Đại Giải Thoát
Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo
BÀI GIẢNG
Bài Giảng
của Chošgyam Trungpa, Rinpoche
THÔNG ĐIỆP CỦA CUỐN SÁCH
Dường như có một
vấn đề gút mắc cơ bản khi
chúng ta đề cập tới
chủ đề “Tử thư Tây Tạng”. Nếu đưa ra
so sánh về
phương diện thần thoại và những
hiểu biết về người chết giữa
Tử thư Tây Tạng với
Tử thư Ai Cập thì
chúng ta sẽ
bỏ sót một điểm cơ bản đó là
quy luật cơ bản của sự chết và sự sanh được
tái diễn liên tục trong cuộc sống này. Do đó,
chúng ta có thể coi
bộ giáo huấn này như là “Sách
Tái sanh của người Tây Tạng”.
Bộ giáo huấn này không đặt nền tảng trên cái chết theo
nghĩa đen, nó được đặt nền trên một
quan niệm hoàn toàn khác biệt về cái chết. Nó là một “Quyển sách về Chân Không”.
Chân Không chứa đựng cả cái chết lẫn cái sanh ;
hư không tạo lập nơi để
chúng ta hít thở,
cư xử và hành động, nó là môi trường cơ bản
cung cấp nguồn
cảm hứng cho bộ sách này.
Trước khi
Phật giáo du nhập vào, nền
văn minh của đạo Bošn ở
Tây Tạng đã có sẵn những
chỉ dẫn chính xác cách ứng xử với
năng lực tinh thần do người chết để lại sau đó, hay có thể nói là các dấu hiệu, thân nhiệt thi thể khi một người chết đi. Dường như cả hai –
truyền thống của đạo Bošn và của người Ai Cập – chỉ
dựa trên loại
kinh nghiệm về cách mà các dấu hiệu của người chết
biểu lộ, thay vì đề cập tới
tâm thức (
thần thức) của người chết. Nhưng cái
tạng thức căn bản (basic principle) mà tôi đang cố
diễn đạt ngay bây giờ chính là cái
bản chất chao đảo, nghiêng ngã giữa sự
sáng suốt và
u mê hay giữa
giác ngộ và
mê lầm, cùng với các khả năng xảy ra đối với đủ loại
khám phá các
ảnh hiện ra trên đường dẫn tới sự
sáng suốt hay sự
u mê.
“Bardo” có nghĩa là khe hở ; nó không chỉ là khoảng
thời gian gián đoạn sau khi
chúng ta chết, nhưng nó cũng còn là các “kẽ hở” trong cuộc sống
bình thường này ; nên có nói cái chết xảy ra ngay
trong đời sống hàng ngày này nữa.
Kinh nghiệm về bardo là một phần của cơ sở
tâm lý căn bản của
chúng ta. Có đủ loại
kinh nghiệm bardo đang xảy ra cho
chúng ta bất cứ lúc nào, các
kinh nghiệm về sự hoang tưởng và sự
chao đảo thất thường trong cuộc sống hàng ngày như là
cảm thấy không
an toàn,
như không biết mình đã muốn cái gì,
như không biết ta đang đi tới đâu. Cho nên, tập luận này không chỉ là
thông điệp cho những ai sắp sửa chết hay đã chết rồi, nhưng cũng còn là
thông điệp cho người đã sanh ra và đang sống.
Mọi người chúng ta đều kinh qua sự chết và sự sanh một cách
liên tục, ngay trong khoảnh khắc này.
Kinh nghiệm về bardo có thể được thấy ở dạng sáu
cõi giới mà
chúng ta trải qua tức là sáu cõi của
trạng thái tâm lý của
chúng ta. Rồi thì
kinh nghiệm ấy có thể được thấy ở dạng các deities (
hóa thân của chư Phật và
Bồ tát) khác nhau ập đến
chúng ta như được
mô tả trong tập luận này. Trong
tuần lễ đầu có các thần
an tịnh (peaceful deities) trong
tuần lễ cuối đến phiên các thần xung nộ (wrathful deities) ; có năm
Như Lai và các Herukas, các gauris (
chư thiên) – đó là các
sứ giả của năm
Như Lai – tự
biến hóa hiện diện ở trong đủ loại
hình dáng ngoại diện trông rất
ghê sợ kinh hãi. Các
chi tiết mô tả ở trong
bộ giáo huấn này là những gì xảy ra rất thực, rất nhiều trong
hoàn cảnh cuộc sống hàng ngày của
chúng ta chứ không phải chỉ là những
kinh nghiệm hoàn toàn ảo tưởng hay như các
ảnh hiện được
nhận ra trong
trung ấm. Những
kinh nghiệm này có thể đích thị thấy được ở dạng cuộc sống đời thường ; đó là điều mà
chúng tôi cố tâm
nhấn mạnh.
Nói cách khác,
toàn bộ vấn đề sẽ được đặt nền tảng trên một cách nhìn khác, vào
bức tranh tâm lý của chính
chúng ta trong khuôn khổ
thiền định tu tập. Không ai sẽ
giải thoát cho ta được, mọi thứ –
toàn bộ nhân quả – sẽ để lại nguyên vẹn cho mỗi người,
y như là sự
ràng buộc đối với chính
cá nhân ta. Các minh sư,
thiện tri thức,
đạo hữu có thể giúp khởi động khả năng
giải thoát ấy nhưng về cơ bản, những người đó không có
vai trò quyết định.
Chúng ta làm sao biết được những điều kể ra trong
bộ giáo huấn này thực sự có xảy ra cho những người chết ? Đã có ai từ ngôi mộ
sống lại,
trở về kể cho ta nghe những gì họ đã kinh qua ? Lẽ ra, đối với những
ấn tượng vô cùng mạnh mẽ trong giai đoạn giữa chết và
tái sanh, một đứa trẻ con mới sanh có thể còn nhớ, nhưng rồi khi lớn lên, ký ức của một đứa bé bị thay thế bởi những điều
dạy bảo từ
cha mẹ và
xã hội, và nó tự đặt mình vào một khuôn mẫu mới, khác biệt đến nỗi các
ấn tượng sâu sắc và nguyên sơ, trở nên mờ nhạt đi ngoại trừ
thỉnh thoảng xuất hiện lướt qua bất ngờ. Rồi thì, ngay
bản thân ta rất không tin vào những ký ức đó,
chúng ta rất lo sợ mất đi cuộc sống
vật chất ổn định trong cõi đời này đến nỗi
chúng ta xóa bỏ toàn bộ hay
ít nhất cũng bỏ qua đối với bất kỳ loại
kinh nghiệm tâm linh từ ký ức như vậy. Việc nhìn vào quá trình
dựa trên khung cảnh của những gì xảy ra khi chết dường như giống với việc
nghiên cứu một
câu chuyện thần thoại ;
chúng ta phải cần
kinh nghiệm tu tập nhất định nào đấy đối với tiến trình bardo
liên tục này.
Có sự đối chọi
giằng co giữa thân và tâm và có
kinh nghiệm tiếp diễn không ngừng của cái chết và cái sanh ra. Cũng có cái
kinh nghiệm về bardo
pháp tánh, về
linh quang (hay
quang minh), về bardo
trở thành (
tái sanh), về
cha mẹ trong tương lai có thể được, về những
hoàn cảnh sanh ra.
Chúng ta cũng có thấy thần bình yên và thần xung nộ
hiện ra liên tục ngay ở
sát na này. Nếu tâm ta cởi mở và đủ
thực tế để
quán sát theo
phương cách này thì
kinh nghiệm có thật về cái chết và
trạng thái bardo sẽ không phải là
câu chuyện thần thoại thuần túy và cũng sẽ không là một cú sốc bất ngờ, bởi vì
chúng ta cũng đã kinh qua
kinh nghiệm đó rồi và
chúng ta đã trở nên
quen thuộc với
toàn bộ sự việc đó.
BARDO Ở THỜI ĐIỂM ĐỐI DIỆN CÁI CHẾT
Kinh nghiệm bardo
căn bản đầu tiên là
kinh nghiệm về sự phân vân không biết chắc có phải trên
thực tế mình đang chết – ý nói đang mất sự tiếp cận với
thế giới vật chất này – hay mình còn có thể sống
tiếp tục. Không phải trong
hình thức rời bỏ thân xác mà mình nổi lên sự phân vân này, mà đích thực, ta bị phân vân
chao đảo vì đang mất chỗ tựa, cái nền tảng của mình ; đó là khả năng có thể cất bước từ
thế giới có thực
đi vào một thế giới không thực.
Chúng ta hẳn có thể nói rằng
thế giới thực là
thế giới trong đó
chúng ta kinh nghiệm được niềm
vui thích, sự
đau khổ, điều hay điều dở. Có một
hoạt động nào đó của
trí năng, một thứ khái niệm
nhị nguyên căn bản, chính nó
cung cấp tiêu chuẩn cho các sự việc giống như các sự việc đó là vậy. Nhưng nếu
chúng ta tiếp cận một cách
trọn vẹn với các
cảm thọ nhị nguyên này thì
kinh nghiệm tuyệt đối đó của tính
nhị nguyên tự nó là
kinh nghiệm bất nhị. Như vậy sẽ không có trở ngại nào cả vì
nhị nguyên được thấy bằng một
quan điểm rõ rệt, cởi mở
hoàn toàn, không hề có sự
mâu thuẫn, sự
phải trái ; có một cái thấy bao trùm,
vô biên của “cái một”. Sự
mâu thuẫn phải trái nổi lên bởi vì
nhị nguyên đã không được thấy như nó đích thực là vậy. Nó đã được thấy chỉ
đơn thuần theo một cách thức
thiên vị, kỳ cục,
vụng về. Thật vậy,
chúng ta không
nhận thức sự việc một cách
đúng đắn, mà
chúng ta khởi sự nhìn mọi sự như thể mình cùng với những phóng tưởng của mình thực sự
hiện hữu. Cho nên khi
chúng ta coi
thế giới nhị nguyên này như
mê lầm thì chính sự
mê lầm đó không phải là “một thế giới”
nhị nguyên trọn vẹn, mà chỉ là nửa vời, và điều này gây ra sự bất
toại nguyện cùng cực và sự
chao đảo lớn lao, nó phát triển lên tới mức sợ phải trở nên điên, tới mức phải rời bỏ
thế giới nhị nguyên để
đi vào một kiểu (
tâm thức) của “cái không” mù mờ không
minh bạch, đó là
thế giới của người chết, cái nghĩa địa
xuất hiện ở giữa đám sương mù.
Bộ giáo huấn này
mô tả kinh nghiệm cái chết ở dạng các
yếu tố khác nhau cấu thành cơ thể từ thô đến
vi tế. Về
phương diện vật chất cụ thể, ta
cảm thấy nặng nề khi thể đặc (đất) tan vào thể lỏng (nước) và khi thể lỏng tan vào thể nhiệt ta
cảm thấy sự
tuần hoàn lưu chuyển trong người ta bắt đầu ngưng
hoạt động. Khi thể nhiệt tan vào thể khí, ta bắt đầu mất
cảm giác về nhiệt độ hay sự phát triển, và khi thể khí tan vào
không gian ta mất
liên hệ với
thế giới vật chất.
Cuối cùng, khi
không gian hay
tâm thức tan biến vào kinh
năng lực trung ương (central nadi) thì có một cảm nhận về
linh quang nội tại, một ánh sáng không rõ rệt ở bên trong khi tất cả được hướng nội
hoàn toàn.
Những
kinh nghiệm như vậy xảy ra không ngừng.
Trạng thái có tính lô gích,
hữu hình sẽ tan biến đi, và ta
hoàn toàn không biết chắc là mình đang được
giác ngộ hay đang đánh mất sự
sáng suốt. Một khi xảy ra
kinh nghiệm như vậy, nó có thể được thấy trong bốn hay năm giai đoạn khác nhau.
