CHƯƠNG BỐN
Một Dẫn Nhập những Thí Dụ và
Ý Nghĩa của chúng
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
Đây là những
giáo huấn thực hành sâu xa của
Quán Thế Âm. Đây là một
dẫn nhập những
thí dụ phối kết với những
ý nghĩa của chúng với
mục đích nhận diện tự tâm của bạn chính là
Pháp thân.
Khi
ban cho những
quán đảnh truyền pháp và những
giáo lý trọn bộ và
phối hợp về tất cả những bổn tôn
an bình và hung nộ, Orgyan Rinpoche dạy như sau : Có nói rằng
ngày xưa ở Go Phodrang Pharley trong xứ sở
Ấn Độ,
trung tâm vùng Orgyan có một kiến trúc xây bằng chất liệu quý, với năm cửa và sự
giàu có vô cùng, một lâu đài Vua Akasagarbha ở đó. Với 84.000 ngàn quận, ông cai trị nhiều thần dân. Hoàng hậu của ông tên là Vimalaprabhinimanojna và con trai là Hoàng tử Kirana, chưa lớn mạnh và còn nhỏ dại. Thừa tướng
thông thái của vua tên là Suryanasim.
Tóm lại, ông có một
tùy tùng,
cõi giới, thần dân và
thịnh vượng rực rỡ.
Một lần gần cung điện của Vua có một
lễ hội lớn ở giữa chợ, và Hoàng tử Kirana cùng với đoàn
tùy tùng đến xem. Hoàng tử đến xem những
quang cảnh khác nhau do một nhà
ảo thuật biểu diễn, và anh bị chúng
lôi cuốn. Sau khi tách rời khỏi đoàn, anh lầm mất đường về cung điện và
lạc đường. Hoàng tử đi bộ lang thang trong những vùng đất có nhiều
dòng họ và
trở thành một kẻ nay đây mai đó. Anh quên mất
quê nhà và lang thang hết
đô thị này sang
đô thị khác, làm người ăn xin rách rưới. Sống với những người bị
bỏ rơi, anh không
tìm ra chỗ nào để ngủ trừ nơi ngưỡng cửa, và anh khốn khổ
hết sức.
Nhiều năm tháng
trôi qua, và vương quốc, đã mất hoàng tử nối ngôi, đang trên đà
suy sụp. Người ta e rằng dòng Vua Akasagarbha phải
chấm dứt. Lúc đó, hoàng tử trẻ ăn xin lang thang khắp nơi trong những thành phố, một hôm đến trước cửa nhà của thừa tướng
thông thái Suryanasim. Thừa tướng
nhận ra anh ta là hoàng tử, kêu lên, “Ôi, hoàng tử của
chúng ta bấy lâu đã mất tích nay đã
trở về ! Ngài không cần đi xin. Hãy đến cung điện !” và ông bắt đầu dẫn anh ta đến đó.
Hoàng tử ăn xin vội đáp, “Tôi không phải là hoàng tử. Khi lục soát hết
trí nhớ, tôi biết tôi chỉ là một kẻ cầu bơ cầu bất. Ngài đem tôi đến cung điện, nhưng tôi không xứng làm vua. Thế nên tôi sẽ không đi.”
Thừa tướng
trả lời, “Khi còn là một hoàng tử trẻ, nhỏ dại, ngài đã đến xem diễn
ảo thuật nơi chợ. Bị thu hút bởi
quang cảnh, ngài đã bỏ khuôn viên cung điện và đi lang thang. Bây giờ, dù ngài có sống như một người lêu lổng, ngài cũng thật là hoàng tử. Thế nên ngài sẽ được trao ngai vàng. Nếu ngài cứ
cố chấp với những
nghi ngờ của ngài về việc ngài là hoàng tử, vậy tôi hỏi ngài : Nguyên quán ngài là gì ? Cung điện là gì ? Thành phố là gì ?
Gia đình ngài là gì ?
Giai cấp ngài là gì ? Cha ngài là ai ? Mẹ ngài là ai ? Những người
đồng hành của ngài là ai ? Công việc bận rộn của ngài là gì ?”
Người ăn xin không nói được gì, và anh choáng váng. Anh
nài nỉ, “Tốt lắm, thế thì hãy nói cho tôi
chi tiết về mọi chuyện ấy và chứng thực chúng cho tôi.”
Thừa tướng nói cho tên của những sự việc ấy và chỉ ra quê quán của anh ; và ông cũng nói cho anh mọi sự về quận, lâu đài, thành phố, nhà, chỗ ngủ,
gia đình và
cha mẹ của anh. Bấy giờ người
Bà la môn thông thái tắm cho hoàng tử, mặc áo quần cho, và đưa hoàng tử lên ngai,
an lập hoàng tử trong cung điện. Ở đó hoàng tử được đội vương miện, mặc áo vua. Ngay lúc đó anh được giao
tài sản của vua, một lễ
đăng quang được
thiết lập, và anh được giao cho vương quốc và cung điện. Anh
trở thành giống như vua cha. Trong một khoảnh khắc, dù anh không chối bỏ mình là một kẻ ăn xin, anh không sống theo cách một người ăn xin nữa. Sự
cùng khổ của một người lang thang
lưu lạc tự biến mất, và vương quốc và mọi thần dân không trừ một ai đều ở dưới sự cai trị của anh. Và họ sống trong đại
hoan hỷ và
hạnh phúc.
Đây là một
giải thích ngắn
ý nghĩa của
thí dụ này :
“Ngày xưa ở Go Phodrang Phardey trong xứ sở Ấn Độ” : Có
giác ngộ nhưng không
chứng ngộ, bèn có
vòng sanh tử. Cái đó (
giác ngộ) có từ trước mà không ai biết nó.
“trong
trung tâm vùng Orgyan” nghĩa là không có kích cỡ và chiều hướng.
“có một kiến trúc xây bằng chất liệu quý”
ám chỉ tinh túy trống không của mọi sự.
“với năm cửa” : sự rỗng rang
vô ngại.
