CHƯƠNG NĂM
Một Sự Nhận Diện Qua Văn Xuôi
Kính lễ đức
Quán Thế Âm !
Đây là những
giáo huấn thực hành sâu xa của
Quán Thế Âm.
Mục tiêu của lãnh nhận
giáo huấn này về sự hợp nhất của Đại Ấn và Atiyoga là để biết
bản tánh cốt lõi của tâm. Điều này quan trọng. Dù điều này đã được
luận giải trong phần trình bày chính về
nhận diện, tôi e rằng những người mới học còn chưa
nhận diện được
bản tánh của tâm ; và dù có những người đã làm được việc đó, tôi sẽ trình bày một sự
giới thiệu vào bằng
văn xuôi dễ hiểu để cho sự xác tín của họ được
tăng trưởng.
Sự
hiểu biết này về
bản tánh cốt lõi của tâm là cách tốt nhất để tịnh hóa những che chướng, như
Kinh Pháp Vương
ghi nhận :
Nếu người ta biết
tâm không riêng biệt và
bất nhị, điều này có thể
so sánh với dùng một miếng vải chùi bụi đã tích tập trên một tấm gương cả ngàn năm. Nhờ cầm một cây đèn dầu
đơn sơ, người ta xua tan bóng tối trong một nhà trống
lây lất cả ngàn năm.
Cũng thế, chỉ bằng cách biết
sự thật rằng
tâm không có tánh
nhị nguyên, những
tội lỗi đã tích tập từ
vô số kiếp được tịnh hóa trong chỉ một khoảnh khắc.
¬
– Chỉ do
chúng ta không biết
bản tánh cốt lõi của tâm mình mà
chúng ta bám nắm một cách
nhị nguyên vào những
hình tướng xuất hiện và
định tướng chúng, bởi thế kéo dài sự
hiện hữu của
chúng ta trong
sanh tử. Để phản kháng lại sự bám nắm và sự vật hóa này,
chúng ta phải
nhận biết bản tánh của tâm.
Đã
thỏa nguyện chưa một khi bạn biết
bản tánh của
tự tâm bạn ? Chưa. Như một đứa bé, được sanh ra là chưa đủ : nó phải được chăm sóc, nuôi nấng và được
giáo dục và phát triển những phẩm tính
tuyệt vời. Bấy giờ khi
trưởng thành và đã phát triển
hiểu biết, nó mới sẵn sàng tự
lo liệu để sống.
Tương tự, về
thực hành tâm linh, biết
bản tánh của tâm thì chưa đủ, vì bấy giờ bạn phải
hộ trì,
giữ gìn nó.
Ban đầu là xác quyết
bản tánh cốt lõi của tâm, nhưng nếu cái
hiểu biết ở mức nào đó này bắt đầu mờ nhạt hay biến mất
hoàn toàn, bấy giờ bạn phải
phục hồi lại nó. Đây là cách bạn
hộ trì sự xác quyết và
quán chiếu.
Trong
truyền thống Phật giáo, có một số
tuyên bố rằng những
chúng sanh có khả năng
giác ngộ, dù họ chưa
giác ngộ.
Trái lại,
đặc biệt dòng Nyingma và Kagyu chủ trương rằng
Phật tánh hay tathagatagarbha (
Như Lai tạng), là một
thực tại hiện tiền chứ không chỉ là một tiềm năng,
cần phải được
nhận biết và sự
nhận biết phải được
duy trì để cho sự
chín muồi tâm linh thành tựu. Làm như vậy, tức là bạn
chuyển hóa quả của
giác ngộ viên mãn thành
con đường thức tỉnh. –
Nếu bạn có thể
thường trực giữ gìn tỉnh giác về
bản tánh của tâm, thì thậm chí bạn không cần ẩn tu
nhập thất. Kinh
Ngọn Đèn của
Mặt Trăng nói :
Nếu người ta biết
bản tánh của tâm, dù thân người ta có ở nơi chợ búa, tâm người ta cũng sống trong chỗ
hoang sơ. Trong chỗ
hoang sơ của thân, Phật của tâm trú ngụ.
– Nếu bạn
duy trì tỉnh giác về
bản tánh của tâm, bạn không cần
đi vào ẩn cư, vì bạn đang
hộ trì trạng thái thiền định ấy bất cứ bạn đang ở đâu. Chẳng hạn, bất cứ nơi nào Đức Ngài Dudjom Rinpoche đến, bất cứ
hoạt động nào ngài làm, ngài
thường trực duy trì cấp độ
chứng ngộ ấy. Với
viễn cảnh ấy, mọi
hoạt động và
biến cố sẽ được
tri giác là những diễn xuất của tánh giác. –
Những
thí dụ nào được trình bày cho sự chứng biết
bản tánh của tâm ? Kinh
Tinh Túy của
Như Lai nói :
Như một
thí dụ, một người hầu gái gói một
tượng Phật bằng chất quý trong một miếng vải
có mùi và đặt nó trong áo. Rồi ông chủ của người hầu gái lấy nó từ
áo choàng của cô và vất miếng vải
có mùi, để cho
tượng quý thành một vật cho chính ông
thờ phụng và là một căn cứ cho những người khác tích tập
công đức.
Tương tự,
Như Lai tạng, tâm
sáng tỏ tự thân, bị
che dấu bởi những
nhiễm ô của
phiền não, trụ trong thân của tất cả
chúng sanh trong
sanh tử, nhưng không được biết. Nhờ bạn lành, như ông chủ trong
thí dụ này, người ta được giúp đỡ để biết
Như Lai tạng,
tâm quang minh tự thân. Bấy giờ người ta tự mình
giải thoát khỏi
vòng sanh tử và
giải thoát cho những người khác.
– Những
tư tưởng không có nền tảng
sanh khởi không phải là một
chướng ngại nếu, khi chúng khởi và diệt bạn có thể tập chú vào tính
quang minh sáng tỏ tự nhiên của chính những
tư tưởng đó.
Tuy nhiên, khi chúng khởi, nếu cái tâm
phán đoán của bạn bám níu vào chúng và trở nên
phiền não, đó mới là
vấn đề. Nhưng chỉ sự
sanh khởi và đi qua của
bản thân những
tư tưởng không nên được xem là một
vấn đề. –
Kinh
Tư Tưởng Vô Nhiễm nói :
Văn Thù Sư Lợi hỏi, “Thưa
Thế Tôn, cái gì là
kinh nghiệm của một vị tăng tu định khi
đi vào tham thiền ?”
Đức Phật trả lời, “Như một
thí dụ, nếu người ta
dập tắt lửa bằng bất cứ
phương tiện gì, khói không bốc ra nữa.
Cũng thế, trên sự
nhận biết tâm là tánh giác trống không, người ta
kinh nghiệm những
xuất hiện trống không của những sắc, những
âm thanh trống không, hương trống không, vị trống không, và xúc trống không. Nếu nước không bị lay động, nó
trong trẻo, nếu bầu trời không bị che, nó
trong sáng ; nếu
tâm không biến chất, nó là
an lạc.
Về chuyện này, có nói rằng :
Một người
tham thiền biết
bản tánh của tâm
An trụ trong
bản tánh của
thiền địnhVà trong
thực tại bổn nguyên
Mặc cho người ấy có làm gì.
Đó được nói là
kinh nghiệm của định (samadhi).
– Kỳ lạ biết bao nhiêu khi
xác nhận rằng khi
tâm không biến chất, không sửa sang, nó ở trong một
trạng thái an lạc ! Mọi sự
chúng ta làm đối với tâm – nhận lấy một số hạnh kiểm nào đó và tránh những cái khác – đều kéo theo sự sửa sang,
biến đổi của tâm. Cái lạc này
hoàn toàn vượt khỏi
thế giới quy ước. Trong
trạng thái tự nhiên của nó, tâm là
an lạc và
giải thoát. Như nước không bị
xáo trộn thì
trong trẻo và sáng láng, tâm cũng thật như vậy. Mỗi cái
chúng ta lấy và bỏ đều kéo theo những
biến đổi làm
hỗn loạn tâm, kéo theo sự nắm bắt
nhị nguyên. Thế nên, trong giai
đoạn thực hành này bạn dừng mọi cái đó lại và
để tâm ở trong một
trạng thái không
biến đổi.