Trước tiên tính chất cụ thể của sự
hợp lô gích rất
vật chất và
sống động sẽ trở nên mờ nhạt ; nói cách khác bạn mất sự tiếp cận
vật chất. Rồi thì bạn tự động nương
dựa vào một thể năng hoạt hơn, đó là thể lỏng (
yếu tố nước) ; tự bạn bạn
tin chắc rằng
tâm thức của mình vẫn còn
hoạt động. Ở giai đoạn
kế tiếp,
tâm thức hoàn toàn không biết chắc còn
hoạt động tốt hay là không, và có một cái gì đó ngưng
hoạt động trong sự
tuần hoàn của nó. Cho nên, cách
duy nhất để
liên hệ là thông qua những thức tình, bạn
cố gắng nghĩ tới một người nào bạn thương hay ghét, một điều gì rất sâu đậm, nhưng vì tính nước (tính lỏng, dễ
hoạt động) của sự
tuần hoàn không còn có
tác dụng nữa cho nên nhiệt tình yêu và ghét mãnh-liệt-như-bốc-lửa trở nên quan trọng hơn. Nhưng rồi “lửa” yêu và ghét đó cũng
lần lượt tan nhập vào gió (thể khí) và có một
kinh nghiệm không
rõ ràng về sự mở trống ra, sao cho bạn có
xu hướng đánh mất sự bám chặt vào sự tập trung nghĩ đến
yêu thương hay cố nhớ lại
bóng dáng người bạn yêu.
Toàn bộ giống như thể trống rỗng ở bên trong, như bị cái không xâm chiếm.
Kinh nghiệm kế tiếp là
linh quang (hay
quang minh). Bạn đang muốn
đầu hàng vì bạn không thể chống đối được nữa, và ngay lúc đó sự
vô tâm,
chểnh mảng, không
bám víu,
xuất hiện. Như thể nỗi đau và niềm vui xảy ra
cùng lúc ; hay như là một cơn mưa đá lạnh rất lớn cùng với nước đang sôi đổ ập lên cơ thể bạn cùng một lúc. Đó là một
kinh nghiệm sâu sắc, rất mãnh liệt,
tràn trề, đó là
kinh nghiệm về cái “một” trong đó cả hai niềm
hạnh phúc và nỗi
đau đớn đều đồng nhất. Sự
xung đột nhị nguyên – sự
xung đột để
cố gắng được “là” một cái gì đó là
hoàn toàn mê lầm,
do bởi hai lực của hai
thái cực là mong
giác ngộ và sợ trở nên
mất trí. Hai
thái cực này được quy kết cao độ đến nỗi
cho phép xuất hiện sự thư giãn, buông thả
nhất định nào đó ; và khi bạn không còn chiến đấu được
gì nữa thì
bản thân ánh
linh quang tự hiển lộ một cách
tự nhiên.
Bước
kế tiếp là
kinh nghiệm ánh
linh quang trong cuộc sống hàng ngày. Ánh
linh quang là một nền tảng – một thứ hậu trường –
trung lập, một kẽ hở khi sự
cuồng nhiệt căng thẳng bị chùng lại. Rồi thì, một thứ
trí năng bắt đầu nối cái kẽ hở, cái hậu trường
trung lập, với
trạng thái tâm thức thức tỉnh, dẫn tới một sự
thoáng thấy thình lình kinh nghiệm thiền định hay
Phật tánh – cũng có thể gọi là
pháp thân (dharmakaya). Nhưng nếu
chúng ta không có
phương tiện bắt
liên lạc được với
trí năng căn bản nên
năng lực mê lầm vẫn khống chế diễn biến của
tâm thức chúng ta, rồi thì
năng lực đó phát triển một cách
mù quáng để
cuối cùng – có thể nói – từ
năng lực vô lượng của ánh
linh quang, nó
suy sụp thành ra
năng lực bị phân tán, lỗng ở nhiều mức độ khác nhau.
Xu hướng chấp thủ cơ bản bắt đầu manh nha bắt rễ trong
trạng thái linh quang, và từ đó,
tùy theo cường độ, mà
kinh nghiệm về
sáu cõi luân hồi sẽ
tăng trưởng. Nhưng
tính cách ôm bám giữ chặt, tính
căng thẳng của
xu hướng chấp thủ đó không thể nào tự nó
vận hành được mà không có
năng lực làm
tác nhân ; nói cách khác,
năng lực đang được
sử dụng để
chấp thủ. Giờ đây, theo
quan điểm các kiểu
bản năng chấp thủ khác nhau,
chúng ta hãy
xem xét sáu cõi.
CÕI ĐỊA NGỤC
Chúng ta bắt đầu đề cập tới
cõi địa ngục –
cảnh giới mà
xu hướng chấp thủ mãnh liệt nhất. Trước hết có một sự
kiến tạo các
năng lực, các xúc tình, phát triển tới tột đỉnh, tới một giai đoạn mà
chúng ta – trong cuộc đua, mù mờ không biết được các
năng lực đang điều khiển mình hay mình điều khiển chúng. Rồi, bất
thình lình chúng ta mất hết dấu vết của
toàn bộ cuộc chạy đua này, và tâm ta bị rơi vào một
trạng thái trống trải, bỏ ngỏ – đó là
không gian của
linh quang. Từ
trạng thái trống trải bỏ ngỏ này một sự quyết liệt cao độ muốn
đánh nhau bắt đầu
nảy nở, nhưng
tâm thức hoang tưởng đó cũng
mang đến sự khiếp sợ bị
đe dọa.
Ban đầu, sự hoang tưởng và khiếp sợ
xuất hiện như thể để
chống lại một đối tượng nào đó, nhưng ta
hoàn toàn không biết rõ ai là người mình đang muốn
đánh nhau, và khi
toàn bộ sự việc đã phát triển thì sự khiếp sợ quay
chống lại nó. Khi ta cố sức tấn công, thay vì
chống lại phóng tưởng bên ngoài, ở đây ta lại tấn công vào bên trong.
Việc này cũng giống như
câu chuyện một
tu sĩ khổ hạnh thấy có một cái đùi con cừu
trước mặt mình, muốn nhặt nó lên để nấu. Người thầy bảo ông ta làm dấu chữ thập vào đùi con cừu trước khi nấu ăn, và sau đó, vị
tu khổ hạnh khám phá thấy dấu chữ thập trên ngực của ông ta. Đó là loại
quan niệm thế ấy ; bạn tưởng có một đối tượng bên ngoài để tấn công, để chiến thắng nó. Và trong
đa số trường hợp, nỗi căm ghét cũng giống như vậy. Bạn tức giận một đối tượng và cố sức đập bể tan tành cái đối tượng đó nhưng càng lúc
diễn tiến của sự tức giận quay lại tàn phá mình, sự tức giận quay vào trong mình, dù bạn
cố tránh nó nhưng đã quá trễ rồi, bạn chính là nỗi giận đó, nên bạn không thể nào tránh né nó được. Nỗi tức giận tức là bạn, như một con ma, lúc ẩn lúc hiện một cách
liên tục ở trong mình, và
cõi địa ngục phát triển như vậy.
Chúng ta thấy được những
mô tả rất
sống động về
cõi địa ngục trong
tác phẩm Trang Hoàng Châu Ngọc của
sự Giải Thoát (Jewel Ornament of Liberation) của ngài Gampopa và về
phương diện dùng
hình tượng để
tượng trưng thì mỗi sự
hành hạ cực độ là một
chân dung của chính mình. Trong cõi ngục,
chính xác không phải bạn bị
hành phạt, nhưng bạn bị ngập chìm trong một môi trường
không gian toàn là sự
đe dọa khủng bố, được
mô tả là có những cánh đồng, núi non làm bằng sắt nung đỏ và
không gian ngập tràn các tia lửa rực nóng
đáng sợ. Thậm chí nếu bạn
quyết định chạy trốn thì bạn phải dẫm chân lên những thanh sắt đang nung đỏ, còn nếu bạn
quyết định không bỏ trốn thì
thân thể của bạn
biến thành cục than hồng. Bạn quá sợ vì bị nhốt kín và sức nung nóng đến từ mọi hướng,
dưới đất thì
toàn bộ biến thành sắt nung nóng, tất cả dòng sông đều là sắt nóng chảy, và trên đầu thì toàn bầu trời ngập tràn lửa ngọn.
Một dạng khác của
địa ngục hoàn toàn ngược lại, đó là
kinh nghiệm về băng tuyết cái lạnh cùng cực, một cõi nước đá trong đó
mọi vật đều bị đóng băng. Đây là sự căm ghét theo một cách khác, sự căm ghét đến nỗi không muốn giao tiếp với ai cả. Đó là một loại căm hận thường
xuất phát từ sự
kiêu mạn thái quá, và sự
kiêu mạn chuyển thành ra một môi trường lạnh như đá và được sự tự mãn
tăng cường thêm, bắt đầu
vận hành hệ thống. Nó không
cho phép chúng ta được khiêu vũ, vui cười,
thưởng thức âm nhạc.
CÕI QUỶ ĐÓI
Chúng ta có cõi tâm khác nữa, đó là cõi quỷ đói (
ngạ quỷ). Để bắt đầu với cõi này,
chúng ta vào
linh quang bằng sự phát sanh lòng
tham lam vô độ chứ không phải sự căm ghét như trong
cõi địa ngục. Có một cảm thức về
nghèo đói, nhưng
đồng thời một cảm thức về sự
giàu có, nó đối chọi nhau nhưng lại phát sanh
nảy nở đồng bộ
với nhau. Trong cõi quỷ đói, ta có một
ham muốn tột độ, muốn
giàu có, muốn thâu tóm rất nhiều
của cải ; ta
tìm kiếm của cải không phải ta
cần dùng nó mà vì ta muốn
sở hữu nó. Và rồi, điều này khiến cho ta lúc nào cũng thấy
thèm khát hơn nữa, thấy càng không được có đủ, chính vì không phải sự
ham muốn sở hữu mà thôi, mà còn cả sự
ham muốn tìm kiếm thu gom mới
thỏa mãn ta. Nhưng giờ đây, bởi vì ta đã có đủ tất cả, ta không thể đi đâu để tìm và để
sở hữu một cái gì đó được nữa. Thật thất bại,
vô ích, một kẻ đói từ
căn bản không thể
thỏa mãn được.
Rõ ràng là ta có quá đầy đủ, quá
trọn vẹn đến nỗi ta không thể ăn thêm tí nào nữa, nhưng vì ta thích ăn, do đó ta bắt đầu có những
ảo tưởng về
mùi vị của
thức ăn, khoái cảm ngon miệng khi ăn được nó, khi nếm nó, ngửi nó, nhai, nuốt,
tiêu hóa nó.
Toàn bộ diễn biến đó
y như thể tưởng tượng ra để được
thỏa mãn, và ta
cảm thấy ganh tỵ cùng cực với những ai thực sự thấy đói và ăn được.
Sự việc này được
tượng trưng bằng
hình ảnh một
con người có cái bụng rất to nhưng lại có cái miệng nhỏ và cái cổ họng thì cực kỳ nhỏ. Có nhiều tầng lớp khác nhau của
kinh nghiệm này
tùy theo mức độ
thèm khát của người “đói”. Một vài người có thể lấy được
thức ăn, nhưng rồi
thức ăn tự tan biến mất hay họ không thể ăn được. Một số người có thể lấy
thức ăn đưa vào miệng, nhưng họ không thể nuốt được
thức ăn, một số người có thể nuốt được
thức ăn nhưng khi vào tới bao tử,
thức ăn bắt đầu bắt lửa và cháy. Có đủ tất cả các kiểu và các cấp độ
đói khát liên tục của cuộc sống mỗi ngày của đời thường này.
Sự
ưa thích sở hữu (
ham muốn có được) không mang lại cho
chúng ta bất kỳ niềm
vui sướng một khi
chúng ta đã có được.
Chúng ta không ngừng khổ nhọc
tìm kiếm thêm nhiều
của cải hơn nữa, và tiến trình từ
thèm khát đến
chiếm hữu rồi
trở lại thèm khát cứ thế
diễn tiến liên tục, không vì thấy mình
thiếu thốn nhưng vì không
nhận ra rằng ta đã sẵn có mọi thứ mà không thể hưởng thụ được. Chính cái
năng lực nằm trong hành động trao qua đổi lại, làm cho nó có vẻ
thích thú phấn chấn hơn, như là gom góp, giữ nó, cầm nó lên, hay ăn nó. Loại
năng lực đó là một
kích thích, nhưng cá tính
chấp thủ ham cố, khiến cho sự việc trở nên
phức tạp, kỳ cục. Mỗi một khi ta có được trong tay cái ta muốn có, thì ta không còn thấy
ưa thích sở hữu nữa, nhưng ta không muốn để nó rời khỏi tay ta. Thêm
một lần nữa, ở đây trên những phóng tưởng của mình
thể hiện mối
liên hệ giữa
ưa thích và
chán ghét. Cũng giống như việc thấy cái vườn cỏ nhà bên cạnh xanh đẹp hơn, nhưng một khi ngôi vườn cỏ đó thuộc về ta thì ta
nhận ra là không còn sự
ưa thích hay
đánh giá cao cái đẹp của nó như trước khi nó chưa thuộc về ta, và rồi
tính chất lãng mạng
mơ mộng của chuyện yêu thích bắt đầu phai nhạt đi.
