CHƯƠNG IV
KYÉNÉ BARDO
VÀ SAMTEN BARDO
Giờ đây,
chúng ta sắp
xem xét kyéné bardo (từ khi sanh đến
chấm dứt đời sống), bardo của
cuộc đời hiện tại. Để làm việc thật sự với mọi
kinh nghiệm chúng ta trải qua,
chúng ta phải thấu hiểu rằng mỗi một
kinh nghiệm không gì khác hơn là kết quả của
quá khứ đang phóng dọi vào
hiện tại.
Đức Phật cũng như nhiều bậc thầy vĩ
đại từ những
truyền thống khác nhau đã nói : “Để biết hành động trong
quá khứ của bạn ra sao, hãy nhìn vào tấm gương đời bạn
hiện tại ; để biết bạn sẽ là gì và điều bạn muốn thành trong các
đời sau, hãy nhìn vào tấm gương của các hành động
hiện tại của bạn” (hành động của thân, ngữ, tâm). Thế nên, để trở nên có thể
sửa đổi, để làm
trong sạch các hành động
quá khứ, để có thể sửa soạn cho tương lai, những người bạn
quý báu nhất chính là những
pháp môn thực hành tâm linh. Thế nên
chúng ta sắp nói đây về samten bardo hay bardo của
thiền định.
Về sự
tu hành tâm linh, có sự
thực hành shiné (hay samatha tiếng Sanskrit, định), nghĩa là
sự kiện an trụ để
tìm thấy tĩnh lặng, điều sẽ dẫn
chúng ta đến giai đoạn hai lhag-mthong (vipassana, quán), nghĩa là sự thấu hiểu
trạng thái siêu thường của
tâm thức.
Thiền định samatha được phân thành hai bước : sự chuẩn bị và sự
thực hành chính yếu.
– Chuẩn bị gồm ba cánh cửa mở vào
trạng thái tự nhiên, đó là ba cánh cửa của thân, ngữ, tâm. Với mỗi cái lại có ba phần đoạn :
• Ví dụ, ở mức
độ thân,
chúng ta làm những hành động
tích cực, những hành động
tiêu cực, những hành động không
tích cực cũng không
tiêu cực. Khi
chúng ta thực hành định,
chúng ta ngồi một
thời gian ngắn để chuẩn bị, trong một
trạng thái tự nhiên, không dấn thân vào một hành động thể xác
tích cực,
tiêu cực hay chẳng
tích cực chẳng
tiêu cực nào.
•
Cũng thế, ở mức độ ngữ,
chúng ta phát ra những
lời nói tích cực, những
lời nói tiêu cực, những
lời nói không
tích cực cũng không
tiêu cực. Trong định, ở yên một chốc trong
trạng thái tự nhiên, không có một lời nào.
• Ở mức độ tâm, cũng có những
tư tưởng tích cực,
tiêu cực hoặc không
tích cực không
tiêu cực.
Chúng ta cũng ở yên một chốc lát trong một
trạng thái tự nhiên,
thoát khỏi mọi
tư tưởng.
Đây là giai đoạn chuẩn bị của định.
–
Tiếp theo là
thực hành chính yếu. Trong
thiền định samadhi, cũng có hai phần đoạn : khi
thực hành định để làm lắng dịu mọi náo động và các chuyển động khác nhau của
tâm thức, đôi khi
chúng ta cần một chỗ nương dựa,
chống đỡ, cũng có khi
chúng ta không cần. Do đó, có
thiền định với điểm dựa,
hay nói khác,
thiền định với
hình tướng và
thiền định không điểm dựa,
thiền định không
hình tướng.
Thiền định với
hình tướng lại được phân làm ba loại, chúng nhằm vào :
1) Đặt một đối tượng
bình thường trước mặt, ví dụ như một quả cầu bằng
pha lê hay bằng hương trầm, và tập trung trên đối tượng này, dẫn mọi
tư tưởng phân tán về đối tượng đó.
Hay 2) Dùng một chỗ dựa cho tập trung bằng cách
quán tưởng hình tướng của một bậc
giác ngộ (
đức Phật hay một vị khác).
Hay 3) Dùng
hơi thở chúng ta như chỗ dựa cho sự tập trung.
Mỗi loại
thiền định với
hình tướng này lại gồm ba phần đoạn :
1/ Người ta có thể dùng một đối tượng
bình thường hay một cây hương, hay quán rõ một vòng tròn ánh sáng
trước mặt hay trong luân xa đỉnh đầu, hay trong luân xa quả tim.
Điều này gọi là định trên một
hình tướng bình thường.
