BIẾN SỰ THỰC HÀNH THÀNH
BỘ PHẬN CỦA ĐỜI MÌNH
Nói chung, bằng
thuật ngữ “hành
giả Pháp,”
chúng ta muốn nói tới một người có thể vận dụng mọi loại
hoàn cảnh, tốt cũng như xấu, người có thể
sử dụng ngay cả những
kinh nghiệm tệ hại
nhất như các chất xúc tác để trợ giúp cho những
tiến bộ vượt trội hơn nữa trong
thực hành của họ. Những
hoàn cảnh trong đó
chúng ta tự
nhận biết mình phải thực sự làm
sáng tỏ sự
thực hành, những
kinh nghiệm và sự
chứng ngộ của ta, và
chúng ta cần có khả năng thấu hiểu mọi tình huống, cả
thuận lợi lẫn
bất lợi, như những
giáo lý trên
con đường.
Đừng bao giờ để các
chướng ngại có thể phát sinh từ những
hoàn cảnh tốt lẫn xấu
cản trở hay khống chế
chúng ta.
Chúng ta phải như đất, nó dung chứa tất cả
chúng sinh, không
phân biệt cái tốt hay xấu,
thuận lợi hay
bất lợi. Đất chỉ
đơn giản nhẫn chịu. Khi đối mặt với những tình huống khó khăn, một
hành giả nên
sử dụng chúng như một cơ hội để
củng cố thực hành của mình, giống như một cơn gió mạnh, thay vì
dập tắt một ngọn lửa lại làm cho nó mạnh thêm và thậm chí còn làm cho lửa bùng cháy hơn nữa.
Khi gặp những
hoàn cảnh bất lợi, như các
ảnh hưởng xấu, những
lời nói ác, sự
chỉ trích, hay ngay cả khi bị ném vào tù,
chúng ta đừng nghĩ: “Tôi đã
cầu nguyện Tam Bảo quá nhiều; tôi không đáng bị sự đối xử như thế.”
Chúng ta nên hiểu rằng mọi khó khăn như thế
xuất hiện là kết quả của
việc làm hại những người khác
trong suốt những đời
quá khứ của ta,
chúng ta nên
chịu đựng những
đau khổ và gian khó và
suy nghĩ rằng: “Qua những gì xảy đến cho tôi, cầu mong nỗi
đau khổ của
chúng sinh khác do những
ác hạnh mà họ đã tích tập trong những đời
quá khứ, tất cả đều được
tích tụ lại và cạn kiệt trong tôi.”
Chúng ta nên luôn luôn
nhận thức rằng những tình huống
thử thách chúng ta thực sự là một
biểu lộ của
phương tiện thiện xảo của Guru Rinpoche, là đấng trong cách thức này
ban cho ta những cơ hội để tịnh hóa
nghiệp bất thiện của
chúng ta.
Vì thế,
chúng ta nên
vui vẻ chấp nhận bất kỳ sự
đau khổ hay
chỉ trích nào, và nghĩ rằng: “Điều này được
ban cho tôi là nhờ
thiện tâm vĩ đại của Thầy tôi.” Ví dụ, nhiều người
Tây Tạng, trong khi
chịu đựng sự
cùng khổ và giam cầm khốc liệt suốt trong hai mươi lăm năm qua ở
Tây Tạng, không bao giờ bị lay chuyển lòng sùng mộ vĩ đại đối với vị Thầy và nhiệt
tâm chân thành trong việc
thực hành Pháp. Trong
trường hợp này,
kinh nghiệm của họ về nỗi khổ
tột bực đã xoay
chuyển tâm họ hướng về Pháp và
củng cố quyết tâm của họ để
thực hành Pháp.
Nếu
chúng ta gặp những
hoàn cảnh may mắn, đừng bao giờ bám níu vào chúng mà nên coi chúng như những
giấc mộng hay
ảo ảnh. Nếu
chúng ta thành công và
giàu có, sống trong một lâu đài
đẹp đẽ, ta đừng cho rằng mình là quan trọng hay vĩ đại; cũng đừng tích trữ
của cải hay
suy tính để có được ngôi nhà lộng lẫy hơn nữa.
Chúng ta đừng bận tâm về sự
nổi danh và
quyền lực.
Đúng đắn hơn,
chúng ta nên
nhận thức rằng bất
cứ sự may mắn tốt lành nào đến với ta đều
đơn giản là nhờ
thiện tâm của vị Thầy. Nếu thâu
đạt được điều gì có
giá trị hay
thành tựu điều gì to lớn,
chúng ta đừng bao giờ quên rằng chẳng có gì trong
thế gian này là
thường hằng. Như
Kinh điển có nói: “Cái gì được sinh ra sẽ chết đi, cái gì được tụ hội sẽ phân ly, cái gì được tích tập sẽ cạn kiệt và cái gì ở trên cao sẽ bị đưa xuống thấp.”
