CHƯƠNG II
NHỮNG ĐIỀU SƠ KHỞI
Thứ bảy 1/12/1984
Sau khi nghỉ ngơi
cho phép chúng ta lắng dịu
tâm thức,
chúng ta sắp
tiếp tục học hỏi và
thiền định.
Như
chúng ta đã thấy hôm qua,
thái độ là
chính yếu.
Thời gian là đáng quý, những
năng lực là rất đáng quý. Nguyện rằng
thời gian và những
năng lực chúng ta tiêu dùng cho lúc này khi đang ở cùng nhau sẽ làm
lợi lạc cho sự
tiến bộ của
chúng ta cũng như cho tất cả
chúng sanh !
Chúng ta bắt đầu ngày hôm nay của
chúng ta bằng
lời nguyện ấy.
Theo lời dạy của
đức Phật, và
đặc biệt những lời dạy có nguồn gốc từ
triết học và
siêu hình học, thì tất cả
chúng ta đều có
bản chất giác ngộ. Trong tiếng San-skrit điều ấy gọi là tathagata garbha (
Như Lai tạng),
bản tánh giác ngộ. Tathagata là
đi vào con đường toàn thiện và garbha là
tinh túy,
bản tính.
Chúng ta tất cả đều có nơi mình
trạng thái toàn thiện,
trạng thái của ánh sáng
tự tâm.
Tuy nhiên, các hành động sai khác của
chúng ta – điều mà
chúng ta gọi là nghiệp – đều có những
hậu quả của chúng. Các
hậu quả sai khác này –
đặc biệt là các tình thức và hành động
tiêu cực của
quá khứ – che mờ cái
tri giác của
chúng ta về
trạng thái thanh tịnh vốn sẵn của
tâm thức.
Theo
siêu hình học,
chúng ta xếp các tình thức
tiêu cực thành ba, năm hay sáu
phạm trù lớn.
1) Sự thù hận hay hung bạo, sự
giận dữ (sân).
2) Sự bám níu
ích kỷ (tham).
3)
Vô minh (si).
Từ ba tình thức
tiêu cực ấy :
4) Khi
chúng ta tự cho rằng mình hơn người khác, bèn nảy sinh
kiêu mạn, bởi vì
chúng ta bị bám dính vào
danh dự,
tri thức và
địa vị xã hội.
5) Và khi, trong một môi trường
cạnh tranh ráo riết,
chúng ta không thể tự
duy trì ngang mức với các người khác,
chúng ta thấy mình bị lôi kéo vào tiến trình của
đố kỵ, tỵ hiềm.
6) Ngay cả khi
chúng ta có nhiều hơn người khác,
chúng ta không thể
chia xẻ với họ vì sự bám níu
ích kỷ, vì
vô minh hay
kiêu mạn, đó là tình cảm
keo kiệt,
bủn xỉn.
Thật vậy, có ba tình thức
tiêu cực chánh, ba cái kia là những nhánh phát sanh, nhưng người ta có thể nói đến ba, năm hay sáu mối tình thức làm
rối loạn.
Biết rằng mỗi hành động sản sanh ra phản lực riêng của nó,
hậu quả của những tình thức
tiêu cực là sự gây tạo những
hiện tượng hay
kinh nghiệm khác nhau, những
ảo tưởng khác nhau,
tùy theo sức mạnh của tình thức
chúng ta.
Mọi sinh vật đều có một nghiệp tổng quát chung, nhưng
đồng thời chúng cũng có một nghiệp riêng với những
nhận thức cá nhân. Lấy một ví dụ rất
đơn giản, là
đại dương : một số trong
chúng ta, dầu họ không có khả năng đến bờ biển, chỉ
cảm thấy hơi gió biển, chỉ thấy một con chim biển
trên trời, sẽ
cảm thấy nảy sinh một tình cảm hưng phấn ; vài người
cảm thấy một sự
lo âu thực sự khi chỉ nhìn những đợt sóng mà không hề nghĩ đến chuyện phóng mình vào nước. Thế nên cùng một đối tượng được cảm nhận mà các
cảm xúc thì rất khác biệt.