2/ Khi
thiền định ở mức độ siêu thường, người ta
thiền định trên
hình tướng một bậc
giác ngộ. Người ta có thể chẳng hạn như
thiền định trên
sự quán tưởng
hình tướng của Vajrasattva hay của Phật
Thích Ca hay của đức
Quán Thế Âm.
Tiếp theo đó, có những loại
quán tưởng khác nhau : ánh sáng tỏa chiếu, phóng soi và quy tập về
trung tâm...
3/ Khi người ta dùng
hơi thở làm chỗ dựa, có ba
phạm trù là :
• Chỉ
đơn giản ý thức hơi thở :
nhận biết rằng
hơi thở chúng ta và
tâm thức chúng ta là một – chỉ tập trung như thế.
• Tập trung
hơi thở ở phía dưới lỗ rốn :
trước tiên thở ra rồi
thở vào và giữ
hơi thở lâu nhất có thể được trong luân xa lỗ rốn. Rồi khi
cảm thấy không thể giữ
hơi thở thêm nữa, làm
lưu chuyển năng lực trong luân xa rốn, về bên phải, về bên trái rồi ép về phía dưới và
thở ra. Điều này là
phương cách tốt nhất để
bảo trì mọi
năng lực trong luân xa rốn.
• Dùng ba âm
kim cương OM AH HUNG –
thở vào nghĩ đến OM, giữ
hơi thở nghĩ đến AH và
thở ra nghĩ đến HUNG. Đây là một trong những
phương tiện tối thượng để
chuyển hóa thân, ngữ, tâm của
chúng ta. Tất cả mọi
hình sắc, mọi
âm thanh, mọi
tư tưởng như thế được xem là những
hình tướng hoàn hảo của
trạng thái thức tỉnh tự nhiên, của tánh
thanh tịnh bổn nhiên.
Và bây giờ, trước khi
kết thúc,
chúng ta hãy làm một cuộc
thiền định ngắn.
Chúng ta chỉ ngồi trong một tư thế thật thẳng, thử
để tâm thức
lấy lại trạng thái tự nhiên và an trụ trong
trạng thái thanh tĩnh
tự nhiên này của
tâm thức.
Vậy ở đây
chúng ta không dùng
hình tướng để
thiền định. Và
tiếp theo đó,
chúng ta hồi hướng những
thành quả tích cực của
thời gian và của
năng lực mà
chúng ta đã
tiêu dùng cho những điều
chúng ta đã làm từ ban sáng,
hồi hướng cho tất cả
hữu tình, gồm cả
chúng ta, để tất cả
được giải thoát khỏi mọi
trạng thái phiền não.
(Ghi lại những lời dạy, chiều tối thứ bảy)
Trước khi
đi vào chi tiết của việc học mà
chúng ta đã tiến hành,
chúng ta suy nghĩ về điều mà
chúng ta đã thấy sáng nay,
đặc biệt về các kỹ thuật
thiền định samatha, nó
cho phép chúng ta làm an lặng các
hoạt động của các tình thức
tiêu cực của
tâm thức chúng ta. Để cho việc đó,
chúng ta hãy ở yên trong
trạng thái tự nhiên,
tự tại đối với mọi
hoạt động của thân, ngữ, tâm.
Khi
chúng ta thử trụ trong
trạng thái tự nhiên này, vài người trong
chúng ta nhận ra rằng
tâm thức họ an trụ một cách rất
đơn giản trong
trạng thái tự nhiên đồng thời tỉnh giác, nhưng vài người lại có nhiều làn sóng
tư tưởng khởi dậy về việc
chúng ta làm chiều nay, về chuyện
chúng ta đã làm hôm qua, và những
tư tưởng này ngăn họ an trụ trong
trạng thái tự nhiên tỉnh giác. Còn có vài người
cảm thấy tâm thức họ
chìm đắm trong
trạng thái đờ đẫn không có chút sáng sủa nào. Thế nên
thật hữu ích trong những
trường hợp khác nhau này
sử dụng một chỗ nương dựa cho sự
định tâm. Nếu
một mình, người ta có thể dùng bất cứ đối tượng nhỏ bé nào, chẳng hạn một cây hương hay bất cứ cái gì khác. Ở đây, vì
chúng ta làm việc thành nhóm,
chúng ta hãy thử
an định tâm thức bằng cách chú mục
vào khoảng không gian trước mặt với khoảng cách một mũi tên. Và
chúng ta hãy thử bắt đầu
thiền định trong
trạng thái tự nhiên và
tỉnh giác trong một lúc.
Khi người ta thử tập
trung tâm thức
vào khoảng không
trước mặt, không chỗ dựa cho
thiền định, người ta có thể
duy trì như thế một lúc, nhưng điều ấy khá khó khăn.