“và sự
giàu có vô cùng” : không giảm bởi những
lỗi lầm và không tăng bởi những phẩm tính
tuyệt hảo.
“một lâu đài” :
tinh túy có ở khắp của nền tảng.
“Vua Akasagarbha” : không rơi vào những
cực đoan sanh tử hay
niết bàn. (Akasagarhbha nghĩa là
Hư Không Tạng.)
“Với 84.000 quận” : làm chủ tất cả mọi
chứng ngộ, và làm chủ 84.000
pháp môn.
“ông cai trị nhiều thần dân” : không
bị thương tổn bởi mọi
phiền não.
“Hoàng hậu của ông tên là Vimalaprabhinimanoja” : ở cùng với những
xuất hiện của những trò phô diễn của
quang minh của chính bạn.
“và con trai là Hoàng tử Kirana” : không
chứng ngộ cũng không mê mờ bởi những diễn xuất
sanh khởi trong khoảnh khắc của
năng lực sáng tạo (của tánh giác) của chính bạn.
“chưa lớn mạnh” :
chứng ngộ chưa
biểu lộ.
“và còn nhỏ dại” : tự phát và không thể
diễn tả.
“Thừa tướng
thông thái của vua” : Đây là người hướng dẫn
tâm linh mà sự
chứng ngộ đã
biểu lộ bên trong.
“tên là Suryanasim” : biết làm thế nào để
biểu lộ từ lòng bi.
“Tóm lại, ông có một
tùy tùng,
cõi giới, thần dân và
thịnh vượng rực rỡ” : Sự
phát lộ của sự
toàn thiện đầy dẫy của tất cả những
hiện tượng của
vòng sanh tử cũng như của
giải thoát từ pháp giới của nền tảng
toàn thể.
“Một lần” : khi có một sự thu hút đến
mê lầm.
“gần cung điện của Vua” : sự gần gũi của nền tảng
toàn thể đối với
vòng sanh tử.
“ở giữa chợ” : địa điểm của
phóng dật, tức là năm môi
trường giác quan, chúng là những
hình tướng xuất hiện của chính bạn.
“có một
lễ hội lớn” : sự
sanh khởi của những
xuất hiện sáu môi trường của
kinh nghiệm.
“Hoàng tử” :
mê lầm thuộc
ý niệm, nghĩa là, sự
sanh khởi trong khoảnh khắc những phân tán thuộc
ý niệm.
“Kirana” : những
tư tưởng và phân tích
vô số.
“cùng với đoàn
tùy tùng đến xem” : cùng với sự khởi tưởng
liên hệ đến năm
giác quan.
“ảo” : sự
sanh khởi của những
xuất hiện khác nhau.
“những
quang cảnh khác nhau do một nhà
ảo thuật biểu diễn” : mọi loại
xuất hiện của tự bạn và sự
mê lầm.
“hoàng tử đến xem, và anh bị chúng lôi cuốn” :
năng lực sáng tạo (của tánh giác) tự
phát lộ nhờ năm
giác quan sanh khởi trong khoảnh khắc.
“tách rời khỏi đoàn” : lang thang vào sáu môi trường
kinh nghiệm.
“anh lầm mất đường về cung điện” : không xác định được nền tảng.
“lạc đường” : không
tìm thấy con đường đến
giác ngộ, vốn là địa điểm
xuất hiện của
trí huệ bổn nguyên, bạn
đi vào khổ đau của
hoạt động nghiệp do bám chấp những đối tượng nắm bắt cho là sự vật có thật.
“trong những vùng đất có nhiều dòng họ” :
phân chia giữa
vòng sanh tử và
giải thoát.
“hoàng tử đi bộ lang thang” : bạn đi lòng vòng trong
ba cõi và sáu loại
chúng sanh, và những quả của
mê lầm chín.
“trở thành một kẻ nay đây mai đó” : như một người
lưu lạc, bạn không ở trong nền tảng, mà lòng vòng nơi những cổng thành của những
tử cung của những
xuất hiện dối gạt.
“Anh quên mất quê nhà” : quên nền tảng
bản tánh của
hiện hữu.
“lang thang hết
đô thị này sang
đô thị khác” : Trong
ý niệm người ta trở nên
mê lầm về những
hoạt động và những
tư tưởng xảy ra do
năng lực khí
năng động của nghiệp ; và bạn trở nên
linh hoạt bởi sự bám chấp vào những đối tượng nắm bắt. Người ta
kinh nghiệm những khổ đau
cá nhân của sáu loại
chúng sanh, và trở nên
mê lầm giữa những
tư tưởng phân tán và những khao khát.
“làm người ăn xin” :
kinh nghiệm đủ loại khổ.
“rách rưới” :
đi vào, hay ở trong những bám luyến
nhị nguyên và năm độc.
“Sống với những người bị bỏ rơi” : sống với
mê lầm do những
xuất hiện lừa gạt của sáu loại đối tượng.
“anh không
tìm ra chỗ nào để ngủ trừ nơi ngưỡng của” : ngủ giữa năm độc và những
xuất hiện bên ngoài do khuynh hướng
thói quen.
“và khốn khổ hết sức” : lang thang
trong vòng sanh tử để
kinh nghiệm những hành động và những kết quả của chúng.
“Nhiều năm tháng trôi qua” : với sự tách lìa khỏi nền tảng
toàn thể của
đại an lạc, bạn
phiền não bởi
vô số khổ đau trong
vô số kiếp.
“vương quốc, đã mất hoàng tử nối ngôi, đang trên đà suy sụp” : bạn lạc khỏi
Phật tánh.
“Người ta e rằng dòng Vua Akasagarbha phải chấm dứt” : sợ rằng dòng cao cả của ‘ngữ của Phật’ hay
dòng họ của Phật phải
chấm dứt.
“Lúc đó, hoàng tử trẻ ăn xin” :
kinh nghiệm những
tư tưởng sanh khởi trong khoảnh khắc, nó chính là địa điểm của
mê lầm.