Nhiều loại khởi niệm
tự nhiên sanh khởi, và chúng tự sanh và tự diệt. Chúng
tự nhiên tan biến. Trong
diễn tiến sự
tự nhiên sanh khởi và tan biến, chúng không làm hại hay
ban cho lợi lạc. Trong phẩm tính này của tánh giác bạn
hoàn toàn ở bên trên
lãnh vực làm hại hay có lợi đối với tâm. Thật vậy, trong bối cảnh này, những
tư tưởng sanh khởi thì không khác với
bản tánh của tâm, như sóng khởi trên mặt
đại dương không khác với
đại dương. –
Kinh Những Câu Hỏi của Vua Miyowa nói :
Khi những
xuất hiện hình tướng trong sáng một cách
tự nhiên, không có bám níu hay
chấp thủ, chúng là
thanh tịnh trong
trạng thái của chính chúng. Chớ có nghĩ khác.
Kinh Những Câu Hỏi của Ngangpa Giryin nói :
Hãy biết rằng
nếu không có
xao lãng, đây là sự
tham thiền về
quang minh tự nhiên của tự thân
thực tại.
Kinh Những Câu Hỏi của Maitreya nói :
Hãy an trụ không có
ý niệm trong cái nhìn thấy
kiên cố về những
xuất hiện hình tướng. Chỉ có cái đó là tốt nhất của những
thiền định.
– Không
ý niệm, hãy để cho tánh giác của bạn,
y như nó là, trong cái nhìn thấy
kiên cố về những
xuất hiện. Nếu bạn có thể làm như thế, đó thật sự là cái tốt nhất trong những
thiền định. Về
nhận biết tánh giác, những vị hướng dẫn
tâm linh trong
quá khứ, gồm cả Đức Ngài Dudjom Rinpoche,
nhận xét rằng nó có thể được xác quyết
trong khoảng hở
theo sau sự diệt dứt của một
tư tưởng và trước sự khởi sanh của
tư tưởng kế tiếp.
Trong khoảng hở đó có
tánh không. Khoảng hở đó dài bao nhiêu ? Là một
sai lầm khi nghĩ nó ngắn ngủi. Hơn nữa, nó chính là
bản tánh của cả
sanh tử và
niết bàn. Trong cái nhìn thấy rất
kiên cố những
xuất hiện hình tướng, ngay trong khoảnh khắc đó, trong cái nhìn thấy
tức thời của khoảnh khắc
tức thời của những
xuất hiện, bạn có thể
nhận ra bản tánh của tâm. Có nói rằng tất cả chư Phật có thể được
tìm thấy trong chỉ một nguyên tử, điều này chỉ ra
bản tánh đơn nhất của
toàn thể sanh tử và
niết bàn. –
Kinh Những Câu Hỏi của Dewa Lodroš nói :
Không nghĩ đến cái gì cả gọi là
thiền định vĩ đại.
Kinh Những Câu Hỏi của Srimatibrahmani nói :
“Tịnh quang
tự nhiên của tất cả mọi hiện tượng”
ám chỉ tánh giác bổn nguyên, nó thoát ngoài mọi
hôn trầm và
trạo cử. Tại sao ? Bởi vì tánh giác là
bất sanh,
bất diệt và bổn nhiên.
Kinh về
Sở Hữu những
Thiện Căn nói :
Trí huệ bổn nguyên của chính mình là cái thức
trong sáng,
an lạc nó không
ý niệm hóa bất cứ cái gì, và nó được thấu hiểu là
Pháp thân.
Có nói rằng : “Không
kinh nghiệm những sự vật như là ở ngoài tâm, và không nghĩ chúng là ở trong tâm, đó là cái tốt nhất của những an trụ
thiền định.
Kinh Những Câu Hỏi của Vua Katsal nói :
“Cái thấy” là không phân
tích bản tâm ; đó là
kinh nghiệm tốt nhất về
thực tại.
– “Không phân
tích bản tâm” nghĩa là
xa lìa mọi
chấp nhận và từ chối, hay mọi
thiên vị yêu chuộng. Nhưng hãy biết rằng
thực hành này không phải chỉ là làm trống trơn hay rơi vào một cơn mê mẩn. Hãy nhớ rằng
cho đến khi nào bạn xác quyết được
bản tánh của tâm, bạn cần
tiếp tục những
thực hành từ bỏ hạnh xấu và nhận lấy hạnh tốt. –
Kinh Những Câu Hỏi của
Bà La Môn Tsangpa nói :
Thức của sự hợp nhất của
thiền định và cái thấy là an
trụ liên tục trong sự
trong sáng và
vô niệm. Cái đó tương đương với tâm của Phật.
– Thông thường cái thấy
đi trước, và sau đó là
thiền định,
thiền định về cái thấy. Nhưng ở đây có một
trạng thái sâu hơn : qua
thiền định, bạn an trụ trong cái thấy, và đó là quả của
con đường. Đây thực sự là sự
chuyển hóa quả thành
con đường. Cái gì là quả ? Nó là cái thấy và cái thấy
trở thành con đường. Đây là một điểm rất quan trọng : cái thấy là quả,
thiền định là quả. Cả hai, cái thấy và
thiền định đồng thời là quả. –
Kinh Những Câu Hỏi của Cô Gái Regošma nói :
Với tâm mình ở trong
thực tại của chính nó, không tích tập
công đức, những che chướng được tịnh hóa ; và không
tái sanh, người ta
chắc chắn sẽ
đạt đến trạng thái thức tỉnh tâm linh ngay
trong đời này.
Kinh Những Câu Hỏi của Vua Dewa nói :
Người nào biết làm sao dùng tâm
quan sát tâm là người
tham thiền tốt nhất.
Kinh
Trí Huệ Ba La Mật nói :
Khi dòng
tỉnh giác không ngừng, với
tâm không sự vật hóa, tự thân
thực tại được biết
rõ ràng.
Kinh Những Câu Hỏi của Vua Dejin nói :
Không rút lui tâm mình, mà để nó ở trong
bản tánh của chính nó, đó là
thiền định tốt nhất.
Kinh Những Câu Hỏi của
Phạm Thiên nói :
Để tâm nhất như trong tâm, tâm bèn không bị đối
tượng hóa bởi tâm.
– Trong
thực hành này, bạn
để yên tâm trong tâm, nhưng
tâm không phải là một đối tượng để tập trung. Thế thì làm sao
thực hiện điều này ? Dudjom Lingpa bình giảng, “Chớ bao giờ lìa khỏi
hư không (
không gian).” Nghĩa là, luôn luôn để cho cái nhìn ngắm của bạn ở yên giữa
hư không (
không gian). –
Vua của những Tantra Đồng Đẳng với
Không Gian nói :
Khi tâm trở nên hợp nhất với một thân
bình thường, người
chứng ngộ được tâm mình là
Pháp thân trở thành một vị Phật ngay
trong đời này. Vì sao ? Vì gốc rễ của
vô minh bị cắt đứt.
