dẫu sao, Tô Cách La Đê cũng đã nghiêm khắc tách rời
“mình” và “sở hữu của mình”. Bất cứ thân thể nào
cũng vậy, tướng mạo nào cũng thế, hoặc là tài sản, địa
vị, chức vụ, vợ con...v.v.., những thứ này đều là “sở
hữu của mình” -- thuộc về vật của mình. Nếu so sánh,
“chính mình” đương nhiên là trọng yếu hơn so với “sở
hữu của mình” mới phải, nhưng người đời vì do ngu si
nên cứ nghĩ đến “Thân ngoại chi vậy”, thật là hành
vi đảo ngược. Cho nên, Tô Cách La Đê muốn mách cho chúng
ta rằng, không nên có thái độ ngu xuẩn, ta nên nắm vững
lấy ta, còn “Sở hữu của chính mình” chỉ là thứ yếu.
Như
thế, “Hiểu rõ chính mình” của Tô Cách La Đê có thể
nói tương dương với cái ý “Xem Vô Vị chân nhân trên xích
nhục đoàn (khối thịt đỏ) của Lâm Tế thiền sư. “Xịch
nhục đoàn” tức là nhục thể của con người. Mà cái nhục
thể này chẳng qua là “Sở hữu của mình”. Trong thân xác,
còn có một vị khác đó là Vô Vị chân nhân của thể xác
hiện đang có mặt đó đích thực là “Chính mình” (bản
lai diện mục của chính mình). Bất cứ là người có địa
vị như thế nào, từ khóa trưởng, giáo sư đại học, uỷ
viên lập pháp, thậm chí kể cả người buôn bán ở đầu
đường xó hẻm, hay bán thuốc lá dạo...., trước khi có sự
sai biệt thân phận chức nghiệp như thế đã có một con người
chân thật tồn tại. Vị “Vô Vị chân nhân” này ra vào
trong tai, mắt, mũi, họng, của chúng ta. Tại sao ta không thấy
nó? Lâm Tế thiền sư cho rằng: Không có lý do gì mà không
trông thấy cả, không phải thế sao? Hãy xem nhanh! Xem đi!.
Nhưng,
chúng ta đã không thấy được gì!
Muốn
xem, thì quả thật rất dễ trông thấy, nhưng, điều đã khiến
cho con người chán nản đó là cái gì cũng không thấy. Không!
phải nói là chính chúng ta không chịu quán sát. Cứ ngoan cố
giả vờ không thấy, nên chỉ một mạch truy cầu danh lợi
thế gian và trong lòng không lúc nào không mơo nghĩ về năm
việc, đó là: “Tài, sắc, danh, thực, thuỳ (ngủ)”, thật
là vô minh đáo để.
Như
thế thì Vô Vị Chân Nhân này là vị thần thánh nào?” Một
đệ tử đã hỏi thế.
Tăng
nhân là ai? Là vị khờ ngốc hay sự thật là vị có chút
tài ba? Người dám cả gan nêu lên chất vấn này, có lẽ ít
nhiều đã được lãnh ngộ?
Lâm
Tế thiền sư thấy tăng nhân này dường như có điểm đáng
dùng, thế là đạc biệt rời khỏi thiền tọa, túm lấy ngực
ông ta, giống như thầy dạy đô vật đang huấn luyện học
viên, hỏi dồn ông rằng:
“Là
gì? Nói đi! Nói coi!”
Nhưng,
ở ngay cái mắc gút quan trọng này, tăng nhân lại không thốt
nên lời.
Lâm
Tế thiền sư thất vọng, bèn nói:
“Vô
Vị Chân Nhân của ngươi là kẻ giống cái que quẹt phân!...”
[Căn
cứ vào thuyết Liễu Điền Thánh Sơn thị học giả Nhật
Bổn: “Que quẹt phân” cũng có thể giải thích là cục phân
khô như là que cây. Trên thực tế giải thích như thế thì
càng chính xác hơn”. (“Thiền tư tưởng” năm 1975).]
Thế
là, câu nói này thành ra “Cái gì! Vô Vị chân nhân của ngươi
giống như cục phân khô!...”
Viết
đến đây, tôi muốn nói “Đáng thương thay! đột nhiên bị
thộp ngực còn bị ép hỏi: “Nói nhanh! Nói mau!” và vì
do dự nên lại bị mắng “Ngươi là cái thứ đại tiện”,
thử nghĩ không đáng thương hại sao?” Kỳ thực nếu trường
hợp chúng ta bị ép hỏi như thế, có lẽ cũng bị rơi vào
tâm trạng y hệt đó là cảm thấy do dự lúng túng. Kết quả
cũng bị Lâm Tế Thiền sư quở trách:
“Tên
này chỉ là một đống phân chó thối!...rõ ràng là ở đó...Xem
kìa! Không phải chính là nó đang ra vào ở đó sao?”
Cho
dù mắt chúng ta có mở trừng trừng thì vẫn như là đui mù
không thấy. Nhưng, ở tình trạng này vẫn còn có một cơ
hội sống.
Cái
mà tôi có thể nói là, chỉ có cái này thôi.
Chú (1): Cây bảng làm bằng tre để gạt phân. Đời xưa những nhà nghèo không có giấy để chùi phân, cho nên dùng cây này thay thế.
Chú (2): Ngang hàng với Olympic, là hai thánh địa lớn của thời cổ Hy Lạp. Lấy mặt trời, thần A Bà La làm trung tâm tế bái.KHĂNG
GIỮ GIÁO ĐIỀU BIẾN THÀNH
“CANG
PHỤC TỰ DỤNG”
HY HUYỀN ĐẠO NGUYÊN
“Chánh
Pháp Nhãn Tạng Tuỳ Văn Ký” là sách thuật những gì từ
chính miệng của Đạo Nguyên thin sư Nhật Bản (1200 – 1253),
do Hoài Trang (1) đệ tử thân cận nhất của ngài dùng bút
lục kết thành. Còn thủ bút của Đạo Nguyên Thiền sư, là
quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” (95 tập). Nhưng sách này rất
khó hiểu, nếu không phải là người có một trình độ học
Phật tương đương thì đọc nó mà muốn thấu triệt còn
khó hơn cả việc lên tận thiên đàng. Một số người vừa
chỉ xem qua đã than như bộng.
Quyển
“Chánh Pháp Nhãn Tạng Tuỳ Văn Ký” thì lại khác. Không
những phân lượng vừa phải (tổng cộng 6 quyển) mà văn
chương cũng gần gũi dễ hiểu, có lợi trong lúc đọc, hơn
nữa nó thường được so sánh với “Thán dị sao”. “Thán
dị sao” là ngữ lục của Thân Loan Thượng Nhơn, là thuỷ
tổ khai sơn của Tịnh Độ Chân Tôn Nhật Bổn, do đệ tử
là Duy Viên một mặt hồi tưởng một mặt bút ghi mà thành.
Và hệt thế, “Giáo hành tín chứng”, trước tác bằng chính
thân bút của Thân Loan thượng nhân (2) cũng là loại sách
không dễ lý giải. Vì thế chỉ cần nhắc đến Thân Loan
thượng nhân là tức khắc mọi người đều liên tưởng đến
quyển “Thán dị sao”. Tình trạng của Đạo Nguyên thiền
sư cũng thế. “Chánh Pháp Nhãn Tạng Tuỳ Văn Ký” (dưới
đây lược gọi là “Tuỳ Văn Ký”) nuế so với “Chánh
Pháp Nhãn Tạng” của nguyên trước bản nhân thì được
lưu hành và phổ biến rộng rãi hơn nhiều.
Nhưng,
có người cho là “Tuỳ Văn Ký’ cũng thế, “Thán dị ký”
cũng vậy, đều chỉ là tác phẩm từ tay đệ tử, nên giá
trị đã chẳng là bao.
Quả
thật như thế sao?...
Tôi
không cho là thế, lấy Tô Cách La Đê, một triết gia cổ Hy
Lạp làm ví dụ: Bản thân ông ta đã không lưu lại bất cứ
trước tác nào, người sau chỉ xuyên qua Bá La Đồ, một học
trò của ông, mới hiểu được tư tưởng của Tô Cách La
Đê. Tình hình của Cơ Đốc Giáo cũng thế.
Bố
bộ sách phúc âm trong “Tâm Ước Thánh Kinh” đều do bốn
vị môn đồ truyền liạ lời nói của Gia Tô Cơ Đốc. Bản
thân của Gia Tô Cơ Đốc thì goi61ng như Tô Cách La Đê, đã
không lưu truyền bất cứ trước tác nào cả..
Nhưng,
bàn về số người trên đây, chúng ta không nên thờ ơ bỏ
sót vị giáo tổ Thích Tôn của Phật Giáo. Thứ nhất bởi
lẽ chúng ta chưa từng tận tai nghe những giáo thị của Thích
Tôn, thứ hai, đối với những lời thuật lại của đệ tử
đều cũng là sau khi ngài đã diệt độ mới kết tập thành
kinh điển. Chính vì thế, mỗi khi mở đầu kinh điển, đều
phải ghi câu “Như thị ngã văn” (Tôi đích thân nghe Phật
nói như thế) để làm chứng tính cho Kinh Phật. Nói cách khác,
Phật giáo có thể nói là đệ tử của Phật đã dựa vaò
thiện căn và trí tuệ ađ4 lãnh ngộ giáo thị của đức Phật
bởi chính họ. Thế thì vì lý do là ký lục của những đệ
tử mà phê phán rằng giá trị của nó không cao, nếu thế,
thì “Phật Giáo” củng không thể thành lập được sao?
Còn
nữa, tình huống của Đạo Nguyên thiền sư, Thích Tôn và
Gia Tô hoàn toàn không giống nhau. Dù sao chúng ta vẫn có thể
đọc được quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” do thiền sư
tự tay viết ra, khác với trường hợp của đức Thích Tôn
và Gia Tô vì hai ngài đã chẳng lưu lại một trước tác thân
bút nào để người sau có cơ hội so sánh.
Cá
nhân tôi thì không cho rằng giá trị của “Tuỳ Văn Ký”
hoặc “Thán Dị Sao” là thấp. Nhưng cũng không tán đồng
rằng đó là bản thứ hai hoặc tác phẩm được sao chép lại.
Theo tôi, “Chánh Pháp Nhãn Tạng” và “Tuỳ Văn Ký” là
hai quyển mang tính chất hoàn toàn khác nhau không thể so sánh
một cách đơn giản được. Ví như nói, Đạo Nguyên thiền
sư lấy lập trường xuất gia chủ trương muốn tu trì Phật
Pháp, thì nên lìa bỏ tất cả những gì của thế tục, cắt
tóc xuất gia, tâm trí chỉ chuyên chú trong việc công phu toạ
thiền như thế mới xứng đáng là một hành giả Phật giáo
chân chính. Có thể nói Đạo Nguyên thiền sư chủ trương
chủ nghĩa xuất gia hoàn toàn và quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng”
đã căn cứ vào tư tưởng này mà viết thành. Do vậy nếu
muốn bảo rằng cả quyển sách đó đã tràn đầy “Chủ
nghĩa xuất gia” cũng không có gì quá đáng. Nhưng, ý của
tôi chẳng phải bảo rằng quyển sách này vô dụng đối với
người tại gia. Dù sao đi nữa, “Chánh Pháp Nhãn Tạng”
vẫn là một quyển sách vô cùng tinh vi. Nay thử đọc chương
cuối của quyển này là chương “Sanh tử”, đủ thấy văn
chương tương đối bình dị dễ hiểu, nội dung của nó dù
là người phàm phu cũng không ai không thể không biết.