Trong những
hoàn cảnh thuận lợi,
chúng ta nên
ước nguyện: “Cầu mong mọi sự
thịnh vượng tôi đang hưởng sẽ được phân phát cho tất cả
chúng sinh, cầu mong nó được
cúng dường cho Guru Rinpoche, và cầu mong
bản thân tôi
hài lòng với việc chỉ có
vừa đủ thực phẩm và
y phục.” Để
bản thân tồn tại,
thực ra chúng ta chỉ cần đủ quần áo để
che chở ta đối với các môi trường và chỉ cần có đủ
thực phẩm để
duy trì đời sống. Như các bậc thánh trong
quá khứ,
chúng ta nên
vừa lòng với những nơi cư trú như các
hang núi và các ẩn thất cô tịch.
Tất cả những vị thánh vĩ đại trong
quá khứ đã sống trong các hang động, với
thú vật hoang dã là bạn
đồng hành, bởi vì các ngài đã xoay chuyển từ tận sâu thẳm
con người các ngài hướng về Pháp. Các ngài đặt
căn bản sự
thực hành của mình trên
đời sống khổ hạnh của một người lang thang đã
từ bỏ mọi sự. Tâm của một người
từ bỏ như thế bao giờ cũng tràn đầy Pháp, và sự
nghĩ tưởng về Pháp dẫn dắt các ngài đến
đời sống cô tịch trong một
hang núi, ở đó sự
tinh cần của các ngài được sự
suy tưởng về cái chết
thường xuyên thôi thúc. Càng nhiều càng tốt,
chúng ta nên
chấp nhận tâm trạng này như của chính
chúng ta.
Theo cách này
chúng ta có thể
ngăn ngừa ngay cả những tình huống
tốt đẹp khỏi
trở thành những
chướng ngại cho sự
thực hành của ta.
Nếu không, có thể xảy ra việc các
hành giả Pháp sau khi
thành tựu một vài
tiếng tăm, bắt đầu tự coi mình là các vị Thầy hay
Lạt ma.
Suy nghĩ theo lối này, họ bắt đầu
cảm thấy mình xứng đáng được hưởng
thực phẩm thơm ngon, quần áo đắt tiền,
danh vọng to lớn và v.v… Khi điều này xảy ra, sự bám chấp và tự phụ trở nên
kiên cố, và
động lực ban đầu để
thực hành Pháp hoàn toàn tiêu tan. Như
vậy thì thật không ổn. Bằng cách nhìn những
hoàn cảnh thuận lợi như
giấc mộng và
ảo ảnh,
chúng ta có thể tránh được các
cạm bẫy và làm
kiên cố thêm sự
thực hành của ta.
Chúng ta có thể nhìn những
trạng thái chuyển biến của sự
thực hành của ta trong cách thức
tương tự. Nếu
chúng ta gặp khó khăn ngay trong sự
thực hành, như
hôn trầm, các
tư tưởng rối loạn, hay
sự quán tưởng
nghèo nàn,
chúng ta nên dùng nó như một cơ hội để
nuôi dưỡng tri giác thanh tịnh. Điều này có nghĩa là sự
nhận thức về môi trường của
chúng ta và các
chúng sinh sống trong đó không là những gì tầm thường, mà như Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ, nơi các Dāka và Dākinī cư trú. Nó cũng có nghĩa là sự
nhận thức mọi
hình tướng xuất hiện là Guru Rinpoche, mọi
âm thanh là sự ngân vang của
thần chú của ngài, và mọi
tư tưởng là trò chơi của
trí tuệ ngài.
Nếu
chúng ta may mắn trực nhận được
Giác tánh rất
trong sáng và những
kinh nghiệm tốt đẹp trong sự
thực hành của ta,
chúng ta đừng nghĩ: “A ha ! Ta đã
trở thành người thực sự cao siêu. Ta phải là một vị Thầy!”
Đúng đắn hơn,
chúng ta đừng
gán cho việc đó sự quan trọng
thái quá, và ta nên
an trú trong một sự
tỉnh giác trong trẻo và
sống động của giây phút
hiện tại, không có những
mục đích lẫn
tham luyến.
Tóm lại, trên
con đường, bất kỳ
thành tựu hay thâu hoạch điều gì thuộc về
của cải, sự
thành công,
danh tiếng,
thực phẩm,
y phục, hay các
kinh nghiệm tâm linh, chúng không bao giờ được phép làm phát sinh sự bám chấp hay
tham luyến trong
chúng ta. Nếu những
cảm xúc này
xuất hiện,
chúng ta phải
ngồi yên lặng, tống xuất
hơi thở cũ ba lần –
suy tưởng rằng cùng ba
hơi thở đó tham, sân, và si đã được tẩy trừ – và nhớ lại những sự
thành tựu phù du này thì không có
thực chất và thoáng qua như thế nào.