Tilopa hỏi một dakini
trí huệ bổn nguyên, “Phật giống như cái gì ?” Dakini
trí huệ bổn nguyên
trả lời, “Tilopa, nếu tâm
quan sát tâm, cái đang
quan sát là tâm của chính ông, và cái đang được
quan sát cũng là tâm của chính ông. Như thế, khi tâm được
quan sát,
như không gian không thể nhìn thấy, cả người
quan sát và cái được
quan sát được tịnh hóa. Bấy giờ khi
quang minh này được
chứng ngộ, đó là
Phật hiện tiền
tự nhiên ; nó là Phật
đi vào con đường ; và nó cũng là Phật biểu
hiện chứng ngộ. Khi điều này được thấu hiểu, tâm là
bất sanh và
bất diệt, thế nên ma Thần Chết bị
hàng phục. Tâm được xác quyết là
trí huệ bổn nguyên
vô tự tánh, thế nên ma
nghi ngờ và
giải đãi bị
hàng phục.
Tâm không có chỗ trụ trong
năm uẩn, nên
ngũ ấm ma bị
hàng phục.
Tâm không có
phiền não, nên ma
phiền não bị
hàng phục. Theo cách đó, khi
bốn loại ma đã bị đánh tan, tất cả
vô số tư tưởng về những
xuất hiện tạo thành đối tượng được xác quyết là tâm của chính ông ; và khi chúng được xác quyết là tâm, tâm được gọi là
Pháp thân bất sanh bất diệt. Tilopa, hãy biết cái này !”
– Khi người
quan sát và cái được
quan sát được tịnh hóa, chúng không phải được lau chùi sạch, mà chúng biến mất, vì cả hai vốn không có nền tảng. Trong khảo sát
ban đầu về tâm, người ta xác định rằng
tâm không có màu sắc,
hình dáng và không có
bản chất, và vì thế như
hư không (
không gian). Hơn nữa, nó vốn không nền tảng (
vô trụ) bởi vì dù nó
xuất hiện, nó không có
hiện hữu bẩm sinh (
vô tự tánh), thế nên nó không thực sự
hiện hữu. Như thế,
bản tánh của tâm siêu khỏi ba thời
quá khứ,
hiện tại,
vị lai, và nó siêu khỏi sanh, trụ, diệt.
Vô số tư tưởng, chúng là
thuần túy chủ thể, hay cả chủ thể lẫn khách thể. Những
tư tưởng tạo ra cả chủ thể và khách thể, và nếu bạn
nhận biết bản tánh của những
tư tưởng, bạn sẽ thấy chúng đích thị là
bản tánh sâu xa của tánh giác. Mọi
hiện tượng vừa được
định danh bởi
tư tưởng vừa là những
phát biểu sáng tạo của tánh giác. –
Cái thức không do
kiến tạo này của cái
hiện tiền, khoảnh khắc
vĩnh viễn đứng ngoài mọi
can thiệp của trí óc, được gọi là Đại Ấn. Vì nó không dơ nhiễm bởi những
nhiễm ô, dù nó có
xuất hiện, nó cũng
vô nhiễm suốt ba thời. Thức
tức thời khoảnh khắc này không cưỡng chống cái xấu và không khẳng định cái tốt ; nó không có
con đường để
tiến bộ ; và nó không có
phiền não hay
đối trị để
vượt qua. Bởi vì nó không
hiện hữu, nó không thể
tìm thấy dù có
tìm kiếm. Mọi sự đều bao hàm trong cái thức khoảnh khắc này của
hiện tiền, thế nên đó gọi là
hiện thân của tất cả chư Phật ; và khi bạn đến được
kết luận này, không thể còn
bàn luận tranh luận nào nữa. Thức của cái
hiện tại này là nền tảng
căn bản của mọi phẩm tính
tuyệt hảo, thế nên không có
mâu thuẫn trong việc xem nó như nền tảng. Thức
hiện tiền này không do ai tạo ra, thế nên không
mâu thuẫn khi nói rằng nó là
hiện diện tự nhiên. Nếu bạn nói, “Thật ra nó giống như thế này...”, thì nó không
tác động như một đối tượng cho bất kỳ một tâm nào, cũng không có bất kỳ
bản chất nào, thế nên nó là
bất nhị. Thức
hiện tiền này thì
thoát khỏi bất kỳ một căn cứ nào cho sự gán ghép hay phủ nhận, vì nó là
không gian tuyệt đối của những đối tượng, lìa ngoài sanh, diệt và trụ, và nó
hiện diện như là
Pháp thân vĩ đại.
– Trong thức
hiện tiền này không có phê phán. Không có những
tư tưởng xấu. Không có những
tư tưởng tốt. Không có muốn dứt bỏ cái này hay muốn trau dồi cái kia. Nếu
chúng ta muốn
tìm ra phiền não,
chắc chắn chúng dễ tìm ; chúng ở ngay trước
chúng ta. Nhưng nếu
chúng ta tìm tâm, nó không thể được
tìm thấy, bởi vì nó vốn không có nền tảng ; dầu nó
xuất hiện, nó không có
hiện hữu bẩm sinh. Nếu nó có nền tảng, nó phải thật sự có
phiền não, và sẽ có những
đối trị cho chúng. Nhưng bởi vì
tự tâm vốn không nền tảng, thì không có
phiền não hay những
đối trị để chiến thắng
phiền não. Mọi thứ
hiện diện trong thức khoảnh khắc của cái
hiện tiền này. –
Nếu bạn
nghiên cứu tìm tòi xem cái
thực tại ấy có sự sanh sự trụ nào ? Có
bản chất nào ? Có
hình dáng nào ? Có thức nào ? Có
xuất hiện nào ? Có
tánh không nào ? Có Phật nào ? Có
chúng sanh nào ? Có tánh giác nào ? Có
vô minh nào ? Nếu bạn
quan sát cẩn thận, không có cái gì có thể
quan sát được bởi bất
kỳ chủ thể nào trong bất cứ
phương diện nào. Cái nhìn thấy như vậy là cái nhìn thấy vĩ đại, vì đó là cái nhìn thấy
như thị. Nó không phải là một cái nhìn thấy cái gì
hiện hữu. Như thế, Tantra của
Vô Trụ nói :
Đây là Đại Ấn : nó không
dơ bẩn bởi những
nhiễm ô, nó không phủ định hay xác định, và không có
con đường hay những
đối trị được
tìm thấy. Cái này là
hiện thân của tất cả chư Phật. Đây là căn cứ của tất cả những phẩm tính
tuyệt hảo. Cái này là
hiện diện tự nhiên. Nó không
dính dáng với cái gì và không có bất cứ loại
nhị nguyên nào. Nó
thoát khỏi những gán ghép và phủ nhận,
hiện tiền như Pháp thân vĩ đại. Nếu sanh, trụ,
bản chất và diệt được
quan sát, trong đó không có cái gì được thấy. Đây là cái nhìn thấy vĩ đại tánh như.
Một tantra như vậy chỉ nhận lãnh được bằng sự
thanh tịnh của
dòng tâm mình và
thần lực của vị hướng dẫn
tâm linh của mình. Cũng bản văn trên nói, “Nhờ những
ban phước, cái này được nhận từ vị hướng dẫn
tâm linh của mình.”
– Làm sao có thể
kinh nghiệm được sự
thanh tịnh của
dòng tâm bạn ? Qua những
thực hành như
thiền định về Vajra-sattva. Làm sao bạn có thể nhận lãnh
thần lực của thầy bạn ? Bằng những
ban phước của thầy. Chẳng hạn, khi bạn nhận một
quán đảnh truyền pháp, bạn cần thấy vị thầy
kim cương như Phật, từ ngài bạn trực
tiếp nhận quán đảnh. Bởi thế, nhận lãnh tantra ở trên, một học trò phải có
niềm tin và cái nhìn thấy
thanh tịnh về vị hướng dẫn
tâm linh.
Chính bấy giờ công việc vị thầy là ban
quán đảnh truyền pháp, sự trao truyền bằng lời, và
giải thích. Bởi sự hội tụ của hai cái này – cái thầy đem đến cho mối tương quan và cái bạn với
tư cách là học trò đem đến cho mối tương quan đó – bạn có thể nhận lãnh cái mà bạn đã sẵn có, tức là, bạn
nhận biết cái vốn đã là của bạn. –
Trong một
bài kệ, Tantra
Giải Thoát Toàn Thể Thế Giới : Một Bình Giảng về Nghĩa của
Đại Bi dạy :
Hãy cắt đứt gốc rễ của ba thời.