“Thành
Phật chi đạo hữu dị hành giả. Bất tác chư ác, bất luyến
sanh tử, từ bi nhất thiết chúng sanh, kính thượng mẫn hạ,
ư sự bất yếm bất cầu, ư tâm vô ưu vô lự, thị danh vi
Phật”
(Con
đường để thành tựu Phật quả tối thượng rất dễ thực
hiện, đó là, chỉ cần chấm dứt các điều ác, không tham
đắm vào các hiện tượng sanh tử vô thường, thi thiết tâm
từ bi đối với tất cả chúng sanh, kính trọng bậc trưởng
thượng, thương giúp kẻ hậu học, đối với những việc
căn bản như thế mà tâm không suy tư bi não, chẳng nhàm chán
nhưng cũng chẳng suy cầu, đó đích thực là đấng Giác ngộ)
Đoạn
văn trên chẳng cần phải giải thuyết, chỉ cần xem qua là
biết ngay ý muốn nói gì. Nhưng biết rõ là một việc là
muốn thực thi hoàn toàn như vậy thì không phải là việc
dễ dàng. Cho nên xin thưa, tu hành mà càng thấy đơn giản
chừng nào thì càng cần phải có pháp môn công phu cao thâm
hơn là chỉ lo ngồi xếp bằng. Mà muốn tu trì cái công phu
“Chỉ ngồi xếp bằng”, nếu không xuất gia thì thật rất
khó để thực hiện. Quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” chỉ
đạo cho sự chọn lựa sau khi xuất gia tu trì theo pháp môn
toạ thiền, cho nên có thể nói đây là quyển sách được
viết cho người xuất gia.
Còn
quyển “Tùy Văn Ký”, chỉ đọc tựa đề cũng nghĩ ngay
đó là sách ghi chép những ngữ lục để khai thị cho đệ
tử của Đạo Nguyên thiền sư, vì thế, đương nhiên sách
nyà cũng truyền đạt chủ nghĩa xuất gia của thiền sư. Chẳng
qua sách này bao gồm một đặc sắc khác mà “Chánh Pháp Nhãn
Tạng” không thể có, đó là những câu xuất hiện trong sách
dưới đây:
Thuyết pháp chi dư, thuận tiện khai thị: “....”
Nhàm đàm chi thời, thuận tiện khai thị: “....”
Nhất nhựt tham thiền chi hậu, thuận tiện khai thị: “....”
(Ngoài việc thuyết pháp, thuận thị khai mở chỉ dạy: “....”
Lúc nhàn rỗi đàm luận, thuận tiện khai thị: “....”
Sau một ngày tham thiền, thuận tiện khai thị: “....”
Cách
nói “thuận tiện” khai thị của Đạo Nguyên thiền sư này
đã gợi lên thiền vị một cách đấy thích thú, nó siêu
việt qua lập trường đối lập của xuất gia và tại gia,
có thể nói đó là châm ngôn trị gia xử thế vô cùng thích
hợp có thể sử dụng cho người thế tục thông thường.
Căn
cứ vào điểm này, tôi hoan hỷ mạnh dạn giới thiệu quyển
“Tùy Văn Ký” đến quý vị độc giả. Quý vị đọc qua
từng bài một, có thể sẽ không ngừng phát hiện bao nhiêu
trí huệ quý báu về thiền mà quý vị chưa từng biết đến:
Bài
đầu của “Tùy Văn Ký” đã ghi một đoạn với nội dung
mà Đạo Nguyên thiền sư đã lấy mẫu chuyện trong “Tục
Cao Tăng truyện” (3) làm đề tài để khai thị cho các đệ
tử:
Trong
số môn hạ của một thiền sư, có một vị đệ tử xuất
gia. Vị đệ tử này tâm tính rất siêng năng cần mẫn, hằng
ngày chuyên cần dâng hương lễ bái Phật tượng bằng vàng
và Xá Lợi Phật của ông. Xá Lợi Phật là di cốt của đức
Thích Tôn. Phật tượng, Xá Lợi đều là vật của thánh giả,
đối với sự vật của thánh giả mà cung kính lễ bái thì
đó là việc tự nhiên, chẳng có chi phải ngạc nhiên cả.
Thế
nhưng, sư phụ ông đã cảnh cáo ông rằng: “Phật tượng
và Xá Lợi mà con đang tôn kính lễ bái đó, sau này sẽ là
một chướng ngại rất lớn cho việc tu hành của con, v5ây
con hãy mau vứt đi!”
Người
đệ tử nghe xong, cảm thấy vô cùng khó chịu: “Con tôn kính
lễ bái Phật tượng và Xá Lợi thì có điều chi không đúng?”
Không riêng vị đệ tử này, tất cả chúng ta ai cũng đều
nghĩ như thế cả, thật không rõ sự cảnh cáo của sư phụ
đã có dụng ý thế nào?
“Chúng
là thiên Ma Ba Tuần ảo hoá ra đó:. Sư phụ nói thêm. (Phật
giáo gọi “Ba Tuần” tức là thủ lãnh ác ma).
Nghe
đến đây, vị đệ tử này bực bội bỏ đi.
“Nếu
không tin, con cứ về mở cái rương cất giữ Phật tượng
và Xá Lợi ra xem!” Sư phụ lớn tiếng nói với theo người
đệ tử đang bước.
Sau
khi trở về, ông ta mở cái rương ra xem thí phát giác một
con rắn độc đang nằm khoanh tròn trong đó.
Đây
há không phải là mẫu chuyện tinh vi sao? Đối với câu chuyện
này chúng ta có thể có nhiều giải thích khác nhau.
Ví
như, khóa trưởng của một công ty đã ra lệnh cho thuộc hạ
chấp hành công tác mà chính ra đó là nhiệm vụ thuộc bổn
phận của ông. Lần đầu vì lý do ông có nỗi khổ bất đắc
dĩ, chỉ còn cách nhờ thuộc hạ đi thay ông. Còn thuộc hạ
ngay lúc được uỷ thác trọng nhiệm đã tự lấy làm mừng,
vì đại diện khoá trưởng đi công tác tất nhiên sẽ được
đối đãi như một thượng cấp. Cũng bởi thuộc hạ vui lòng
nhận lời, nên sau lần ấy, khóa trưởng đã giao hết tất
cả những nhiệm vụ công cán của mình cho thuộc hạ làm
thế.
Bô
thuộc cứ phải nhận lãnh mãi trách nhiệm như thế nên cảm
thấy mỏi mệt. Thật vậy, đại diện khóa trưởng không
phải là việc nhẹ nhàng.
“Làm
khóa trưởng để làm gì?...Nếu việc nào cũng đẩy cho chúng
ta làm thế, chi bằng chúng ta làm khóa trưởng, ông ta làm
thuộc hạ thì tốt hơn!”
Giống
như thế, tiếng oán trách có mặt khắp nơi.
Việc
này khiến tôi nghĩ đến người đệ tử lễ bái Phật tượng
và Xá Lợi.
Thông
thường đối với công việc nào mà có quan niệm tiên nhập
vi chủ, thì chúng ta tin tưởng sâu đậm và không nghi ngờ
để kiểm thảo cải tiến. Thái độ xử thế như vậy, kỳ
thật chứa đựng rất nhiều nguy hiểm. Bởi vì những sự
vật chung quanh chúng ta, đôi khi gặp nhân duyên thay đổi,
thay nó vẫn đẹp đẽ, rất có thể sẽ bị hoàn toàn đổi
khác.
Xin
kể về trường hợp mà tôi đã thể nghiệm trong buổi tiệc
rượu. Có thể độc giả sẽ bảo khi bàn luận Phật pháp
mà lấy sự uống rượu để dẫn dụ là không đúng đắn,
nhất là trong tinh thần trì giới tinh nghiêm của Đạo Nguyên
thiền sư. Nhưng, nếu nói ngược lại thì thiền há không
phải chính là tinh thần vô chấp? Nếu chấp uống rượu là
không tốt, thế là không hợp với tinh thần của thiền –
nghe qua tựa hồ như có điều gì cưỡng từ đoạt lý, nhưng
hãy hồ như có điều gì cưỡng từ đoạt lý, nhưng hãy để
tôi trình bày sự thể nghiệm này trước!.
Trong
tiệc rượu –
“Đúng
lúc rồi!” có người đề nghị như thế.
Từ
nhà này uống tới nhà nọ, mấy trận luôn, đã đúng lúc
nên dừng lại. Khi tôi định rời chỗ ngồi, có người mở
miệng bảo rằng “Rượu thịt còn dư, chớ nên lãng phí,
dùng sạch hẳn đi!”
Tham
gia tiệu rượu này, đa số thuộc vào lớp tuổi trung niên.
“Chớ có lãng phí” -- phần đông họ đều mang tâm trạng
như thế. Vì trải qua cuộc đời bầm dập bởi chiến tranh,
số người này đã không cách nào chịu được cái gọi là
văn hóa lãng phí vô ý thức của đương thời. Hồi rượu
nhỏ cũng không thể có, kinh nghiệm khốn khổ ấy khiến họ
khi thấy rượu thịt chưa dùng hết liền nẩy sinh ác cảm
đối với thời đại nên đã tự nhiên thốt ra như thế.
Thiền
sinh ghét sự lãng phí, dù cho một hạt gạo củng không thể
phí phạm. Thiền tăng trong thiền đường khi dùng cơm xong,
đổ nước sôi vào chén tráng những hạt cơm sót, sau đó
uống cạn để không lưu lại bất cứ một hạt cơm nào.
Đây cũng là khóa đề tu hành trọng yếu thường ngày của
thiền tăng.
Xét
ra, việc “Hãy ăn sạch thức ăn rồi mới ra về!” rất
hạp với tinh thần không lãng phí, nhưng kỳ thực đã không
phải vậy.
“Thế
thì, xin ông thanh toán hết đi, tôi quá no, không ăn được
nữa.” câu nói tuy có vẻ vô lễ, nhưng tôi nhất định thối
thác. Thế là 90% đối phương đã phản đối vì cho rằng
tôi đã gây khó cho họ. Vì đề nghị thu thập tàn cuộc là
mong đối phương làm chứ không phải tất cả cùng làm. Quả
thật bài toán vừa gõ hơi quá sớm.
Tôi
cảm thấy vì sức khoẻ, thà bỏ thức ăn thừa còn tốt hơn
là cố gắng để cố ăn. Đương nhiên tốt nhất là không
tham dự ngay từ đầu, nếu bất đắc dĩ phải nhập cuộc
thì nên đủ can đảm thể tự kìm chế lấy mình, nghĩa là
khi vừa mức thì ngưng.
Tu
hành tọa thiền cũng cần có ý lực kiên định này. Ngay trong
ba bữa ăn của thiền tăng, phải luôn chú ý ăn no tám phần
thôi. Cố ép ăn nhiều uống lắm, thì tuyệt đối không cách
nào hài hoà với thế giới thiền cả.