Trong
quá khứ xa xưa,
Đức Phật đã
xuất hiện trong xứ
Ấn Độ siêu phàm và
đạt được sự
Toàn Giác. Ở đó, tại nhiều nơi, Ngài đã
chuyển Pháp luân khiến cho nhiều ngàn
A La Hán thành tựu chứng ngộ. Những bậc
chứng ngộ như thế đã có thể
du hành trên bầu trời và thi triển nhiều
năng lực kỳ diệu khác. Ngày nay, những kỳ công này không còn lại gì ngoại trừ các tên gọi
đơn thuần của những nơi chúng đã xảy ra. Về sau, Pháp được đưa sang
Tây Tạng, nơi đó nhanh chóng bắt rễ và lan rộng, sản sinh ra nhiều
đại thánh là những vị
tiếp tục trao truyền nhiều
giáo lý vĩ đại. Ngày nay, tất cả những bậc vĩ đại này đã đi về những cõi
Cực Lạc khác, và ở đây trên trái đất không một điều gì của các ngài còn sót lại. Nhớ tới điều này,
chúng ta phải
nhận thức rằng bất kỳ điều gì
chúng ta có thể thâu đạt hay
thành tựu đều không có nền tảng lẫn
thực chất.
Chúng ta đừng bao giờ bám níu vào những sự việc
thế gian hoặc các
thành tựu thuộc về Pháp và nên
hoàn toàn thoát khỏi sự bám chấp.
Đôi lúc, trong
thực tế hay trong những
giấc mộng,
chúng ta có thể bắt gặp những
ảnh hưởng dữ dội hay những
thế lực tiêu cực đến từ các
tinh linh hoang dã và những kẻ phá rối. Nếu những điều này xảy ra,
chúng ta đừng bao giờ nghĩ tới việc
tiêu diệt những
tinh linh họa hại đó ngay cả trong những
giấc mộng. Thay vào đó, ta nên
suy nghĩ rằng tất cả
chúng sinh gây nên các
chướng ngại này
thực ra là những
cha mẹ tốt lành của ta trong những đời
quá khứ. Mặc dù có một lúc cha và mẹ ta đã
nuôi dưỡng và chăm sóc ta, ngày nay, họ
kiên quyết gây
tổn thương và làm hại ta. Ta phải
chiêm nghiệm và
tìm thấy lý do của điều này trong những
ác hạnh đã được
thực hiện trong những đời
quá khứ của chính ta.
Chúng ta nên hiểu
sâu xa hơn nữa là nếu những lực lượng
tiêu cực như thế hãm hại ta, đó cũng là vì
bản thân họ đang hành động dưới
ảnh hưởng xấu của
ác nghiệp của riêng họ, và khi làm như thế họ đang gây ra những
nguyên nhân đau khổ cho chính họ trong tương lai.
Suy nghĩ về điều này,
chúng ta nên
phát khởi lòng
đại bi đối với họ.
Nếu họ có vẻ
nhất quyết làm hại ta,
chúng ta nên coi điều đó như một cơ hội để tịnh hóa những che chướng
của riêng ta. Mọi bệnh tật và
chướng ngại, các
bệnh hoạn của thân, và những
đau khổ của tâm có thể được
sử dụng như
con đường nếu
chúng ta chỉ coi chúng như sự
hiển lộ trí tuệ của
Đạo Sư của
chúng ta. Theo cách này, ta có thể tịnh hóa
ác nghiệp của ta cũng như những
đau khổ do nó gây ra. Nếu ta có thể
duy trì loại
thái độ này, các lực lượng
tiêu cực như thế sẽ không thể gây ra bất kỳ
chướng ngại thực sự nào. Nhưng nếu thay vì như thế,
chúng ta lại coi họ như những
kẻ thù, nghĩ rằng ta phải
tiêu diệt họ, thì
chúng ta sẽ chỉ làm cho
vấn đề tệ hại hơn.
Ngày nay, là kết quả của những
tư tưởng thô lậu và
bất định, nhiều người
kinh nghiệm những loại
xáo trộn tiêu cực chỉ
đơn thuần là các sản phẩm
tâm thức của chính họ. Nếu thay vì
ngộ nhận chúng là các
ảnh hưởng bên ngoài, họ
nhận thức được rằng những
kinh nghiệm như thế là các tặng phẩm của
Đạo Sư, nhờ chúng họ có thể
tiến bộ trên
con đường, và nếu họ
nhất tâm khẩn
cầu Đạo Sư trong khi
phát khởi lòng
đại bi đối với những quỷ ma mà họ đang
tri giác, thì họ sẽ được
che chở trước mọi
tai họa.
Nếu
chúng ta bị các
kinh nghiệm với các
năng lực tiêu cực như thế
quấy rối, ta nên truy xét
bản chất sự
hiện hữu bề ngoài của chúng.