“lang thang khắp nơi” :
tiếp tục khổ đau của sáu loại
hiện hữu chúng sanh.
“trong những thành phố” : đi đến mọi loại
tái sanh thuận lợi và khổ đau.
“đến trước cửa nhà của thừa tướng
thông thái Sury-anasim” :
cuối cùng bắt đầu tỉnh ra với những cuộc lang thang do nghiệp, và gặp gỡ một người hướng dẫn
tâm linh có những
giáo lý thực hành.
“Thừa tướng” : người hướng dẫn
tâm linh, chữa lành tâm
mê lầm của học trò.
“nhận ra anh ta là” :
nhận ra tự tâm chúng ta là Phật.
“hoàng tử” :
tỉnh giác khoảnh khắc.
“kêu lên, ‘Ôi, hoàng tử của
chúng ta bấy lâu đã mất tích nay đã
trở về !’ ” : dù nền tảng
toàn thể cho sự lang thang là
Phật tánh, nó lang thang
trong vòng sanh tử luân hồi.
“Ngài không cần đi xin” : chỉ ra rằng bạn không
cần phải lang thang trong
sanh tử.
“ ‘Hãy đến cung điện !’ và ông bắt đầu dẫn anh ta đến đó” : dẫn dắt bạn bằng cách
xác nhận môi trường
của riêng bạn chính là một
cõi Phật.
“Hoàng tử ăn xin vội đáp” : không tin vào chính bạn, bạn nghĩ, “Tôi không phải là một vị Phật.”
“Tôi không phải là hoàng tử” : bạn không có những quả của niềm vui.
“Khi lục soát hết
trí nhớ, tôi biết tôi chỉ là một kẻ cầu bơ cầu bất” : đã quên cách
thức căn bản của
hiện hữu, bạn nhớ lại những khuynh hướng
thói quen gắn liền với sanh tử, chúng chỉ làm cho bạn lang thang tiếp.
“Ngài đem tôi đến cung điện, nhưng tôi không xứng làm vua” : bạn nghĩ rằng tâm bạn không xứng là Phật.
“thế nên tôi sẽ không đi” : tâm bạn không
đi vào bản thân thực tại, mà vẫn
ám ảnh với những
cư xử thấp kém.
“Thừa tướng trả lời” : vị hướng dẫn
tâm linh.
“Khi còn là một hoàng tử trẻ” : chỉ sự lang thang của nền tảng
toàn thể, và sự
sanh khởi trong khoảnh khắc của
năng lực sáng tạo của
đệ tử.
“nhỏ dại” : sự
chứng ngộ chưa
biểu lộ.
“ngài đã đến xem diễn
ảo thuật nơi chợ” : không biết chính bạn, bạn
cư xử theo những
năng lực khí lừa gạt.
“Bị thu hút bởi quang cảnh” : bị thu hút vào những đối tượng của sáu trường
kinh nghiệm.
“ngài đã bỏ khuôn viên cung điện và đi lang thang” : nền tảng mà lang thang
trong vòng sanh tử là do bám níu vào những
tư tưởng phân tán và vào
tham luyến và
sân hận.
“Bây giờ, dù ngài có sống như một người lêu lổng, ngài cũng thật là hoàng tử” :
tinh túy của nền tảng
toàn thể là
Phật tánh.
“Thế nên ngài sẽ được trao ngai vàng” : bạn được đưa đến nền tảng.
“Nếu ngài cứ
cố chấp với những
nghi ngờ của ngài về việc ngài là hoàng tử” : cứ nghĩ rằng tâm bạn không phải là Phật.
“Nguyên quán ngài là gì ?” : chỉ rằng bạn sanh ra mà không biết gì về nền tảng
toàn thể, và rằng những
tư tưởng phân tán là những
sanh khởi trong khoảnh khắc.
“Cung điện là gì ?” : trên nền tảng nào bạn đang
hiện hữu ?
“Thành phố là gì ?” : địa điểm của những
tư tưởng phân tán của bạn là gì ?
“Gia đình của ngài là gì ?” : đâu là chỗ ở của những
tư tưởng sanh khởi trong khoảnh khắc được tạo ra của bạn ?
“Giai cấp ngài là gì ?” : loại
biến cố nào
sanh khởi trong khoảnh khắc là những phân tán của tâm ?
“Cha ngài là ai ?” :
nguyên nhân.
“Mẹ ngài là ai ?” :
điều kiện phụ thêm.
“Những người
đồng hành của ngài là ai ?” : những
biến cố đi kèm.
“Công việc bận rộn của ngài là gì ?” : xác quyết.
“Tôi hỏi” :
tìm kiếm và thấy ra vị thầy, chủ nhân của các uẩn tâm
sinh lý bằng cách
tra hỏi về
tác nhân của tánh khí, của những
hy vọng và
sợ hãi, và của
chấp ngã.
“Người ăn xin không nói được gì” : ngay trên sự sụp đổ của những
tư tưởng phân tán và những
ám ảnh, có sự
chứng ngộ tự thân
thực tại căn bản, không do bất cứ
bản chất gì
thiết lập.
“anh choáng váng” : điều này nghĩa là bạn không biết làm sao nói ra lưu loát về nó.
“Tốt lắm, thế thì hãy nói cho tôi
chi tiết về mọi chuyện ấy” : khi bạn tưởng tượng người hướng dẫn
tâm linh trên đỉnh đầu bạn, bạn
cảm thấy có thể rằng bạn là một vị Phật.
“chứng thực chúng cho tôi” : nghĩa là với sự
tin cậy bạn xin người hướng dẫn
tâm linh phát lộ những điều này.
“Thừa tướng” : một người hướng dẫn
tâm linh có
chứng ngộ đích thực.
“nói cho tên của những sự việc ấy” : đây là những
giáo lý thực hành trình bày một
thí dụ cùng với nghĩa của nó.