Tại sao ? Vì kết quả của những hành động khác nhau trong
quá khứ quy định kinh nghiệm chúng ta trong
hiện tại.
Như
chúng ta đã nói,
chúng ta có một
nghiệp chung cho tất cả :
mọi người đều
đồng ý khi trông thấy
đại dương rằng đó là nước.
Tuy nhiên mỗi
chúng sanh cảm nhận nước theo các cảm nhận khác nhau. Điều này
áp dụng cho tất cả mọi thứ. Một số người say sưa khi nghĩ đến chuyện đi về đồng quê ; người khác lại
hoan hỷ nghĩ đến chuyện sống trong một thành phố lớn – thế là vì họ bị qui định bởi các
kinh nghiệm quá khứ.
Về ba tình thức
tiêu cực chính (sân, tham, si), đó là ba mối
xúc động khác nhau rất
rõ ràng. Nếu
chúng ta đi vào chi tiết bằng cách
dựa vào triết học, có 21.000 xúc cảm
tiêu cực đặc biệt liên quan đến tham ; 21.000 xúc cảm
tiêu cực đặc biệt liên quan đến sân hận, và 21.000 xúc cảm
tiêu cực đặc biệt liên quan đến vô minh. Lại có 21.000 thứ mà sự
liên quan không thật rõ ràng. Vậy là có tất cả 84.000 xúc cảm
tiêu cực về mặt
tâm lý.
Để
vượt qua chúng, Phật
Thích Ca đã cho những chỉ dạy về ba
chủ đề quan trọng.
Đối trị với tham, ngài đã
ban cho giới luật, gồm 21.000 thứ. Để
chế phục sân, ngài đã
ban cho kinh và đối với những tình thức
vi tế liên quan đến vô minh, ngài đã cho luận. Để có thể
điều phục 21.000 xúc cảm
tiêu cực mà sự
liên quan không
rõ ràng, ngài đã
ban cho 21.000 sự chỉ dạy khác biệt. Như thế, để
trị liệu 84.000
phiền não tiêu cực, có 84.000 chỉ dạy ở những cấp độ khác nhau.
Mặc dầu chúng ta có thể
đi vào chi tiết hơn, về
bản chất,
chúng ta có thể xếp
con người theo ba cấp độ : người có khả năng
tâm thức rất phát triển, người có khả năng
tâm thức trung bình và người có khả năng
tâm thức kém.
– Đối với những ai không có hùng lực để
giải thoát cho người khác và chỉ
tìm kiếm sự giải thoát khỏi các
phiền não riêng cho mình,
Đức Phật dạy
giáo pháp Tiểu thừa.
– Với người
tìm kiếm sự giải thoát không chỉ cho riêng mình mà còn vì lòng thương tưởng người khác, giống như một người mẹ không nghĩ đến
hạnh phúc cá nhân mà nghĩ đến
hạnh phúc của các người khác, có
giáo pháp Đại thừa. Thừa trong nghĩa này có nghĩa sự
thực hành tu học hay cỗ xe.
– Với người có một khả năng
tâm thức rất rộng lớn, muốn
sự giải thoát cho tất cả một cách rất nhanh chóng, có
giáo pháp Kim Cương thừa.
Ba thừa gồm tinh yếu của 84.000 sự chỉ dạy của
đức Phật.
Kim Cương thừa gồm các
giáo pháp được biết dưới tên là tantra. Vài người trong số
chúng ta có thể đã
quen biết với danh từ rất
thường dùng ở
Ấn Độ này. Ở đây tan là một dòng ; tra là cái
giải thoát. Dòng gì ? Dòng nước ư ? Không.
Dòng tâm thức. Cái
giải thoát dòng các tình thức
tiêu cực của
chúng ta một cách rất nhanh chóng.