Chúng ta nên xác định xem những gì ta có thể nắm được trong bàn tay hay đập nó với một cây gậy ấy có gì là
cụ thể hay xác
thực không. Nếu những
năng lực tiêu cực như thế
hiện hữu thì
vị trí của chúng ở đâu, chúng bắt nguồn từ đâu, và đâu là các
nguyên nhân và
điều kiện khiến chúng có thể xuất hiện? Với sự phân tích đó trong tâm,
chúng ta nên trì tụng
thần chú Vajra Guru với một sự
nhất tâm, nghĩ rằng: “Cầu mong nhờ lòng
đại bi của Đức Guru Rinpoche những
tinh linh này chỉ gặp được các
giáo lý tốt lành và
lợi lạc, và cầu mong họ không làm
tổn hại cho
bản thân họ lẫn những người khác. Cầu mong
Bồ Đề tâm quý báu phát khởi trong tim họ.”
Đặc biệt ích lợi khi hợp nhất
tri giác về những
tinh linh này, tâm của chính ta, và
tâm giác ngộ của Guru Rinpoche thành một với lòng
đại bi. Khi ta thấu hiểu mọi
hình tướng đều là sự
hiển lộ trí tuệ của
Đạo Sư, thì ngay cả từ “chướng ngại” cũng sẽ tan biến.
Dù điều gì xảy đến cho ta,
chúng ta phải luôn luôn
duy trì cái thấy thuần tịnh,
nhận thức mọi
hiện tượng đều
hoàn toàn thanh tịnh và đừng bao giờ
cho phép tâm thức chúng ta trệch hướng vào việc
quan niệm các
hiện tượng là cái gì hơi chút
bất tịnh.
Chúng ta phải luôn luôn nhìn nơi ta đang ở như cõi
Cực Lạc Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ và mọi
chúng sinh trong đó, dù là các côn trùng nhỏ bé hay các bằng hữu và
thân quyến của
chúng ta, đều là những Dāka và Dākinī. Mọi sự
chúng ta nghe thấy phải được coi như
âm thanh bất tuyệt của
thần chú Vajra Guru.
Khi ngồi,
chúng ta nên
nghĩ tưởng bậc
Đạo Sư trên đầu
chúng ta và hướng lòng sùng mộ không ngơi nghỉ của ta đến ngài. Khi đi ta nên luôn luôn cảm nhận rằng Guru Rinpoche và
Cõi Phật của ngài ở ngay trên vai phải của ta và ta đang đi nhiễu thật
thành kính quanh ngài.
Chúng ta nên phát triển
tư tưởng rằng không chỉ có một cõi
Cực Lạc Núi Màu-Đồng-Đỏ, mà trong mỗi lỗ chân lông của
thân tướng Đức Guru Rinpoche
hiện hữu hàng tỷ cõi
Cực Lạc với Guru Rinpoche và đoàn
tùy tùng của ngài trong mỗi cõi
Cực Lạc đó.
Trước khi ăn hay uống bất kỳ thứ gì, trước hết
chúng ta nên
nghĩ tưởng rằng món đó đã
chuyển hóa thành nectar, amrita (chất
cam lồ)
thanh tịnh, và
cúng dường miếng đầu tiên cho
Đạo Sư đang ở trong cổ họng
chúng ta. Rồi
chúng ta nên
nghĩ tưởng rằng những gì ta ăn hay uống – phần còn lại của món
cúng dường – đã được
ban cho ta như một sự
ban phước để ta có thể
duy trì đời sống của mình. Theo cách này ta sẽ tẩy sạch mọi bám níu hay
tham muốn đối với
thực phẩm..
Ban đêm, trước khi ngủ,
chúng ta nên
nghĩ tưởng rằng Guru Rinpoche, người đã suốt ngày an trụ trên đầu ta, giờ đây
đi vào đầu ta và từ từ
đi xuống tim ta, đến ngồi trên một bông sen đỏ sáng chói có bốn cánh
hé mở. Đóa sen này sáng rực, trong mờ, và
sống động. Rồi Guru Rinpoche phóng ra
vô số tia sáng, chiếu sáng
toàn bộ thân thể và căn phòng của ta, trải rộng và tràn ngập
vũ trụ với vẻ
rực rỡ và đầy ánh sáng. Như thế, khi
toàn thể vũ trụ đã được
chuyển hóa thành ánh sáng
thanh tịnh,
chúng ta nghỉ ngơi trong sự giản đơn,
duy trì bản chất của
Giác tánh. Sau đó, ngay khi ta tự
cảm thấy đang
đi vào giấc ngủ, ta nên nhìn
thế giới ánh sáng bên ngoài tan hòa vào
chúng ta. Rồi
chúng ta tan ra thành ánh sáng và tan hòa vào Guru Rinpoche, chính ngài, bây giờ có kích thước bằng ngón tay cái của
chúng ta, tan ra thành ánh sáng và hòa nhập vào
không gian. Rồi
chúng ta nên
hoàn toàn an trụ trong sự
buông xả trong
phạm vi bao la,
tuyệt đối của tánh Không-quang minh. Vì giấc ngủ và cái chết là những tiến trình rất giống nhau, sự
thực hành này
đặc biệt quan trọng để
bản thân chúng ta chuẩn bị cho giây phút lìa đời.