Vậy thì người ta có thể dùng một chỗ nương dựa, chẳng hạn như
các loại ánh sáng :
(
Thiền định với
điểm tựa bình thường)
Bây giờ, hãy thử
quán tưởng trước mặt chúng ta, cách điểm giữa trán một khoảng độ một mũi tên, một hạt ánh sáng, một đốm sáng màu trắng nó nở rộng ra đến cỡ một hạt đậu Hà lan và
chói sáng cùng cực. Khi các động niệm khởi lên,
chúng ta dẫn chúng về trên đối tượng của sự
định tâm này, và
chúng ta để tâm thức an nghỉ trong sự
định tâm ấy một lúc.
Chúng ta hãy thử dời sự
chú tâm,
quán tưởng trong
trung tâm trái tim (ở giữa ngực) quả cầu ánh sáng này, cỡ khoảng lóng đầu tiên của ngón cái, màu trắng, chói lọi chứa đựng một lạc phúc, một hơi nóng, nó tỏa sáng khắp mọi hướng, đến mọi điểm của
thân thể. Tất cả mọi tế bào của
thân thể đầy ắp ánh sáng này, nó làm tan biến mọi bế tắc.
Thân thể chúng ta trở thành một khối ánh sáng và
chúng ta cảm nghiệm một
cảm giác an bình và lạc phúc.
Đó là những
thiền định mà người ta có thể làm với một
điểm tựa bình thường.
(
Thiền định với
điểm tựa siêu thường)
Bây giờ
chúng ta hãy thử
thiền định, như đã biết sáng nay, về một chỗ dựa siêu thường, nghĩa là về
hình tướng một bậc
giác ngộ, và xem
hình tướng đó chứa đựng
tinh túy của tất cả các bậc
giác ngộ.
Nói cách khác, thay vì
quán tưởng một quả cầu tròn bằng ánh sáng nơi tim, bây giờ
chúng ta quán tưởng nơi khoảng không
trước mặt một quả cầu ánh sáng
rực rỡ,
trong suốt, giống như
mặt trăng tròn lên khỏi chân trời hay một trái cầu bằng
pha lê. Với người
quen thuộc với
hình tượng Vajrasattva, thì quán
hình tướng đó : trong khối cầu ánh sáng trắng này,
chúng ta thấy một
hoa sen trắng ; và trên
hoa sen trắng, một cái dĩa
mặt trăng. Ngồi trên dĩa
mặt trăng là
hình tượng của Vajra-sattva, kích cỡ một bàn tay,
trong sáng, phi
vật chất, với những
chi tiết rõ nét : mắt, mũi, miệng, bàn tay phải cầm chày
kim cương (Vajra), bàn tay trái cái chuông.
Nếu không quen với
sự quán tưởng này, người ta có thể
đơn giản tập trung vào quả cầu bằng ánh sáng
đồng thời xem quả cầu chứa đựng
bản tánh của tất cả các bậc
giác ngộ,
quá khứ,
hiện tại và
vị lai. Và
chúng ta hãy thử trộn lẫn, hòa tan
tâm thức chúng ta với quả cầu ánh sáng đó. Hãy tập trung như thế một
thời gian.
Giờ đây,
chúng ta hãy quán ánh sáng này phát ra những
tia sáng rực, chúng
thâm nhập vào tất cả các
trung tâm của
chúng ta, và tất cả
trở thành rốt ráo trong sạch và thanh tĩnh.
Tiếp theo, hãy
quán tưởng trong khoảng không
trước mặt một vòng tròn ánh sáng, lần này không phải là màu trắng mà vàng chói, như ánh sáng
mặt trời lúc bình minh.
Với người không quen
quán tưởng một
hình tướng đơn giản của
đức Phật, thì
quán tưởng quả cầu ánh sáng vàng rực này chứa đựng
tinh túy ánh sáng của tất cả những bậc
trí huệ quá khứ,
hiện tại,
vị lai.
Với người quen
quán tưởng loại này, ở
trong vòng tròn ánh sáng vàng chói,
chúng ta thấy một bông sen vàng trên đó một dĩa
mặt trời và trên đó
đức Phật trong
hình dáng đơn giản ngồi. Ngài phóng chiếu những
tia sáng vàng chói,
trong suốt, đó là ánh sáng của tất cả những bậc
trí huệ của
ba đời.
Phật phóng chiếu
vô số tia sáng thâm nhập vào mỗi lỗ chân lông của
chúng ta, làm tan biến mọi thắt gút,
giải phóng mọi
năng lực,
chuyển hóa tất cả
tham sân si thành
trí huệ, tịnh hóa mọi
trung tâm của
thân thể,
lời nói và tâm ý.