Không
xếp đặt, hãy
giải phóng ba cửa và tập trung.
Thực tại bổn nguyên ấy,
thoát khỏi ba
căn bản,
Vốn
giữ gìn định và quán.
–
Thực tại bổn nguyên
ám chỉ tánh giác,
thoát khỏi ba
căn bản. Ba
căn bản là gì ? Có thể hiểu theo hai cách : là
quá khứ,
hiện tại,
vị lai ; hay là ba cửa thân, ngữ, tâm. –
Từ cái gì tâm bạn
sanh khởi ? Bây giờ nó trụ ở đâu ?
Cuối cùng nó đi đâu ? Bạn có thể trông tìm, nhưng mọi sự đều trống không,
rốt ráo không nền tảng. Khi đang trong
kinh nghiệm này, hãy ở yên không chuyển động thân, không nói, và không
biến đổi tâm bạn. Như một
thí dụ, nếu một người trông giữ voi quá chặt chẽ, voi sẽ
nổi giận ; và nếu y không
trông chừng voi, nó sẽ
trốn thoát. Như vậy, y thư giãn và tập trung, và
trông chừng từ xa.
Cũng thế, nếu tâm bạn quá siết chặt, nó sẽ
mệt mỏi, và
tư tưởng sẽ sinh sôi ; và nếu bạn không
thiền định, những khuynh hướng
thói quen sẽ tự động
tiếp diễn. Thế nên hãy thư giãn và tập trung. Với người lính gác nội quan hãy
nhận biết tánh giác. Khi bạn để cho nó như là nó, không sửa sang, giữa những
tư tưởng quá khứ,
hiện tại, tương lai, và nền tảng không sửa sang, tạo tác, bạn bèn
thoát khỏi những
tư tưởng đó. Không bám níu, hãy
duy trì định tĩnh, nó an trụ mà không có sửa sang, và
quán chiếu khởi sanh một cách tươi mới như
trí huệ bổn nguyên,
vô nhiễm và thực nghiệm.
– Sự phát sanh của tâm là trống không, và chỗ trú
hiện tại và chỗ đến sau đó là trống không và không nền tảng, thế nên trong
thực tế nó không có gốc rễ hay căn cứ. Với người lính canh của chú ý,
kết hợp với
cẩn trọng và nội quan, hãy
nhận biết tánh giác. Hãy
ghi nhận những phẩm tính của
thiền định mà Karma Chagmé
nhấn mạnh : một đường lối
trung đạo không quá ít hay quá nhiều
căng thẳng, trong khi trau dồi
chánh niệm, nội quan và
cẩn thận chăm chú.
Chúng ta cần trau dồi mọi mặt này của
con đường. Những chỗ khác của bản văn nói cần không có
sự thiền định, người
thiền định và không có gì để
thiền định. Vậy hai
nhận xét này là không
nhất quán sao ? Không, chúng không phải không
tương hợp.
Thật tánh của
Đại Toàn Thiện là không có
thiền định, người
thiền định và đối tượng
thiền định. Nhưng
chừng nào chúng ta còn bị
trói buộc vào bám chấp
nhị nguyên, khi ấy
chúng ta còn cần khép mình theo
con đường và đó là
lý do tại sao
tác giả chỉ ra điều này.
Khi bạn thư giãn và tập trung với nội quan và không chỉnh trị, bạn
thoát khỏi những
tư tưởng về
quá khứ,
hiện tại, tương lai, cũng như
ám ảnh về nền tảng không tạo tác. Khi bạn
thoát khỏi những
tư tưởng, bạn đi đâu ? Không có chỗ để đi, thế nên bạn ở trong nền tảng không tạo tác.
Tâm an trụ này, không tạo tác, chỉnh trị, là định tĩnh, và cái
quán chiếu soi suốt
tánh không này là
vô niệm. Hai
trạng thái này cần được
duy trì : định tĩnh an trụ không tạo tác và
quán chiếu tươi mới
sanh khởi như là
trí huệ bổn nguyên
vô nhiễm. Khi
quán chiếu này
sanh khởi, nếu có một cảm thức bám nắm vào nó khởi lên, nó không là
quán chiếu nữa.
Quán chiếu chỉ được
duy trì nếu
vắng mặt bám nắm. Đó giống như cái nhìn yên nghỉ trong
không gian trước mặt – không phải vào một đối tượng để thấy, mà ở trong chính
không gian, không có gì để bám nắm, không có gì để dính bám. –
Cũng thế, Một Bản
Văn Giáo Huấn của Ánh Sáng
Đại Bi Tối Thượng nói :
Hãy
nhận biết khởi niệm chính là tâm con ; nó
sanh khởi từ tâm và
giải phóng như là tâm. Biết nó tạo bởi tâm, hãy biết nó là tâm ; và bất cứ cái gì
xuất hiện, hãy biết nó là tâm của chính con, không phủ định hay xác định. Đó là sự mọc lên của
hóa thân chưa biết của tánh giác, một
trạng thái lạc, không và đồng nhất
vi tế và
tinh khiết. Nó là
bản tánh vốn
hiện tiền của mình : thức
bình thường không
phóng dật, không chỉnh trị. Khi
tánh không không thể bám nắm như một vật, nó là tự soi chiếu, và được
kinh nghiệm bởi sự không có bám nắm ; thế nên đó là
kinh nghiệm của sự
thọ hưởng trọn vẹn trí huệ bổn nguyên của tánh giác.
Hãy chứng biết mọi tạo tác
tư tưởng bên ngoài là tâm của bạn. Hãy chứng biết
tự tâm bên trong là không có
tự tánh. Hãy chứng biết
kinh nghiệm khoảng giữa là
đại lạc. Sự xảy ra không khác biệt của bên ngoài, bên trong và khoảng giữa được
giải phóng như là một
nhất thể. Bấy giờ
nhất thể đó
thoát khỏi những
cực đoan một và nhiều, ngoài và trong ; nó là không có những
phạm trù và toàn khắp. Tánh giác
sống động, không có
bản chất,
trong sáng tự nhiên, không
trung gian, không nền tảng, không
sáng tỏ cũng không che ám chính là
Pháp thân.
– “Sự mọc lên của
hóa thân chưa biết của tánh giác”, được nói là chưa biết vì trước đó nó chưa được
nhận ra. Bởi thế, vào giây phút người ta
nhận biết nó lần thứ nhất, cái chưa biết ấy
trở thành cái được biết. Nó vốn
hiện tiền từ
xưa nay.
Tôi tin rằng “tạo tác
tư tưởng bên ngoài”
ám chỉ môi trường bên ngoài gồm các
nguyên tố v.v... Nó được gọi là tạo tác
tư tưởng vì môi trường bên ngoài được tạo thành bởi những
tư tưởng, thế nên bạn cần chứng biết rằng cái
thế giới bên ngoài ấy chính là tâm bạn. Hãy ghi nhớ mười
thí dụ về mọi
hiện tượng như những
phản chiếu v.v..., và
cuối cùng chứng biết
kinh nghiệm khoảng giữa là
đại lạc.
Sự kiện không khác biệt của bên ngoài, bên trong và khoảng giữa này thì
tương tự với
tinh túy,
bản tánh và lòng bi toàn khắp của tánh giác,
ám chỉ pháp thân,
báo thân và
hóa thân. Cả ba cái này được
chứng ngộ một lần. Việc này giống như một viên thuốc trị bá bệnh, hay một chìa khóa mở
vô số cánh cửa của
hiểu biết. Đúng như câu nói : Nếu bạn biết một điều, tất cả
được giải thoát. Đây là tánh
giác lộ toàn thân, tươi mới và không
biến chất. Nó vượt khỏi lợi hay hại. Nó không được
sáng tỏ bởi cái gì, cũng không có cái gì có thể che ám.