Cũng vậy, như hoàng tử không biết anh là một hoàng tử và
trở thành một người ăn xin, bạn không
nhận biết tự tâm bạn là
pháp thân, và bạn lang thang
trong vòng sanh tử. Như thừa tướng
nhận biết hoàng tử và đem anh đến ngai vàng, người hướng dẫn
tâm linh chứng nhận tự tâm bạn là
pháp thân ; và ngay khi
tự do khỏi khổ đau của
vòng sanh tử, bạn
thành tựu những phẩm tính
tuyệt hảo của một vị Phật.
MỘT GIỚI THIỆU VÀO MỘT THÍ DỤ
VÀ NGHĨA CỦA NÓ DO SIDDHA ORGYAN DẠY
Kể rằng trong xứ
Ấn Độ có một thuyền trưởng
sở hữu một viên ngọc (
như ý)
quý báu từ
đại dương. Mọi nhu cầu và ước muốn của ông đều được viên ngọc ấy sinh ra, và nhà ông rất
giàu có và
sang trọng. Sau cùng ông thuyền trưởng này chết đi, và khi vợ và các con ông thấy
tài sản họ cạn kiệt, họ trở nên rất nghèo cùng, và đi ăn xin. Khi gặp một người bạn của thuyền trưởng, họ nói với ông điều đã xảy ra với họ, và người bạn
trả lời, “Các bạn không thể nào nghèo được ! Chớ những thứ gì các bạn có ở nhà ?”
“Chúng tôi không có gì cả ngoại trừ một cục đá nhẵn trong một cái mền bông”, họ
trả lời. Người bạn kéo họ về nhà, và sau khi tìm
cẩn thận, viên ngọc
dơ bẩn được
tìm thấy ở dưới một cái gối. Bấy giờ người bạn rửa nó với
nước thơm, cột nó vào đỉnh một ngọn cờ chiến thắng, và làm
vô số cúng dường,
tán tụng và
thỉnh cầu với nó. Kết quả là, mọi nhu cầu và ước muốn của họ lại được
thành tựu tràn trề. Hơn nữa,
nếu không nhờ người bạn, viên ngọc vẫn nằm dưới gối, và người mẹ và những người con phải
chết đói.
Trong
thí dụ này,
tự tâm,
pháp thân vô sanh, vốn
hiện diện trong bạn, nhưng nó giống như viên ngọc để dưới gối. Không biết sự
hiện hữu của
pháp thân trong bạn, kết quả là bạn lang thang
trong vòng sanh tử. Như người bạn
nhận ra viên ngọc, rồi
cúng dường, ở đây nhờ một sự
giới thiệu của một người hướng dẫn
tâm linh thánh trí, bạn thấu hiểu
tự tâm bạn chính là
pháp thân, bấy giờ sự an vui
thịnh vượng của bạn và những người khác
thành tựu tràn đầy.
–
Vấn đề không phải là
chúng ta có
pháp thân hay không, mà
chúng ta có
nhận biết nó hay không. Bạn không có một cái “bạn”. Bạn ở đâu ? Bạn ở trong đầu, trong ngực hay trong chân ?
Toàn thể thân bạn có phải là bạn không ? Bạn được
tìm thấy ở đâu ? Khi bạn không thể
tìm thấy cái bạn này,
giả định căn bản về sự
hiện hữu của chính bạn bị
phá sập. Chính công việc của người hướng dẫn
tâm linh là chỉ ra
bản tánh của bạn cho bạn. Bạn là
pháp thân. Nhân dạng đích thực của bạn là
pháp thân. Một khi bạn
nhận ra điều này, bạn sẽ tự hỏi tại sao bạn đã tìm và tìm
chân lý bao năm, trong khi
chân lý bạn tìm thì luôn luôn ở nơi bạn. –
Một lần ở xứ
Ấn Độ có một vị vua vĩ đại băng hà, để lại một đứa con
mồ côi. Một thừa tướng bắt cóc đứa trẻ và
bỏ rơi nó trong một nhóm người khờ. Đứa trẻ
mồ côi rất khốn cùng và không thể nào
phân biệt nữa với con của những người khờ.
Cuối cùng một người
Bà la môn xem xét những
đặc điểm của nó và
nhận ra nó có những
tính chất của
giai cấp vương giả. Ông tắm rửa nó với
nước thơm,
thắp hương, mặc quần áo
sang trọng cho nó,
trang hoàng nó bằng đồ trang sức, đặt nó lên một ngai cao, và
xác nhận nó là người trị vì vương quốc. Như thế trong một giây phút, nó thành vua, và mọi thần dân đều
vui mừng và
hạnh phúc.
Cũng thế,
tự tâm bạn vốn nguyên là
pháp thân hằng
hiện diện, nhưng nó bị che ám bởi những
ô nhiễm ngoại sanh và tạm thời. Không
nhận biết nó, bạn lang thang
trong vòng sanh tử. Ngay khi nhận những
ban phước của một vị thầy, bạn được
giới thiệu vào nó ; và ngay khi
nhận diện tâm bạn vốn
hiện diện một cách bổn nguyên là
pháp thân, bạn
giải thoát khỏi các khổ của sự lang thang trong
sanh tử.
THÍ DỤ ÔNG GIÀ MẤT SỢI DÂY
Trong một vùng nọ có một người đàn ông già sống với vợ. Ở cuối thung lũng có một cuộc biểu diễn, và người đàn
bà già nói chồng mình đi xem. “Tôi có thể lầm chính tôi với một người khác, nên tôi không đi”, ông già
trả lời.
“Ông sẽ không lầm như thế nếu ông cột một dấu hiệu
nhận dạng trên người” bà nói lại. Cột một sợi dây đỏ tía nơi chân ông, bà tiễn ông đi.
Để cho
quang cảnh biểu diễn cuốn mình đi xa, ông để cho sợi dây trên chân bị đứt. Rồi, lầm mình với người khác, ông đi quanh hỏi người ta, “Nào, tôi là ai ? Tôi là ai ?”
Những người kia
trả lời, “Này ông khờ ! ông chính là ông !” Nhưng ông không
nhận ra chính mình.