Tinh
thần “không lãng phí”, quý tiếc vật phẩm cố nhiên quan
trọng, đáng quý, nhưng khăng khăng ôm cứng và xem nó như
kim khoa ngọc luật thì trái lại sẽ dẫn đến sự chán chê;
vì tuy nói “không lãng phí” nhưng miễn cưỡng ăn vào thì
sẽ tổn hại sức khoẻ. Tóm lại, nên trong phạm vi vừa phải,
quá trớn thì biến thành “rắn độc”. Chi bằng để thức
ăn dư thừa vẫn tốt hơn. Đó là sự thể nghiệm của tôi.
Giống
thế, có thể mang đạo lý của Đạo Nguyên thiền sư để
ứng dụng trong sinh hoạt thường ngày qua sự thu nhập trong
“Tuỳ Văn Ký”. Có hai bài pháp ngữ dưới đây đư5ơc rút
ra từ quyển “Tùy Văn Ký”
Những
người như chúng ta, sống trong cõi hồng trần thế tục, nhất
là đối với số người đi làm thì không sao tránh khỏi những
việc va chạm và tranh cãi, không luận là thắng hay thua cũng
đều không phải là việc vui vẻ. Lúc bấy giờ nếu nghĩ
đến nội dung bià pháp ngữ này, tuy là đạo lý giáo thị
cho những đệ tử xuất gia của Đạo Nguyên thiền sư, nhưng
nó vẫn mang lại trợ ích lớn lao cho quý vị.
Một
hôm, sau khi thuyết pháp, tiếp đến ngài đã khai thị: “giả
thiết một sự việc ta có lý mà đối phương thì vô lý,
tốt nhất không nên lấy lý chế người để đánh đổ đối
phương. Nhưng tự biết có lý mà lại cố ý nhận lỗi thì
cũng sẽ dễ làm hỏng việc. Tốt nhất đã không tranh thắng
trên mặt ngôn từ thì cũng đừng cố ý cầu toàn mà nhận
sai, hãy để sự việc tự nhiên lụn tắt. Bẵng một thời
gian, khi đôi bên đều đã quên đi lời nói của đối phương
thì oán hận sẽ không còn xảy ra nữa. Đây là đệ nhật
tâm pháp để giải quyết sự phân tranh”.
Ngày
khác, sau khi tham thiền, kế đến ngài đã khai thị rằng:
“Người học Phật cần nhất là không nên cố chấp ý kiến
của mình, cho dù có thể hội được đi nữa cũng chưa chắc
đã tuyệt đối tốt. Khi nghĩ rằng vẫn còn có cái tốt hơn
cái này mà đi quảng bác tham học, hoặc tham cứu lời dạy
của cổ nhân, nhưng sau đó cũng không chấp và tin vào lời
cổ nhân, và, cho dù có đồng cảm đi nữa thì cũng cứ vẫn
tồn nghi để tiếp tục thám cầu những kiến giải tốt hơn
mới đúng”.
Trong
“Tùy Văn Ký” đã có rất nhiều pháp ngữ loại vô cùng
thực dụng để suy ngẫm một cách thâm trầm, xin độc giả
đích thân tìm đọc như thế sẽ thích thú hơn.
Chú (1): Cô Vân Hoài Trang (1198 – 1280) Tăng (tịch) quán Tào Động Tôn, theo hầu học Đạo Nguyên và trợ lực hưng kiến Vĩnh Bình tự, sau thành đệ nhị trụ trì.
Chú (2): Thân Loan (1173 – 1262) là danh tăng thời Liềm Thương Nhựt Bổn, và thuỷ tổ của Chân Tôn. Suốt đời tôn phụng pháp môn tha lực tín ngưỡng của Phật. Có sự khác biệt là, tha lực tín ngưỡng của Pháp Nhiên thượng nhân chủ trương “Niệm Phật vi bổn”, còn Thân Loan chỉ chủ trương “Tín tâm vi bổn”.
Chú (3): Đường, Đạo Tuyên trước, Thu lục truyền ký từ Ngũ Đại Lương đến giữa thời Đường triều gồm 340 vị cao tăngDƯỠNG
THÀNH
(TRƯỞNG
DƯỠNG, TÁC THÀNH)
“PHI
THƯỜNG THỨC”
CỦA
SIÊU VIỆT THƯỜNG THỨC
NHẤT HƯ TÔN THUẦN
Tuyền
Châu ở vào thế kỷ 15, là trung tâm mậu dịch đương thời
của Nhật Bổn và Minh triều. Trong phố chợ tụ tập không
biết bao nhiêu thương gia buôn bán, phàm phu tẩu tuất, và
nhân sĩ đủ hạng đủ ngành, có thể nói đó là Quan Cái
Vân tập, náo nhiệt phi phàm
Một
hôm trên đường, mặt trời vừa xế bóng.
Nhất
Hư hòa thượng lưng mang kiếm gỗ thượng đeo kiếm gỗ? Một
kết hợp quá kỳ lạ nên khiến mọi người đi đường cảm
thấy tức cười, nhưng, Nhất Hưu Hòa thượng thì xem như
không, ngài vẫn thản nhiên tiếp tục dấn bước. Đến khi
những người theo coi lần lượt vây quanh, cuối cùng Nhất
Hưu Hòa thượng lên tiếng:
“Các
vị! Các vị biết không, hòa thượng hiện nay đều đeo kiếm
gỗ. Kiếm gỗ lúc nằm trong vỏ thoạt trông có vẻ giống
như kiếm thật, nhưng một khi rút ra mới biết kiếm đó được
làm bằng gỗ, căn bản không thể làm ai bị thương!.
“Vậy
à?...” Mọi người nhạo xong cười rộ rồi im lặng. Bấy
giờ Nhất Hưu Hòa thượng nói tiếp:
“Nhưng!...cũng
không cách nào làm cho người sống trở lại”.
Lúc
ấy Nhất Hưu Hòa thượng đang tuổi 42, đã qua tuổi trung
niên.
Ngài
đã từng là một tiểu tăng nổi tiếng là bậc có trí.
Ngài
cũng đã từng, từ nhị tỳ nơi gò chôn người chết, nhặt
đầu lâu buộc trên cán trúc, trong một buổi sáng nhằm ngày
Nguyên Đán đi qua từng nhà và la lớn: “Mọi người hãy
đển xem!” lúc bấy giờ Nhất Hưu Hòa thượng dụng tâm
khổ sở để dạy dỗ thế nhân lưu ý về chân lý thế gian
vô thường.
Đã
từng là thị giả, hầu hạ thầy mình là Hoa Tẩu, khi cùng
thầy đến Đại Đức tự để tham gia Phật sự của tiên
sư, Nhất Hưu mình khoác áo vải, chân mang giày rơm đứng
giữa chúng tăng mặc đầy những cà sa hoa lệ nên biến thành
một đối tượng khiến đám đông tập trung ánh mắt nhìn
ngài, thậm chí thầy của ngài cũng phải nheo mày. Lúc bấy
giờ Nhất Hưu Hòa thượng ngang nhiên tuyên bố: “Tôi là
con người thật hoàn toàn, tôi không cần thiếtphải nhờ
đến quần áo để trang sức”. Lúc ấy Hoa Tẩu vì sự hấp
dẫn bởi đởm thức của đệ tử nên đã bảo rằng: “Sau
này, kẻ có thể kế thừa thiền phong của ta, chỉ có Nhất
Hưu Tôn Thuần”.
Nhưng,
đến thời vãn niên, khi ở tuổi 77 Nhất Hưu đã dan díu với
phụ nữ, vị nữ tánh này đã là đối tượng yêu thương
của ông, và ông bắt đầu trong đòi sống ái dục. Trong thi
tập “Cuồng Vân tập” của Nhất Hưu đã miêu tả trắng
trợn những sinh hoạt ái dục không ăn khớp mấy với hình
tướng của một thiền tăng
Đây
chính là thiền tăng nằm “ở giữa hư thực” --cuộc đời
của Nhất Hưu hòa thượng.
Sở
dĩ nói “Ở giữa hư thực” bởi lẽ trong làng xóm vẫn
còn lưu truyền “Nhất Hưu truyền kỳ” mà nhiều phần mãi
đến thời đại Giang Hộ (thế kỷ 15) mới thành lập, còn
tư liệu truyềy kỳ thì có rất nhiều truyện do người sau
này thêm thắt. Dẫu sao, lời nói và hành động của Nhất
Hưu hòa thượng đích thực đã có nhiều điểm khác thường.
Vì thế ông bị người đời gọi là “Điên cuồng thiền
sư” hoặc “Phi thường thức thiền sư”, điều đó không
phải là không có lý.
Vào
cuối niên đại nhà Đường có vị Vân Môn Văn Yêm thiền
sư. Chuyện kể rằng, khi ngài bị hỏi “Cái gì là Phật?”,
ngài thoáng nghĩ ngợi và liền trả lời: “Bảng quẹt phân!”
Trước đây chúng ta cũng đã từng đề cập đến “Bảng
quẹt phân” là vật rất ô uế. Dụng ý của Vân Môn thiền
sư là nhắm vào cái thường thức của “Phật là chí cao
vô thượng”. Nếu Phật là cái gì cao vời thì trên cõi trần
này có sự cách xa không thể vói được, thế thì người
phàm tục chúng ta làm sao có thể nhận được sự phò hộ
của từ quang Phật Đà? Còn những người tu hành làm sao có
thể từ sự tu hành mà thành Phật? Có thể nói quan niệm
xem Phật cao cao tại thượng, xa không vói được, đó là một
chướng ngại rất lớn cho việc tu hành.
Có
một vị cao tăng khác ở vào đời Đường là ngài Thạch
Đầu Hy Thiền thiền sư, một lần nọ, cùng với sư huynh
đồng môn lên núi làm việc, làm việc cần phải mang theo
dao liềm nhưng sư huynh lại quên mất. Do vậy ông bảo với
Thạch Đầu: Này! Đưa đầu cán cho ta!” Thạch Đầu thiền
sư tức khắc trả lời: “Lấy cán không thể sử dụng!”
Thông
thường khi cầm dao đưa cho người khác, cán dao phải hướng
ra ngoài và lưỡng hướng vào trong, đó là sự lễ phép thường
thức thông dụng mà chúng ta đã được dạy dỗ từ bé. Nhưng,
vị sư huynh này chỉ nhớ thường thức thông thường, còn
dao liềm trọng yếu thật sự lại quên mang theo, điều đó
phải chăng là gốc ngọn đã bị đảo ngược? Lúc này cấn
phải phát huy tác dụng chân chính đó là lưỡi dao chứ nào
phải cán dao! Dụng ý của Thạch Đầu thiền sư chính là
ở đó.
Thiền
ở trong thiền tự -- Đây là quan niệm thông thường. Nếu
tin tưởng và gìn giữ quan niệm này, nhất là ở vào xã hội
công thương nghiệp phồn thịnh bận rộn hiện tại, e rằng
chúng ta không cách nào có thể học thiền được. “Đợi
lúc sau khi sự việc xong xuôi thì đến thiền tự!” Nhưng,
cái thời khắc hứa hẹn này e rằng vĩnh viễn chờ hoài mà
không bao giờ đến. Hay thử bỏ quan niệm này đi! “Thiền
đâu chỉ có riêng nơi chốn cửa thiền”, nếu có thể kiến
lập được điều phi thường thức này, thì đây chính là
thời khắc mà bạn có thể bắt đầu học thiền.