Tóm tắt có ba tantra ngoại và ba tantra nội, theo các mức độ khả năng
tâm thức khác nhau.
Các tantra ngoại lại được xếp thành ba hay bốn
phạm trù, các tantra nội thì thành ba.
Các
giáo huấn được nhập vào Xứ Tuyết bởi các nhà
đại hiền triết : Padmasambhava, Shantarakshita, Vimalamitra và các vị khác. Các vị được mời đến vào những
thời kỳ khác nhau do các vua
Tây Tạng. Các bản dịch những chỉ dạy này thay đổi đôi chút,
chuyển biến theo
thời kỳ chúng được dịch ra, nhưng tất cả
liên hệ chặt chẽ đến lời chỉ dạy của
đức Phật, từ ngài mà các bản văn ấy có ra. Không có sự sai khác nào.
Các Tantra ngoại gồm :
– Kriya tantra.
– Uppa tantra.
– Yoga tantra.
Các Tantra nội gồm :
– Maha Yoga tantra.
– Anu Yoga tantra.
– Ati Yoga tantra.
Như thế, có nhiều mức độ chỉ dạy khác nhau.
Ở đây,
chúng ta sắp làm việc ở phần
liên quan đặc biệt đến các
giáo huấn về Bardo. Vị
đại đạo sư Padma-sambhava đã tập hợp tất cả các
giáo huấn dưới một
hình thức rất giản dị, căn cứ trên
toàn bộ các
giáo huấn của đấng
Toàn Giác,
đức Phật Thích Ca Mâu Ni, để cho
chúng sanh có thể
sử dụng một cách
thực tiễn. Ngài đã tập hợp tất cả chúng trong sáu mức độ của Bardo.
Padmasambhava có khả năng biết tương lai cũng như
quá khứ.
Chúng ta có những tiên đoán mà ngài đã viết ra vào thời ngài đến
Tây Tạng, thế kỷ thứ VII,
diễn tả cái sẽ xảy ra
cho đến thời đại chúng ta và sau nữa.
Ý thức về sự suy thoái tương lai khả năng
tâm thức của
con người để có thể
giữ gìn các
giáo huấn này, ngài đã ghi lại chúng dưới dạng “các kho tàng” (terma), để chúng có thể được lại
khám phá vào lúc
thích hợp bởi các người “khám phá kho tàng” gọi là các Terton, nghĩa là các
hậu thân của các
đệ tử của ngài đã từng nhận các
giáo huấn ấy vào
thời xưa kia.
Vậy thì,
giáo huấn mà
chúng ta sắp học đây đã được
khám phá bởi một
đại sư, ngài Karma Lingpa, ngài vào thế kỷ thứ XII,
thình lình có thể phát giác tất cả sự chỉ dạy mà ngài đã nhận được từ Padmasambhava vào thế kỷ thứ VII.
Nhiều đoạn của
giáo huấn nguyên bản này đã được dịch ra trong nhiều thứ tiếng, Anh văn,
Pháp văn. Khi thử
so sánh chúng với nguyên bản
Tây Tạng,
chúng ta nhận thấy rằng vẫn còn vài sự hiểu sai và không
chính xác,
tuy nhiên các bản dịch đã chuyên chở được các
ý niệm tổng quát.
Chúng ta sắp đưa ra ở đây
giáo huấn theo cách mà các bạn có thể
đối chiếu với các bản dịch đã có sẵn, mà người ta thường gọi là “Sách
Tây Tạng về Người Chết”, đó là theo cách đặt tên của một phần bộ Karling Shitro, một bản
văn quan trọng gồm
toàn bộ sáu Bardo.
Bây giờ, trước khi
đi vào nghiên cứu và
tu hành về sáu bardo, cái tạo
thành sự thực hành chính yếu, có một sự
thực hành sơ khởi để
tháo gỡ dòng tâm thức khỏi các dơ nhiểm, các ngăn che
ám chướng mà
chúng ta phải
thực hành để
chế ngự chúng. Như thế có hai phần chính :
THựC HÀNH SƠ KHởI :
1) Để sửa soạn cho công việc
tu hành,
chúng ta quy y và trau dồi một
tâm Thức tỉnh (
Bồ đề tâm) vốn có sẵn nơi ta. Phát sanh tâm ấy là
phương tiện đầu tiên để tháo mở những che ám.