Khi bạn trở nên quen với tánh giác này, bạn sẽ ở trong một
vị trí để sẵn sàng hỏi những câu hỏi. Sự trình bày bằng
văn xuôi này giống như một bản đồ, nên khi bạn đọc đoạn này, nhiều câu hỏi phải
sanh khởi. Và điều đó là tốt, nhưng quan trọng nhất là nêu lên những câu hỏi
thích đáng để hỏi những
hành giả đã
chứng ngộ. Hãy chăm chú kỹ vào những lời dạy và chớ quên hay rời bỏ chúng sau khi đọc
một lần. Bạn cần đem những lời dạy này vào
thực hành, và đó là cách
duy nhất để có những câu hỏi xứng đáng đặt ra. –
Vua Trisong Deutsen hỏi Orgyen Rinpoche Padma-sambhava, “Đại sư, để cho
chúng sanh là nhân
thành tựu quả Phật, vào lúc mới bắt đầu cái thấy của
chứng ngộ là cốt yếu. Thế thì ai được phú bẩm cái thấy của
chứng ngộ ?”
– Những cái thấy khác nhau được
bàn luận trong bản văn này. Thứ nhất là cái thấy của
thiền định ; thứ hai là cái thấy của
chứng ngộ ; và thứ ba là cái thấy của quả.
Ban đầu, bạn nhận lãnh những
giáo huấn thực hành từ một vị thầy ; rồi bạn có một cái hiểu nào đó, và trên nền tảng đó bạn
thực hành. Như một kết quả của
thiền định,
cuối cùng chứng ngộ sanh khởi, và đó là cái thấy của
chứng ngộ. Khi bạn
duy trì và trau dồi
chứng ngộ như vậy,
cuối cùng bạn
hoàn thành cái thấy của quả. Vào thời điểm đó bạn
hoàn toàn vượt khỏi những
nghi vấn hay những câu hỏi ; sự xác quyết của bạn
rốt ráo trọn vẹn. Bạn
tuyệt đối tin vào sự
chứng ngộ của bạn đến độ tất cả chư Phật và chư
Bồ tát có nói với bạn là bạn
sai lầm, bạn cũng
hoàn toàn không lay chuyển. –
Đạo sư trả lời, “Chót đỉnh của mọi cái thấy nằm ở những
giáo huấn tinh túy thực hành cho
giác ngộ. Tất cả những thiên hà, tất cả những chư
Như Lai của
ba đời và
mười phương, và tất cả
chúng sanh của
ba cõi đều đồng một
thực tại : họ đều
bao gồm trong
tâm căn bản của
Bồ đề tâm. Cái gọi là “tâm” này thì
vô sanh và
biểu lộ thành muôn ngàn cách thức.”
“Thế thì, đâu là sự khác biệt giữa chư Phật và
chúng sanh ?”
“Không khác nhau chỗ nào ngoài sự biết và không biết tâm. Dù ngài không biết, Phật đang
hiện diện ở tâm ngài. Do không
nhận biết bản tánh của tâm, ngài lang thang trong sáu
trạng thái sanh tử.”
–
Chúng ta lang thang trong sáu cõi vì bám níu vào cái không có mà cho là có, vào cái
không thật mà cho là thật. Sự bám níu này tạo thêm những
nguyên nhân nữa để
tái sanh. Như bánh xe do nước quay,
chúng ta tích
tập nghiệp, tức là những
nguyên nhân cho
tái sanh tiếp diễn. –
“Thế thì, có
phương pháp nào để thấu đạt cái tâm ?”
“Để được vậy, những
giáo huấn thực hành của một vị thầy là
cần thiết.
“Cái gọi là tâm
hiện hữu như một
kinh nghiệm của
chánh niệm và
hiểu biết. Chớ
quan sát tâm theo cách ở ngoài mà theo cách ở trong. Hãy tìm tâm với tâm. Hãy xác minh
tự tâm bằng tâm. Hãy
quan sát : từ đâu
ban đầu tâm
sanh khởi, bây giờ nó trụ ở đâu, và
cuối cùng nó đi về đâu ? Về mặt này, do tự mình
quan sát tâm này, không chỗ khởi nguồn, không chỗ ở, và không chỗ đến có thể được
tìm thấy. Không có cách gì để chỉ ra
bản tánh của nó bằng cách nói, “Nó giống thế này...” Như vậy, không có bên ngoài hay bên trong, và không có người
quan sát hoặc cái được
quan sát, tâm là
trí huệ bổn nguyên vĩ đại, không chu vi và
trung tâm,
trí huệ bổn nguyên vĩ đại trống không, vốn
tự do và toàn khắp.
Trí huệ bổn nguyên,
hiện diện tự nhiên trong hiện thể của nó, không phải là cái gì được tạo ra. Sự
nhận biết sự
hiện diện của
trí huệ bổn nguyên là cái thấy. Hãy
cố gắng thấu đạt nó !
“Nền tảng và cái có nền tảng thì giống
như không gian,
hiện diện tự nhiên, bổn nguyên. Nó giống như
mặt trời, không có chỗ cho
vô minh bám rễ. Nó giống như một
hoa sen, không dính nhiễm. Nó giống như vàng, không thay đổi khỏi
bản tánh của tự thân
thực tại. Nó giống như
đại dương, không chuyển động. Nó giống như một dòng sông, không đứt đoạn. Nó giống như một sự
hiện diện, không có gặp gỡ hay
xa lìa. Nó giống như
Núi Tu Di, không chuyển động và
biến đổi. Ngay trên sự dò thấu một
thực tại như vậy,
chứng ngộ hiện ra cùng lúc với xác tín.”
– Trong tánh giác không có nền tảng, thế nên nó giống
như không gian, vốn
hiện diện tự nhiên.
Năm ấm của thân và tâm, khởi sanh do
nghiệp lực trước kia, không làm hại hay giúp đỡ cho tánh giác. Nó không thấm năm độc, nên đối với những người đã
chứng ngộ tánh giác, năm độc này không thể làm hại.
Trái lại, khi
chúng sanh khởi, họ chỉ việc
nhận biết sự
sanh khởi của chúng và
tri giác chúng là
trí huệ bổn nguyên. Bởi thế, chúng không có
quyền lực ngăn che, làm hại hay che ám.
Tánh
giác như vàng, không
biến đổi, không bị
sanh tử làm hại hay
niết bàn làm
lợi lạc. Tánh giác này là
bản tánh của cả
sanh tử lẫn
niết bàn. Nó là
bản tánh của chư Phật và
hiện diện nơi tất cả
chúng sanh. Nó không khuyết hụt chỗ nào, dù với
chúng sanh địa ngục hay với người
đạt đến Phật quả, tánh giác
tương tục hiện diện. Người ta không hề lìa nó dù trong
quá khứ,
hiện tại và tương lai.
Khi bạn
chứng ngộ bản tánh cốt lõi của tánh giác của bạn, bạn
chứng ngộ bản tánh của tất cả chư Phật. Bạn gặp tất cả chư Phật. Bạn
chứng ngộ bản tánh cốt lõi của tất cả các vị thầy. Bạn nhận tất cả những
quán đảnh. Bạn nhận tất cả những
ban phước. Bạn nhận sự
chứng ngộ của cả hai giai đoạn phát sanh và
thành tựu. Đây là sự
chứng ngộ Đại Ấn, sự
chứng ngộ Đại Toàn Thiện và sự
chứng ngộ sự hợp nhất của Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện. –
Orgyen Rinpoche
giới thiệu (tánh giác) cho những
đệ tử của ngài, trong đó có vua và triều thần. Đây là lời chỉ dạy cho Đức Bà Yeshe Tsogyal : “Hỡi người
thành tín, hãy nghe !