Nhất
Hưu hòa thượng đã ở trong am Nhu Ý Đại Đức Tự (1), chưa
được mười hôm thì bỏ đi, lúc sắp rời khỏi nơi đây,
ông đã lưu lại bài thơ như sau:
Trú am thập nhựt ý man man,
Cước hạ hồng tơ tuyến thậm trường
Thu nhựt quân lai như vấn ngã
Như hành tửu tứ hựu dâm phường
Chữ
“Quân” trong thơ là nói người đối đầu bình sanh của
Nhất Hưu hòa thượng là sư huynh của ông -- Dưỡng Tẩu hòa
thượng.
Ý
của Nhất Hưu bảo: “Dưỡng Tẩu thật thà cố gắng ơi!
Sao ông cứ mãi cho rằng tại chùa mới có thể tu thiền, riêng
tôi chỉ ở có mười hôm đã cảm thấy chán phiền, đại
khái thiền của tôi là Thiền ở trong dâm phòng tửu quán!...”
Thuyết pháp như thế là một loại quan niệm siêu việt thế
tục.
Trong
quan niệm của người thông thường, một năm chia ra làm 365
ngày, để gán cho ý nghĩa khác nhau của mỗi ngày, như: “Hôm
nay là ngày 15 tháng 8”, “Hôm nay là sinh nhật của tôi”
v.v...., có thể nói, “Hôm nay” thành một cái ngày đặc
định. Sau khi mỗi ngày được đặt lên cái nhật kỳ, chúng
ta thường thường vì câu nệ nhật kỳ mà bỏ lỡ biết bao
thời cơ hy hữu. Vì để đả phá quan niệm này cho nên Vân
Môn thiền sư bảo rằng
:
“Ngày ngày đều là ngày tốt”
Chỉ
cần trong tâm có Phật thì mỗi một ngày, mỗi một giờ đều
là thời cơ tốt”.
Phàm
người ta cho là mồng 1 tháng giêng là ngày bắt đầu của
một năm, cho nên cần phải ăn mừng –đây cũng là quan niệm
cố hữu. Nhưng Nhất Hư hòa thượng đối với quan niệm này
thì cười khỉnh.
“Người
kinh thành ơi! Hãy xem chiếc đầu lâu này...Nhìn đi! Ở đây
có hai lỗ hủng, trước đó ở đây có hai tròng con mắt!
Nhưng, hãy ngám cái bộ dạng hiện nay kìa! Đáng vui không?
Đáng chúc mừng không?”
“Sự
tu hành trong Phật giáo cốt ở thực tiễn trugn đạo, nếu
cứ nhấn mạnh thiền là phi thường thức của siêu vật thường
thức, điều có phải là quá thiên chấp?” Người có nghi
vấn này chắc chắn đang bị lẫn lộn giữa ý nghĩa “Trung
Đạo” và “Trung gian”
Trung
đạo không phải là trung gian. Ngày xưa Thạch Sương hòa thượng
ở triều nhà Đường tuy đã từng bảo “Trăm thước đầu
cán làm sao tiến thêm một bước”, nhưng tôi vẫn cho rằng
chỗ trăm thước ở đầu cán mà muốn tiến thêm một bước
đó là “Trung đạo”, Nếu theo “Trung gian” mà nói, tức
là ½ của 100 thước --chỗ 50 thước. Nếu chúng ta ở ngay
chỗ 50 thước, giữa điểm bất tri bất giác thì vị trí
này đã là trung điểm. Thông thường một số phần tử trí
thức tự cho là hành sự của mình không thiên, vô ngã: trái
lại thì đúng hơn! Vì như thế đã thành một người cố
chấp không linh hoạt,. Có thể nói “trung gian” tức là thường
thức và “trung đạo” tức phi thường thức, vì thế, phi
thường thức mà thiền đã đề cập kỳ thực chính là tư
tưởng trung đạo của Phật giáo.
Trong
“luận ngữ” Khổng Tử từng bảo “Hương nguyện, đức
chi tặc dã” (“Luận ngữ. Tử Lộ”) , cái gọi là “Hương
Nguyện”, là nói trong một thôn, loại nguỵ quân tử cố
ý làm ra vẻ như kẻ trung hậu có đạo đức để người
ta vui thích. Nếu nói theo thời hiện đại thì một số phần
tử trí thực miệng luôn nhơn nghĩa đạo đức nhưng lòng
lại giảo hoạt. Khổng Tử ghét nhất là người thuộc loại
hình này. Còn nói: “Bất đắc trung hình nhi dữ chi, tất
đã cuồng quyên phu? Cuồng dã tấn thủ, quyên giả hữu sở
bất vi dã” (“Luận ngữ. Tử Lộ”). Khổng Tử cho rằng
trung đạo là điều khó cầu, cho nên thoái lùi mà cầu điều
sau, tức là lấy cuồng giả và quyên giả. Cuồng giả, ý
nói con người ý khí phong phát, chí ở tiến thủ; Quyên giả,
ý nói phẩm tánh cao khiết, con người hữu sở bất vi. Không
tử cho rằng hai loại người này đều là loại người tiếp
cận với Trung đạo, còn những phần tử trí thức xảo trá
chính mình là người lìa xa Trung đạo nhất. Có thể nói “Trung
đạo” của Khổng Tử cũng là một loại phi thường thức.
Pháp
hiệu của “Nhất Hưu” do thầy của ngài là Hoa Tẩu đặt.
Nhất Hưu hòa thượng khi tiếp nhận tên này đã từng làm
một bài ca như sau:
“Tùng hữu lậu địa hồi quy vô lậu địa, tạm thả nhất
hưu
Vũ yếu hạ, phong yếu quát, nhất thiết do tha”
Hữu
lậu địa là chỉ cho thế giới phiền não, vô lậu địa
là nói về thế giới khai ngộ. Bài ca này ý nói: “Từ con
dường thế giới sa bà thông đến thế giới cực lạc, nghỉ
ngơi một lát”. Nhưng “nghỉ ngơi một lát” của Nhất
Hưu chẳng phải để rồi đình trệ ở đó và không tiến
tới, sau khi nghỉ ngơi, ngài là con người không chịu thua
cuộc cho dù trong gió lớn mưa to, vẫn nghểnh đầu thẳng
ngực bước tới, cho nên sau bài ca này còn có những câu kế
tiếp:
“Mưa ơi! Rơi đi, rơi đi! Gió ơi! Thổi đi, thổi đi!
Cuồng
khách điên cuồng dẫm lên cuồng phong, lai vãng cả trong dâm
phường men rượu”.
Những
nơi Nhất Hưu đến, nếu không tửu lầu thì thanh lâu. Đợi
đến sau khi no say mới trở về chùa, nhưng về chùa chẳng
qua mươi hôm rồi lại bắt đầu tìm rượu làm vui. Đối
với sự không đầu hàng chuyện phàm tục của Nhất Hưu,
thì âu cũng là thiền pháp đặc biệt độc đáo của ngài?
Nhưng,
khi Nhất Hưu lâm chung đã từng lưu lại một số giới cấm
cho đệ tử, đó là:
“Sau
khi bần tăng quá vãng, trong số môn đồ đệ tử nếu có
người nào ở chốn sơn lâm dưới cây hoặc ra vào tiệm rượu
dâm phường mà mở miệng đàm thiền thuyết đạo, thì những
kẻ như thế chính là đạo tặc của Phật pháp, là oán địch
của chúng ta”.
Chính
Nhất Hưu đã ra vào tiệm rượu dâm phường nhưng lại cấm
môn nhân ra vào chốn ấy. Nhưng ở đây đã không có bất
cứ điểm mâu thuẫn nào. Nhất Hưu hòa thượng đi vào tiệm
rượu dâm phường nhưng kỳ thực chính là chỗ “Một trăm
kẽ một thước”. Hơn nữa ngài biết sau này trong môn nhân
sẽ không có người đạt đến trình độ như mình, nếu muốn
học theo đường đi nước bước giống nhau thì khác nào vẻ
cọp không thành cọp mà trái lại trở thành giống chó. Thiền
chân chính phải là độc nhất vô nhị.
Nhất
Hưu hòa thượng rất kính ngưỡng Hư Đường Trí Ngu thiền
sư dưới thời đại Nam Tống Trung Quốc, ngài thường tự
xưng là pháp tôn (cháu đạo) đời thứ 7 của Hư Đường
thiền sư. Vì thế khi ngài lâm chung đã để lại di kệ như
sau:
“Tu Di (2) chi nam bạn, hữu thuỳ tri ngô thiền
Túng lệnh hư Đường lai, bất trực bán văn tiền”
“Tại
Tu Di sơn trong thế giới rộng lớn này, có ai có thể lãnh
hội thiền của ta? Dù cho Hư Đường tái thế, cũng vô phương
vì không đáng nữa xu” Nhất Hưu đã đại ngôn lộng ngữ
đến thế. Đối với Hư Đường thiền sư người mà ngài
vẫn hết sức kính ngộ ấy thế nhưng ngài vẫn có ý muốn
vượt qua.
Tóm
lại, thiền của Nhất Hưu hòa thượng có thể nói là một
loại Thiền phi thường thức nhưng có thể lý giải. Chúng
ta tuyệt đối không thể sử dụng thông tục thường tình
để phê phán ngài.
Chú
(1): Lâm Tế Tôn đại đức tự thuộc phái Đại Bổn Sơn.
Tọa lạc ở Tử dã bắc khu kinh đô thị. Tây nguyên năm 1324
do Đại Đăng quốc sư sáng lập kiến tạo. Trong chùa ngoại
trừ Chân Châu Am mà Nhất Hưu hòa thượng từng ở, còn có
Huỳnh Mai Viện, Đại Tiên Viện v.v. là cổ tích trứ danh
sở tại.
Chú
(2) là núi cao do sức tưởng tượng trong vũ trụ quan của
người Ấn Độ đời xưa.
BẤT
SANH CỦA PHẬT TÂM
BÀNG KHUỆ VĨNH TRÁC
Nói
đến Bàng Khuệ thiền sư, thì không thể không đề cập đến
“Bất Sanh thiền” của ngài, đây là một loại thiền pháp
khác với mọi người, nó làm cho người cảm thấy khoáng
đạt vô hạn, khoát tịnh đạm bạc, nhưng lại giàu về Đại
Chúng tính, trong tầm thường đã xen lẫn mùi vị đạc thù.
Không giống thiền gia hiện đại, chỉ một mực dạy người
ngồi thiền, chỉ ngồi thiền! Như tuồng nếu không trải
qua hình thức ngồi thiền thì không thể nào liễu giải thiền
được – như thế là bị câu nệ không thông, chẳng những
thế còn làm cho người đi làm hằng ngày nhưng có nhân duyên
với thiền càng ngày càng xa cách.
Bàng
Khuệ thiền sư đề xướng “Bất Sanh thiền”, người ta
có thể tự hiểu rằng đây là loại thiền mà chúng ta có
thể thực hành được, và qua nó, chúng ta có thể có đủ
thuận duyên để tiến vào thế giới của thiền.