Khi
chúng ta nói đến “quy y”, ở mức độ
tương đối, điều đó có nghĩa là một chỗ nương dựa ở bên ngoài
chúng ta, nhưng ở mức độ
tuyệt đối, chỗ nương dựa chính là niềm
tự do nội tại. Ví dụ khi người ta ở cạnh biển hay sông lớn, để
thoát khỏi mối nguy bị chết đuối, người ta nương
dựa vào một người dạy
chúng ta biết bơi. Thế rồi, một khi người ta đã biết bơi, người ta
tự lập, người ta
tìm thấy sự
tự do giải thoát ngay trong mình và người ta không
dựa vào thầy dạy bơi nữa.
Cũng thế,
ban đầu chúng ta ở cấp bậc
tương đối nương
dựa vào yếu tính của các bậc
giác ngộ ;
tìm ra trạng thái giác ngộ nơi chính mình là sự nương dựa
tối hậu. Và rồi, không tự
thỏa mãn với sự nương dựa cho chính mình,
chúng ta sanh khởi trạng thái thức tỉnh, tâm
Bồ đề, cho sự
giác ngộ, cho
sự giải thoát của tất cả
chúng sanh. Đây là giai đoạn đầu tiên.
2) Để tịnh hóa các
chướng ngại ngăn che ở mức thân và tâm, có một sự
tu hành dùng sự
định tâm vào ánh sáng hoặc vào
hình tượng của các bậc
giác ngộ và sự trì tụng các
thần chú mantra khác nhau. Có nhiều thứ, nhưng
đặc biệt là
thần chú một trăm âm làm
trong sạch các
chướng ngại che mờ
dòng tâm thức.
Chúng ta có thể nghĩ “tại sao một
thần chú có một trăm âm ?” Luôn luôn có một sự tương quan giữa
trạng thái bên trong của
tâm thức hay các
năng lực với cấp độ
vật lý thể xác. Thế nên có những âm khác nhau
ảnh hưởng lên những cấp độ khác nhau – mức độ
tâm thức cũng như mức độ các
năng lực.
3) Giai đoạn thứ ba cốt ở tích trữ
năng lực và các
thiện nghiệp. Để có được điều này, có pháp dâng cúng
mạn đà la.
Chúng ta thực hành dâng cúng ở cấp độ
vật lý cũng như ở mức độ
tâm thức.
4) Giai đoạn thứ tư là
tu hành Guru Yoga. Guru Yoga là một
phương tiện để
đánh thức trạng thái ánh sáng
thanh tịnh (tịnh quang) của
tâm thức nơi
chúng ta nhờ vào sự
hộ trì ban phước của các bậc
giác ngộ trong
quá khứ. Danh từ Guru có nhiều nghĩa, nhưng ở đây Guru nghĩa là
tối thượng. Loại yoga này đưa
chúng ta vào, hợp nhất
chúng ta với vị thầy
tối thượng ở trong tâm mỗi người, với
thực tại tự tâm.
Như thế
chúng ta có bốn cấp độ, bốn giai đoạn của
thực hành sơ khởi :
1)
Chúng ta có thể tự hỏi “nhưng đâu là
mục đích của các thứ ấy ?” Như đã nói, các tình thức
tiêu cực có thể chia làm năm loại. Mỗi một thứ
tu hành trên sẽ
điều trị một trong năm loại
phiền não này. Ví dụ như sân thì dễ thấy,
trái lại kiêu mạn và
đố kỵ thì rất
vi tế, và
chúng ta không muốn
phục tòng chúng :
vậy thì trước tiên chúng ta làm việc trên chuyện đó :
quy y được đặt ra cho sự việc ấy và để đem lại cho
chúng ta lòng tin.