Cuối cùng ông chạy đến vợ mình và
than phiền với bà, “Sáng nay tôi đã nói tôi đi thì tôi sẽ lầm tôi với người khác mà bà không chịu nghe. Chính do lỗi của bà mà tôi đã không
nhận ra chính mình !” Và ông định đánh bà.
“Bổn tôn sẽ chỉ cho ông
bản tánh của ông. Hãy
lễ lạy bổn tôn”, bà nói, và đưa ông lạy nhiều lần bổn tôn. Sau một lúc ông mệt và ngủ. Khi ông ngủ say bà cột một sợi dây đỏ tía khác vào chân ông. Khi ông
tỉnh dậy, ông nói, “Bây giờ tôi đây này !” và ông
nhận ra chính mình. Dù khi người đàn ông già không
nhận ra chính mình sau khi sợi dây bị đứt, cũng
không có lý do nào cho sự
mê lầm của ông. Trong khi ông
hiện diện trong
chính nhân dạng của mình, ông trở nên
mê lầm về điều mà
không có lý do nào để
mê lầm.
Giải thích thí dụ : như ông già
ban đầu trở nên
mê lầm về điều mà
không có lý do nào để
mê lầm, khi
tự tâm bạn vốn
hiện diện như pháp thân, bạn lại lang thang trong
sanh tử vì không
nhận ra nó. Như ông già
nhận ra chính mình một khi sợi dây được cột vào chân,
cũng thế bạn thấy khuôn mặt
pháp thân của bạn nhờ được
giới thiệu vào bởi những
giáo huấn khẩu truyền của một người hướng dẫn
tâm linh ; và điều này nhổ gốc của sự lang thang
trong vòng sanh tử.
– Điểm
then chốt của
thí dụ này là ông già vẫn là chính ông dù người vợ có cột dây vào chân ông hay không, thế nên
không có lý do gì cho việc tại sao ông
lầm lẫn chính ông với người nào khác hay quên ông là ai.
Tương tự,
bản tánh bổn nguyên của
chúng ta là
Phật tánh, nhưng do bám níu vào những
xuất hiện hình tướng cho là thật có,
chúng ta không
nhận ra bản tánh của chính mình.
Chúng ta không
biết mình là ai.
Chúng ta phải tìm cho ra sự
rối loạn này, nhưng
chúng ta lại coi đó là
hoàn toàn bình thường. Khi một vị thầy chỉ cho
chúng ta bản tánh của
tâm thức chúng ta là
pháp thân, vị ấy đưa
chúng ta vào
bản tánh đích thực của
con người chúng ta, và qua sự
nhận biết này
chúng ta chấm dứt lang thang trong
sanh tử.
Đêm qua bạn mơ thấy bạn là một người nào đó, nhưng ai là
cha mẹ bạn trong giấc mơ đó ? Bạn sanh ra khi nào ? Bạn sống ở đâu ? Ai tạo ra bạn ? Khi bạn
thức dậy sáng nay, điều gì đã xảy ra cho
cá nhân trong
giấc mộng đó ? Người đó chết rồi chăng ? Hay là người đó đi đâu ?
Chúng ta có khuynh hướng nói rằng, “Ồ, khác nhau thôi. Cái kia chỉ là một
giấc mộng và tưởng tượng, trong khi cái tôi đang
kinh nghiệm đây là
sự thật, không phải tưởng tượng.” Có phải đấy là điều
chúng ta cảm thấy ?
Từ một
viễn tượng Phật giáo, cái thật nghĩa là
bản tánh của chính bạn là
bản tánh của Phật. Cái tưởng tượng là nhân dạng của bạn là một
chúng sanh. Thế nên với điều đó trong tâm, hãy tự hỏi lại, “Tôi, như người trong
giấc mộng đêm qua, đã đi đâu ?” Suốt ngày bạn có thể
cảm thấy rằng bạn đã
thức tỉnh như thể bạn đã là một vị Phật, còn việc
nhận biết nhân dạng của bạn, những tình huống của bạn... trong
giấc mộng chỉ là tưởng tượng.
Nếu thế, ban đêm bạn cũng mê mờ như thể bạn là một
chúng sanh bình thường. Điều gì sẽ xảy ra khi bạn ngủ đêm nay ? Cái gì sẽ xảy ra với “con người như Phật” là chính bạn bây giờ ? Ở đâu những phẩm tính
tuyệt hảo, những
đức hạnh của bạn một khi bạn đi ngủ ? Xin hãy chăm chú vào những điều này. –
THÍ DỤ THẤY MỘT SỢI DÂY THỪNG LÀ CON RẮN
Một lần nọ một người lầm cho một sợi dây thừng nhiều màu chuyển động
tới lui trong một bụi cây là một con
rắn độc. Cho rằng nó sẽ cắn anh và anh sẽ bị nọc độc của rắn chích vào người, anh
sợ hãi khủng khiếp. Đây không phải là một
trường hợp méo mó của
thị giác, vì mắt anh ta chỉ thấy một sợi dây nhiều màu, không thấy da, miệng hay mắt của con rắn. Thế thì tại sao anh bị lầm ? Anh
lầm lẫn bởi
tâm thức anh
gán cho sợi dây thừng nhiều màu, vặn vẹo là một con rắn, thậm chí một con
rắn độc, có những
đặc tính độc hại v.v... Bấy giờ có người chỉ ra cho anh, “Đây không phải là một con rắn. Nó là một sợi dây”, và cầm lấy tay anh mà chỉ. Nhờ vậy anh
thoát khỏi những
sợ hãi của mình về con
rắn độc.
Giải thích thí dụ : Từ
ban đầu không có lý do để lầm sợi dây với con rắn.
Cũng thế, trong khi
tự tâm hiện diện như là
pháp thân, bạn lại không
nhận biết chính bạn. Và như vậy, bạn bị kéo ra xa bởi những ngọn sóng của
vòng sanh tử và
kinh nghiệm khổ đau. Cũng như anh kia
thoát khỏi những
sợ hãi của mình về con
rắn độc nhờ ai đó làm cho anh
nhận ra sợi dây, khi một vị thầy chỉ cho bạn
bản tánh của tâm, khuôn mặt thật của chính bạn là
pháp thân được phát hiện ; và bạn
thành tựu một
tự do nào đó với
vòng sanh tử.