Tâm không có
tự tánh, thế nên hãy để nó trong
trạng thái tự nhiên, không
biến đổi,
tự nhiên hiện tiền, không có
thiền định. Do trụ trong
trạng thái này,
tự tâm sẽ
tự nhiên giải thoát, và con sẽ
thành Phật.” Như vậy, Tsogyal
giải thoát ngay lúc bấy giờ.
– Tánh giác, như
đại dương, là một
trạng thái tự nhiên hiện diện, không có
thiền định. Không cần làm gì
đặc biệt, không cần tư thế, không có đối tượng
thiền định. Hãy chỉ để cho bạn nghỉ ngơi, không
quấy nhiễu nó. Như nước
tự nhiên chảy thành dòng, bạn không cần làm gì cả với nó. Như những bọt nước
tự nhiên sanh và tan vào nước, bạn chẳng cần làm gì cả ; chúng tự-sanh khởi và tự-giải phóng.
Tương tự, nếu những
tư tưởng khác nhau
sanh khởi trong tâm, bạn không cần làm gì với chúng. Chỉ
để tâm nghỉ ngơi trong
trạng thái tự nhiên của nó và bùn đất của tâm sẽ bị lắng xuống. Như những
đám mây sanh khởi và tan
tự nhiên trong bầu trời,
tự tâm tự nhiên giải thoát,
tự nhiên giải phóng như vậy.
Đã bao nhiêu lần bạn nghe câu nói, “Hãy
để tâm bạn trong
trạng thái không sửa sang, không tạo tác, không thi thiết ?” Thế mà
chúng ta chỉ làm cái ngược lại. Tại sao ? Bởi vì
chúng ta không
thỏa mãn chỉ
để tâm nghỉ ngơi trong
trạng thái của tự nó. Tại sao ? Bởi vì
chúng ta chạy theo trăm hướng khác nhau để tìm cái gì mới, đi tìm
thỏa mãn. Nhưng rồi
chúng ta chẳng tìm được cái gì cả, bởi vì tất cả chỉ là thi thiết, giả tạo. Kết quả là càng ngày
chúng ta càng lún sâu thêm vào
sanh tử. Cho nên, hãy
thực hành Pháp một cách chân chánh ! –
Lời chỉ dạy của ngài cho Lang Palgyi Sengge : “Đứa con của
dòng họ tốt đẹp (
thiện nam tử), hãy nghe ! Tất cả mọi
hiện tượng là
tự tâm, và không có cái gì khởi lên từ cái nào khác.
Tâm không có
tự tánh, thế nên nó vượt khỏi
ngôn từ và
tư tưởng. Hãy yên nghỉ một cách
sáng tỏ trong
trạng thái không
biến dạng, nó không có những
phân biệt tốt xấu,
lấy bỏ, phủ nhận và
xác nhận, hay trong và ngoài. Trong
trạng thái này thân và tâm
an lạc, và thức
bất sanh bất diệt được
kinh nghiệm. Đấy là những chỉ báo của hơi nóng của
chứng ngộ, thế nên vào lúc đó con sẽ
đạt đến sự
chứng ngộ của Phật.” Như vậy, Lang Palgyi Sengge cũng
giải thoát.
Ngài dạy Vairocana : “Đứa con của
dòng họ tốt đẹp, hãy nghe ! Mọi
hiện tượng sanh khởi từ tâm.
Tâm không phải là một cái gì cả để có thể nắm hiểu ; nó không chu vi hay
trung tâm, không trụ không tán. Hãy an nghỉ không
xao lãng trong
trạng thái không tạo tác của đại
bình đẳng. Do
thiền định theo cách này, khởi niệm sẽ
sanh khởi như
trí huệ bổn nguyên và cái ấy tự nó là
thức tỉnh tâm linh.” Như vậy, Vairocana
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho Nup Namkhey Nyingpo : “Namkhey Nyingpo, hãy nghe ! Tâm thì
thoát khỏi những tạo
tác ý niệm. Hãy an nghỉ trong
trạng thái không sửa sang, không
biến chất, nó không có cái ta ; nó tự
sanh khởi và tự an lặng. Do ở trong
trạng thái này, những dấu báo của hơi nóng
chứng ngộ sẽ
tự nhiên xảy ra ; và chính
trạng thái ấy là
bản thân sự
thức tỉnh tâm linh.” Như vậy, Namkhey Nyingpo
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho Kumara : “Jnana, hãy nghe ! Tâm vốn không do những
nguyên nhân mà có, và không bị
hoại diệt bởi những
nguyên nhân. Hãy yên nghỉ trong
trạng thái vô sanh thoát khỏi hoạt động và
nỗ lực, không
liên kết ngữ ngôn. Trong
trạng thái đó, con sẽ
tìm thấy quả mà không phải
tìm kiếm.
Thức tỉnh tâm linh không chỗ nào khác ngoài cái đó.” Như vậy, Kumara
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho Ngenlam Gyalwa Chog-yang : “Gyalwa Chog-yang, hãy nghe ! Tánh giác không thể được trau dồi trong
thiền định, cũng không thể
quan niệm được. Hãy an nghỉ không phân tán ra hay thu rút về, để cho các
giác quan tự nhiên, khởi niệm tự lặng. Trong
trạng thái đó,
chánh niệm tự lặng sẽ
sanh khởi trong tâm, và
thức tỉnh tâm linh hiện thành ngay tại chỗ đó.” Như vậy, Gyalwa Chog-yang
được giải thoát ngay liền.
Lời chỉ dạy của ngài cho Nanam Dorje Dušdjom : Dorje Dušdjom, hãy nghe ! Tánh giác là vốn tự-sanh khởi, vốn tự-hiện diện, không có chu vi hay
trung tâm. Hãy yên nghỉ trong
quang minh tự nhiên, tự
sanh khởi, không có căn cứ, nền tảng nào. An nghỉ như vậy, và con
thoát khỏi những sanh sôi của tâm, đó chính là sự
thức tỉnh tâm linh.” Như vậy, Dorje Dušdjom
được giải thoát và
đạt được siddhi.
Lời chỉ dạy của ngài cho Pal Yeshe Yang : “Yeshe Yang, hãy nghe ! Trong
tâm không có
nhị nguyên chủ thể-đối tượng, thế nên nó không có sự sinh sôi hay chuyển động, không có hành động hay
nỗ lực. Hãy yên nghỉ trong
trạng thái không
biến chất, không có
hy vọng hay lo sợ, không phân tán hay thu rút. Không
xao lãng khỏi
thực tại này là
Phật quả.” Như vậy, Yeshe Yang
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho Sogpo Lha Palgyi Yeshe : “Lha Palgyi Yeshe, hãy nghe !
Bồ đề tâm (
tâm giác ngộ) thì không có
hoạt động, thế nên, không
tìm kiếm nó, nó tự-sanh khởi. Nó không có
nỗ lực hay
thành tựu, thế nên hãy an nghỉ trong
trạng thái không
biến chất của
quang minh tự nhiên. Trong
trạng thái đó dòng sanh sôi và chuyển động sẽ dừng dứt. Ngay lúc đo, hãy biết rằng con là Phật.” Như vậy, Palgyi Yeshe
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho Yeshe Dey : “Yeshe Dey, hãy nghe ! Tâm đây không có phủ định hay xác định, không có
tác nhân hay hành động, không có chủ thể hay đối tượng, không có chỉnh trị hay
cố gắng. Hãy an nghỉ
không chấp nhận hay
bác bỏ. Nếu con an trụ trong
trạng thái này mà không
xao lãng, đó chính là
bản thân sự
thức tỉnh tâm linh.” Như vậy, Yeshe Dey
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho Kharchen Palgyi Wangchuk : “Palgyi Wangchuk, hãy nghe ! Tâm vốn không có
tự tánh, không có cái gì để
thiền định cả. Đối với
trí năng, nó là không có nền tảng và không
biến chất. Hãy để nó tự-sanh khởi và tự-phô diễn. Ở trong
trạng thái đó, con
thành Phật mà không từ chối
vòng sanh tử.” Như vậy, Palgyi Wangchuk
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho Dram Gyalwey Lodroš : “Tâm này là không thể
quan niệm và không thể đối
tượng hóa, vượt khỏi có và không, thường và đoạn. Hãy để nó là mà không có người
thiền định hay đối tượng để
thiền định.