Nếu
chúng ta thức giấc và thấy mình không thể
duy trì sự
quang minh này
trong suốt đêm,
chúng ta nên nhiệt thành
cầu nguyện với Đức Guru Rinpoche, nói rằng: “Cầu mong con có thể
tri giác sự
quang minh.” Nghỉ ngơi trong sự giản đơn, khi ấy ta nên ngủ
trở lại. Nếu
tâm thức ta không yên nghỉ và
tư tưởng trở nên
lộn xộn, ngăn trở ta không ngủ được,
chúng ta nên
nhận thức rằng những
tư tưởng này không có nguồn gốc, cũng không nơi
an trú và không ngừng dứt. Nếu
chúng ta không bị các
tư tưởng quấy rầy, ta nên chỉ
đơn giản an trụ không phóng tâm trong
trạng thái tự nhiên. Nếu các
giấc mộng xuất hiện, ta nên
cố gắng nhận ra trong
giấc mộng rằng ta đang mơ.
Buổi sáng, khi
thức dậy,
chúng ta nên nhìn thấy
hiển lộ trên bầu trời
trước mặt chúng ta là tập hội rộng lớn của Guru Rinpoche và đoàn
tùy tùng của ngài. Tất cả các Dāka và Dākinī vây quanh ngài đang kêu gọi
chúng ta ra khỏi giấc ngủ bằng cách làm tràn ngập
không gian với
âm thanh của
thần chú Vajra Guru và
thiên nhạc. Khi ra khỏi giường, ta nên
nghĩ tưởng rằng đang bước vào cõi
Cực Lạc Sangdopalri. Tất cả những người cư trú ở đó là các Dāka và Dākinī, và
chúng ta chính là Vajrayoginī, một
thực tại không do tạo tác
hiện hữu từ
vô thủy.
Chúng ta kêu gọi
Đạo Sư với lòng khát khao và sùng mộ: “Lama Kyeno, Lama Kyeno!” – “Ngài,
Đạo Sư, ngài thấu biết, ngài thấu biết!” Đức Guru Rinpoche đang an tọa trên một bông sen đỏ ở giữa trái tim ta; bây giờ đóa sen này mở lớn ra và ngài
xuất hiện,
một lần nữa an trụ trên đầu
chúng ta.
Chúng ta khẩn cầu ngài không dứt và nói: “Cầu mong tâm con hướng về Pháp, cầu mong Pháp của con
tiến triển theo
con đường và cầu mong mọi
hình tướng huyễn mộng được
chuyển hóa thành
trí tuệ.”
Chúng ta nên
nuôi dưỡng thực hành này cho tới khi tâm ta
thường xuyên nhớ tưởng
Đạo Sư. Bất kỳ
hoạt động nào của ta, dù khi ăn, ngủ, đi hay ngồi, niệm tưởng về
Đạo Sư phải luôn luôn
hiện diện sống động. Như vậy, ta không
thể đạt được sự
thành tựu chỉ nhờ gặp được vị Thầy và nhận được một vài chỉ dạy
vắn tắt. Bậc
Đạo Sư không chỉ được
tìm thấy ở bên ngoài, mà luôn luôn
hiện diện trong
bản tánh giác ngộ của tâm ta.
Guru Rinpoche nói: “Ta không bao giờ xa rời những người có lòng sùng mộ.” Nếu
chúng ta nghĩ rằng
Đạo Sư là một
chúng sinh với xương thịt
bình thường, thì sẽ rất khó phát sinh lòng sùng mộ mãnh liệt
cần thiết cho sự
tiến bộ. Như vậy,
chúng ta nên
nhận thức Đạo Sư là
hiện thân trí tuệ bất biến của Guru Rinpoche, Đức
Liên Hoa Sanh, mà sự
toàn giác tràn ngập
tam giới và biết rõ những ai đang
cầu khẩn ngài ngay giây phút lời
cầu nguyện phát ra, cho dù hàng triệu
chúng sinh đang
cầu nguyện cùng một lúc.
Lòng sùng mộ là cốt tủy của
con đường, và nếu
chúng ta không có gì trong tâm ngoài bậc
Đạo Sư và không
cảm xúc điều gì trừ lòng sùng mộ mãnh liệt, thì bất kỳ điều gì xảy đến đều được
nhận thức là sự
ban phước của ngài. Nếu
chúng ta chỉ
đơn giản thực hành với lòng sùng mộ luôn luôn
hiện diện này, thì tự nó đây chính là sự
cầu nguyện.