Bây giờ
chúng ta lại thay đổi đối tượng
thiền định.
Chúng ta hãy
quán tưởng một quả cầu ánh sáng trắng
tượng trưng cho
bản chất đại bi của tất cả các bậc giác ngộâ trong
ba đời. Với người đã quen, đó là Phật
Quán Thế Âm, vị Phật của tâm
đại bi, ngài được
quán tưởng với
một độ chính xác lớn trong từng
chi tiết, ngồi trên một
hoa sen và một dĩa
mặt trăng, trong tâm thái
đại bi.
Như trước,
chúng ta hãy tập trung vào ánh sáng chiếu soi từ
hình tướng của lòng
đại bi này, làm
trong sạch toàn triệt thân, ngữ, tâm
chúng ta. Ánh sáng đó tháo tung toàn triệt mọi bế tắc, kết bế của
năng lực và
chuyển hóa mọi tình thức
tiêu cực thành
tình thương.
Bây giờ
chúng ta quán thấy ánh sáng tan hòa
hoàn toàn trong
chúng ta.
Chúng ta cũng tỏa sáng như cái
chúng ta đã
quán tưởng. Mỗi lỗ chân lông phóng chiếu những tia ánh sáng ; một lòng
đại bi bao la lấp đầy
chúng ta và
chúng ta phát những
tia sáng đến khắp mọi hướng, vào trong thành phố này,
vượt qua thành phố này,
xa hơn nữa, hướng về tất cả
chúng sanh, người và phi-nhân, vượt ngoài
toàn bộ vũ trụ, làm tan dịu mọi nỗi khổ thuộc về thể xác hoặc
tinh thần của tất cả
chúng sanh, và
chuyển hóa chúng thành niềm lạc phúc, ban rải một
tình thương bao la cho đến vô cùng. Và
thân thể của mọi
chúng sanh cũng
chuyển hóa thành những
thân thể ánh sáng.
Bây giờ,
chúng ta hãy
kết thúc với một
lời nguyện mãnh liệt,
hồi hướng thời gian và
năng lực cho tới lúc này về
gia đình chúng ta và tất cả
chúng sanh được giải thoát khỏi khổ đau và
nguyên nhân của khổ,
ước mong với
toàn lực rằng
năng lực này là một nguồn
hạnh phúc cho tất cả, dẫn dắt tất cả đến sự
tự do toàn diện và
rốt ráo.
Các loại thiền định khác nhau này là một sự
tu hành nó
cho phép chúng ta thực hiện thật sự một cuộc
chuyển hóa bên trong ở mức độ
con người cá thể cũng như trong
mục đích có thể giúp đỡ người khác.
Những
thiền định về ánh sáng, về
âm thanh,
phối hợp với lòng
đại bi, là những
thiền định cực kỳ mãnh liệt. Nếu người ta đi đến chỗ thật sự phát triển chúng được, điều ấy sẽ đưa đến một sự
chuyển hóa cụ thể, ở mức
độ thân và tâm, những khó khăn trở ngại của
cá nhân và của những người khác.
Và, cũng như
hiện giờ chúng ta dễ dàng
liên lạc xuyên qua khắp
thế giới nhờ điện thoại và các
phương tiện truyền thông khác, chính là qua ánh sáng của lòng
đại bi này người ta có thể thật sự
liên lạc với tất cả
chúng sanh trong
vũ trụ, và điều ấy có thể là một sự cứu giúp lớn lao.
Chúng ta có bằng chứng về những người cao cả đã
hoàn thiện các
thực hành này để
dập tắt và làm vơi nỗi khổ của các người khác đang cần đến.
Tất cả
chúng ta đều có tiềm năng này trong chính
chúng ta.
Chúng ta chỉ cần khai triển và phát triển nó qua một sự
tu hành thích hợp.
Tất cả các giai đoạn khác nhau này của
thiền định samatha mà
chúng ta vừa thấy
bao gồm các
phương diện bên ngoài, bên trong và
bí mật. Đó là những
phương pháp cho phép chúng ta thực hành và làm bình lặng các tình thức của
chúng ta.
Sau đó, thông thường, người ta tiến hành
thiền quán vipassana, nó
cho phép chúng ta nhận ra bản tánh của
tâm thức.
Bình thường, trong một cuộc
tu hành như thế người ta
thực hành, trong ít ra là vài khóa,
nếu không phải trong nhiều ngày, những sự
định tâm mà
chúng ta vừa làm qua. Khi người ta
trải qua những giai đoạn ấy, người ta thấy rất
rõ ràng.