Chúng ta phải không mất
niềm tin,
chúng ta phải
biểu lộ một
niềm tin không lay chuyển vào ánh sáng
chân thật nơi
chúng ta, một
niềm tin vắng mặt mọi tự phụ.
Phiền não vi tế thứ hai là
đố kỵ :
vậy thì chúng ta hãy thử
thực hành tâm thức tỉnh – gồm bốn cái
vô lượng : từ, bi, hỷ, xả – để phát triển một
thái độ rất
bao la với
mọi người.
– Khi nói đến Từ,
tình thương và
lòng tốt, tiếng sanskrit là maitreya, nghĩa là mong muốn rằng mọi
chúng sanh được
hạnh phúc bởi chính
nguyên nhân là
hạnh phúc.
– Bi tiếng sanskrit là maha karuna, đó là mong muốn, từ tận
đáy lòng, rằng mọi
chúng sanh được
thoát khỏi đau khổ và
nguyên nhân của
đau khổ.
– Hỷ tiếng sanskrit là ananda, đó là
vui mừng với
hạnh phúc của người khác thay vì
ghen ghét.
–
Cuối cùng Xả tiếng sanskrit là upetcha, đó là phát triển một tâm thái
tình thương và
lòng tốt đích thực với mong muốn rằng “cầu cho tất cả
chúng sanh được giải thoát.” Mong cầu điều đó mà không một chút
phân biệt đối với bất kỳ ai, đó là tâm xả.
Về
tình thương và
lòng tốt, vài người khó
cảm thấy nó không chỉ đối với người khác
mà cả với chính mình. Thế nên những cấp bậc khác nhau trong chỉ dạy là
cần thiết.
Trước tiên, thật quan trọng để
hiểu biết trọn vẹn rằng
cuộc đời hiện tại này là quý giá, và khi
chúng ta phải đương đầu với các khó khăn thuộc về
tâm lý và thể xác, phải
cẩn trọng vận dụng
lòng tốt từ ái này.
Tiếp theo đó,
chúng ta có thể trải rộng nó ra cho người gần gũi, rồi cho tất cả, không chỉ nghĩ đến
hạnh phúc riêng mình mà còn đến sự
đau khổ của người khác.
Thông thường
chúng ta quên
tìm kiếm nguyên nhân của khổ đau và
nguyên nhân của
hạnh phúc.
Nguyên nhân của
hạnh phúc là tâm
Bồ đề. Về phần
nguyên nhân nỗi khổ của
chúng ta, về mọi
vấn đề mà
chúng ta gặp trong
cuộc đời mà
chúng ta tìm cách quy
trách nhiệm cho bạn bè,
xã hội, đoàn thể...,
nguyên nhân thực sự chính là các xúc cảm
tiêu cực, các
phiền não của
chúng ta.
Ví dụ
trong đời sống có những khổ đau đến với
chúng ta từ
óc cạnh tranh. Điều ấy làm cho
chúng ta mệt mỏi, nó
ngăn cản chúng ta không thể dàn xếp các tình huống trong đó
chúng ta đang sống.
Lòng ham muốn của
chúng ta thì
không giới hạn. Điều ấy kéo
chúng ta vào một cơn lốc của ghen tuông và
tranh đoạt. Phải kiếm cho ra sự
tự do, niềm hòa bình
nội tâm nó sẽ lôi kéo theo sự
tự do và hòa bình của người khác. Bởi thế,
tìm kiếm sự
tự do cho tất cả
mọi người khác với
bốn tâm vô lượng là một
đối trị mạnh mẽ với
lòng ghen ghét.