Trường hợp bị lầm về cái gì mà đối với nó
không có lý do để
mê lầm thì được nói là do “những
ô nhiễm ngoại sanh tạm thời”. Ngược lại, việc nghĩ rằng
dòng tâm trở nên
xấu xa và nó
kinh nghiệm khổ đau – trong khi không biết
tác nhân gây cho bạn lang thang trong
sanh tử chính là “những
nhiễm ô ngoại sanh tạm thời” – sẽ khiến
cho không xác định được
bản tánh của tâm. Bạn cần nhiệt thành tìm cho ra
ý nghĩa của điều này, và với ba
thí dụ và
ý nghĩa của chúng, hãy xác định cho chính bạn cách thức mà tâm trở nên
mê lầm.
– Từ
ban đầu không có lý do gì cho anh ta nghĩ sợi dây là con rắn bởi vì sợi dây luôn luôn là sợi dây, không khi nào là con rắn. Đấy đúng là
bản tánh của nó. Nghĩ
dòng tâm của bạn là
vấn đề, chứ không phải những
ô nhiễm ngoại sanh tạm thời làm méo mó và làm dơ nó, chỉ là một kết quả của việc không xác định được
bản tánh thực của tâm. Trong mỗi
thí dụ, sự thất bại này được
tìm thấy : người ta không
nhận biết bản tánh của tâm, và từ việc không
nhận biết này mọi bám luyến và giận ghét
sanh khởi. Hơn nữa, những
phiền não như vậy khởi sanh do nắm lấy một cái gì không thực. Hãy khảo sát
triệt để những điểm này.
Chúng ta có thể nghĩ
chúng ta là những
hành giả Dzogchen, nhưng trong khi đó,
chúng ta lại nghĩ rằng những người khác có những
vấn đề. Điểm cốt yếu của
thực hành này là xoay vào bên trong và
nhận biết bản tánh của chính mình. Thậm chí khi
chúng ta tu hành cao,
chúng ta có thể có
cảm giác rằng có những sinh thể bên ngoài hỗ trợ
chúng ta, như những
chư thiên và dakini, và những sinh thể khác như các ma, muốn làm hại
chúng ta. Trước khi
giác ngộ, ngay cả Phật
Thích Ca, với
chư thiên và các loài khác
tán thán, có vẻ như bị quân ma tấn công, nhưng tất cả cái ấy đều do
tâm thức ngài tạo ra.
Chúng ta tạo ra tất cả những
phiền não của
chúng ta. Ngay khi
chúng ta bắt đầu
tìm thấy lỗi của những người khác, và ngay khi
chúng ta định danh những người khác như những
kẻ thù và những người bạn của
chúng ta,
chúng ta đã
mê lầm. Những
tư tưởng này
sanh khởi bởi vì
chúng ta đã không
nhận biết bản tánh của chính
chúng ta. Mọi cái lải nhải về việc
chúng ta nhạy cảm,
trong sạch và
tốt đẹp như thế nào, ngược lại những người khác xấu như thế nào, đều thuần là tưởng tượng.
Mê lầm như vậy là
vấn đề của
chúng ta, và khi những
ác cảm và những tham đắm ấy được
áp dụng vào những
truyền thống khác biệt,
chủ nghĩa bộ phái và
thành kiến sanh khởi, đó cũng là
vấn đề của
chúng ta.
Vấn đề không ở tự thân những
tôn giáo và
truyền thống khác nhau.
Một lần nữa, điểm
then chốt là mọi thích, ghét khởi lên trong tâm
chúng ta mới là
vấn đề của
chúng ta. Đó cũng giống như mất sợi dây.
Chúng ta có
trách nhiệm về nó. Bất cứ
trạng thái tâm thức nào
chúng ta mắc vào, dù nó tốt hay xấu, mọi cái giống như ông già mất sợi dây của ông. Tất cả đều xảy ra trong một khung cảnh tưởng tượng, nơi
chúng ta đã quên nhân dạng của chính mình. Một khi bạn đã
chứng ngộ hai
vô ngã –
cá nhân vô ngã và
hiện tượng vô ngã – bấy giờ tâm bạn giống như căn nhà trống. Không có cửa cho
tham luyến,
xung đột, khao khát...
đi vào. Nó
hoàn toàn là một nơi sáng sủa. Một khi bạn đã
nhận biết bản tánh, đó giống như phiêu lưu vào một xứ sở mà mọi thứ đều làm bằng vàng, ngay cả một viên đá cuội.
Tương tự, khi bạn
nhận biết bản tánh, không có chỗ cho một
tư tưởng hay một
tri giác về sự
dơ bẩn – không có đối tượng của
tham muốn hay
xung đột. Còn khi
chúng ta đi vào một
trạng thái tâm có ghét bỏ cho mặt kia và
tham luyến cho mặt này của bạn, đó thực sự là một sự rối rắm bởi vì
chúng ta chỉ đang dấn mình vào tưởng tượng.
Đôi khi,
chúng ta không
nhận biết những lỗi
của riêng mình và trở nên
bị ám ảnh bám chấp vào những
lỗi lầm của những người khác.
Chúng ta khen những người
thích chúng ta, chê những người không
thích chúng ta.
Chúng ta làm thế như thể
chúng ta hoàn toàn khách quan. Khi
chúng ta đi vào một
trạng thái tâm thức như vậy,
chúng ta không có thậm chí cả
đức hạnh của một con ký sinh trùng trong ruột.