Nếu không có sự
dao động hay lìa khỏi
trạng thái này, đó gọi là
Pháp thân.” Như vậy, vị này
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho OŠ Palgyl Chungwa : “Tâm không có
hiểu biết hay người
hiểu biết, không có sự nắm hiểu hay người nắm hiểu. Hãy an nghỉ trong một
trạng thái trong sáng không có
tự tánh. Nơi đây, nếu thức
vô niệm không
biến đổi, đó gọi là Phật.” Như vậy, vị này
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho Drenpa Namkha : “Tâm này
xuất hiện nhưng không có
tự tánh ; nó
trong sáng, nhưng không có sự
ý niệm hóa ; nó không thể nắm bắt bằng tạo
tác ý niệm và không thể
diễn tả. Hãy để sự
chứng ngộ qua
kinh nghiệm của con
tự do khỏi những chuyển động của tâm. Ở trong
thực tại này, dù thân con là thân người, tâm con được gọi là Phật.” Như vậy, Drenpa Namkha
thành tựu siddhi.
Lời chỉ dạy của ngài cho OŠdren Palgyi Wangchuk : “Bồ đề tâm
xuất hiện nhưng trống không ; nó là ánh sáng trống không và
thanh tịnh ; và nó không có gì để sửa sang hay trau dồi. Hãy an nghỉ trong
trạng thái của
trí huệ bổn nguyên vĩ đại tự-sanh khởi. Chớ lìa khỏi cái gọi là
Bồ đề tâm này.” Như thế, vị này
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài dành cho Ma Rinchen Chok : “Tâm
hoàn toàn không có
bản chất cốt lõi nào cả. Không có một cái gì để ổn định cũng không có cái gì để
thiền định. Nó thì không
biến chất, tự-sanh khởi và tươi mới trẻ trung. Hãy an nghỉ trong
trạng thái của cái
hiện tiền bổn nhiên
tự tại này ; đó là
thiền định một cách
sáng tỏ. Trong
trạng thái đó tâm
thoát khỏi chuyển động, và không có quả nào khác ngoài cái đó.” Như vậy, vị này
thành tựu siddhi.
Lời chỉ dạy của ngài cho Nup Sangye Yeshe : “Bồ đề tâm
xuất hiện nhưng trống không. Hãy an nghỉ trong
trạng thái hình tướng xuất hiện và
tánh không là không thể
phân chia, trong
trạng thái tánh giác và
tánh không không thể
phân chia. Không
dao động, hãy an nghỉ trong
trạng thái không
lời nói,
ngữ ngôn. Ở trong
trạng thái đó gọi là
Pháp thân.” Như vậy, Sangye Yeshe
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho Langdro Košnchok Jungney : “Tự tâm là không
bản chất và vốn tinh khôi. Nó là trống không mọi
bản chất nội tại và không
biến chất. Hãy an nghỉ trong
trạng thái không có một đối tượng của
thiền định nào hay một người
thiền định nào. Từ cái độc nhất ấy, kết quả của sự
thức tỉnh tâm linh được
thành tựu.” Như vậy, vị ấy
được giải thoát.
Lời chỉ dạy của ngài cho Lasun Gyalwa Jangchup : “Tự tâm là
bất sanh và
bất diệt,
thoát khỏi bản chất và
hình tướng. Trống không, không có
tự tánh, nó là
trong sáng và không dứt.
Nếu không có lay động dạt khỏi
thực tại của duy chỉ cái ấy, đó gọi là “thức tỉnh tâm linh”. Đó là sự
chứng ngộ Pháp thân.” Như vậy, Gyalwa Jangchup
được giải thoát.
Những Giai Đoạn của
Con Đường Mật Chú của Orgyen Rinpoche nói rằng :
Có ba
phương diện cốt yếu của việc
an định tâm : (1) Không
dao động như thường lệ ; (2) không bị phân tán bởi
ý niệm hóa ; (3) nhưng không có tạo tác, chỉnh trị nào, chỉ bình thản để cho thức trong
trạng thái của chính nó. Do làm như vậy,
thiền định sẽ tự đến. Nếu có
dao động và phân tán,
trạng thái thiền định sẽ không
sanh khởi.
Thứ hai, đây là
bản tánh của
trạng thái thiền định hiện khởi : do để nó như vậy trong
trạng thái của chính nó, mọi khởi tưởng thô và tế ngủ ngay tại chỗ. Một khi tâm đã bình lặng, tâm sẽ ở một cách
sáng suốt trong
trạng thái của chính nó. Đó gọi là “định tĩnh”. Với sự không ngừng của sự
rực rỡ của cái đó, một
quang minh sáng tỏ, trực tiếp, không đối tượng và
tự nhiên sẽ hiện đến. Đó gọi là “quán chiếu”. Cả hai cái này, định và quán, cũng an trụ
kiên cố trong
bản tánh của một khoảnh khắc đơn nhất, không thể
phân chia của thức.
Bản thân cái ấy gọi là “định và quán”. Nếu người ta an trụ trên một đối tượng, đó là
kinh nghiệm thiền định. Nếu người ta an trụ không có đối tượng, đó là thấu hiểu. Nếu người ta
hiện diện kiên cố trong
bản tánh của thức ấy, đó là
chứng ngộ. Cái ấy được gọi là sự
chứng ngộ của chư Phật
ba đời. Cái ấy không được tạo ra bằng những
giáo huấn thực hành của một vị thầy, cũng không khởi sanh từ một
đại trí huệ của
đệ tử. Nó được gọi là
đạt đến bản tánh của mình hay
tính chất của tánh giác.
Bốn Âm của Đại Ấn nói :
Hãy an thân trong tư thế Vairocana, với bảy
đặc điểm. Như một kim xí điểu vĩ đại bay vút trong bầu trời, hãy an nghỉ trong
trạng thái bổn nguyên, không
biến chất, không có
nỗ lực hay
hoàn thành. Như một
đại dương tự do khỏi các sóng, hãy an nghỉ mà không có
tư tưởng hay chuyển động. Như
mặt trời tự do khỏi những
đám mây, hãy an nghỉ với một sự
rực rỡ chiếu khắp. Hãy an nghỉ trong
hiểu biết rằng mọi cảm nhận, giống như những gợn sóng trong nước, chỉ là tâm. Như một em bé nhìn chăm chú vào một
bàn thờ, hãy an nghỉ với sự
trong sáng không dứt và không nắm bắt. Như một con chim bay qua bầu trời, hãy an nghỉ không để lại dấu vết gì.
Sự Đột Ngột Đại Ấn nói :
Hãy an thân trong tư thế Vairocana bảy điểm. Với
thân tâm thư giãn bên trong, không đem đến tâm bất cứ cái gì của ba thời
quá khứ hiện tại vị lai. Bằng cách để cho tâm ở trong một
trạng thái không tạo tác, tâm trước đã qua, tâm tương lai chưa
sanh khởi ; và cái thức
thuần túy của
hiện tại tồn tại như không gian,
trong sáng, trống không và
thoát khỏi tạo tác.
Bản thân cái đó gọi là “thức không mê lầm”, “tịnh quang của tự tâm”, “lạc bổn nhiên”, và “đại lạc của Pháp thân”.