Bàng
Khuệ Vĩnh Trác ( 1622 – 1693), là một cao tăng của Lâm Tế
Tôn ở thời đại Giang Hộ. Ông chủ trương phế trừ công
án, trực tiếp thâm nhập Phật tánh bất sanh bất diệt, đây
tức là “Bất Sanh thiền” (Bàng Khuệ thiền sư đã không
tự xưng như vậy, mà do người hậu thế tặng cho danh xưng
ấy). Lúc bấy giờ có rất nhiều vua chúa vì kính mộ dại
danh của ngài mà theo quy y tam bảo. Tương truyền rằng, đệ
tử theo ngài học pháp nhiều đến con số 5 vạn.
Nội
dung dưới đây là tiết lục từ “Bàng Khuệ thiền sư pháp
ngữ tập” để thuyết minh “Bất Sanh thiền” của ngài,
tạm dịch như sau
Nay
ta muốn nói với các vị rằng, có một món đồ vật mà chúng
ta vừa sanh ra là đã có sẵn, vật ấy không gì khác hơn đó
chính là một trái tim của Phật. Quả tim Phật này vốn vô
sanh, hơn nữa nó linh minh đổng triệt. Bởi vì không sanh cho
nên vạn sự được điều hòa đầy đủ. Bất sanh cho nên
điều hòa đầy đủ điều đó chứng minh rằng: Nay các vị
hướng về ta, khi chuyên tâm ngưng thần để nghe ta diễn giảng,
tai các vị tuy cũng đồng thời nghe chim kêu ở phía sau, nhưng
không có động niệm để phân biệt tiếng kêu đó là tiếng
quạ hay chim sẻ kêu, đây tức là lấy Phật tâm bất sanh
để nghe. Giống như vậy, vạn sự vạn vật vì bất sanh mà
sẵn gồm đầy đủ tính điều hòa. Đây là chứng minh của
sự bất sanh. Nếu khi đó có thể lấy Phật tâm bất sanh
mà linh minh tự xử, mà quyết định không nghi, thì người
ấy tức là Phật sống, là một đấng Như Lai. Bởi vì có
thể lấy Phật tâm để tự xử nên tôn môn của chúng ta
được gọi là Phật tâm tôn.
Các
vị tại tọa, các vị ngồi hướng mặt về đây, đừng nên
phân biệt những tiếng kêu phía sau là quạ hay chim sẻ, tiếng
chuông hay tiếng trống, tiếng đàn ông hay tiếng đàn bà và
tiếng người lớn hay tiếng trẻ nít v.v., các vị chỉ nghe
mọi thứ tiếng, rõ ràng nhưng không phân biệt, đây tức
là đức dụng tâm linh minh. Cái gọi là Phật tâm, là bất
sanh linh minh vậy, đây tức là chứng minh của tánh linh minh.
Mọi
người chúng ta sanh ra đều sẵn có “Phật tâm”. “Phật
tâm” này trong danh tướng Phật học truyền thống gọi là
“Phật tánh”, cũng tức là tánh có khả năng thành Phật,
thể tánh thuần tịnh rỗng lặng, an lạc tuyệt đích. Dù
là phàm phu như chúng ta, một khi sanh ra là đã sẵn có đủ
Phật tánh, cho nên phàm phu cũng có thể thành Phật. Nếu nói
ngược trở lại, nếu không có Phật tánh, thì phàm phu không
thể nào thành Phật... đây là giáo nghĩa Phật giáo truyền
thống.
Bàng
Khuệ thiền sư gọi “Phật tánh” là “Phật tâm của bất
sanh” hoặc “Bất sanh”. Nếu nói rõ hơn, tức là ý nói
“Phật tâm bất sanh bất diệt”, cũng có thể nói là “Phật
tâm siêu việt sanh diệt”. Nhưng sở dĩ Bàng Khuệ thiền
sư không nói “Bất sanh bất diệt’, mà chỉ nói “Bất
sanh”, bởi lẽ ngài lấy lý do như sau để thuyết minh:
Nhưng,
ta sở dĩ nói “Bất sanh” mà không nói “Bất diệt” là
bởi vật đã bất sanh thì làm gì có sự bất diệt? Đã nói
bất sanh, cũng tức là nói rõ cái lý bất diệt, cho nên nói
thêm bất diệt là vô ích. Từ xưa đến nay trong kinh luận
đa phần gọi bất sanh bất diệt. Nhưng lại không chứng minh
được đạo lý của nó, vì thế mọi người chỉ nhớ bất
sanh bất diệt, mà không hiểu rõ một cách chắc chắn về
lý lẽ bất sanh.
Mỗi
con người chúng ta vì vốn có sẵn “Phật tâm bất sanh”,
cho nên chúng ta có thể nghe được tiếng quạ kêu và tiếng
chim sẻ kêu, “Như Thật tri kiến” như thế thì đối với
những hình thái hiện hữu của vạn vật vật có thể tri
kiến như thật, rõ rõ ràng ràng mà không phân biệt, Phật
giáo gọi đó là giác ngộ. Nếu chúng ta có thể lấy “Phật
tâm bất sanh” nầy để hiểu biết vạn vật trên thế gian,
thế thì đâu còn có gì để phiền não và lo lắng?
Chỉ
cần mọi người có thể cứu cực Phật tâm linh minh và bất
sanh nầy mà quyết định không nghi ngờ Phật tam bất sanh
của chính mình, thì có thể nói là từ hôm nay đến nhiều
đời ở vị lai đích thị là Như Lai Phật sống. Nếu “Phật”
chỉ là một danh tướng, như thế nếu người giác ngộ được
lý bất sanh thì đó chính là ở nơi căn bản của chư Phật.
Phật tâm bất sanh là nguồn gốc của tất cả, cái mở đầu
cho tất cả. Không có bất sanh, thì không có nguồn gốc của
tất cả, vạn vật cũng không có cái gọi là mở đầu, cho
nên nói Phật sanh bất sanh là căn bản của chư Phật.
Có
thể nói, nếu có thể hiểu rõ chân nghĩa “Bất sanh” của
Bàng Khuệ thiền sư thì có thể thành Phật, thậm chí với
sự hiểu biết tức là Phật rồi.
Các
vị tại tọa hôm nay, không người nào là phàm phu tục tử.
Bởi vì các vị tại tọa đều có một Phật tâm bất sanh.
Nếu có ai tự cho mình là phàm phu thì xin mời ra ngoài! Để
chúng tôi xem thử rốt cuộc là thế nào phàm phu, nhưng xin
thưa đây quả thực là một việc tương đối ân hận...
Được
rồi! Các vị tại tọa tuy không ai là phàm phu tục tử cả,
nhưng nếu nay bạn từ chỗ ngồi đứng lên đi tới cửa,
khi sắp bước qua ngạch cửa có người bước đến không
những cản trở đường đi của bạn mà còn cố ý đụng
ngã bạn nữa, bởi vậy mà bạn giận dữ, lúc bấy giờ lấy
“Tâm của Tu La (1)” thay thế Phật tâm, như thế tức khắc
từ Phật biến thành phàm phu.
Tất
cả điên đảo mê vọng đều là như thế, vì tham lấy những
việc lợi ích cho mình mà đấu tranh với người khác, lúc
ấy Tu La tâm thay thế Phật tâm mà mê mất tự ngã, bất cứ
lợi ích dù lớn đến đâu cũng đề vô bổ. Nếu có thể
không tham, không mê luyến tự thân hoặc sự vật có lợi
ích cho mình mà chỉ dựa theo Phật tâm tự xứ, bất kể ngoại
tại sự vật thế nào, đều không thể mê mất tự ngã. Đây
tức là cái gọi là lý do lấy Phật tâm bất sanh tự xứ.
Vì thế nếu có thể quyết định liễu ngộ Phật tâm bất
sanh, trong sự liễu ngộ ấy thật xứng đáng gọi là Phật
sống Như Lai.
Tiếp
đến chúng ta hãy xem vấn đáp giữa Bàng Khuệ thiền sư và
một vị tăng nhân. Nội dung vấn đáp tuy bị chê là hơi dài
dòng, nhưng vì muốn độc giả có thể hiểu một cách đầy
đủ rõ ràng phương pháp thực tiễn của điều gọi là “Bất
Sanh thiền”, thế nên bút giả cố gắng không sử đổi và
cắt giảm để nó hiện ra một cách hoàn chỉnh – (Dịch
văn):
Tăng
nhân hỏi rằng: “Tôi sanh ra tánh vố nóng nảy, gia su nghĩ
đủ cách cũng vô phương cải chánh cá tánh tôi. Tuy là tôi
tự biết đó là một bệnh tương đối không tốt và cũng
biết rằng không sửa không được, nhưng vì sanh tánh như
thế nên bất cứ thế nào cũng vẫn không sao sửa nổi, hy
vọng lần nầy có thể được sự chỉ thị của thiền sư
mà cải tiến nó. Nếu thật có thể sửa được cái tật
xấu nầy, tôi sẽ cả đời ghi tạc trong lòng, cảm kích vô
tận”.
Thiền
sư đáp rằng: “Đây là vấn đề lý thú. Không biết cái
bệnh nóng nảy lúc nầy phải chăng ở trên mình ông, nếu
có, xin mang ra đây để ta sử cho!”
Tăng
thưa: “Hiện tại không có, không biết lúc nào nó sẽ đột
nhiên phát tác”.
Thiền
sư bảo: “Đủ thấy cái bệnh nóng nảy không phải do trời
sanh ra! Bất cứ lúc nào và nơi đâu, khi nào nhân duyên tụ
hợp thì nó tự nhiên phát sinh. Vì do tham đắm sắc thân của
mình, việc gì cũng nghĩ mãi về sự vật ngoại tại. Bởi
do dục niệm tư ngã quá mạnh nầy mà nóng nảy tự nhiên
theo đó phát sanh. Vì thế nếu nói cái bệnh nóng nảy nầy
là trời sanh, tức là đặt cha mẹ vào chỗ bất nghĩa, có
thể nói đó là người đại bất hiếu. Phải biết rằng
những cái mà cha mẹ đã cho chúng ta, ngoại trừ một tâm
Phật ra thì đã không có bất cứ một cái gì khác. Bởi tự
mình tham đắm sắc thân mà ra tư ngã, nếu cho rằng trời
sanh như thế thì đã sai lớn và sai đặc biệt. Không có ý
niệm tư ngã thì tự nhiên cái tánh nóng nảy cũng không biết
từ đâu mà sanh, tất cả vọng tưởng điên đảo cũng thế.