CÕI SÚC SANH
Cõi
súc sanh mang đặc trưng thiếu vắng óc hài hước
vui vẻ.
Chúng ta thấy rằng
chúng ta không thể an trụ một cách
bình đẳng trung lập trong
linh quang, nên
chúng ta bắt đầu đóng vai điếc và câm, diễn trò
ngu muội một
cách thông minh, điều này có nghĩa rằng ta
hoàn toàn che dấu ý thức hài hước, một lĩnh vực của
sự thể hiện
tâm lý. Đặc trưng của
súc sanh là không thể cười vui hay cười
chế nhạo,
súc sanh cũng biết
vui mừng, biết
đau đớn, nhưng bằng cách nào đó, chúng không biết
mỉa mai hay hài hước.
Trong khuôn khổ một
tôn giáo, ta có thể phát triển điều này bằng cách đặt
lòng tin vào các
giáo điều triết học hay
thần học, hay – không chút
nghi ngờ – chỉ một mực giữ
lòng tin một cách khư khư không thay đổi, quá
thực tế. Một mẫu người như vậy có thể rất
kiên định trong công việc, rất giỏi, rất
thành công và
hoàn toàn bằng lòng với mình. Đó như là một
nông dân chăm chút công việc đồng áng, rất thạo việc, luôn luôn giữ
tính cách cởi mở,
hiệu quả,
sáng suốt ; hay một người
điều hành một công ty kinh doanh hay một người cha trong
gia đình, sống
cuộc sống hạnh phúc,
đảm bảo, có tương lai trong tầm tay, mọi sự đều
thực tế, không có một chỗ nào cả để cho sự huyền bí
can dự vào. Nếu ông ta muốn mua món đồ dùng mới thì đã có những
chỉ dẫn sử dụng rõ ràng. Nếu gặp việc
rắc rối ông ta sẽ nhờ cậy vào cảnh sát,
luật sư, hay cha cố nhà thờ ; nghĩa là tất cả những người lành nghề trong
lãnh vực chuyên môn – và họ cũng rất
an tâm thoải mái trong công việc của họ. Mọi sự đều
hoàn toàn trong tầm tay,
hợp lý và
đồng thời được tiến hành như một cái máy – đâu vào đó sẵn sàng. Họ không quen thiếu, không quen bất ngờ nên nếu có một tình huống không tiên
liệu trước đột nhiên xảy đến thì họ hoang tưởng là bị
đe dọa. Nếu có người không đi làm, trông có vẻ khác, có một
cách sống khác thường, thì đích thị sự
hiện diện của
con người như vậy
bản thân đang bị
đe dọa. Bất kỳ sự việc gì có
tính cách bất ngờ. Bất kỳ sự việc gì có
tính cách bất ngờ đều
đe dọa cung cách ổn định đó. Cho nên,
rõ ràng là
thái độ cứng ngắt,
chừng mực, không có óc khôi hài là đặc trưng cõi
súc sanh.
CÕI NGƯỜI
Cõi người xuất hiện ở một tình huống khác hơn, không giống với cõi
súc sanh chỉ mong được sống và
an phận.
Cõi người đặt cơ sở trên sự
đam mê,
xu hướng ưa thích khám phá và hưởng thụ. Đây là lĩnh vực của sự
nghiên cứu và phát triển, không ngừng
cố gắng làm
phong phú thêm nữa. Ta có thể nói, về
phương diện tâm lý,
cõi người gần với
tính cách của cõi quỷ đói là luôn luôn
nỗ lực để có được một cái gì đó, nhưng
đồng thời cũng có
yếu tố súc sanh là muốn mọi sự không có
tính cách bất ngờ. Và có một ngoại lệ
liên kết với cõi người, đó là kiểu
nghi vấn xuất hiện cùng với sự
đam mê, nó khiến
con người tỏ ra khôn ngoan hơn, ưa thay đổi và khó
tin cậy hơn. Họ có thể phát minh đủ kiểu dụng cụ và coi trọng việc
sử dụng các dụng cụ
phương tiện trong đủ các cách dùng
triệt để nhằm
mục đích nắm bắt được
con người khó
tin cậy kia, và đến lượt
con người khó
tin cậy đó lại
triển khai các dụng cụ
đối kháng lại. Do đó,
chúng ta xây dựng thế giới chúng ta bằng
vô số những
thành tựu, nhưng sự phát triển làm ra các công cụ và các công cụ
đối kháng đang leo thang không ngừng, và nảy sinh càng nhiều các nguồn
cảm hứng đam mê cũng như các mưu đồ
quỷ quyệt.
Cuối cùng chúng ta không có khả năng
hoàn tất được công việc to tát như vậy.
Chúng ta lệ thuộc vào sanh và tử.
Kinh nghiệm cũng có thể được nảy sinh mà cũng có thể bị mất đi, và ắt hẳn các
khám phá của
chúng ta là
vô thường và tạm bợ.
CÕI ATULA – CÁC CHƯ THIÊN GANH TỴ
Cõi Atula hay cõi các
chư thiên ganh tỵ là cõi có mối thông tin
giao thiệp cao nhất, một
trình độ rất
tri thức. Khi bạn bất
thình lình lìa khỏi ánh
linh quang, trong bạn
xuất hiện một thứ
cảm giác như bị thách đố, khó
giải quyết,
y như thể ai đó đã bỏ bạn rơi vào giữa nơi
hoang dã ; bạn có
xu hướng muốn
tra xét lại,
nghi ngờ ngay cả cái bóng của mình không biết đó có phải là cái bóng thật sự hay là một mưu đồ
kế hoạch gì của ai đó. Ở đây thức hoang tưởng là một loại giống như
hệ thống ra-đa, một thứ
hệ thống ra-đa hữu hiệu nhất mà cái ngã có thể có được. Nó
quan sát nghe ngóng đủ mọi loại đối tượng dù rất nhỏ hay rất mờ nhạt,
nghi ngờ từng mỗi đối tượng đến nỗi mỗi
kinh nghiệm đều bị coi như một thứ
đe dọa, đáng nghi.
Cõi này được biết là
một thế giới đầy sự
ganh tỵ ghen tức, nhưng không phải như
chúng ta thường ghen hàng ngày. Đó là một thứ
ganh tỵ hết sức sâu sắc
dựa trên một tầm mức sống còn,
quyết thắng.
Hoàn toàn không giống như ở
cõi người hay cõi
súc sanh,
mục tiêu của cõi các
chư thiên ganh ghét này là hành xử với những mưu đồ
quỷ quyệt – đó là những gì họ
cưu mang, dù đang trong công việc hay
giải trí. Làm như thể
con người sanh ra đã là một người ngoại giao, và khi chết cũng là nhà ngoại giao. Quan hệ giao tiếp cùng với mưu mô
quỷ quyệt là kiểu sống và
đồng thời là cách kiếm sống của họ. Tính mưu mô
nham hiểm đều có trong mối giao tiếp với bất kỳ ai, với người thân, với bạn bè, với thầy hay trò, bất cứ nơi nào.
CÕI NHỮNG VỊ TRỜI
Cõi
cuối cùng là cõi của những vị trời – hay deva-loka. Ở đây, khi từ trong
linh quang, người đó
tỉnh lại, hay rời khỏi, lúc đó có một loại
lạc thú không ngờ trước và người đó muốn
duy trì niềm khoái lạc đó. Thay vì
hoàn toàn hòa nhập vào cái nền tảng
trung lập (bản nhiên,
linh quang vô ngã), người đó bất thần
nhận ra cái ngã riêng của mình, và cái ngã này mang lại một thức
ý thức mong muốn là
duy trì chính mình. Việc tự
duy trì này là một
trạng thái định (samadhi),
thường hằng sống trong
trạng thái nhập định và bình lặng ; đó là
cõi trời, được biết như là cõi của thức
kiêu mạn.
Kiêu mạn trong
ý thức vun đắp cho cái thân được quy kết vào riêng cho mình,
gìn giữ thanh tịnh riêng cho mình ; nói cách khác đó là sự say sưa ngất ngây với sự có mặt của cái ngã. Bạn bắt đầu
cảm thấy thỏa mãn là có được một kiểu khẳng định rằng
cuối cùng bạn “được là” một cái gì đó thay vì là
linh quang, không phải là nơi của ai. Và bởi vì bạn là một cái gì đó nên bạn phải tự
duy trì và chính nó mang lại một
trạng thái lạc thú thoải mái tự nhiên, một thứ
nhập định trọn vẹn vào trong chính mình.
Sáu cõi
thế giới này là cội nguồn của
toàn bộ sự
thăng trầm của kiếp sống trong
luân hồi sanh tử và
đồng thời là nơi để từ đó bước vào cõi
Pháp thân. Điều này sẽ giúp ta hiểu được sự quan trọng của những
ảnh hiện ra (visions), đã
mô tả trong sách về giai đoạn bardo của sự
trở thành, chính nó là một
cõi giới khác. Có sự tương phản giữa hai
cõi giới này :
kinh nghiệm của sáu cõi do từ
quan điểm của cái ngã và
kinh nghiệm cũng của sáu cõi đó từ
quan điểm vượt lên trên cái ngã. Những
ảnh hiện ra này có thể nên coi như là những biểu hiện của
năng lực trung lập thay vì có thể bị thấy như các
thiên nhân đến
cứu thoát bạn khỏi
sanh tử hay các quỷ dữ năng
lui tới bạn.
BARDO CỦA PHÁP TÁNH
Song song với sáu cõi đã nói qua,
chúng ta nên có một số
hiểu biết khái niệm cơ bản về bardo : “bar” có nghĩa là ở giữa, “do” có nghĩa là hòn đảo hay một điểm
đánh dấu ; một loại cột mốc
ranh giới đứng giữa hai cái gì đó. Nó có phần giống như một hòn đảo ở giữa cái hồ. Khái niệm bardo được đặt căn cứ trên khoảng
thời gian giữa lúc
sáng suốt và lúc không
sáng suốt, hay là khoảng
thời gian giữa lúc
mê lầm và lúc sự
mê lầm sắp sửa chuyển ra thành
trí huệ, và
dĩ nhiên bardo có thể được nói là
kinh nghiệm có được ở giữa sự chết và sự sanh ra. Tình huống trước vừa mới xảy ra và tình huống sau tự nó chưa
hiển lộ nên có một khoảng hở giữa hai thời đó. Về cơ bản mà nói, đây là
kinh nghiệm bardo.
Bardo
pháp tánh là
kinh nghiệm về
linh quang (hay
quang minh, luminosity).
Pháp tánh (Dharmata) có nghĩa là
bản chất sự vật như nó là, tức là
tính chất “như thị” (the is-ness quality). Cho nên, bardo
Pháp tánh là cái nền
căn bản, rỗng rang,
trung lập (
vô phân biệt) và sự
nhận biết cái
bản địa này là
pháp thân (dharma kaya) tức là thể
chân như (body of truth) hay là thể của pháp.
Khi người
nhận biết hay người
tác động bắt đầu tan vào trong
hư không căn bản (basic space) thì
hư không căn bản này có chứa pháp, có chứa
chân như (truth) nhưng
chân như đó được truyền chuyển dưới dạng
sanh tử. Nên, cái khoảng giữa
sanh tử và
chân như,
không gian mà nhờ đó pháp
xuất hiện, đã
cung cấp bản địa cho các chúng thuộc bộ của Năm
Như Lai và các
ảnh hiện ra của các thần bình yên và thần xung nộ.
Những
diễn đạt của
Pháp tánh được
biểu lộ không ở dưới dạng
vật chất có thể thấy được, nhưng ở dưới dạng
năng lực,
năng lực này mang đựng
tính chất của năm đại là đất, nước, lửa, khí và
hư không.