Khi mọi
tư tưởng thấm đẫm lòng sùng mộ đối với bậc
Đạo Sư, thì có một
lòng tin tự nhiên rằng bất kỳ điều gì xảy đến đều được chăm sóc. Mọi
sắc tướng là bậc
Đạo Sư, mọi
âm thanh là lời
cầu nguyện, và mọi
tư tưởng thô và tế
xuất hiện như lòng sùng mộ. Mọi sự
được giải thoát tự nhiên trong
bản tánh tuyệt đối, như những nút thắt trong không trung. Đây chính là pháp Guru yoga
tối thượng, trong đó bậc
Đạo Sư được
chứng ngộ như
ba thân (kāya) bất khả phân. Điều này sẽ được
thành tựu mà không phải nương tựa vào những
nghi thức của
giai đoạn phát triển, không
cần phải nương nhờ ẩn thất
bí mật, các linh ảnh
tánh Không, hay
duy trì hơi thở và việc
hơi thở đi vào kinh mạch trung ương. Nhờ độc nhất sự
thực hành này, mọi
thực hành khác chỉ
đơn giản hòa nhập vào lòng sùng mộ
nhất tâm, như đã xảy đến với ngài Gyalwa Gưtsangpa và các vị thánh vĩ đại khác, là những bậc an trụ trong một
trạng thái sùng mộ
nhất tâm cả ngày lẫn đêm trong nhiều năm tháng, để mặc
thời gian trôi đi và thậm chí không
quan tâm tới sự
đói khát.
Nhờ lòng sùng mộ này, không
cảm xúc điều gì ngoại trừ sự
nhàm chán đối với những
lôi cuốn của đời này, ta không
đi lạc vào những công việc
thế gian. Có được một
phán đoán đúng đắn về
nhân quả, ta không
đi lạc vào các
ác hạnh. Mọi khao khát
đạt được an lạc cho riêng mình đã
chấm dứt, ta không
đi lạc vào các
con đường thấp. Nhìn mọi
hiện tượng như những Bổn Tôn, những
âm thanh, và
đại lạc, ta không
đi lạc vào những
tri giác bình phàm. Nhìn mọi sự như bậc
Đạo Sư, cùng mọi
tư tưởng của ta được bao bọc trong lòng sùng mộ mãnh liệt, ta không lạc vào những
tà kiến. Theo cách này, sự
từ bỏ và
hoàn toàn không phóng tâm
xuất hiện tự nhiên, mọi điều cần xả bỏ tự biến mất,
sự thiền định và sau
thiền định hòa nhập làm một, và
chân tánh của cái
tuyệt đối, là
giác tánh trí tuệ của riêng ta, trở nên thật
hiển nhiên.
Chúng ta nên luôn luôn
thực hành cái thấy
thanh tịnh cho tới khi
chúng ta thấy được một cách
tự nhiên rằng
vũ trụ và tất cả
chúng sinh đều
hoàn toàn thanh tịnh và
toàn thiện.
Đặc biệt, dù những chuyển động của tâm
chúng ta được hướng về các
hiện tượng bên ngoài hay đang tập trung vào những
ấn tượng thâm sâu,
chúng ta nên
nhận biết bản tánh của chúng và để chúng
giải thoát tự nhiên.
Chúng ta nên tránh đắm chìm trong những hồi ức
sống động về những
hoạt động trong
quá khứ, hãy chặt đứt chúng khi chúng
phát khởi. Nếu để chúng
phóng túng, các
tư tưởng chẳng hạn như sự
hồi tưởng các cuộc chiến thắng
kẻ thù hay
thưởng thức các
kế hoạch làm ăn, hay bất kỳ
tư tưởng lập đi lập lại nào trong tương lai về những
thành công thế tục đã
đạt được trong
quá khứ, tất cả những hồi ức đó sẽ làm cho
tư tưởng phát triển, giống như gió thổi trên mặt hồ tạo ra những gợn sóng không dứt. Nếu
chúng ta lạc lối trong những
hồi tưởng về các tình huống
liên quan tới sự
tham muốn,
sân hận,
kiêu ngạo, và
ganh ghét, thì
chúng ta tự trói chặt mình hơn nữa vào sự
mê lầm. Chính bởi bận tâm với những loại tình huống này mà nghiệp phát triển và
đau khổ xảy ra.
Khi một
tư tưởng phát khởi,
chúng ta phải
ghi nhận một cách
đơn giản là nó xảy ra, trong khi
đồng thời hãy nhớ rằng nó không đến, không đi, không nơi an trụ, không để lại dấu vết trên đường đi của nó như một cánh chim bay lượn trên bầu trời không để lại
dấu tích. Theo cách này, khi các
tư tưởng sinh khởi,
chúng ta có thể
giải thoát chúng vào
pháp giới tuyệt đối. Khi
tư tưởng không sinh khởi,
chúng ta nên nghỉ ngơi trong sự
đơn giản trống trải của
trạng thái tự nhiên.
Tóm lại, dù tiến hành
hoạt động nào,
chúng ta đừng bao giờ
xa lìa sự nhớ tưởng
sống động về Đức Guru Rinpoche.