Để nhìn lại
thí dụ, hãy xét nghiệm
kinh nghiệm của bạn. Bạn đang có
mê lầm hay không ? Bạn có
đi vào loại tưởng tượng này hay không ? Bạn đã tạo ra tất cả bạn và thù, những đối tượng của thương ghét. Chúng đều là những tưởng tượng của bạn. Những đối tượng của thương và ghét không phải là cái gì
hiện hữu trong
thực tế. Chúng là những tưởng tượng bạn tạo ra cho chính bạn và cho người mà bạn có những
đáp ứng xúc cảm. Bạn
cần phải xác định cho chính bạn, theo chính
kinh nghiệm của bạn, bạn có bị
mê lầm trong mặt này hay không, bạn có bị lừa dối bởi những tưởng tượng đó hay không. Nếu bạn thấy rằng bạn bị
mê lầm, bấy giờ hãy xác định nó là
tích cực hay
tiêu cực.
Đặc biệt hãy khảo sát những đối tượng của
tham luyến,
giận dữ và thù ghét của bạn. Hãy xác định cho chính bạn là chúng có thực hay không. Nếu bạn
nhận biết rằng chúng vốn không cố định, không nền tảng, bấy giờ chúng không có
hiện hữu nội tại riêng của chúng. Thế thì bạn không
cần phải tạo tác thi thiết cái nào nữa. Bấy giờ, hãy buông thả nó và xem thấy
bản tánh của tâm bạn. –
Một lần nọ trong xứ
Ấn Độ có một ông vua đã
sùng tín Pháp nhưng có một người con không
quan tâm đến
thực hành tâm linh. Vua mời một nhà
ảo thuật đến và ra lệnh cho ông, “Hãy tạo ra một màn
ảo thuật như là một
phương cách khiến cho con ta mến thích Pháp.”
Nhà
ảo thuật hỏi, “Hoàng tử bị cái gì
hấp dẫn ?”
“Nó thích những con ngựa”, vua
trả lời.
Sáng hôm sau nhà
ảo thuật đem đến một con ngựa tốt
trang hoàng bằng yên, cương
đẹp đẽ và hỏi hoàng tử có muốn mua nó không. Hoàng tử ngắm nghía nó và
trả lời, “Tôi muốn mua, nhưng
trước tiên tôi sẽ cho nó đi vài bước”, và anh leo lên yên ngựa. Không thể
kiểm soát con ngựa, anh cưỡi đi xa qua đồi và thung lũng. Sau khi đến một vùng sa mạc trên bờ
đại dương, con ngựa ném anh xuống rồi bơi vào
đại dương. Không có cách gì hoàng tử
trở lại quê nhà, và cũng không có ai gần đó. Khi anh
sợ hãi và chán nản, một người đàn
bà già, tóc hoang dại đi đến và bảo với anh vùng này
hoàn toàn không có người ở. “Anh vốn từ đâu đến ?”, bà hỏi, và anh kể cho bà
câu chuyện của mình.
“Đây là bờ biển, không có người ở đây. Nhưng ta có một đứa con gái anh có muốn ở với nó không ?”
Nghĩ rằng dù là một hoàng tử, anh cũng không có sự
lựa chọn nào khác, anh sống với người con gái. Sau một
thời gian, đôi vợ chồng đã có một trai và một gái. Sau đó người đàn
bà già chết đi, và khi họ chôn xác bà trên đồi, vợ anh quá
đau khổ nhảy vào một dòng sông. Khi cố cứu mẹ, đứa con gái nhỏ cũng rơi xuống dòng sông và bị nước cuốn đi. Khi hoàng tử đang nghĩ cách cứu nó, đứa con trai đang ngủ bị một con chó sói tha đi mất. Quá đau buồn, hoàng tử khóc, tát vào má,
bứt tóc. Khi về già, tóc anh
hoàn toàn bạc trắng.
Thế rồi nhà
ảo thuật làm tan biến trò
ảo hóa. Bấy giờ hoàng tử nhóm họp các quan lại và nói với họ anh sẽ kể cho họ nghe những
thuận cảnh và
nghịch cảnh của mình. Các quan nói rằng, “Không có
thuận cảnh hay
nghịch cảnh nào đã xảy ra với ngài. Ngài chưa từng rời khỏi ngai của ngài !
Thức ăn trước mặt ngài vẫn chưa nguội kia mà.” Dù họ nói vậy, hoàng tử không nghe, và vẫn kể lại từng
chi tiết. Khi kể xong, anh nói, “Không có một điểm nào là thật trong mọi sự ấy”, và anh
từ bỏ ngôi và
đi vào cửa Pháp.
Trong
thí dụ này, trong khi hoàng tử không rời khỏi ngai, nhà
ảo thuật làm anh
mê lầm bởi
năng lực của những
chú thuật và chất thuốc, và anh đã
đau khổ trong một
thời gian lâu.
Cũng thế, trong khi
tự tâm của
chúng ta là
như lai tạng, nó không lìa khỏi
bản tánh của
pháp thân,
chúng ta đã không
nhận biết bản tánh của chính mình ; và bởi những
năng lực của
tội lỗi và những che chướng mà
chúng ta đã tích tập,
chúng ta lang thang trong
sanh tử và
kinh nghiệm khổ đau trong
thời gian lâu. Cũng như hoàng tử không rời khỏi ngai dù khi anh bị
huyễn hóa làm mê mờ, dù
chúng ta đang lang thang trong
sanh tử,
như lai tạng nhân địa không
đi vào nhiễm ô và xấu ác.
– Trong đoạn này
như lai tạng “nhân địa”
ám chỉ như lai tạng là
nguyên nhân, hay nền tảng, của
con đường, và
tuy nhiên, nó cũng là
bản thân con đường, cũng là quả của
con đường.
Nếu không có
như lai tạng chúng ta sẽ không có sự
thực hành Pháp hay cái gì khác nữa cả. –
Hãy lấy
thí dụ vàng ròng, không dơ nhiễm. Nếu một thợ vàng chùi vàng với
bồ hóng nó sẽ trở nên
dơ bẩn. Nhưng sau khi nấu chảy, nó có thể làm thành những đồ trang sức
đẹp đẽ. Hay nấu chảy, nó có thể đúc thành một
tượng Phật, và khi được tôn phong, nó có thể
trở thành một đối tượng cho sự tôn thờ,
đảnh lễ của
mọi người. Dù làm
dơ bẩn, làm đồ trang sức hay làm tượng,
tinh túy của vàng không
biến đổi.