2)
Mục đích của sự
định tâm vào một
thực thể giác ngộ như Vajrasattva và trì tụng một
thần chú như
thần chú một trăm âm là để
điều trị sân giận. Sự
thực hành giải tỏa các
căng thẳng dẫn đến
giận dữ,
hận thù, do từ những hành động
quá khứ. Khi
chúng ta nóng nảy, tức giận mà không
biểu lộ ra được, nếu điều này lập lại nhiều lần sẽ gây ra những
phong tỏa kết đọng mà
thần chú một trăm âm sẽ giải tan. Sự
thực hành Vajrasattva này dùng
âm thanh để giải tỏa,
tháo gỡ cho những
năng lực bị kết bế ở cấp độ
vi tế ; nó dùng ánh sáng để phát triển
năng lực ở cấp độ
tâm thức và
sự quán tưởng Phật trong
hình tướng của Vajrasattva để giải tỏa các
năng lực ở cấp
độ thân xác
vật lý.
3) Sự
tu hành tiếp theo tác động đối với
tham ái,
chấp thủ. Dâng cúng
Mạn Đà La một cách
tinh thần là một dâng cúng
tượng trưng biểu lộ trong
hình thức tượng trưng toàn bộ vũ trụ, và nó chỉ cho
chúng ta thấy sự tương đồng giữa
vũ trụ vật lý bên ngoài và
vũ trụ bên trong và
vi tế của
chúng ta. Để làm điều này
chúng ta dâng cúng nhiều loại hạt, cây thuốc và đá quý. Điều đó
cho phép chúng ta thải bỏ tất cả những gì gây ra bệnh tật, nạn đói, chiến tranh ở trong
thế giới bên ngoài. Nếu
tìm hiểu sâu hơn, cây thuốc được dùng để
dập tắt mọi thứ bệnh tật gây ra bởi
vô minh ; đá quý để
giải thoát thế giới khỏi các cuộc chiến tranh đều
do bởi tính hung hãn,
bạo động, và các hạt để giải tỏa những nạn đói
do bởi lòng
ích kỷ.
Sự
thực hành mạn đà la là
đặc biệt dùng để phát triển một sự khai mở lớn rộng, một sự hào phóng lớn lao, để
giải thoát chúng ta một cách
tự nhiên khỏi tham chấp
ích kỷ, luôn luôn tự quy vào chính mình.
Đây là một
học hỏi cùng cực
sâu xa và
hiệu quả, nó thực sự mở
tâm thức chúng ta. Người ta kể
câu chuyện một con ếch sống trong một cái giếng và một con ếch sống bên bờ biển. Con ếch sống dưới đáy giếng tin rằng tất cả
vũ trụ là cái giếng này và một ngày nọ nó gặp con ếch sống bên bờ biển,
ban đầu nó không tin điều con ếch kia kể cho nghe. Sau đó, khi đã thấy biển cả, nó
hoàn toàn bị
đảo lộn.
Cũng thế, khi
tu học về
mạn đà la,
chúng ta mở ra với
thế giới bên ngoài, với các dãy ngân hà
tương ứng với những mức độ bên trong và
vi tế của
chúng ta, điều ấy thay đổi
hoàn toàn mối tương quan của
chúng ta, điều ấy
giải thoát chúng ta khỏi những
giới hạn và mở
tâm thức của
chúng ta. Nó cũng giống như
nghiên cứu về
thiên văn học, nhưng
tu học về
mạn đà la thì rất mực quý giá và
ích lợi.
4) Sự
tu hành Guru Yoga
tác động đối với
vô minh, dẫn
chúng ta vào
bản chất trí huệ của tâm
Bồ đề bên trong
chúng ta.
Tất cả các giai đoạn chuẩn bị này cho sự
tu học chính yếu đều có
mục đích trị liệu với các
phiền não khác nhau, như là những
đối trị.
Trước khi
đi vào sự
tu hành chính yếu,
chúng ta hãy ngưng vài phút.
Để
áp dụng điều
chúng ta đã đề cập một cách ngắn gọn và để điêu luyện
dòng tâm thức của
chúng ta, có bốn giai đoạn của
thiền định. Thứ tự của chúng có thể thay đổi. Ở đây, hợp theo
chủ đề chính,
chúng ta bắt đầu với :
1)
Bản chất đau khổ của các cõi trong
sanh tử luân hồi. Các
thế giới trong
vũ trụ thì
vô số.