Lợi lạc to lớn sẽ sinh ra từ điều này. Thêm nữa, tất cả các
hoạt động của
chúng ta phải nhắm đến và
hồi hướng một cách có
ý thức cho sự
lợi lạc của tất cả
chúng sinh khắp
thế giới bao la.
Tư tưởng này về những người khác là điểm khởi đầu, là sự chuẩn bị
căn bản cho sự phát triển
Bồ đề tâm quý báu.
Trong
phạm vi của sự
thực hành chính yếu, mọi hành động của
chúng ta phải được
soi sáng bằng sự thấu suốt
tánh Không và tâm
chúng ta phải được
nhất tâm vào chính sự
thực hành. Đây là điểm thứ hai. Nếu vì bất cứ
lý do nào,
chúng ta gặp khó khăn hay không thể phát triển sự thấu suốt
tánh Không vào giai đoạn
ban đầu này trong
thực hành của
chúng ta, thì ta cần tập trung với sự
tinh tấn to lớn vào chính Guru Rinpoche,
ngăn ngừa không cho
tâm thức chúng ta nuôi dưỡng ngay cả
cảm xúc tiêu cực vi tế nhất.
Cuối cùng, và đây là điểm thứ ba,
chúng ta nên
kết thúc mọi điều
chúng ta làm với sự
hồi hướng công đức,
cúng dường một cách có
ý thức bất kỳ
công đức nào đã được tích tập nhờ sự
thực hành và các
thiện hạnh khác của ta cho sự
lợi lạc của tất cả
chúng sinh.
Những điều này được
xem như ba
vấn đề trọng yếu của
Đại thừa: sự chuẩn bị,
cho phép sự
thực hành của
chúng ta thành tựu kết quả
tối thượng của nó; phần
chính yếu,
bảo vệ thực hành của ta khỏi bị những
chướng ngại và sự
lạc lối; và phần
kết thúc hay
hồi hướng, nó
bảo đảm sự
thực hành của ta sẽ
tăng trưởng vô hạn
lợi lạc.
Nếu tâm ta đã phát triển khả năng tập trung,
chúng ta sẽ gặp rất ít hay không bị khó khăn trong sự
thực hành pháp Guru yoga này. Nhưng nếu
chúng ta không
tu hành tâm thức một cách
đúng đắn và không
nuôi dưỡng những phẩm tính của
con đường Đại thừa, và thay vào đó cứ khẳng định rằng ta chỉ ước muốn
thực hành Dzogpa Chenpo, hay Đại
Viên Mãn, thì điều đó sẽ không giúp ích gì cho ta. Cái thấy của Đại
Viên Mãn thì cao vút, trong lúc vào lúc này giòng
tâm thức của
chúng ta thật
thấp kém. Một đứa bé hai hay ba tuổi không có
kinh nghiệm, các
năng lực và sự
hiểu biết mà một người
trưởng thành hai mươi tuổi có được. Nếu suốt mọi
cuộc đời của ta,
chúng ta nhớ tới các
giáo huấn của
Đạo Sư, thì ngài sẽ không bao giờ
bỏ rơi chúng ta, và
dần dần, trong ta sẽ phát triển một
nhận thức vững chắc về các giai đoạn khác nhau của
con đường.
Để
đảm bảo rằng
Đạo Sư luôn luôn ở lại với
chúng ta,
chúng ta phải
thực hành bền bỉ. Sẽ có ít
lợi lạc khi cho rằng chỉ cần một vài tháng hay một năm
thực hành là đủ để
thành tựu.
Chúng ta cần
thực hành từ bây giờ cho tới khi ta trút hơi
cuối cùng. Sự
tinh tấn như thế là
cần thiết nếu
chúng ta muốn có được niềm xác tín để
duy trì lòng tin và sự
hiểu biết của ta về giây phút khó khăn và
đáng sợ của cái chết.
Chúng ta phải tự hỏi rằng,
cuối cùng, khi cái chết đến với ta, ta sẽ có thể nhớ lại tất cả các
giáo huấn của
Đạo Sư hay không. Cho dù ta có thể nhớ được chúng, thì có lẽ thực sự khó khăn để đưa chúng vào
thực hành khi
chúng ta bị
phiền não bởi nỗi khổ của cái chết,
trừ phi ta đã tự chuẩn bị bằng
một đời người được
trải qua trong sự
thực hành bền bỉ.
Một
hành giả Pháp cần có khả năng đương đầu với mọi
hoàn cảnh có thể xảy ra, không phấn chấn bởi cái tốt mà cũng không rơi vào
thất vọng do cái xấu. Trong cả hai
trường hợp, không
hy vọng và
nghi ngờ, ta cần tưởng nhớ tới
Đạo Sư.
Hạnh phúc lẫn đau buồn, niềm vui và nỗi khổ, mặc dù tự chúng không là gì cả, có thể
trở thành một sự
trợ lực hoặc một
chướng ngại trên
con đường. Điều
chúng ta làm
lợi lạc cho chính mình từ những
kinh nghiệm này là sự khảo xét về
tính chất chân thực sự
thực hành của ta. Đây là cốt tủy
chân thật của pháp Guru yoga này và chính nó là sự
thực hành chính yếu. Nếu
chúng ta thực hành điều này trong khả năng tốt nhất của ta, thì không có
giáo lý nào khác được coi là “sâu xa” hơn nó.