Chúng tôi không đề cập đến các chất liệu thông thường – mức độ thô của các đại – mà
chúng tôi muốn nói tới các
thành phần vi tế. Theo
quan điểm của người
nhận biết (năng tri) thì việc
nhận biết Năm
Như Lai trong các
ảnh hiện ra, không phải là cái thấy, không phải là sự
nhận biết, cũng
hoàn toàn không phải là
kinh nghiệm. Đó không phải là cái thấy bởi vì nếu bạn có cái thấy thì bạn phải nhìn thấy, và sự nhìn, tự nó, là một cách hướng ngoại, tách rời bạn với cảnh thấy. Bạn không thể
nhận biết bởi vì một khi bạn khởi sự
nhận biết tức là bạn đang đưa
kinh nghiệm vào
hệ thống tư duy của bạn, điều đó có nghĩa là một kiểu quan hệ
nhị nguyên. Thậm chí bạn không thể biết sự
nhận biết đó bởi vì
chừng nào còn có một “quan sát viên” để bảo với bạn rằng những thứ này là những
kinh nghiệm của bạn thì lúc đó bạn vẫn đang tách các
năng lực đó rời khỏi bạn. Việc hiểu được nguyên tắc cơ bản này rất quan trọng bởi vì đó thực sự là điểm mấu chốt của
toàn bộ việc
sử dụng tranh tượng để
diễn đạt trong nghệ thuật tantra. Người ta thường
giải thích rằng : các
bức tranh vẽ các
thần linh là các
chân dung mang
tính tâm lý nhưng có điều đáng nói về nó nhiều hơn sự
giải thích này.
Một trong những
hình thức tu tập cao nhất và nguy hiểm nhất là
nhập thất tu theo bardo,
bao gồm bảy tuần
thiền định trong bóng tối
hoàn toàn. Có những
quán tưởng rất
đơn giản,
đa số dựa trên nguyên lý Năm
Như Lai được nhìn thấy dưới dạng
các loại nhãn khác nhau.
Trung tâm của các
Như Lai an bình là ở trong tim, nên bạn thấy
các loại nhãn trong tim bạn, và nguyên lý của các thần xung nộ được quy tập trong đầu nên bạn thấy
các loại nhãn khác biệt nào đó đang chăm chăm nhìn nhau trong đầu của bạn. Đây không phải những
quán tưởng thông thường, nó khởi từ sự thiếu
sáng suốt có thể có và từ sự mất nền tảng chung với nguyên lý
pháp tánh.
Sau đó
kinh nghiệm linh quang tuyệt đối và
rành mạch bắt đầu
xuất hiện, phát triển. Nó lóe sáng từng chặp từng lúc, có khi bạn
kinh nghiệm được nó, có khi bạn không, nhưng bạn đang ở trong nó ; do đó có một
hành trình giữa
pháp thân và
linh quang. Thường thì
vào khoảng tuần thứ năm sẽ
xuất hiện sự
hiểu biết cơ bản về Năm
Như Lai và những linh ảnh Năm
Như Lai thực sự xảy ra,
hoàn toàn không phải là
hình thức nghệ thuật tranh tượng.
Chính xác là bạn không
nhận biết sự
hiện diện của Năm
Như Lai, nhưng một phẩm tính
trừu tượng bắt đầu
nảy nở,
thuần túy dựa trên năng lực. Khi
năng lực này trở nên
độc lập,
hoàn toàn là
năng lực mà thôi, nó bắt đầu nhìn lại chính nó và tự biết nó, sự tự
nhận biết này vượt lên trên khái niệm
nhận biết thông thường. Nó như thể là bạn cuốc bộ vì bạn biết không cần sự trợ giúp nào ; một cách không
ý thức, bạn cất bước chân đi. Chính là loại
năng lực độc lập đó, không cần bất kỳ sự tự
ý thức nào, không phải là sự tưởng tượng không thực nào, nhưng, thêm
một lần nữa,
đồng thời, người ta không bao giờ biết.
BẢN CHẤT CỦA CÁC ẢNH HIỆN (VISIONS)
Các
ảnh hiện ra trong
trạng thái bardo, song hành với những màu sắc
rực rỡ, những
âm thanh, không phải được tạo nên từ bất kỳ loại
thể chất nào cần sự
duy trì theo
quan điểm của người
nhận biết, nhưng
quả thật các
ảnh hiện đó xảy ra như là
hiển lộ của tĩnh lặng và
hiển lộ của
tánh không (emptiness). Để
nhận biết một cách
đúng đắn, tâm
nhận biết các
ảnh hiện này không thể có cái
bản ngã tự quy cơ bản. Cái ngã cơ bản trong
trường hợp này là cái ngã khiến cho nó
thiền định hay
nhận biết một cái gì đó.
Giả sử có được một tâm
nhận biết đích thực
rõ ràng, người ta có thể thấy được sự
xuất hiện của một vị trời, hay một
thực thể khách quan, và sự
nhận biết đó sẽ
mở rộng một mức độ
bất nhị. Sự
nhận biết như thế sẽ trở nên rất
hoan hỷ,
phúc lạc, bởi vì không chỉ có người
chứng kiến mà cũng còn có một cái gì đấy
tinh tế hơn, một
thực thể tâm linh căn bản, một
ý niệm hay một xung động
vi tế, nó nhìn ra bên ngoài. Chính vì cái gì đấy mà nó bắt đầu
nhận biết một
tri kiến đẹp về sự
mở rộng ra
bao la, sự
phúc lạc,
mang đến khái niệm về “cái một” với
vũ trụ.
Vì vậy có thể rất dễ dàng, rất
thuận lợi để
thâm nhập vào
cảm giác này của sự mở ra, sự
bao la của
vũ trụ. Nó giống như thể việc
quay trở lại nơi mẫu thai, đó là một loại
an toàn. Bởi vì
cảm ứng với sự hợp “thành một” như thế mà bạn trở nên
yêu thương, tử tế một cách
tự nhiên và nói năng bằng lời lẽ
tốt đẹp.
Hoàn toàn có khả năng là trong một
trạng thái như
vậy mà có thể
nhận biết được một dạng
ảnh hiện thiêng liêng, hay những tia lóe sáng
rực rỡ,
âm nhạc đang du dương, hay sự
hiện diện nào đấy đang
đến gần.
Trong
trường hợp một
con người tự
liên hệ đến chính mình, và
liên hệ đến những tưởng tượng phóng chiếu (phóng tưởng, projections) theo cách đó của họ, thì rất có khả năng trong giai đoạn
trạng thái bardo
sau khi chết người ấy có thể quá ư tức giận
bực bội khi thấy các linh ảnh của các đấng
Như Lai hoàn toàn khác biệt với
tri kiến của mình. Các
ảnh hiện của các đấng
Như Lai hoàn toàn không đòi hỏi sự
hợp lại “thành một”, các linh ảnh đó trông rất ư
thù nghịch, đích thực ở đó, có mặt ở đó một cách khiêu khích, bởi vì chúng sẽ không đạt tới bất kỳ
nỗ lực cảm thông nào cả.
Ảnh hiện đầu tiên là thấy các thần bình yên không phải
tính cách bình yên
hiền hòa trong
ý nghĩa về
kinh nghiệm ánh sáng và
yêu thương như
chúng ta đề cập ở trên, nhưng là sự bình yên bao trùm,
bất động, một sự bình yên vô địch, vượt lên trên tất cả, một
trạng thái bình yên không thể có gì khiêu khích được,
trạng thái bình yên không
thời gian, không
kết thúc, không bắt đầu.
Biểu tượng của sự bình yên đó được
thể hiện bằng
hình ảnh một vòng tròn kín, không có chỗ hở để đi qua, nó
thường hằng vĩnh viễn.
Các
kinh nghiệm tương tự xảy ra
liên tục không chỉ có trong
kinh nghiệm bardo sau cái chết mà cũng có
trong suốt kiếp sống của
chúng ta. Khi một người an trụ trong kiểu hợp nhất với
vũ trụ – trong đó mọi sự đều
đẹp đẽ, bình yên, đáng yêu – thì có khả năng
đưa tới một
yếu tố khác
chính xác y như ảnh hiện của các thần bình yên. Bạn thấy như thể bạn mất đi cái cơ bản, cái nền tảng của bạn, mất đi cái
toàn thể thống nhất, mất đi sự
nhận dạng chính mình, và tan vào trong một
trạng huống hòa hợp một cách
trọn vẹn tuyệt đối và
dĩ nhiên đó là
kinh nghiệm về
linh quang.
Trạng thái bình yên
tuyệt đối này dường như cực kỳ
đáng sợ và
thường có khả năng là
lòng tin của một người có thể bị
chao đảo lung lay vì bất ngờ choáng ngợp với một tầm kích cỡ khác mà ngay cả khái niệm về sự hợp làm “một” cũng không còn
thích hợp ở đó được nữa.
Kinh nghiệm thấy các
thiên thần hung nộ cũng xảy ra. Các hung thần này là cách
biểu lộ khác của sự
bình an, một phẩm chất không khoan nhượng, rất
dữ dội, không
cho phép bất kỳ một sự lệch lạc sai sót nào cả. Nếu bạn tiếp cận họ, cố
tái lập tình huống thì họ sẽ ném bạn
trở lại chỗ cũ. Đó là loại sự việc do xúc tình trong cuộc sống hàng ngày
kích thích gây xảy ra
liên tục. Bằng cách này hay cách khác,
cảm giác về sự hợp nhất – ở đó mọi sự đều
bình an hòa hợp – không giữ được
sự thật tối hậu bởi vì bất cứ khi nào thứ
năng lực đam mê, hay căm hận,
gây hấn công kích bất chợt bừng bừng nổi lên thì
đồng thời một cái gì đó
đánh thức bạn ; đó chính là
tính chất dữ dội xung nộ của sự
bình an. Khi bạn đắm chìm trong đủ kiểu
trạng huống thoải mái do cái ngã tạo tác thì
sự thật hiện có, trần trụi của tâm và khía cạnh đầy màu sắc của xúc tình sẽ
đánh thức bạn, rất có thể theo một cách rất
thô bạo chẳng hạn như một
tai nạn bất ngờ, một
xáo trộn bất ngờ.
Dĩ nhiên người ta luôn có thể bỏ qua những điều nhắc nhở đó và
tiếp tục tin vào
tri kiến ban đầu. Cho nên, khái niệm rời bỏ cái thân và
đi vào linh quang, rồi trong
linh quang lại
tỉnh dậy và
nhận biết các
ảnh hiện này trong
trạng thái bardo thứ ba, và theo lối
hình tượng hóa, thì tất cả sự việc đó có thể được coi là bị đưa vào trong một
hư không mở toang –
hư không mà thậm chí không có lấy nột cái thân để
liên hệ tới, một
hư không mở trống đến nỗi bạn không thể có được một khái niệm về sự hợp làm một bởi vì không có cái gì cả để
kết hợp hay được
kết hợp. Nhưng có những
tia sáng của
năng lực đang trôi bồng bềnh, những tia
năng lực này hoặc có thể bị phân hướùng hoặc nhập dòng
với nhau ; đó là định nghĩa về tâm trong
trường hợp này, đó là
năng lực ngờ nghệch, nó có thể bị phân tán và đi lệch vào một
trạng huống khác và nó cũng có thể
quay về trong một
trạng huống đúng. Khả năng tự
giải phóng mình để
đi vào trong
Báo thân của các cõi của Năm
Phật Như Lai rõ ràng tùy thuộc vào việc có hay không có sự
nỗ lực để
tiếp tục “chơi cùng trò chơi” một cách
kiên định.
Cùng lúc đó
đang khi có những
kinh nghiệm đầy màu sắc
rực rỡ, cũng có sự ham chơi
trở lại sáu cõi của
kinh nghiệm bardo. Sự
nhận biết sáu cõi và sự
nhận biết Năm
Như Lai là một vị nhưng chúng có những kiểu cách khác nhau. Dường như tâm
nhận biết Năm
Như Lai – loại tâm này – có khả năng
vô biên để giữ sự
liên kết giữa cái thân và tâm một cách rất
tự nhiên, tự phát. Không có sự chia cách giữa
tâm linh của thân và
tâm linh của tâm. Cả hai là như nhau không có sự đối nghịch.