Tuy thế, như
chúng ta đã thấy,
chúng ta có thể xếp các
phiền não thành sáu loại, và vì có sáu loại
phiền não này nên cũng có sáu cách khác nhau để
nhận thức vũ trụ, sáu hình thái khác nhau của
vọng tưởng chúng tạo ra sáu cõi sống : người ta nói đến
ba cõi trên và
ba cõi dưới.
Ba cõi dưới là
địa ngục,
ngạ quỷ và
súc sanh.
Ba cõi trên là
chư thiên, atula (bán thiên) và
con người.
Trong những cõi sống khác nhau này,
chúng sanh có những thấy biết sai khác do các hành động
quá khứ, bởi vì mọi
nguyên nhân đều mang mầm mống một
hậu quả, mọi hành động đều dẫn đến một phản hồi.
Vậy thì có các phản hồi khác nhau, những thấy biết khác nhau trong các cõi ấy, chúng
tùy thuộc vào
phiền não ngự trị nơi cõi ấy : Luôn luôn có điều không
ưng ý hay khó khăn phải
đối phó. Ví dụ trong
địa ngục, có những
đau khổ khó
hình dung và
thường trực,
đặc biệt là do lạnh hay nóng ; trong
cõi ngạ quỹ chúng sanh chịu đựng đói khát ; trong
thế giới thú vật, có sự
sợ hãi lo âu, bị
ăn thịt hay
bị bắt làm
nô lệ. Trong cõi thiên và
a tu la, sự
đau khổ ít hơn, nhưng cũng có những
đau khổ rõ ràng : với
chư thiên là khi lúc chết và với
a tu la là
đau khổ vì
cạnh tranh và chiến đấu không ngừng nghỉ.
Trong
cõi người,
chúng ta cũng có nhiều loại khổ đau. Người ta có thể
đặc biệt kể đến sanh, già, bệnh, chết. Cũng có những thứ khác : khi
thiếu thốn điều gì,
chúng ta khổ ; khi có những
sở hữu,
chúng ta khổ sở vì sợ bị chiếm đoạt hay khi đã mất,
chúng ta đau khổ ; khi có bạn bè, người thân,
chúng ta sợ phải lìa xa và khi sống trong chỗ không
an toàn, chúng lo sợ phải gặp
kẻ thù hay những người không thích.
Chúng ta luôn luôn phải đối mặt với những tình huống khó khăn, ít nhiều không
thích thú. Tất cả đó là kết quả của những tình thức
tiêu cực từ
quá khứ. Đó cũng là kết quả của sự thiếu
kiểm soát các
phiền não và của sự thiếu
hiểu biết về
bản tánh nội tại, về
tự do nội tại, về sự
an bình tự tâm.
Vậy thì trong tất cả những cõi ấy, chỉ có nỗi khổ
bao la.
Các bạn có thể nhủ thầm “nhưng ở đây người ta chỉ nói đến khổ đau và
thất vọng, tại sao không nói đến cái gì
dễ chịu,
an lành hơn, làm
an ủi hơn ?”
Mặc dầu hạnh phúc bao gồm tất cả các điều ấy,
chúng ta chỉ
đạt đến hạnh phúc một cách
tự nhiên nếu
chúng ta gỡ thoát được khỏi tất cả những gì
quấy rối và
đe dọa chúng ta.
Ví như chúng ta đang
vượt qua một bụi gai và
chúng ta thấy mình bị dính đầy gai, thì khi có thể rút hết gai ra,
chúng ta cảm thấy thế nào ?
Chắc chắn không khó khăn,
chúng ta cảm nghiệm một
cảm giác thoải mái.