Lập tức an nghỉ trong
trạng thái chỉ
nhận biết cái đó, không sửa tạo,
thoát khỏi nỗ lực hay
hoàn thành.
An nghỉ trong sự
quan sát thức
mê lầm bao gồm quan sát một cách
kiên cố với đôi mắt của
trí huệ bất kỳ loại niệm tưởng tốt, xấu và
trung tính nào
sanh khởi. Sau cùng sự khởi niệm đã được
quan sát trở nên bình lặng,
tâm không phải không
hiện hữu, mà hơn nữa,
bản tánh trống không,
trong sáng,
trong trẻo,
tinh khiết và
sống động của tâm là sự
bất nhị của
không gian tuyệt đối và
trí huệ bổn nguyên. Bất cứ
bản tánh cốt lõi nào được thấy, là tâm được thấy. Người ta thấy rằng từ
vô thủy, nó không tụ không tán ; nó ở khắp tất cả
hiện tượng ; nó siêu vượt khỏi những trường
kinh nghiệm của
sáu giác quan ; và
rốt ráo nó không trụ trong màu sắc, hình dạng...
Sự thống nhất
bất nhị của
mê lầm và không
mê lầm : Do
quan sát một cách
vững chắc với con mắt
trí huệ bất kỳ
tư tưởng nào
sanh khởi, không có cái gì được
nhận biết cả. Khởi niệm tự tan và trống không. Hơn nữa, sự tự tan vốn trống không này khởi từ
trạng thái trống không của
tự tâm ; nó trụ trong
trạng thái trống không của
tự tâm ; và nó an lặng trong
trạng thái trống không của
tự tâm. Lìa ngoài
trạng thái trống không của
tự tâm, không có
tư tưởng xấu nào để bỏ. Như
đại dương và những làn sóng của nó, không có
phân biệt giữa thức
mê lầm và thức không
mê lầm. Như thế, bất cứ khởi niệm nào
sanh khởi hãy
tức thời và
kiên cố quan sát nó, và không
dao động, hãy đột ngột ở trong
trạng thái đó.
Giáo Huấn Viên
Ngọc Như Ý về Tâm nói :
Không
dao động và không
thiền định. Hãy
giải phóng tham cầu và an nghỉ.
“Không dao động” là không
đi vào những
xao lãng về
quá khứ,
hiện tại hay tương lai. “Không thiền định” là không
đi vào bất cứ đối tượng nào của sự
nhận biết. “Tham cầu” nghĩa là tiến hành bằng cách
lìa bỏ mọi
nỗ lực tâm ý. Từ
trạng thái không
dao động và không
thiền định, những
tư tưởng thình lình khởi lên ; bấy giờ, không theo chúng, hãy
áp dụng chánh niệm không
dao động vào bất cứ
tư tưởng nào
sanh khởi.
Gyalsey Thogmé nói :
Nếu bạn
quan sát bản tánh của sáng chói trong
trạng thái vô niệm của tâm, bạn ở trong
tánh không hoàn toàn, nó không đặt nền trên bất cứ cái gì. Đó gọi là thức
trong sáng trống không, không có bám nắm. Từ
ban đầu nó bị che chướng bởi khởi tưởng
nhị nguyên về có và không đối với mọi
hiện tượng, thế nên nó không được
nhận biết. Bạn đang thấy
bản tánh của nó bởi
thần lực của sự
thực hành của bạn, thế nên hãy
quán sát bản tánh trống không này của tâm trong khi
cẩn thận loại bỏ bất kỳ những gán ghép đặt tên nào. Theo cách này, những phẩm tính
tuyệt hảo sanh khởi càng lúc càng
trọn vẹn, và đây là
con đường được dùng như
nguyên nhân cho siddhi
tối thượng. Thế nên hãy
tùy hỷ cái này và
thực hành !
Gyatošnpa Choškyi Zangpo nói :
Do
an định thân, ngữ, tâm của bạn một cách không
cố gắng và buông lỏng, giữa sự ngừng dứt của thức
quá khứ và sự
sanh khởi của thức tương lai, cái thức
quang minh,
vô niệm là nền tảng. Do ổn định cái nhìn ngắm một cách
sáng tỏ và không
dao động vào cái đó, không đối tượng
quan sát cũng không người
quan sát, nếu bạn
kinh nghiệm tánh Không trong sáng,
thoát khỏi tạo
tác ý niệm và vắng bặt mọi
nhận thức, đó là sự
nhận diện (tánh giác).
Nếu không thấy, thì không có sự
nhận diện. Bằng cách an nghỉ như vậy, nếu những
tư tưởng nhị nguyên thình lình khởi lên, đó là
vòng sanh tử ; và
toàn bộ thế giới hiện tượng không gì khác hơn là những
xuất hiện của khởi tưởng. Nếu khởi tưởng được tịnh hóa,
niết bàn không phải
tìm kiếm ở đâu khác ; vì tịnh quang của tâm bạn là Phật. Do
quan sát bất cứ
tư tưởng nào
sanh khởi,
tánh Không trong sáng không một dấu vết trở nên
rõ ràng, và đó là
niết bàn.
Toàn bộ niết bàn không gì khác hơn là sự
sanh khởi của tưởng và niệm như là
trí huệ bổn nguyên.
Cái gì là sự
thực hành ? Khởi tưởng được gán ghép bởi trí óc. Sự không sanh trước đó, sự khởi sanh ở khoảng giữa, và sự mở thoát
cuối cùng của nó, cả ba đều không có
tự tánh. Ngay nơi việc để cho nó trong
trạng thái của chính nó mà không sửa tạo, nếu nó
tồn tại, hãy
quan sát bản tánh của sự
tồn tại của nó. Nếu nó
tiêu tan, không có gì để làm ngoài việc hãy
quan sát bản tánh của sự
tiêu tan của nó.
Quang minh khi
đơn giản không
dao động khỏi
trạng thái của lạc và
quang minh căn bản, cả hai là
cốt lõi của sự
thực hành. Bằng cách ở yên trong
trạng thái này, những phẩm tính
tuyệt hảo sẽ
dần dần sanh khởi, thế nên nó
cần phải được
duy trì, dù có những
hoàn cảnh lỡ lầm hay không.
Bạn phải
thực hành bằng cách
giải phóng, mở thoát tâm,
không vui hay
thất vọng về những
kinh nghiệm tốt xấu. Nói chung, sự việc không có
mong mỏi thiền định sẽ tụ hội những điều
tốt đẹp ; hơn nữa, tâm phải được
duy trì và hòa lẫn với bất
cứ sự gì xảy ra. Dù vui hay buồn, đau yếu hay
chướng ngại xảy ra, hãy
kiên cố quan sát chúng. Hãy dựng thẳng sự
cảnh giác lên và canh chừng. Dù bạn có sẵn sàng hay không, hãy
thường trực canh chừng, và sau một lúc tâm sẽ trở nên bình thản. Với điều đó như một chỉ báo, hãy hòa lẫn với bất kỳ
tư tưởng không
kiểm soát được nào xảy ra, và sẽ có
tiến bộ.
Tantra Tổng Hợp
Tinh Túy của
Đại Bi nói :
Hãy
chuyển hóa những ký ức và những
tư tưởng tự-giải phóng
thành tâm giác ngộ.
Bất cứ
tư tưởng nào bạn nhớ về
quá khứ,
hiện tại và tương lai, đối tượng được nhớ đến và người nhớ đều tự-xuất hiện, và
chánh niệm vẫn
duy trì. Chúng trống không và được
giải phóng khi chúng thật là
vô tự tánh. Đó là tâm của
Như Lai, và sự nhớ tưởng trống không này về những
hiện tượng là sự
chuyển hóa thành
con đường của
tâm giác ngộ. Đến đây
kết thúc giáo lý nhận diện tâm qua
văn xuôi