Sách (
Tử thư) nói rằng lần đầu tiên bạn
tỉnh dậy từ trong sự mê mẩn bất tỉnh trong cái thân, bạn có một cái thấy rất
chi tiết, sắc nét,
rõ ràng,
rực rỡ và
kinh hoàng, gần giống
như ảo ảnh được
phản chiếu từ một cánh đồng
mùa xuân và bạn cũng
nghe được một
âm thanh giống như ngàn
tiếng sấm cùng lúc vang rền. Từ trong
trạng thái tâm linh có một sự buông lỏng và một
cảm giác tách rời, trong khi đó
đồng thời tràn ngập trí
sáng suốt,
y như thể một người có cái đầu không có thân mình, một cái đầu
vô cùng lớn
trôi nổi bồng bềnh trong
hư không. Có thể nói, cái
kinh nghiệm thấy
hiện thực của
trạng thái bardo – sự chuẩn bị cho việc
nhận biết các linh ảnh Năm
Như Lai – là rất
rõ ràng,
rực rỡ,
linh quang, nhưng
đồng thời có
tính cách rất không xác thực,
như không biết bạn chích xác đang ở đâu ; và
kinh nghiệm cảm xúc đó cũng đang xảy ra trong
thế giới âm thanh,
âm thanh từ rất sâu đang gầm gừ tận ở dưới đáy, rung chuyển quả đất, nhưng
đồng thời không có cái gì lay động cả.
Mặc dầu những
kinh nghiệm tương tự như vậy cũng đã xảy ra trong cuộc sống đời thường nhưng nhờ vào việc không có
thân thể xác nên
kinh nghiệm trong bardo
rõ ràng hơn, có tính
ảo giác phóng đại hơn nhiều.
Trong đời sống không có
tính cách ảo tưởng thái quá nhưng có thứ
tính cách có nguồn gốc lẻ loi, một thứ
cô đơn chợt hiện chợt mất khi
con người bắt đầu
nhận biết rằng chẳng có một cơ sở nền tảng nào cả để coi nó như là cái ngã. Sự
thoáng thấy vô ngã một cách bất
thình lình đó
mang đến một
cảm giác rung động bàng hoàng.
NGÀY THỨ NHẤT
Sách
tử thư này nói rằng, sau bốn ngày không có
ý thức trong
linh quang, khi đã
tỉnh dậy chợt có sự
hiểu biết rằng đây là
trạng thái bardo và
kinh nghiệm về cõi
luân hồi sanh tử tái
xuất hiện ngay tức khắc. Đây là sự
nhận biết ánh sáng và những
hình ảnh – nó là
mặt trái của thân hay
sắc tướng thay vì một dạng
sắc thân cụ thể sờ mó được thì nó là một
trạng thái trừu tượng không xúc chạm được. Rồi thì, bạn có được
ánh sáng chói lòa, đó là chiếc cầu nối giao tiếp giữa thân và
trí năng.
Mặc dầu tâm
nhận biết bị thu hút vào trong
trạng thái linh quang nhưng
vẫn có một
trí năng vẫn còn
hoạt động, sắc nét,
rõ ràng với một phẩm chất chói rực. Thế rồi, thân có dạng tâm
vật lý và cùng với
trí năng, một thứ tâm năng biết được biến ra thành
hư không.
Trong
trường hợp này, màu của
hư không là màu xanh da trời và linh ảnh
xuất hiện lúc này là
Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana).
Phật Tỳ Lô Giá Na được
mô tả là không có mặt trước và mặt sau lưng, Ngài là một linh ảnh tổng quát toàn cảnh lan
tỏa ra mọi phía, không có
ý niệm hướng tâm. Trong
hình ảnh thiền định,
Phật Tỳ Lô Giá Na hiện thân ở dạng có bốn mặt
cùng lúc nhận biết tất cả các
phương hướng. Ngài có màu trắng bởi vì sự
nhận biết đó không cần sự pha màu nào cả, đích thị là màu chánh gốc, màu trắng. Ngài đang cầm một bánh xe có tám nan hoa, nó
thể hiện sự vượt lên trên mọi
nhận thức về
phương hướng và
thời gian.
Toàn bộ sự
biểu tượng hóa Ngài
Phật Tỳ Lô Giá Na thể hiện khái niệm của cái thấy
không gian toàn cảnh cùng khắp ; cả hai :
trung tâm và chu vi đều có khắp nơi. Đó là sự mở toang
trọn vẹn của thức,
siêu việt khỏi
thức uẩn.
Song song với linh ảnh này, có linh ảnh của những vị trời.
Hư không màu xanh
thăm thẳm vô cùng trông
đáng sợ bởi vì không có một tâm điểm để
bám víu vào, nên khi
thoáng thấy được một ánh sáng trắng
y như thấy một
ngọn đèn trong chốn tối đen và tâm
nhận biết liền có
xu hướng lầm mò tới đó.
Cõi những vị trời cũng
đồng thời xảy ra
trong đời sống hàng ngày của
chúng ta. Khi nào
chúng ta tập trung cao độ trong
trạng thái tâm linh, một kiểu xuất thần
sung sướng ngây ngất đắm chìm trong cái ngã và các phóng tưởng của cái ngã của
chúng ta, khi nào sự hưng phấn đó xảy đến thì cũng có
mặt trái của nó đó là
tính cách không tâm điểm,
tính cách lan tỏa cùng khắp của
Phật Tỳ Lô Giá Na.
Tính cách đó đang khiêu khích
chọc tức một cách
quá đáng chứ không
hấp dẫn một tí nào cả bởi vì không có gì để nuông chiều, không có căn cứ cơ bản nào trong đó để
chúng ta có thể tự hưởng thụ lấy. Thật là rất
sung sướng có được cái thấy toàn cảnh
mở rộng ra
mênh mông nhưng theo
quan điểm của cái ngã thì
thật kinh khủng
nếu không có người
nhận biết. Sự tương phản giữa cõi những vị trời và
Phật Tỳ Lô Giá Na liên tục xảy ra trong cuộc sống này và thường do
chúng ta tự
lựa chọn lấy hoặc
chúng ta bám níu vào niềm
hoan hỷ tâm linh có hướng quy ngã hay
chúng ta nên hãy
đi vào nơi mở toang
thanh tịnh và
không tâm điểm.
Kinh nghiệm này đến từ sự thù hận bởi vì sự thù hận
ngăn cản chúng ta và khiến cho ta không trông thấy được
Phật Tỳ Lô Giá Na. Thù hận là
thái độ thể hiện dứt khoát, cứng như khối, khi
chúng ta đang ở trong
cơn giận cao độ, hãy tưởng tượng mình là một con nhím xù lông, tung hết các lông nhọn ra để
bảo vệ mình. Không còn chừa chỗ nào để có được một cái nhìn toàn cảnh.
Chúng ta không cần có bốn mặt để nhìn mọi hướng, thậm chí
chúng ta chẳng cần con mắt nào cả.
Cơn giận khiến chỉ biết có mình, không biết chung quanh, nên làm cho
chúng ta chạy trốn khỏi
tính cách lan tỏa khắp nơi của
Phật Tỳ Lô Giá Na.
NGÀY THỨ HAI
Vượt lên
yếu tố nước, ánh sáng trắng bắt đầu ló rạng và từ phương Đông, nơi Cõi Toàn Lạc Phật
Kim Cương Tát Đỏa (hay
A Súc Bệ Phật)
xuất hiện.
A Súc Bệ có nghĩa là
bất động và
Kim Cương có nghĩa là thân bằng
kim cương, cả hai đều
ám chỉ sự cứng rắn sự bền chắc. Trong
thần thoại Ấn Độ,
kim cương vajra là một loại đá quý nhất hay là loại sét trời có thể
phá hủy mọi vũ khí, mọi đá quý, nó có thể cắt đứt
kim cương. Có một vị Thánh
ngồi thiền định trên
núi Tu Di trong nhiều thế kỷ, khi ông ta chết, xương biến ra thành
kim cương vajra và vị
Thiên Vương tên là Indra đã
tìm thấy, dùng nó làm binh khí – đó là một vajra có trăm mũi nhọn. Vajra có
ba tính chất : nó không bao giờ bị
sử dụng một cách khinh xuất, nó luôn luôn
hoàn thành nhiệm vụ đánh tan
kẻ thù, nó luôn quay lại trên tay bạn. Nó không thể
bị hủy diệt, nó cứng như
kim cương.
Phật
Kim Cương Tát Đỏa-A Súc Bệ
Như Lai đang cầm
kim cương sử năm điểm – đó là một vật thể cứng
tuyệt đối, Ngài đang ngồi trên ngai của một con voi, – có cái gì
vững chắc hơn thế ?
Phật Mẫu (người
phối hợp) là Buddha-Locana, tức là
Phật Nhãn (Buddha Eye). Theo
truyền thống Phật giáo, có
năm loại mắt : mắt của thân xác, mắt
trí huệ, mắt
cõi trời, mắt Phật, mắt Pháp. Trong
trường hợp này, mắt Phật chỉ cho sự
thức tỉnh. Bạn có thể có một tình huống ổn định
kiên cố nhưng nếu bạn không có lối ra thì nó có thể bị
tù hãm. Tạng nữ (feminine principle) tự động mở ra,
Phật Mẫu cung cấp lối ra hay hoạt tính cho
toàn bộ, đó là
yếu tố giao tiếp thông tin từ thể đặc sang
trạng huống sống động luân lưu.
Phật
Kim Cương Tát Đỏa được tháp tùng bởi
Địa Tạng Vương
Bồ tát (Ksitigarbha) – Tạng của Địa,
Tinh Chất của Đất, Ngài
đại diện cho việc
cung cấp chất màu
nuôi dưỡng, việc phát triển và cũng là
sự thể hiện của vị Phật
đặc biệt đó (
Kim Cương Tát Đỏa). Phật
Kim Cương Tát Đỏa còn được tháp tùng bởi Ngài
Di Lặc (Maitreya), vị
Bồ tát Từ Ái (The Loving One).
Tính cách kiên định bền chắc
đồng thời lại rất
phong phú dồi dào, nên cũng rất cần chuyển động để hiến dâng
cuộc đời cho sự
kiên cố không lay chuyển, đó là phẩm chất
yêu thương bi mẫn có
xúc động chứ không phải lòng bi
cần thiết phải
vô ngã.
Còn có các nữ
Bồ tát :
Bồ tát Lasya là vị
Bồ tát của vũ điệu hay ấn, ngài là
diễn viên hơn là vũ công, ngài là
thiên nữ dâng lễ, người
thể hiện cái đẹp và phẩm cách
trang nghiêm của
thân thể, ngài chỉ cho
chúng ta thấy sự oai nghiêm và sự
hấp dẫn của tạng nữ. Một nữ
Bồ tát nữa là Puspa, vị
thiên nữ của các loài hoa, vị
Bồ tát của sự thấy,
thị lực, cảnh thấy.
Vượt lên trên
sắc uẩn là những
tia sáng có hình như cái gương, màu trắng, lấp lánh, rõ từng
chi tiết, chiếu ra từ tim của Phật
Kim Cương Tát Đỏa và người
phối hợp của ngài.
Cùng lúc, có ánh sáng của
địa ngục, một thứ ánh sáng màu xám không chói. Khi người đó
nhận biết được dường như quá
phức tạp đối với sự phô diễn của phẩm chất
kim cương vajra, nên rất có thể sẽ
đơn giản hóa ánh sáng trắng lấp lánh thành ra ánh sáng xám phối kết với
địa ngục, cũng
như ý tưởng thâm căn cố đế của sự hoang tưởng luôn được
liên kết với phẩm chất
kim cương trí huệ. Để có sự thấu hiểu có
tính chất trí huệ, bạn phải thấy cái gì là sai thay vì cái gì là đúng nơi mọi sự, đó là phẩm chất
trí huệ của
kim cương vajra
thiên nhiên, tức là
thái độ truy xét
lỗi lầm của một tâm có
chánh kiến luôn có sự
kiên định chắc chắn. Nếu bạn
hiểu biết sự việc
dựa trên chánh kiến của một
thái độ truy xét
lỗi lầm thì
trí huệ của bạn sẽ được đặt trên một nền tảng rất ư
kiên cố và khẳng định. Nó sẽ không thể bị lay chuyển. Nhưng một hướng khác của nó sẽ là
cõi địa ngục một khi
thái độ tra xét lỗi lầm không được
dựa trên sự
kiên định, sự
sáng suốt có căn cứ mà lại làm phát sinh một
phản ứng dây chuyền của sự hoang tưởng, có thể nói giống như một đồng hồ
báo thức.