Cũng thế, điểm thứ nhất là
ý thức được
bản chất của khổ đau ; điểm thứ hai là nhổ bật
nguyên nhân của khổ đau. Điểm thứ ba là
đạt đến sự
chấm dứt hay
giải thoát. Làm sao để
đạt đến ? Bằng cách
áp dụng “Con đường”, đó là điểm thứ tư.
Vậy thì, tinh yếu của
giáo lý là sự chỉ dạy về Bốn
chân lý cao cả, được
đức Phật đưa ra.
Bốn thánh đế này là :
–
Ý thức về sự khổ.
–
Tìm ra con đường cho phép thoát khỏi nguyên nhân của khổ.
–
Thoát khỏi nguyên nhân của khổ,
đạt đến sự
chấm dứt.
– Sự ngừng dứt nghĩa là
giải thoát khỏi khổ, nhờ vào
con đường.
2) Cái gì là
nguyên nhân của khổ ? Đó là mọi hành động
tiêu cực mà
chúng ta đã làm. Tận nguồn gốc của các hành động là các tình thức
tiêu cực khác nhau như
chúng ta đã thấy ở trước.
Tất cả mọi
kinh nghiệm này, mọi khổ đau này mà
chúng ta đang
trải qua, chỉ là kết quả của hành động
chúng ta. Thế nên, để biết
nguyên nhân của
đau khổ, để tránh các hành động xấu, để thử phát triển các hành động tốt và để có thể tự
thoát khỏi hết các khổ, điều quan trọng là
suy nghĩ về
định luật “hành động và sự phản hồi của hành động”,
định luật nhân quả, được biết dưới tên là
nghiệp báo. Điều này là điểm quan trọng thứ hai.
3)
Tiếp theo,
chúng ta có
đời người.
Đời người so sánh với các hình thái
đời sống khác thì quý giá biết bao !
Đặc biệt khi
chúng ta được hưởng cái mà
chúng ta gọi là
tự do và các
điều kiện thuận lợi, hiểu được rằng
đời sống này quý giá biết bao nhiêu là điều rất quan trọng. Chắc hẳn, có những người không có tám sự
tự do và mười
điều kiện thuận lợi, nhưng nếu
chúng ta có đủ các
tính chất ấy,
chúng ta có thể xem
cuộc đời làm người này thật sự rất, rất quý giá.
4) Trước khi đề cập đến
chủ đề chính, sự chuẩn
bị tiếp theo là
suy nghĩ về
vô thường.
Vô thường, nghĩa là thay đổi luôn luôn, trong mọi lúc, nơi
vũ trụ bên ngoài cũng như ở
vũ trụ bên trong : ở mức
độ thân xác cũng như ở mức độ tâm thái và
vân vân. Tất cả là sự
biến dịch một cách
vĩnh viễn.
Ý thức đến
định luật vô thường làm cho
chúng ta tự do, ngăn không cho
chúng ta thường trực bị
tra tấn bởi các thay đổi mọi loại.
Sự
suy nghĩ về
vô thường và sự phát triển một
cẩn trọng lớn lao trong
thực hành cho
chúng ta biết
sử dụng mỗi một giây phút quý giá, sự
suy nghĩ đến
sự kiện cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, tạo nên một trong những
yếu tố quý giá nhất trong công cuộc
tu hành của
chúng ta, tạo nên sự chuẩn bị cho
học hỏi và
thực hành chính yếu là các giai đoạn của Bardo.
Như
chúng ta thấy trong
giáo lý,
đời người đáng quý này là kết quả của những hành động tốt trong
quá khứ, nó giống như một con tàu có thể đưa
chúng ta vượt qua bờ bên kia của
đại dương đau khổ. Thật quan trọng biết
sử dụng nó bây giờ, bởi vì, do sự
vô thường của nó,
chúng ta cũng không biết
chúng ta có thể
sử dụng con tàu này bao lâu.
Giờ đây, trên nền tảng các sự chuẩn bị này,
chúng ta hãy đề cập đến
chủ đề chính mà
chúng ta đã gợi ra ngắn gọn chiều hôm qua,
chủ đề về sáu Bardo.