Bởi vì tham trước tự thân, cho nên có dục vọng tư ngã
phát sanh và vì do ở sự che đậy của dục vọng ấy, mà
đối với tất cả sự vật lại nẩy ra vọng tưởng điên
đảo. Chúng sanh bởi vì tập tánh sử nhiên, mà cứ lầm cho
rằng vốn là trời sanh như thế. Đã không phải chỉ một
người bạn này như thế mà có thể nói hầu hết người
đời đều có vọng tưởng điên đảo như vậy. Vọng tưởng
thay thế Phật tâm, muốn dập tắt vọng tưởng thì lại thành
ra lấy vọng mà đình vọng, bởi do kết quả tích trữ không
ngưng của vọng niệm mà tạo thành tập khí không có xuất
xứ, bỗng nhiên mang nó đổ cho thiên tánh mà cho rằng không
phương cải chánh. Nhất thiết phải nhớ! Nên nhớ! Nhất
niệm sanh mê thì ác nghiệp tự khởi, như nước chảy vào
một cái lỗ thấp, một khi rơi vào tam ác đạo (2), e rằng
trải qua vạn kiếp cũng không thể phục sanh. Ví như cho cái
việc nguyên nó là ác, nhưng do vì đó là sở thích của mình
nên một khi người khác chán ghét thì sanh lòng hận oán, hơn
nữa, điên đảo thị phi, gọi ác là thiện. Hoặc vì tập
khí tự tư, khiến cho nguyên là việc thiện nhưng vì mình
ghét do đó một khi người khác vui thích, thì lại bảo rằng
có gì để đáng mừng, hơn nữa, điên đảo thị phi, gọi
thiện là ác.
Đối
với tất cả sự vật bởi vì nhất niệm sanh mê mà điên
đảo thị phi, không phân biệt được thiện ác, từ đó sau
khi chết chắc chắn sẽ rơi vào con đường súc sanh, luân
chuyển đến khi sanh vào trong loài chim, thú, trùng, cá và đợi
đến khi chịu hết nghiệp báo lại rơi xuống địa ngục,
mãi bị đọa đày chịu đụng vô lượng thống khổ, thiết
nghĩ nếu muốn tái sanh vào cảnh giới loài người, cơ hội
đó giống như chờ đợi hoa ưu đàm nở (3) rất là xa xăm
mù mịt. Mỗi người tại tọa đều là những người đang
rất hạnh phúc, đã được sanh ra làm người mà còn được
nghe Phật pháp.
Nay
mọi người ở đây còn nghe được Phật tâm bất sanh mà
mọi người đều có, Phật tâm nầy vì bất sanh nên là đại
pháp của linh minh, cũng như hoa ưu đàm nở thật quy, khó tìm.
Nhưng nguyện mọi người vì thế mà hiểu rõ – chúng sanh
bởi vì tham trược tự thân mà sanh mê, vì mê mà tạo nên
tập khí làm cho chính mình nghĩ rằng trời sanh là thế --
Sai lầm như thế nếu có thể quyết định lấy Phật tâm
sự xứ mà không sanh mê nữa thì tốt biết dường nào. Nhưng,
trên thực tế chúng sanh thường vì không thể nộ sự tôn
quý của Phật tâm mà cứ chấp mê nên không giác ngộ. Nên
biết, phàm phu kỳ thực chỉ là nhất thể, chẳng phải ở
ngoài tâm thức còn có một món vật khác có thể khai ngộ
thành Phật. Mong rằng mọi người có thể tỉ mỉ thể hội
cái đạo lý nầy.
Nguyên
nhân ông nóng nảy, là bởi khi sự vật ngoại tại không thuận
theo tâm lý của ông, do sự ham muốn của tư ngã đã làm cho
ông muốn gấp rút sử đổi nó cho nên mới cảm thấy nóng
nảy, giống như cái bệnh vì dục vọng tư ngã mà sanh nhưng
lại cứ cố chấp cho là trời sanh, vì thế đã đặt cha mẹ
vào chỗ bất nghĩa, có thể nói đó là người đại nghịch
bất đạo. Còn nữa, nếu quả thật là do trời sanh, tất
nhiên không giây khắc nào có thể lìa khỏi thân ông, thế
thì muốn cải sửa cũng không thể được. Đã chứng minh
rằng không phải trời sanh, đủ thấy vẫn là cái gì có thể
sửa được.
Bệnh
dễ nóng nảy này là bởi khi lục căn (4) đối với lục cảnh
(5), do ở tham trước tự thân nên khi ngoại cảnh không vừa
lòng thì cái k hông vừa lòng lúc ấy tự nhiên hiển hiện.
Nếu không phải nghĩ cho mình, thì tự nhiên cũng không có
cái bệnh như thế phát sanh.
Hôm
nay mọi người đều đã biết về đạo lý nầy, vậy hãy
thử dùng thời gian một tháng để thử chiến thắng tự ngã
và lấy Phật tâm bất sanh tự xứ xem sao! Nếu có thể hàm
dưỡng, nuôi lớn thói quen lấy Phật tâm bất sanh tự xứ
ấy và tin rằng mọi người chắc chắn có thể lần lần
không vị ngoại vật mê hoặc mà sanh vọng niệm và nếu có
thể thời thời khắc khắc đều đặt ở Phật tâm bất sanh,
thì đó chính là Phật sống Như Lai hiện thế. Các vị tại
toạ! Mọi loại ví dụ trước đây, hôm qua đã chết, mọi
loại vị dụ hôm nay phát sanh. Thì cứ cho là hôm nay bắt
đầu một cuộc hành trình mới mẻ của nhân sinh! Có lẽ
đời ngư2ơi tự nó vốn có rất nhiều sự vật làm trở
ngại các bạn nên khiến các bạn không thể cách nào nghe
tin để đi vào thực tiễn, hiện nay cứ cho là thay đổi một
nhân sinh mới, không lo không lắng, sau khi nghe đại pháp nầy,
có thể phụng hành tức khắc, tất nhiên thành tựu sẽ đến.
Nếu
dựa vào lời nói của Bàng Khuệ thiền sư thì những việc
ấy dường như chúng ta đều có thể làm được. Chúng ta
hãy thử thực tập một tháng xem sao! Nếu giữa đường mà
không may thất bại thì xin bắt đầu lại nữa. Tóm lại,
việc làm cho con người mười phần vui vẻ, vì lẽ làm như
vậy, không những có thể trừ được phiền não là không
có thời gian đến thiền đường nên không học thiền được,
mà hơn thế còn có thể ở trong sinh hoạt thường ngày đi
vào thực tiễn của nó. “Bất sanh thiền” như thế không
phải chính là một loiạ thiền pháp thích hợp với những
con người hiện đại như chúng ta sao?
Chú (1): Giản xưng của A Tu La, là một loại quỷ thần thường chiến đấu với trời Đế Thích
Chú (2): Phật giáo đem thế giới chưa khai ngô nên bị luân hồi chia làm 6 đường, tức là thiên, nhân, tu la, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Trong ấy 3 đường súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục là thế giới khổ đau không thể chịu nổi, cho nên gọi là “Tam ác đạo”
Chú (3): Trong truyền thuyết là loại thực vật cứ mỗi 3000 năm mới nở hoa một lần.
Chú (4): Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, Mắt là thị căn, tai là thính căn, mũi là xú (ngửi) căn, thiệt (lưỡi) là vị (mùi) căn. Thân là xúc (chạm) căn, ý là căn của tư duy suy nghĩ. Căn có nghĩa là năng sanh, như cỏ cây có căn nên có thể sanh nhánh và thân cây; thức dựa vào căn mà sanh, có nhãn căn thì có thể sanh nhãn thức, ngoài ra cứ theo đó mà suy.
Chú (5): Còn có tên là lục trần, tức là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, vì thế lục cảnh là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, cảnh được tiếp xúc, là đối tượng của lục căn, nên gọi là lục cảnh.ĐOẠN
TRỪ LƯỚI MÊ CỦA NHÂN SANH
BẠCH ẨN HUỆ LẠC
Bạch
Ẩn thiền sư (1685 – 1768) là một thiền tăng trung kỳ ở
thời Giang Hộ, cũng là trung hưng tổ sư của Lâm Tế Tôn.
Thiền sư biệt hiệu là Hộc Lâm, Húy hiệu Huệ Hạc, người
nước Tuấn Hà. Năm 1699 xuất gia tại thôn làng chùa Tòng
Âm, sau đó du lịch nhiều nước, và đạ từng theo học với
những đại sư như Tức Thông của Đại Thánh Tự Chiuể Tân,
Mã Ông của Đại Viên Thoại Vân tự, Mỹ Nùng và Dịch Thiền
của Chánh Tôn Tự Y Dữ Tòng Sơn v.v...Sau nầy, vào năm 1708
lại đến tu hành ở Anh Nghiêm Tự của Việt Hậu Cao Điền.
Đưong
thời Bạch Ẩn thiền sưtự cho rằng đã đạt đến cảnh
giới khai ngộ giải thoát nên cảm thấy rất đắc ý, tự
mãn. Mãi đến một lần có cơ duyên ngẫu nhiên quen biết
Chánh Thọ lão nhân của Tín Châu Phạn Sơn (Đạo Cảnh Huệ
Đoan, 1642-1721), mới lần lần tham thiền liễu ngộ được
tâm thức ngã mạn của mình và phản tỉnh sửa lỗi triệt
để, cuối cùng như thật mà đạt đến cảnh giới đại
triệt đại ngộ. Sau khi đại ngộ, ngài vẫn lưu liạ học
pháp 8 tháng với Chánh Thọ lão nhân và sau đó mới rời khỏi
Tín Châu để tiếp tục hành trình vân thủy của ngài. Do
Bạch Ẩn Thiền sư không màng danh lợi, nên đến khi tịch
ngài vẫn ở tại một ngôi miếu nhỏ trong thôn, lấy sự
viết lách và thuyết pháp để hóa độ chúng sanh. Trước
tác của ngài gồm có “Ngữ Lục” (102 quyển), “Hòa An
Quốc Ngữ)”, “Viễn La Thiên Phủ”, “Dạ Thuyền Nhàn
Thoại” v.v.. Ở trong “Bích Sanh Thảo” tự truyện của
ngài, bức thủy mặc đồ ve bằng mực nước cũng triển hiện
ý cảnh độc đáo đạc biệt của cá nhân thiền sư. Còn
môn hạ ngài như Đông Lãnh Viên Từ, Nga Sơn Từ Điệu v.v....,
ai nấy đều tài trí xuất chúng.
Bạch
Ẩn thiền sư ở tuổi 15 đã vào cửa Phật, năm lên 19, vì
bởi trong lúc tu hành có một nghi vấn nhưng nghĩ trăm bề
mà không giải nổi nên tự cảm thấy khổ não vô cùng. Nghi
vấn nầy có liên quan đến truyền thuyết của Nham Đầu hòa
thượng, một vị cao tăng đời Đường bị đạo tặc trảm
thủ.
Nham
Đầu hòa thượng sanh tiền thường nói với đệ tử rằng:
“Lúc ta chết chỉ có môt tiếng rên than”. Quả nhiên, khi
đạo tặc muốn chặt đầu của Nham Đầu hòa thượng, chỉ
nghe ngài la lớn một tiếng, thiên hạ đồn rằng tiếng la
ấy truyền xa ngoài mấy dặm. Bạch Ẩn thiên sư đối với
truyền thuyết ấy cảm thấy hết sức buồn chán. Bởi vì
nếu cả cao tăng như Nham Đầu hòa thượng mà vẫn không cách
nào tránh k hỏi cái vận ách bị đạo tặc trảm thủ, thế
thì mình cũng khó tránh quả báo của địa ngục? Nghĩ mãi
và nghĩ mãi, trong tâm lý bỗng nhiên nổi lên ý niệm muốn
hoàn tục.
Nhưng ---
Không
lâu sau, ngài gặp Mã Ông thiền sư của Thoại Vân Tự Mỹ
Nùng. Ngày ấy nhằm ngày định kỳ của Thoại Vân Tự hong
phơi kinh thơ.