NGÀY THỨ BA
Trong quá trình các ngày qua,
tính chất Pháp giới của
Phật Tỳ Lô Giá Na cung cấp hư không,
tính chất của Phật
Kim Cương Tát Đỏa-A Súc Bệ là
cung cấp sự
kiên cố. Giờ đây đến lượt
mô tả linh ảnh của
Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava) Ngài
Bảo Sanh Phật là
hình tượng trung tâm của bộ
Bảo Sanh (Ratna) gồm chứa sự
giàu có được người khác
kính trọng, sự
giàu có được phát triển sang các lĩnh vực khác ; về cơ bản, nó có
tính cách kiên cố,
sung túc, phát triển rộng ra. Khía cạnh
tiêu cực của
tính chất Bảo Sanh là
lợi dụng sự
giàu có để lấn sang các lĩnh vực khác, lấn lướt khắp nơi, bất kỳ chỗ nào có
hư không,
cậy thế sự hào phóng
giàu có tới mức mà sự
cảm thông giao tiếp bị tắc nghẽn.
Ngài
Bảo Sanh Phật có thân màu vàng,
thể hiện màu của đất –
biểu tượng sự
sung túc lắm tiền nhiều của. Ngài cầm viên
ngọc như ý, điều này cũng có nghĩa
vắng bóng sự
nghèo khó. Người
phối hợp của Ngài là Mamak,
thể hiện yếu tố nước ; để có được vùng đất phì nhiêu
giàu có thì đất cần có nước.
Hư Không Tạng Bồ Tát (Akasagarbha)
thể hiện yếu tính của
hư không. Với nền tảng trù phú như vậy bạn cũng cần
hư không để tạo ra toàn cảnh. Và còn có Ngài
Phổ Hiền Bồ tát (Samantabhadra – the All-Good), ngài là
sức mạnh cơ bản, phẩm chất cơ hữu của
toàn bộ mạn đà la của Bộ
Bảo Sanh (Ratna family). Theo
phương pháp truyền thống để
tìm kiếm một nơi cất nhà,
xây dựng tu viện hay để tìm một cánh đồng canh tác (rất có thể do
truyền thống đạo Bošn ở
Tây Tạng), bạn không thể bạ đâu làm nhà cũng được, nhưng bạn phải chú ý đến một số
yếu tố tâm lý. Ở phương đông thì
cảm thấy được rộng mở, ở phương nam thì thấy ngọt ngào
thoải mái với dòng suối dòng sông, ở phương tây thấy sự
kiên cố với những dãy đá núi, ở phương bắc thấy được sự
che chở với rặng núi. Cũng có cách dùng dòng nước để tìm chỗ xây nhà, bằng cách nhìn vào miếng đất, kế một dòng nước
thường có một
vị trí, nhưng chỗ đó đừng là vũng lầy mà là nền đá. Nền đá
đặc biệt như vậy, bao bọc
xung quanh bởi những
vị trí hình dạng
thích hợp, được gọi là
Phổ Hiền, đất
Phổ Hiền. Người ta
liên tưởng ngài
Phổ Hiền như là sự
tinh tấn và
ý nghĩ tích cực, một
lòng tin căn để và một
phương pháp tích cực để
tinh tấn.
Ngài
Bảo Sanh Phật được tháp tùng bởi
Bồ tát nữ Mala, vị
thiên nữ dâng
lễ vật gồm tất cả
các loại trang sức, dây chuyền, vòng đeo tay, vòng cườm bằng hoa v.v...
biểu lộ những nét
nổi bật nhất của phẩm chất đất của bộ
Bảo Sanh. Vị
Bồ tát nữ khác nữa là Dhupa, vị
thiên nữ mang hương nhang. Ngài
biểu tượng cho mùi, hương,
hoàn cảnh môi trường mà đất tạo ra
như không khí trong lành, tươi mát, một
không gian cho cây trái phát triển và cho dòng sông chảy xuôi.
Ánh sáng
kết hợp với bộ
Bảo Sanh là ánh sáng vàng
ôn hòa thư thái, một thứ ánh sáng
vô phân biệt. Nhưng dường như tất cả những nội dung, sự
phong phú giàu có của
mạn đà la bộ
Bảo Sanh quá ư
siêu thoát, quá
ư huy hoàng
kỳ diệu nên có khả năng tâm
nhận biết thích
chạy trốn vào một góc nhỏ, một nơi rất
đơn giản, – một chốn tự mãn – và cái góc nhỏ đó chính là sự kiêu hãnh, một thứ ánh sáng mờ nhạt của
cõi người.
NGÀY THỨ TƯ
Vào ngày thứ tư có hỏa địa được tịnh hóa,
thể hiện bởi
A Di Đà Phật (Amitabha), bộ
Hoa Sen (padma family).
A Di Đà có nghĩa là
Vô Lượng Quang và phẩm tính
căn bản của
hoa sen là có sức thu hút
quyến rũ, nhiệt tình
lôi cuốn, mở toang, trống rỗng và
đại bi. Nói là
Vô Lượng Quang bởi vì nó đích thị sáng chiếu một cách
tự nhiên, không đòi hỏi sự khen thưởng. Nó có
bản chất của lửa chứ không phải theo nghĩa cái nóng
sân hận, nó
tiêu dùng bất cứ chất liệu nào mà không hề từ chối hay
chấp nhận. Ngài
A Di Đà cầm trên tay một đóa sen, điều này có nghĩa :
hoa sen nở khi
mặt trời mặt trăng chiếu sáng lên đóa hoa, nó nở về hướng có ánh sáng và
chấp nhận bất kỳ tình huống nào đến từ bên ngoài.
Hoa sen có phẩm chất
tinh khiết hoàn hảo ; với lòng
đại bi như vậy, nó mọc lên từ trong bùn đất
dơ bẩn nhưng đóa hoa thì
trong sạch và
toàn thiện một cách
trọn vẹn. Ngài ngự trên lưng con công việc này lần nữa
thể hiện sự mở trống và sự
hoan hỷ chấp thuận : trong
thần thoại, chim công được coi như
nuôi dưỡng bằng chất độc, những màu sắc đẹp lộng lẫy của nó được tạo nên từ việc ăn chất độc. Sự mở trống rộng ra tới mức nó có thể
giải quyết được mọi tình huống
bất thiện vì
thực ra chính vì các tình huống
bất thiện đó mà lòng
đại bi được
hoan hỷ và
sinh động.
Người
phối hợp của Ngài là Pandaravasini, vị
Phật Mẫu mặc
áo choàng trắng –
liên tưởng đến sự
hình tượng hóa
câu chuyện thần thoại Ấn Độ về loại quần áo được dệt bằng sợi làm bằng đá, chỉ được tẩy sạch bằng lửa.
Phật Mẫu thể hiện bản chất của lửa là
tiêu hủy mọi thứ và cũng là kết quả của quá trình
tiêu hủy, sự tịnh hóa, lòng
đại bi vẹn toàn.
Kế đến là
Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokitesvara), Ngài quán thấy khắp
thập phương, Ngài
thể hiện tinh túy của
đại bi, đó là trí
đại bi vô thượng. Bất cứ khi nào
cầu khẩn thì trí
đại bi đó
xuất hiện một cách
tự nhiên, nó có phẩm chất là
chính xác, tự động. Đó không phải là loại
đại bi mù quáng,
mê muội, mà là
đại bi có
trí huệ, luôn luôn
đạt được sự
hoàn tất triệt để. Ở đây còn có ngài
Văn Thù Bồ tát (Manjusri)
thể hiện khía cạnh cơ động của
đại bi, mang
tính chất trí huệ chứ không phải những rung cảm đột xuất. Ngài còn là người
sáng tạo âm thanh – đó là
phương tiện thông tri của
đại bi – Ngài
thể hiện âm thanh của
tánh Không, đó là nguồn gốc của mọi
lời nói.
Còn có nữ
Bồ tát Gita, người hát những bài nhạc của Ngài
Văn Thù, cùng với Ngài Aloka đang cầm
ngọn đèn hay ngọn đuốc. Tiến trình
trọn vẹn của trí
đại bi có ánh sáng và nhịp điệu, nó có
trí huệ sâu sắc và sự
hiệu quả sắc nét, và nó có
bản chất tịnh hóa của vị
Phật Mẫu mang
áo choàng trắng cũng như
bản chất soi sáng đến
vô tận của Phật
A Di Đà.
Đó là
toàn thể của bộ
Hoa Sen, vượt lên trên
tưởng uẩn và
soi sáng bằng ánh sáng đỏ của
trí huệ nhận biết vô phân biệt. Lòng
đại bi rất sắc nét,
chính xác cho nên rất cần có
trí huệ nhận biết vô phân biệt, ở đây
vô phân biệt không có nghĩa ở dưới dạng
chấp nhận và chối bỏ, mà
đơn giản là thấy sự vật như chính nó là.
Trong sách
Tử thư, cõi này thường được đi kèm với cõi quỷ đói ; có sự
tranh chấp ở đây, bởi vì
đam mê thường
liên kết với cõi người. Sự sắc nét và
chính xác, sự sâu sắc và sự huy hoàng, tất cả những phẩm chất này của bộ
hoa sen tràn ngập,
áp đảo, và bằng cách này hay cách khác, tâm
nhận biết sẽ muốn chơi trò chơi
câm điếc, nó muốn lẩn
tránh khỏi bức tranh trọn vẹn đó,
đi vào ngã lệch
đưa tới những
đam mê thường lệ.
NGÀY THỨ NĂM
Vào ngày thứ năm, có bộ Nghiệp, tức là
tính chất tinh khiết của không khí hay gió. Nó có màu xanh lá cây, màu của
ganh tỵ. Từ cõi Các
Hành Vi Tích Tựu (Realm of Accumulated Actions), Phật
xuất hiện. Bộ Nghiệp được
kết hợp với
hành vi, sự
thành tựu và tính
hiệu quả. Nó có
quyền lực mãnh liệt và không có gì
chịu đựng nổi trong cung cách của nó cho nên nó được coi như có
tính chất triệt phá. Phật
Bất Không Thành Tựu mang
ý nghĩa thành tựu mọi
hành vi, mọi
quyền lực.
Ngài cầm một
kim cương sử chữ thập trong tay.
Kim cương vajra là
biểu tượng thành tựu mọi
hành vi, kiên cường,
bất hoại như
chúng ta đã thấy trong bộ
kim cương vajra.
Kim cương sử chữ thập
thể hiện lãnh vực của tất cả các
hành vi được
nhận biết trọn vẹn trong tất cả
phương hướng – sự
thành tựu toàn khắp ; nó thường được
mô tả như là
kim cương sử muôn màu.
Ngài ngự trên tòa ngồi của một con shang-shang, một loại thần điêu garuda (kim xí điểu), con chim này như là một nhạc công, cầm hai cái chũm chạc (một loại nhạc cụ) trên hai chân, vừa chơi nhạc cụ này và vừa chở Phật
Bất Không Thành Tựu trên lưng.
Một lần nữa, con thần điêu
biểu tượng một
hình ảnh mạnh mẽ, một sự
thành tựu – nó là thần điêu
siêu việt, nó bay khắp
mọi nơi, ôm
trọn vẹn hư không.
Người
phối hợp là Samaya-Tara ; có nghĩa là vị
Cứu Độ của Lời
Thiêng Liêng (Saviour of Sacred Word) hay Samaya. Có nhiều cách
giải thích khác nhau về samaya trong
giáo lý kim cương thừa, ở trong
trường hợp này đó là sự
viên thành hiện thực của tình huống
sống động ngay khoảnh khắc đó.
Còn có
Kim Cương Thủ Bồ tát (Vajrapani), có nghĩa là người đang cầm
kim cang vajra. Lại nữa, điều đó
tượng trưng năng lực phi thường, Ngài là vị
Bồ tát của
năng lực. Và còn có
Trừ Cái Chướng Bồ tát (Sarvanivaraviskambhim)
Bồ tát tịnh hóa tất cả các
chướng ngại. Nếu có
chướng ngại nào xảy ra trong quá trình
hoạt động của nghiệp,
chướng ngại đó
xuất phát từ sự
mê lầm hay mất khả năng tiếp cận với tình huống
sinh hoạt thực tế, cho nên vị
Bồ tát này sẽ tẩy sạch những
chướng ngại này. Nói cách khác, bộ nghiệp này chứa đựng cả hai ; sự tẩy sạch các
chướng ngại và
năng lực thành tựu.