Ban đầu, đôi khi rất khó
quán tưởng. Vài người
cảm thấy rất yên bình lúc
ban đầu, dầu đó là những người có tính bồn chồn hay dễ tức giận ; với họ hình như rất
đơn giản. Trong khi một vài người khác
cảm thấy nhiều
quấy nhiễu hơn trước kia và có những
tư tưởng rất thô và
hỗn loạn chưa từng
nhận ra trước đó. Tất cả những điều này
đơn giản chỉ là một dấu hiệu của
tiến bộ trong
thiền định.
Ngay cả nếu người ta là một người bình thản,
an ổn thì
thiền định làm cho
chúng ta xáo động hơn, và làm nảy sanh trong ta các
tư tưởng giận dữ, thù ghét, tham chấp... phải biết đó là dấu hiệu của
tiến bộ. Tất cả các tình thức ấy đều đã
hiện hữu trong ta, nhưng chúng bị
che dấu, và
thiền định khi làm yên lặng
tâm thức đã
cho phép tất cả các thứ đó phát hiện.
Thật là
thú vị khi người ta
thực hành theo cách ấy với những khóa tu ngắn nhưng nhiều lần. Đấy là một cuộc
thao dượt ! Và người ta thấy rằng
y như khi người ta ở trên đỉnh một tảng băng. Người ta chỉ thấy tuyết và nước đá,
tuy nhiên ở dưới lớp băng này có một dòng nước ngầm bắt đầu chuyển động. Từ chỗ này, người ta không thể thấy, nhưng nếu
đi xuống thung lũng một tí, người ta sẽ gặp nhiều dòng suối nhỏ của ngọn núi, những dòng thác rất náo nhiệt chảy nhanh.
Tiếp theo, các dòng thác này
trở thành một con sông
mở rộng nơi đồng bằng,
chậm chạp vàø phẳng lặng. Thật khó mà biết nó chảy về đâu, từ đông sang tây hay từ tây sang đông. Sau này, dòng sông hòa nước với
đại dương hay hòa tan trong nước của một cái hồ rộng lớn,
hoàn toàn tĩnh lặng. Và để
kết thúc, hồ nước đó – chẳng hạn thế – sẽ khô đi và tất cả nước trước kia
ồn ào chảy xuống từ núi sẽ tan biến trong
không gian,
trước tiên trong hình dạng sương mù,
tiếp theo trong hình dạng một
đám mây, đến lượt
đám mây ấy tan biến vào bầu trời, và
cuối cùng chỉ còn là
không gian vô hạn.
Người ta dùng
hình ảnh ấy để minh họa các giai đoạn khác nhau của
tâm thức và để chỉ ra làm thế nào
tâm thức có
thể đạt đến một
trạng thái tĩnh lặng
sâu xa. Khi người ta
đạt đến trạng thái đại
thái bình này, người ta cũng
tháo gỡ được ngay cả những
hoàn cảnh khác nhau của
cuộc đời.
Ở đây, không có
thì giờ để
đi vào chi tiết, các bạn cũng đã thấy những kỹ thuật khác nhau chỉ
đơn giản để
thiết lập một nối kết với các
giáo huấn. Nhưng các
lối tu hành này nếu
áp dụng một cách không giảm sút và
liên tục thì cực kỳ
hiệu quả. Đó là những chỉ dạy mà nguồn gốc của chúng đã có từ hơn 2000 năm. Chúng không phải là những kỹ thuật được sáng chế ra bởi những người
bình thường, họ nói : “Nào, hãy thử
định tâm như thế này hoặc như thế kia !”
Hoàn toàn không phải như thế ! Nguồn gốc của các chỉ dạy này cùng cực
sâu xa. Chúng lưu xuất từ
trạng thái trí huệ của các
đức Phật, các bậc
toàn giác, và có trước cả 2000 năm so với
đức Phật Thích Ca mà người ta xem là vị Phật
lịch sử, là vị Phật thứ tư. Sự
hiểu biết về các kỹ thuật này đã có từ trước thời
đức Phật và được
truyền thừa từ thầy sang trò, từ đó đến bây giờ, trong một dòng không
gián đoạn. Thế nên
sức mạnh và
hiệu quả của các kỹ thuật ấy rất là vĩ đại.
Tất cả những gì
chúng ta được nghe sẽ giúp
chúng ta ứng xử với các tình huống khác nhau mà người ta có thể gặp
trong khoảng thời gian bắt đầu từ khi sanh và
kết thúc lúc chết, nghĩa là trong bardo của thời
hiện tại.
Rõ ràng có
vô số chi tiết mà người ta không thể thấy lúc này.