Cũng thế, tất cả
thời gian lang thang trong
sanh tử,
thành tựu những địa
Bồ tát và những
con đường, và
cuối cùng đạt đến giác ngộ,
tinh túy của tâm là không
biến đổi.
Như một hòn đá thường không thể
trở thành bạc dù có nấu chảy nó, nếu
tinh túy của
giác ngộ không
hiện diện trong
dòng tâm làm nhân, thì quả của
giác ngộ sẽ không
thành tựu dù có
thực hành Pháp. Có nói, “Mọi
hiện tượng đều
sanh khởi từ những nguyên nhân”. Bởi vì bạc
hiện diện trong quặng bạc, khi nấu chảy,
ban đầu nó trở nên
tinh chất một phần, rồi
tinh chất hơn và
cuối cùng thành bạc ròng chất.
Cũng thế, bởi vì
như lai tạng hiện diện trong
dòng tâm, một khi
chúng ta biết điều này và
đi vào thực hành,
chứng ngộ thực nghiệm (qua
kinh nghiệm) đầu tiên
sanh khởi. Rồi
dần dần chúng ta tiến bộ theo những địa
Bồ tát và những
con đường, và
cuối cùng chúng ta đạt đến giác ngộ.
–
Chứng ngộ thực nghiệm (qua
kinh nghiệm) đầu tiên là sự
nhận biết bản tánh của tâm. Chiến thuật
tiến bộ theo những địa và những
con đường là trước hết
đi vào những
thực hành sơ bộ, nhờ đó
thiết lập một nền tảng
thích hợp.
Tiếp theo, người ta làm những
thực hành bổn tôn của hai giai đoạn phát sanh và
thành tựu, và
cuối cùng chúng ta có thể
đi vào thực hành Dzogchen. Theo cách này,
chúng ta đi vòng và
nhận biết bản tánh của chính mình. –
Nghĩa Bên Trong
Sâu Xa nói :
Tinh túy không
nhiễm ô của chư Phật thì theo thứ tự
bất tịnh, một phần
bất tịnh một phần tịnh, và
hoàn toàn thanh tịnh.
Cũng thế, có nói rằng nó
hiện diện như là
chúng sanh và như là chư Phật. Thế nên hãy thấu hiểu nghĩa này.
Như thế
tự tâm này
hiện diện một cách bổn nguyên
như tinh túy của
pháp thân. Thế nên hãy
nhận dạng và
nhận biết nó với sự
chắc chắn ; và không tạo tác hay làm
biến chất nó bằng những
hy vọng và
sợ hãi, chỉ
đơn giản chú tâm vào
tinh túy của bất cứ cái gì
xuất hiện. Như một
thí dụ tương tự, sau khi nặn đường thành những hình dạng
thần linh, quỷ ma và người khác nhau, khi người ta ăn
lần lượt, dù
hình thức của chúng có khác nhau, tất cả chúng đều có cùng vị ngọt của đường.
Tương tự, bất cứ
tư tưởng tốt xấu nào
sanh khởi trong tâm, bằng cách
quan sát tinh túy của chúng,
chúng sanh khởi như Đại Ấn, cũng như mọi
hình tướng khác nhau của đường đều có cùng vị ngọt.
Đến đây
chấm dứt phần bổ sung
dẫn nhập vào những
thí dụ.
–
Cần thiết phải nhận rõ với sự
chắc chắn rằng
tự tâm của bạn là
pháp thân.
Để có được loại
nhận biết này, hay
nhận diện bản tánh của tâm bạn,
bước đầu tiên là
tìm ra một vị thầy đích thực, từ ngài bạn phải nhận những lời chỉ dạy. Rồi trong tiến trình, bạn cần có thể dứt ra khỏi những không xác định và những
nghi ngờ. Cách bạn làm điều này là nghe những lời chỉ dạy và
học hỏi. Không
đi vào đoạn thứ nhất của tiến trình ba bước là nghe,
suy nghĩ và
thiền định, bạn sẽ có gì để
thiền định ? Làm thế nào
bạn thiền định được nếu bạn không
nghe lời chỉ dạy nào ?
Ở
Tây Tạng, có tục lệ
đệ tử và thầy thử nghiệm lẫn nhau
trong khoảng thời kỳ ba năm.
Đệ tử sẽ
quyết định vị thầy có đích thực chăng, và vị thầy sẽ xem
đệ tử có là người mà ông muốn
giao phó cho sự
tu hành. Loại người hướng dẫn
tâm linh đáng để nhận sự hướng dẫn là người, từ một động cơ
thanh tịnh của lòng bi, dạy
bản chất của những hành động và những
hậu quả của chúng, nhân và quả.
Trước hết, hãy nghe những
giáo lý. Nhưng chỉ có
kiến thức thì không đủ. Nó sẽ không tịnh hóa hay
chuyển hóa tâm thức. Đoạn
tiếp theo là
chiêm nghiệm những lời chỉ dạy ấy. Nhưng phân tích những chỉ dạy có thể làm
sanh khởi cái hiểu
lý thuyết, điều này chẳng có thể
chuyển hóa tâm và nhổ gốc khổ. Khi bạn đã loại trừ những
nghi ngờ và không xác định và khai triển cái hiểu
lành mạnh, đây là lúc để
thực hành. Điều này giống như trồng một cây táo. Không đủ nếu chỉ có giống, bạn phải gieo nó. Một khi bạn đặt nó xuống đất, bạn không thể bỏ đi. Bạn cần bón phân, tưới nước để nó nảy mầm, lên cây. Bạn cần chăm bón nó
cho đến khi
trưởng thành ra cây. Rồi bạn canh chừng cho táo lớn và chín.
Cuối cùng,
kết thúc tiến trình này là trái cây đã chín, bạn sẵn sàng thu hoạch.