Kế đến có các nữ
Bồ tát là Gandha và Naivedya. Gandha là vị
Bồ tát của hương thơm, Ngài
mang theo mùi thơm tinh chất lấy từ tất cả
các loại cỏ, nó
thể hiện những
cảm giác hay những
nhận biết bằng
giác quan – để có được
hành vi thiện xảo hiệu quả bạn cần sự
nhận biết bằng
giác quan ở mức độ phát triển cao. Nữ
Bồ tát Naivedya
cung cấp thức ăn – đây là loại
thức ăn bằng
thiền định, nó
nuôi dưỡng hành vi thiện xảo.
Bộ Nghiệp siêu vượt lên trên
hành ấm (skandha of concept) và được nối kết với cõi Atula (cõi các
thiên giới ganh tỵ) – sự
mê lầm và sự
kinh nghiệm trí huệ, cả hai đều có cùng một
tính chất. Trong
trường hợp này, cả hai đều có
tính chất chiếm lấy làm
sở hữu, nhưng
trí huệ bao quát
trọn vẹn cái nền tảng của mọi khả tính, thấy biết mọi phương thức khả thi để
giải quyết các tình huống ở cả các dạng chủ thể và khách thể,
năng lực, cơ cấu, tánh khí, về tốc độ, về
phạm vi không gian, và
vân vân, trong khi mà sự
mê lầm có một phương thức
giải quyết các tình huống một cách rất hạn hẹp, bởi vì tự
bản thân nó không bao giờ đã
mở rộng ra được một tí nào cả. Sự
mê lầm là
trí huệ không được phát triển, một thứ
trí huệ còn
sơ khai, trong khi
trí huệ thì ở dạng đã được phát triển
trọn vẹn.
NGÀY THỨ SÁU
Kế tiếp có sự hội tụ ở thời điểm đỉnh cao của bốn mươi hai
thiện thần bình yên. Năm
Như Lai, bốn vị
hộ pháp gìn giữ các cổng, bốn
thiên nữ và sáu cõi
thế gian xuất hiện cùng một lúc.
Chúng ta bị choáng váng trong tình huống linh ảnh Năm
Như Lai ngập đầy
hư không khắp
mười phương, trong tận cùng ngõ ngách
cảm xúc, không chỗ nào có được một kẽ hở, không có chỗ ẩn núp, cũng không có một sơ sót nào bởi vì có bốn loại herukas
canh giữ bốn hướng.
Vị giữ cổng phía đông có tên là Bậc Chiến Thắng, ngài lo việc giữ yên mọi sự, nhưng ngài
hiện ra với bộ mặt hung dữ khiến phát sinh bầu không khí nể sợ ở cổng đó, khiến cho bạn không nghĩ đến chuyện
bỏ ra đi. Ngài
thể hiện một phẩm chất bình yên mang
tính cách vô địch,
bất hoại.
Vị thứ hai ở cổng phía nam, có tên là
kẻ thù của Thần Chết (Yama). Ngài được nối kết với các
hoạt động nghiệp quả gia tăng sự
thịnh vượng. Sự
thịnh vượng ở dưới dạng
không gian và
thời gian thì rất
hạn chế, có tính toán hơn thua, ở đây ngài siêu vượt lên trên các
hạn chế đó, ngài là Vua – người đứng trên
Diêm Vương.
Ở cổng phía tây là vị Hayagriva Đầu Ngựa (the Horse-headed Hayagriva) Ngài có
chức năng tương đương với
hệ thống báo động như tiếng hí của con ngựa có thể
đánh thức bạn trong những tình huống bất ngờ. Nó
liên quan đến sự phóng rọi ra lớn rộng bao quát, một kiểu
quan tâm sáng suốt sao cho bạn không
mắc kẹt vào sự
đam mê, và bạn lúc nào cũng được
đánh thức.
Ở cổng phía bắc là Amrtakundali có nghĩa là cái vòng của Amrta hay loại thuốc chống chết. Nếu bất ngờ bị thúc dục tự tử vì mất
hết hy vọng thì thuốc chống chết này
giải cứu bạn ; tự tử
hoàn toàn không phải là lối
giải quyết vấn đề. Bạn có được sự
hiện diện bình yên vô địch, một
hiện diện gia tăng không ngừng vượt khỏi
ý niệm thời gian,
không gian, một nguyên lý
hấp dẫn phát ra sự
báo động và một nguyên lý tự tử cho bạn thứ thuốc chống chết. Như vậy, từ gốc rễ, bạn
hoàn toàn được khóa chặt ở trong, không
cho phép bất kỳ sai lệch nào. Thêm nữa, còn có những nguyên lý
nữ tính của các vị nguyên lý nữ ở dạng cái móc câu, câu bạn như câu cá một khi bạn cố bỏ chạy. Hoặc bạn cố thoát đi trong
hình thức cái tâm
kiêu ngạo lấp đầy mọi khoảng trống không các khả năng khác có thể xảy ra thì vị
thiên nữ với sợi
thòng lọng cột chặt bạn từ đầu đến chân để bạn không một cơ may để
mở rộng tâm
kiêu ngạo lớn ra. Một khả năng khác có thể xảy ra là với sự
đam mê bạn bỏ chạy ; sự
đam mê đó dựa cơ sở trên tốc độ. Một
thiên nữ với xâu chuỗi cột bạn lại sao cho bạn không thể
di chuyển đôi chân bỏ chạy. Và nếu bạn cố hét lớn làm cho ai đó
kinh hãi và làm cho bạn
lệch hướng thì vị
thiên nữ với cái chuông phát ra
tiếng chuông rất lớn lấn át tiếng hét
đe dọa và tiếng gầm từ đáy
cơn giận của bạn.
Rồi thì bạn bị đưa xuống đối mặt với sáu cõi
sanh tử : Vị Phật của
cõi trời, vị Phật cõi Atula, vị Phật
cõi người, vị Phật cõi
súc sanh, vị Phật
cõi ngạ quỷ, và vị Phật
cõi địa ngục. Tất cả các
hình ảnh này
hiện ra từ trong
trung tâm của tim bạn được
liên kết với xúc tình,
đam mê,
vui sướng.
NGÀY THỨ BẢY
Kế tiếp các vị
Trì Minh Phật (Vidyadharas : người nắm giữ sự
hiểu biết sâu sắc,
năng lực khám phá và thông tin) bắt đầu chiếu sáng từ
trung tâm cổ họng, đó là
bản chất của nguyên lý giao tiếp. Các thần bình yên được gắn với khối óc.
Lời nói là chiếc cầu giao tiếp thông tin giữa hai nơi, đó là các vị
Trì Minh Phật.
Trì Minh có nghĩa là người nắm giữ sự hiểu thấu đáo không phải có tính bình yên hay hung nộ, nhưng là
trung gian,
vô ký. Các ngài rất có
ấn tượng, có
quyền lực vượt trội và rất
trang nghiêm,
thể hiện sắc thân thiêng liêng của các vị guru
kim cương thừa,
sở hữu oai lực vượt lên trên các khía cạnh huyền bí diệu kỳ của
vũ trụ.
Đồng thời, ánh sáng xanh lá cây của cõi
súc sanh xuất hiện,
tượng trưng cho
vô minh cần sự giảng dạy của vị guru để soi tỏ nó.
CÁC THẦN XUNG NỘ
Giờ đây, những nguyên lý của Năm
Như Lai được
chuyển hóa thành ra các thần herukas cùng với các vị
phối hợp.
Tính chất cơ bản của
Ngũ Bộ Phật vẫn
tiếp tục, nhưng giờ đây được
diễn đạt theo cách thức rất kịch tính ; đó là
năng lực của
kim cương vajra,
hoa sen vân vân thay vì ở dạng nguyên
tính cơ bản. Các vị herukas có ba đầu sáu tay.
Ý nghĩa tượng trưng ở đằng sau
hình dáng nhiều tay nhiều đầu này là oai lực của sự
biến hóa được
diễn đạt trong chuyện
thần thoại về khả năng
chinh phục của thần Rudra.
Rudra là một
hình tượng,
tượng trưng sự
hoàn thành ngã tính một cách
trọn vẹn.
Ngày xưa có hai người bạn cùng học một thầy, vị thầy giảng rằng
tinh túy của
giáo pháp của ông là
trí huệ bản nhiên (spontaneous wisdom), thậm chí ngay cả khi ta tự ý buông thả để
can dự vào những
hành vi quá đáng, thì các
hành vi đó như
đám mây trong bầu trời sẽ được tan mất bởi tính bản nhiên rất
căn cơ đó (fundamental spontaneity). Hai người học trò đã hiểu
giáo lý đó theo cách
hoàn toàn khác nhau. Một người ra đi, bắt đầu
hành trì theo cách bản nhiên đối với cá tính riêng của ông ta, thiện cũng như
bất thiện, và
đạt được đến chỗ có khả năng
giải phóng các cá tính riêng đó một cách bản
nhiên không hề có một tí sự
cưỡng bức – không khuyến khích
yểm trợ cũng không
đàn áp chúng. Người kia
bỏ ra đi lập nhà thổ tổ chức một đám du đãng hành động buông thả,
cướp bóc các làng mạc, chém giết đàn ông, bắc cóc đàn bà.
Ít lâu sau hai người gặp lại nhau và đều quá bất ngờ về sự khác biệt của kiểu sống theo tính bản nhiên tự phát của người bạn mình, họ bèn
quyết định tìm lại người thầy để hỏi. Hai người học trò đều trình bày
kinh nghiệm của mình cho thầy nghe, người thầy nói rằng người đầu tiên đã làm đúng, người thứ hai đã sai. Nhưng người học trò thứ hai này không thể
chịu đựng được khi thấy rằng mọi
nỗ lực cố gắng của mình đã bị
chỉ trích kết tội, nên ông rút gươm và giết chết vị thầy ngay tức khắc.
Khi người học trò
ác độc đó đến lúc phải chết, ông ta
tái sanh liên tục, năm trăm kiếp làm con bò cạp, năm trăm kiếp làm chó sói, và còn nhiều nữa, và
cuối cùng ông ta
tái sanh vào
cõi trời làm Rudra.
Khi sanh ra, ông ta có ba đầu và sáu tay với những móng vuốt và răng màu nâu, đầy đủ. Mẹ ông ta chết ngay khi ông ta mới sanh, và các vị trời quá
kinh hãi nên đưa thi thể người mẹ cùng với ông ta đến nhà mồ, và bỏ vào một cái mồ. Đứa bé (tức ông ta) được
sống sót nhờ hút máu và
ăn thịt sống của mẹ, nên ông ta trở nên trông rất
kinh hãi, rất khỏe và rất mạnh. Ông ta đi
quanh quẩn vùng nghĩa địa,
tụ họp điều khiển các con ma, các thần ở trong vùng, ông ta tạo lập vương quốc riêng cho mình như đã làm trước đây, cứ thế bành trướng
cho đến khi ông ta cai quản được
toàn bộ ba cõi.
Đến lúc này, vị thầy và người bạn
đồng môn đã đạt
giác ngộ trước rồi, giờ đây họ nghĩ rằng họ phải
điều phục ông ta. Do đó
Kim Cương Thủ (Vajrapani), tự
biểu lộ ra
thành thần Hayagriva có gương mặt đỏ trông
dữ tợn với cái đầu ngựa, hí vang ba tiếng để
công bố sự có mặt của mình trong vương quốc Rudra. Rồi, ngài
xâm nhập vào bên trong
thân thể của Rudra theo ngõ hậu môn ; bấy giờ Rudra
bị khuất phục,
đồng ý dâng
hiến thân thể mình làm một
phương tiện, một công cụ. Tất cả những
lễ vật tượng trưng vương quyền và trang phục nhà vua của Rudra như vương miệng bằng sọ người, tách uống nước bằng sọ người, các món trang sức bằng xương, áo bằng da cọp, khăn choàng bằng da người và da voi, áo giáp, đôi cánh, cái mũ hình trăng lưỡi liềm trên đầu,
vân vân đều
tức thời biến thành ra trang phục của thần heruka.