Bạch
Ẩn thiền sư đứng trước mặt Mã Ông thiền sư và đánh
cá một độ. Ngài sẽ nhắm mắt lại và từ trong mấy trăm
quyển kinh thơ nầy mà bốc chọn một quyển. Nếu lựa chọn
trúng phải kinh điển của Nho học thì ngài nhất định lập
chí trở thành một người nho giả, trái lại nếu chọn trúng
quyển kinh Phật, thì ngài sẽ tiếp tục tu hành Phật đạo.
Đó là ván cá độ của ngài.
Có
lẽ trong số độc giả sẽ có người bảo: “Chọn cách thức
như thế là quá bừa bãi”. Nhưng tôi không cho như thế là
sai mà trái lại còn khích lệ lối cá độ đó.
Lý
do là, chúng ta thường hỏi: “Như vậy tốt hay là thế kia
tốt?” vì vậy mà trong lòng do dự không thể quyết định.
Từ việc nhỏ mà luận, ví như hôm nay, buổi trưa nên ăn
gì tốt hơn? Hay là ăn mì? Từ việc lớn mà nói thì ví như
nên từ chức công ty hay vẫn lưu chức tốt hơn? Thoáng nghe
có vẻ ăn cơm và từ chức là hai việc không liên can gì nhau,
nhưng hai việc này, tính chất mê hoặc tồn tại thì đã chẳng
có gì sai khác.
Vì
thế, khi mê hoặc thì phải làm sao? Lúc ấy tôi cho rằng,
tấn thoái lưỡng nan do dự bất quyết, chi bằng dùng phương
thức bia xu hoặc xóc tào cáo làm tiêu chuẩn để lấy hoặc
bỏ.
Nhưng,
vấn đề lại sanh ra nữa.
“Đợi
chút, bia thêm lần nữa xem sao!...” Thế nầy thế nọ, đối
với kết quả không thể hạ quyết tâm một cách thực tiễn,
trái lại còn làm cho sự việc càng lún vào khốn cảnh khó
lấy khó bỏ. Có thể nói, con người như thế là nhu nhược
và thiếu quyết đoán.
Đời
người chỉ sống một lần, cho nên không thể cách nào việc
gì cũng tuỳ lòng mà muốn, muốn gì được nấy. Những món
vật không thể đạt được mà nếu càng tham cầu nó thì
càng tăng thêm sự đau khổ đối với nội tâm, kết quả
chỉ phí công vô ích.
Vì
thế, xin khuyên quý vị tốt nhất trước khi cá độ nên khai
tử cái tâm ấy. Nhưng thế sau khi xóc tào cáo sẽ không thể
xảy ra ý niệm “Khoan đã, thử thêm lần nữa!...” Việc
do dự không quyết đoán nầy có thể nói, khó “lấy” hay
“bỏ” bởi vì nguyên cớ không thể đoạn niệm (chặt đứt
vọng niệm)
Câu
nói “Tức tâm đoạn niệm”, ở trong Phật pháp còn có thêm
hàm ý là “Biết rõ chân lý”. Khi một cặp vợ chồng cả
ngày than khóc vì mất đứa con yêu, nếu đem chân lý “người
chết không thể sống lại” để nói cho họ rõ mà đoạn
niệm là một thí dụ.
Cho
nên một khi tâm của con người mà những ý niệm tham, sân,
si đã được tiêu trừ, thì điều đó có nghĩa là giống
như đã được khai ngộ.
Vì
thế, sự cá độ của Bạch Ẩn thiền sư tự nó dã bao hàm
một thiền vị vô hạn.
Và,
kết quả cuộc cá độ đó đã như thế nào?
Bạch
Ẩn thiền sư đã lựa trúng quyển sách có tên “Thiền Quan
Sách Tấn”, dựa theo tên mà suy thì đó là một quyển sách
thiền được biên soạn bởi ngài Chu Hoằng đời Minh, Trung
Quốc, là một truyền ký tổng quát của tất cả thiền tôn
tổ sư, ngữ lục và tổng tập kinh luận của thiền mà các
thiền giả cần đọc.
“Cá
độ” mặc dù từ trong ngẫu nhiên để cầu kết quả, nhưng
nếu người cá độ sớm đoạn niệm (giác ngộ), thì “ngẫu
nhiên” ở đây đã thành ‘Tất Nhiên”! Bạch Ẩn thiền
sư chắc chắn là đã giác ngộ vì thế ngài dã không một
chút do dự và đã ngang nhiên cố gắng bước tới trên đường
thiền đạo. Và, cũng do ở lần cá độ ấy, mới tạo thành
một vị thiền sư vĩ đại. Tuy là mẫu chuyện hơi giàu kịch
tính, nhưng không thể khiến người không khỏi kính sợ vì
ngài.
Do
một nhân duyên tình cờ, Bạch Ẩn thiền sư và Chánh Thọ
lão nhân đã gặp gỡ nhau. Bấy giờ Bạch Ẩn ở tuổi 24,
là lúc mà tâm ngã mạn phát sanh mạnh mẽ. Tá túc trong chùa
Anh Nham của Việt Hậu cao điền, Bạch Ẩn đã quên ăn bỏ
ngủ và tinh thiến ngồi thiền. Đem nọ, khi ngài nhập định,
vì nghe tiếng chuông từ xa vọng đến mà hoát nhiên “khai
ngộ”. Lúc ấy ngài không suy nghĩ gì nữa, la lớn:
“Nham
đầu hòa thượng vẫn mạnh khoẻ!”
Nham
đầu hòa thượng là vị cao tăng Đời Đường mà chúng ta
đã đề cập ở trước. Lúc ấy những nghi hoặc tích trữ
trong lòng ngài từ mấy năm nay đột nhiên khói tiêu mây tán.
Không! phải nói là trong tự chính ngài đã cho rằng như vậy.
Vì thế ngài rất tự phụ bảo rằng: “300 năm nay chưa ai
bằng tôi là người sung sướng vì được giác ngộ!”
Khẩu
khí giống như thủ lãnh sơn trại. Điều này có thể bảo
đó là một loại tâm kiêu mạn do đại ngã thúc dục.
“Mạn”
(1), cao ngạo, ỷ mình hiếp người. Trong quyển 43 “Đại
Tỳ Bà Sa Luận” và quyển19 của “Cu Xá Luận”, đã lược
cử 7 loại ngoại mạn như sau:
Mạn: Đối với người dở hơn mình thì cho rằng mình là người thù thắng hơn họ; còn đối với người ngang hàng với mình thì lại bảo là ngang với mình mà kiêu lòng cao Mạn.
Quá Mạn: Đối với người cùng hàng với mình, cứ khăng khăng bảo rằng mình thù thắng hơn đối phương; đối với người thắng hơn mình, cũng lập luận bảo rằng ngang hàng với mình
Mạn quá Mạn: Đối với người vượt thắng hơn mình thì có lối nhận xét trái ngược, cho rằng mình vượt thắng hơn đối phương
Ngã Mạn: Căn bản của 7 mạn ở thân ngũ uẩn giả hợp, chấp trước về ngã, ngã sở, ỷ y vào mình mà kiêu mạn. Trong chấp có ngã, và cho rằng mọi người không bằng tôi; Bên ngoài thì chấp có ngã sở, thì phàm cái gì thuộc về s3ơ hữu của mình cũng đều cao đẹp hơn của người khác.
Tăng thượng mạn: Chưa chứng được quả vị hoặc đúc của thù thắng mà tự cho là đã chứng đắc.
Ty Mạn: Đối với người rất ưu việt, lại cho rằng mình chỉ hơi sút hơn người ấy chút ít; hoặc tuy đã hoàn toàn thừa nhận sự cao thắng của người khác, và dù bản thân mình thật dở kém, nhưng tuyệt đối không chịu hư tâm để học tập với người ấy.
Tà
mạn: Vô Đức lại tự nhận là có đức.
Xem
qua 7 thứ tâm ngã mạn trên đây, không thể không khiến mọi
người cảm thấy lo âu sợ sệt vì lẽ không ngờ trong tâm
chúng ta lại cất dấu những món vật xấu xa nhiều đến
như thế.
Dù
Bạch Ẩn thiền sư sanh lòng kiêu mạn như thế nhưng lại
có được cơ duyên ngẫu nhiên quen biết một vị du tăng có
tên là Tôn Cách. Tôn Cách đã mách cho ngài biết là Chánh
Thọ lão nhân đang ở Tín Châu Phạn Sơn, thế là ngài đã
dấn thân thẳng đến Tín Châu
Lần
đầu tiên khi gặp Chánh Thọ lão nhân, Bạch Ẩn một mặt
thuật rõ kiến giải của mình, mặt khác tỏ vẻ làm như
không ai bằng mình.
Đối
với kiến giải của Bạch Ẩn, Chánh Thọ lão nhân đã không
khách sáo đưa tay trái làm động tác như bắt cái gì trên
không rồi ném bỏ và bảo:
“Đúng
là một động vật chó địt không thông. Hãy đem những món
vật mà ông trông thấy đưa ra đây!”
Nói xong ngài đưa tay phải ra và tiếp:
“Nếu có thì mửa vào chỗ nầy!”
Bạch Ẩn thiền sư làm động tác oẹ mửa.
Lão nhân tức khắc hỏi tiếp:
“Làm sao trông thấy chữ “Vô” trong công án của Triệu
Châu?”
“Không là k hông, không thể thấy được vật tồn tại”
Bạch
Ẩn thiền sư vừa đáp xong liền bị lão nhân dùng tay bóp
mũi và bóp thật mạnh, sau đó kéo vòng một vòng rồi bảo:
“Không phải của ông, ta vẫn có thể bắt được!”
Lời
nói của lão nhân đã đánh trúng vào sự cống cao ngã mạn
của Bạch Ẩn.
Chính
vì khế cơ lần nầy, Bạch Ẩn lư lại bên cạnh lão nhân
để tham học Phật pháp. Lão nhân hình dung Bạch Ẩn thiên
sư là “Tử thiền của chó địt không thông (2)”, và đã
cho đó là việc không đúng tí nào. Chính vì thế mà Bạch
Ẩn thường xuyên bị quở trách. Dù vậy, ngài vẫn nổ lực
khai triển, tinh tân tu hành một cách vô cùng khổ hạnh.
Một
hôm, khi Bạch Ẩn nâng bát khất thực, ngài đến trước cửa
của một gia đình, chủ nhà từ chối cúng dường nhưng vì
ngài đang suy nghĩ công án nên chẳng để ý, vì cứ đứng
mãi trước cửa nên khiến chủ nhà tức giận, ông ta đã
xách chổi đánh Bạch Ẩn xối xả và ngài đã ngãi xuống
bất tỉnh.
Khi
Bạch Ẩn khôi phục lại thần trí, ngài đã đạt đến cảnh
địa đại triệt đại ngộ. Chờ Bạch Ẩn tỉnh lại, Chánh
Thọ lão nhân liền bảo:
“Ông triệt ngộ rồi!”