Trước hết, có vị Heruka Vĩ Đại, ngài không có
liên kết với bất kỳ vị Phật nào trong Năm Bộ
Như Lai, ngài là khoảng không giữa năm Bộ Phật. Vị Heruka Vĩ Đại
sáng tạo ra
năng lực căn bản cho các vị Heruka xung nộ, ngài cũng tạo
năng lực cho cho các vị Heruka Phật, Heruka
Kim Cương, Heruka
Bảo Sanh, Heruka
Hoa Sen, Heruka Nghiệp cùng với các vị
phối hợp tương ứng. Các vị
thể hiện phẩm chất tàn bạo, sung sức, vô địch của
năng lực.
Ngũ Bộ, về cơ bản, là
một thể có
tính cách bình yên, mở toang,
thụ động, bởi vì
hoàn toàn ổn định, không có gì có thể khuấy động được ; ở đây,
sức mạnh vô biên của
thể tánh bình yên đó đang
thể hiện ở dạng xung nộ. Nó thường được
mô tả như là sự
giận dữ vì quá
thương yêu chứ không phải căm ghét.
Rồi có những gauris – những
thiên nữ trang phục màu trắng – một kiểu
năng lực dữ dội khác nữa. Năm vị herukas với
năng lực thế nào thì
hiện ra như thế, còn ở đây các gauris này là loại
năng lực kích hoạt. Vị gauri áo trắng nhảy múa quanh một
tử thi, bà muốn
dập tắt tiến trình các niệm, cho nên bà ta cầm một
tích trượng làm bằng thi thể một đứa bé. Thông thường, một thi thể
tượng trưng trạng thái vô ký căn bản của
chúng sanh ; một thi thể đã không còn sống là
một thể không còn những niệm được khởi lên nữa, chẳng có niệm thiện, niệm ác – đó là
trạng thái bất nhị của tâm. Đến lượt
thiên nữ gauri áo vàng cầm một cái cung và một cây tên bắn, bà đã
đạt được sự
phối hợp giữa
kiến thức và
phương tiện thiện xảo, công việc của bà là hợp nhất hai thứ đó lại. Rồi có gauri áo đỏ, cầm một ngọn cờ chiến thắng làm bằng da của con quái vật ở dưới biển. Quái vật ở biển
tượng trưng cho
sự thật chung của cõi
sanh tử không thể thoát ra được ; bà cầm nó ở dạng một ngọn cờ điều, ngụ ý rằng không chối bỏ mà
chấp nhận cõi
sanh tử như nó như vậy. Đến lượt ở phương bắc là Vetali, màu đen, cầm một
kim cương sử và một cái tách bằng sọ người, bà
tượng trưng phẩm chất
bất biến của
pháp tánh kim cương sử là
bất hoại và cái tách bằng sọ người là một
biểu tượng khác nữa của
phương tiện thiện xảo.
Chúng ta không cần đi sâu vào
chi tiết những điều này, chỉ nêu ra ý cơ bản về các gauris này cùng với những
thông tri kết hợp với
mạn đà la xung nộ, mỗi
hình ảnh đặc biệt đều có một
chức năng trong việc
hoàn thành năng lực đặc biệt đó.
Các thần xung nộ
đại diện cho sự
hy vọng, và các thần bình yên
đại diện cho sự kinh sợ. Sự kinh sợ này trong
ý nghĩa kinh tởm và khó chịu bởi vì là gì thì trong một
chừng mực nào đó cái ngã cũng không thể điều động được các thần ; các vị đó
hoàn toàn không khuất phục, các vị không bao giờ kháng cự.
Tính chất hy vọng của
năng lực xung nộ là
hy vọng trong
ý nghĩa của một tình huống
sáng tạo liên tục không ngừng, được thấy như nó thực sự như vậy, như một
năng lực vô ký cơ bản được
liên tục không ngừng, chẳng phải thiện, cũng chẳng phải ác. Tình huống đó dường như tràn ngập tất cả và vượt ra ngoài sự điều khiển của bạn.
Xu hướng là hoảng sợ, là nghĩ rằng mình có thể điều khiển được ; nó giống như việc bất
thình lình nhận thấy mình đang chạy xe rất nhanh nên đạp thắng lại và vì thắng gấp nên gây ra
tai nạn.
Chức năng của các vị gauris là
xen vào giữa thân và tâm. Trong
trường hợp này tâm là trí
sáng suốt và thân là
tính cách của một hành động bất ngờ không kịp
suy nghĩ. Các vị gauris chận ngang giữa trí và hành động, họ cắt đứt sự
liên tục tự
che chở do cái ngã làm ra ; đó là
tính chất dữ dội của các vị gauris. Họ là thay đổi
hoàn toàn năng lực hủy diệt thành ra
năng lực sáng tạo. Cho nên nội lực của
tính cách bất ngờ không kịp
suy nghĩ của một hành động hay một sự hoảng sợ được
chuyển đổi hoàn toàn, giống
y như thân của quỷ vương Rudra thay đổi
hoàn toàn thành ra heruka.
NGƯỜI ĐANG SẮP CHẾT
Theo
văn hóa Tây Tạng, người ta dường
như không coi cái chết như một cái gì
đáng sợ,
đặc biệt khó khăn ; nhưng ở đây – ở các nước phương Tây này – người ta thấy quá khó khăn để nói đến cái chết. Không ai nói cho họ biết về
sự thật sau cùng này. Chính sự chối bỏ
kinh khủng này, sự từ chối
tình thương rất cơ bản này đã khiến
cho không có ai muốn giúp đỡ
tâm thức của người sắp chết.
Trừ phi người sắp chết đang ở trong
trạng thái mê man bất tỉnh hay không thể nghe nói được, còn không thì trong những
trường hợp thông thường người đó cần được bảo
cho biết là ông ta sắp chết. Thật ra, có thể khó nói như vậy, nhưng nếu bạn là người bạn, là chồng hay vợ thì lúc này là cơ hội lớn nhất để bày tỏ sự
tin cậy thực sự. Sẽ có một tình huống
hài lòng đến cho ông ta vì rằng
cuối cùng còn có người
để ý chăm lo cho, rằng người đó không đang nói điều
đạo đức giả, nói láo để
vừa lòng, như đã từng lừa dối như vậy trong lúc ông ta còn sống.
Niềm tin cậy tận
đáy lòng đó sẽ là rất
tuyệt vời, chính nó sẽ gút lại thành ra sự
chân thật tối hậu.
Chúng ta nên
cố gắng phát sanh nguyên lý này.
Điều quan trọng là giữ mối
liên hệ với người sắp chết, bảo với ông ta rằng vào
thời khắc đó, cái chết không phải là sự không thể có – sự tưởng tượng, nhưng là sự việc
thực tế đang xảy ra. Bạn hãy nói : “Cái chết đang xảy ra thực,
chúng tôi là bạn của bạn,
chúng tôi đang canh chừng cái chết của bạn.
Chúng tôi biết bạn đang sắp chết và bạn cũng biết bạn đang sắp chết,
chúng ta thực sự cùng nhau hiểu được điều này.” Đó là
sự thể hiện tình bạn và sự
cảm thông tốt nhất,
dịu dàng nhất, nó
biểu lộ sự cảm kích
vô cùng sâu sắc đối với người sắp chết. Bạn có thể nên
quan sát đến thể trạng của ông ta,
để ý tới sự
suy sụp dù rất
vi tế trong
thính giác, khả năng giao tiếp nghe nói, trong các
giác quan của cơ thể, sự
diễn đạt biểu lộ trên gương mặt,
vân vân. Nhưng có những người có
sức mạnh tâm linh rất ư mãnh liệt, họ có thể luôn nở nụ cười trong giây phút
cuối cùng, cố
chống lại sự
suy sụp của các
giác quan,
chống lại “cái lão” cho nên người ta nên
nhận ra tình huống này nữa. Việc đọc suông văn
bản giáo lý “Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này thì không đủ, người sắp chết cần biết rằng bạn đang
cử hành một
nghi lễ nào đó cần cho ông ta. Bạn nên có sự
hiểu biết về
toàn bộ vấn đề, không phải chỉ đọc suông, mà làm sao như thể đang nói chuyện
với nhau : “Bạn sắp chết, bạn sắp xa rời bạn bè,
gia đình bạn, những gì
ưa thích, môi trường chung quanh sẽ không còn đó nữa, bạn sắp xa rời
chúng tôi. Nhưng
đồng thời, một điều gì đó vẫn
tiếp tục, đó là mối quan hệ
tích cực thiện hạnh giữa bạn với bạn bè và với
đạo pháp, nên hãy
giữ gìn sự
liên tục tự
căn bản đó, nó
hoàn toàn vô ngã. Khi bạn chết, sẽ
trải qua đủ tất cả các thứ
kinh nghiệm bị
tổn thương rất khó chịu : phải bỏ thân xác lại, bạn cũng sẽ có những kỷ niệm cũ
trở lại với bạn như những cảnh trong
giấc mộng. Dù bất cứ những
ảnh hiện những thứ cảnh trong mộng
hiện ra ra sao đi nữa, thì bạn hãy thuần chỉ
liên hệ với điều đang xảy ra hơn là bỏ chạy đi. Hãy ở lại đó, thuần chỉ
liên hệ với nó.”
Trong khi bạn đang nói chuyện với người sắp chết những lời như thế, trí
sáng suốt và sự
nhận thức (in telligence and consciousness) của ông ta đang
suy sụp, nhưng
đồng thời ông ta cũng phát triển một thứ
nhận thức cao độ hơn đối với tình cảm những người
xung quanh, nên nếu bạn có được nhiệt
tình tự đáy lòng và sự
tin tưởng sâu sắc rằng điều bạn đang nói cho ông ta nghe là
sự thật chứ không phải những điều người ta bảo bạn nói, thì điều đó thật sự rất quan trọng.
Cũng có thể nên
giải thích một cách
đơn giản về tiến trình của sự
suy sụp tan rã từ đất sang nước, nước sang nhiệt và
vân vân, tiến trình
suy sụp từng bước này của thân xác
cuối cùng kết thúc trong tạng
linh quang (luminosity principle). Để đem người đó vào
trạng thái linh quang, bạn cần một cái nền – một
điểm tựa – cơ bản để
dựa vào đó, và cái nền đất cơ bản này chính là sự
kiên cố của người đó. “Các bạn bè biết rằng bạn sắp sửa chết, nhưng không ai sợ hay kỵ, họ đều thực sự có mặt ở đây, họ đang nói với bạn rằng bạn sắp chết, không có gì
đáng ngờ sau lưng bạn.” Việc có mặt đầy đủ
mọi người xung quanh người sắp chết là điều rất quan trọng.
Dựa vào cái
hiện tiền mà thôi sẽ có
tác động mãnh liệt cùng cực bởi vì ở thời điểm đó có sự không
tin cậy đối với thân cũng như tâm. Đầu óc và thân xác đang
suy sụp, nên bạn chỉ
dựa vào tình huống đó (cái
hiện tiền) mà
cung cấp nền tảng
vững chắc.
Bao lâu mà các
ảnh hiện của các thần bình yên và các thần xung nộ còn
xuất hiện, người chết phải tự mình
thiết lập mối quan hệ với các
ảnh hiện đó. Sách
Tử thư nói rằng bạn nên cố gọi
linh hồn người chết
xuất hiện và bảo cho người ấy biết về các
ảnh hiện nếu vẫn còn có sự
liên tục (
ý thức) thì bạn có thể làm điều đó nhưng với người chết là một người
bình thường thì việc đó sẽ là việc đoán mò, không có chứng cứ thực sự là bạn đã không mất sự
tiếp xúc được với người đó.
Toàn bộ vấn đề ở đây là, khi bạn đọc những hướng dẫn (của
Tử thư) cho người đang chết, thực sự bạn đang nói chuyện với chính bạn.
Trạng thái ổn định của bạn sẽ là một phần giúp cho người chết, cho nên nếu bạn ổn định thì tự động, người chết đang trong
trạng thái bardo sẽ được
lôi cuốn vào đó. Nói cách khác, hãy
thể hiện một tình huống rất
sáng suốt và
kiên định đối với người sắp chết. Hãy xác lập sự nối kết với ông ta,
đồng thời hãy
mở rộng tấm lòng đối
với nhau và phát triển sự gặp gỡ của hai tâm.