Bạch
Ẩn thiền sư theo học chánh pháp với Chánh Thọ lão nhân
chỉ trong thời gian 8 tháng, nhưng lại có thể tri nhận tường
tận những điểm ảo diệu của thiền, có thể nói, nếu
không có Chánh Thọ lão nhân thì không có Bạch Ẩn thiền
sư sau nầy. Như vậy đủ thấy chỉ là lần gặp gỡ ngẫu
nhiên nhưng kỳ thực cả một sự ẩn tàng huyền cơ không
thể biết được?
Chú (1): Tên của Tâm Sở (Tác dụng của Tâm). Cu Xá Tôn lấy một của Bát Bất Định địa pháp trong 46 tâm sở, Duy Thức Tôn thì lấy một của 6 căn bản phiền não trong 51 tâm sở. Tức so sánh, cao thấp, hơn thua, ưa ghét v.v. giữa chính mình và người khác, mà sanh ra lòng tự thị khinh rẻ người khác, gọi là mạn. Cũng tức là ý tự phụ và khinh bỉ.
Chú (2): Còn có tên là Thiền Hòa tử, tức là người Tham ThiềnDIỆU
PHÁP THOÁT LY TAI NẠN
ĐẠI NGU LƯƠNG KHOAN
Lương
Khoan thiền Sư, khi đề cập đến danh tánh ngài đã khiến
cho người cảm thấy có gì hết sức thân mật. Trong truyền
thuyết, vì thích hồn nhiên và tâm thơ trẻ vẫn còn, nên
ngài thường hay đùa giỡn với những trẻ nít, có một lần
cũng vì chơi trò cút bắt mà bị ngủ lùm cả đêm. Tóm lại,
ngài là con người vui tính và rất hòa hài.
Nhưng,
thân thế của Lương Khoan thiền sư lại tương đối hiển
hách, ngài là trưởng nam của quốc quân Sơn Bổn Gia Việt
hậu quốc thời kỳ Giang Hộ. Khi 18 tuổi (có sách nói 22 tuổi)
xuất gia làm tăng, chuyên tu theo Thiền Tào Động, có thể
bảo ngài là vị thiền tăng xuất gia chánh thống. Đồng thời
ngài cũng là một thi nhân kiêm thư pháp gia, viết chữ đẹp
nổi tiếng. Thơ của ngài đơn giản dễ hiểu nhưng giàu tính
triết lý, đặc biệt là có một thi pháp cao nhã không vẽ
vời. Ở đây xin giới thiệu cùng quý vị mấy bài thi Hán
của Lương Khoan thiền sư:
Hoa vô tâm chiêu Diệp
Diệp vô tâm tầm hoa
Hoa khai thời Diệp lai
Diệp lai thời hoa khai
Ngô diệc bất tri nhân
Nhân diệc bất tri ngô
Bất tri tùng đế tắc
Dư Hương hữu nhất nữ
Sĩ niên mỹ dung tư
Đông lý nhân triều ước
Tây lâm khách tịch kỳ
Hữu thời truyền dĩ ngôn
Hữu thời di dĩ tư
Như thị kinh tuế sương
Chí tế bất dữ di
Tùng bỉ thử hựu phi
Hứa thử bỉ bất khả
Quyết ý phó thâm uyên
Ai tai đồ nhữ vi
Đọc
xong bài Hán thi nầy, Khiến người ta liên tưởng đến hai
mỹ nữ Chân Gian Thủ Nhi Nại và Thố Nguyên Xứ Nữ trong
thi tập cổ điển “Vạn Diệp tập” của Nhật Bản. chân
Gian chính là thị xã Thi Xuyên, huyện Thiên Diệp ở Nhật
Bản hiện nay. Mỹ nữ Thủ Nhi Nại vì sợ làm phương hại
đến lòng cầu ái của quá nhiều thanh niên nên nàng đã nhảy
xuống sông tự tử. Còn Thố Nguyên Xứ Nữ thì theo truyền
thuyết là mỹ nữ ở ngoại ô thị xã Lô Ốc, huyện Binh
Khố hiện nay. Vây quanh bên người đẹp có hai chàng trai tên
là Huyết Chiêu tráng sĩ và Thố Nguyên tráng sĩ, hai người
nầy vì ghen tương nhau nên đã dùng kiếm để hướng vào
nhau. Thố Nguyên Xứ Nữ vì do cảm thấy xuất thân từ một
giai cấp thấp hèn, không bằng lòng việc hai người đàn ông
chỉ vì mình mà làm thương tổn đối phươong, thế nên nàng
đã quyết định dùng phương thức tự vận để giải quyết
vấn đề ba góc, luyến ái tay ba.
Câu
chuyện đến đây vẫn chưa chấm dứt Vào đem nàng tự tử,
Huyết Chiêu tráng sĩ nằm mộng thấy nàng tự vận nên tự
kết thúc tánh mạng để được đi theo kề cận mỹ nhân.
Thố Nguyên tráng sĩ hay tin cũng không chịu thua ông, đã sử
dụng đoản kiếm thường mang bên mình để kết liễu mạng
sống của mình.
Bài
Thu Lục trong “Vạn Diệp Tập” là bài truy điệu hai mỹ
nữ. Có thể Lương Khoa hòa thượng đã lấy tài liệu từ
hai truyền kỳ nầy mà viết thành bài Hán thi trên
“Ái”
xuất phát từ tâm. Nhân loại thường vì “Ái” mà lmà tổn
hại đối phương. Ái thường khi không thể làm cho đối tượng
mình “Ái” được bảo hộ, thăng hoa, trái lại còn làm
cho người mình thương bị tổn hại, ràng buộc. Vì thế khi
một người nói rằng: “Anh thương em”, kỳ thực lời nói
đó ít nhiều có tương thông với ý “Em phải thành nô lệ
của ta”
Người
Cơ Đốc giáo bảo phải thương thế nhân, nhưng Phật giáo
lại bảo rằng “Ái” là không tốt.
Kỳ
thực Cơ Đốc giáo và Phật giáo đối với định nghĩa của
ái đã chẳng giống nhau. Chữ “Ái” Phật giáo đề cập
đó là sự thương yêu được xuất phát từ trong bản vị
của tự ngã. Ái này chẳng phải cho và vì đối phương, mà
ái chính là cho và vì dục vọng của bản thân mình. Vì có
ái, mới có chấp trước và nảy sinh vọng niệm muốn người
mình ái hoặc sự vật mình ái vĩnh viễn thuộc về sở hữu
của mình, có thể nói ái kỳ thực là một loại dục vọng
ích kỷ.
Ở
trong Phật giáo, thay thế ái là “Từ Bi”
Tương
đối với “Ái” xuất phát nơi bản vị tự ngã là tâm
“từ bi” lấy đối tượng làm bnả vị. Từ Bi có ý nghĩa:
“Bạt khổ dữ lạc”, nghĩa là “cứu người khổ từ trong
bể khổ, và ban phát hạnh phúc an lạc đích thực cho mọi
chúng sanh”, đó là Từ Bi.
Vì
thế, Phật giáo là tôn giáo phủ định “Ái” nhưng khẳng
định “Từ Bi”
Trong
Hán thi của Lương Khoan thiền sư, chúng ta có thể thấy được
sự khẳng định tư tưởng nầy của ngài. Đương nhiên ngài
đã không vì muốn biểu đạt tư tưởng của Phật giáo mà
cố ý làm bài thi nầy, mà có thể nói bài thi này đã bộc
lộ một cách tự nhiên tâm lượng từ bi của ngài. Dẫu sao,
mong độc giả đừng quên định nghĩa về “chân ái: của
Phật giáo. Chân ái cũng có thể là một loại “Bi Tâm”
và chính qua bài thi nầy mà ta có thể cảm và thấy được
“Bi tâm” đó.
Tiếp
theo chúng tôi xin giới thiệu thêm bài Hán thi khác:
Gia hữu miêu dữ thử
Tổng thị nhứt mông bì
Miêu bảo bạch trú miên
Thử cơ huyền dạ chi
Miêu nhi hữu hà năng
Thứ sanh lữ trung cơ
Thử tử hữu hà nhất
Xuyên khí dã thái phi
Khí xuyên nhi khả bổ
Thệ giả bất phục quy
Nhược vấn tội khinh trọng
Xưng khả khuynh Miêu nhi
Vào
ngày 12 tháng 11, 1828, lúc Lương Khoan thiền sư vừa đúng 71
tuổi, tại xứ Tam Điền, kiến phó của Việt Hậu quốc đã
xảy ra một trận động đất lớn, kết quả 9,800 nhà cửa
bị sụp đổ, thiêu huỷ 1,200 nóc gia và con số tử thương
hơn 1,440 người. Căn cứ theo sách “Lý Khoa niên biểu” thì
trận địa chấn lúc ấy ở cấp 6.9. Sau cơn động đất,
Lương Khoan thiền sư gởi thư cho bạn là Sơn Điền Đỗ để
thông báo là ngài vẫn bình an:
“Động
đất thật đáng sợ, may là thảo am của bần tăng vô sự,
người nhà cũng an nhiên vô sự, may thật! may thật!
Nhưng,
khi tai nạn đến tuỳ theo cảnh ngộ mà an lạc, và lúc đối
đầu với tử vong thì vui vẻ thản nhiên mà chấp nhận, đây
là diệu pháp thoát ly tai nạn, Viết vào ngày 8-8.
Cẩn chí,
Sơn Điền Đỗ Cao Lão
Lương Khoan.”
Phàm
con người khi gặp tai nạn, chẳng khác nào những con trùng
nhỏ đang rơi vào lưới nhện, rất đau khổ sợ sệt nhưng
không biết phải làm sao. Tuy biết rõ dù sợ sệt nhưng không
biết phải làm sao. Tuy biết rõ dù sợ sệt cũng chẳng ích
lợi gì, nhưng không thể tự chủ được. Đây là điểm ngu
muội của phàm nhân. Bởi vì càng cảm thấy sợ hãi thì càng
quýnh quáng, kết quả càng bị cái lưới tơ đau khổ ràng
chặt không thoát nổi...
Nhưng
Lương Khoan thiền sư đã nói “Khi tai nạn đến tuỳ theo
cảnh ngộ mà an lạc, chết chóc xảy ra thì vui vẻ thản nhiên
mà chấp nhận, đó là diệu pháp thoát ly tại nạn”. Khi
tai nạn đến tuyệt đối không nên để tư tưởng bi rối
loạn, chỉ cần nội tâm không tương ứng với tai nạn thì
tự nhiên sẽ không khổ vì nó, đó tức là thiền. Lời nói
này của thiền tăng Lương Khoan quả xứng đáng là một thiền
sư đích thật...
Theo
truyền thuyết thì vào ngày 06 tháng 01 năm 1831 Đại Ngu Lương
Khoan thiền sư đã an nhiên thị tịch trước sự chứng kiến
của rất nhiều người, ngài hưởng thọ 74 tuổi. Trước
giờ lâm chung ngài còn làm một bài kệ từ giã trần thế,
ngài đã thực thi câu nió của chính ngài đó là “Khi sự
chết đến thì chấp nhận một cách vui vẻ tự nhiên”.
Đổng triệt lý biên
Dã chiếu kiến ngoại biên
Hồng Diệp phiêu lạc mãn thiên
Tạm Dịch
Thấu suốt tận nguồn tâm
Nhận chân muôn hiện tượng
Lá vàng rơi rụng khắp muôn phương