Các
sự quán tưởng của kyerim, hay
giai đoạn phát triển, có bốn loại, nếu được
thực hành trong một
phương pháp hết sức công phu. Chúng
tương ứng với sự tịnh hóa bốn loại sinh ra: sinh ra từ trứng (nỗn sanh), sinh ra từ thai tạng (
thai sanh), sinh ra từ hơi ấm và ẩm (
thấp sanh), và sự sinh ra
kỳ diệu (
hóa sanh). Nhưng pháp Guru yoga này là cốt tủy của tất cả những kiểu sanh ra này và không đòi hỏi sự
công phu chi tiết như thế. Mọi
phương diện khác của
thực hành kyerim cũng được
bao gồm trong Guru yoga, mặc dù chúng không được
lưu ý riêng biệt. Những
phương diện này là “sự
xuất hiện rõ ràng,” là
sự quán tưởng
rõ ràng về Bổn Tôn; “chánh niệm
thanh tịnh,” muốn nói tới sự thấu hiểu về tất cả các
biểu tượng và
phương diện của Bổn Tôn (ví dụ một đầu,
tượng trưng cho
tính chất nhất như của
bản tánh tuyệt đối, và hai bàn tay
tượng trưng cho
phương tiện và
trí tuệ); và “sự tự hào kiên cố”
ám chỉ sự
tin tưởng và xác tín
hoàn toàn rằng, từ
vô thủy, ta luôn luôn là Bổn Tôn.
Ta được biết rằng nếu
chúng ta chỉ quán tưởng bổn sư (
Đạo Sư gốc) của ta thật
trong sáng và
sống động trong giây lát, thì điều đó mang lại
lợi lạc to lớn hơn là
thiền định về một trăm ngàn Bổn Tôn khác. Pháp Guru yoga này cũng là
tinh túy của dzogrim, hay giai đoạn
thành tựu. Trong dzogrim,
chúng ta tìm thấy sáu yoga: tummo, hay
nội nhiệt, là gốc rễ của
con đường; gyulu, hay
huyễn thân, là nền tảng của
con đường; milam, hay yoga
giấc mộng, là sự đo lường
tiến bộ trên
con đường; ưsel, hay
quang minh, là cốt tủy của
con đường; bardo, hay
trạng thái trung gian, là sự mời gọi
tiếp tục trên
con đường; và phowa hay sự
chuyển di tâm thức,
cho phép ta
vượt qua phần còn lại của
con đường.
Tất cả các
phương pháp này phải mở bày trong
phạm vi của Guru yoga. Các
thực hành nội nhiệt và
huyễn thân tương ứng với yoga về thân vajra hay thân
kim cương của
Đạo Sư; các
thực hành giấc mộng và
quang minh tương ứng với yoga về ngữ
kim cương của
Đạo Sư; bardo và phowa
tương ứng với yoga về tâm
kim cương của
Đạo Sư. Đây là
lý do tại sao pháp Guru yoga cũng là
tinh túy của sự
thực hành trong giai đoạn
thành tựu.
Nếu
chúng ta khao khát sự
chứng ngộ thị kiến rộng lớn hay
sự quán chiếu
sâu xa, thì có câu nói rằng :
Sự
chứng ngộ trí tuệ bẩm sinh của bạn là kết quả của các
sự tích tập, tịnh hóa, và các sự
ban phước của một
Đạo Sư chứng ngộ. Bạn nên biết rõ rằng nương cậy bất kỳ vào
phương pháp nào khác là
vô nghĩa.
Cũng có nói rằng :
Bất cứ kẻ nào muốn
tìm thấy trí tuệ siêu vượt
trí thông minh mà không
cầu nguyện với
Đạo Sư của họ thì giống như người
mong đợi mặt trời chiếu rọi một cái hang
quay về hướng bắc. Họ sẽ không bao giờ
nhận ra rằng các
hình tướng và tâm họ là một.
Vì guru yoga là
phương pháp tối hậu để
chứng ngộ trạng thái tự nhiên của mọi sự, cho nên, như được đề cập tới trong bản văn, nó là “cốt lõi của
trạng thái tự nhiên”. Bằng
thuật ngữ “cốt lõi”
chúng ta muốn nói tới
bản chất được
che dấu, nó có
thể không hiển nhiên nhưng là
tâm yếu của mọi sự. Có
vô số giáo huấn đối với các
giai đoạn phát triển,
thành tựu, và Đại
Viên Mãn, nhưng hết thảy chúng đều
hiện diện với
hình thức cô đọng trong Guru yoga. Guru yoga giống như mối
liên kết thiết yếu trong một sợi dây xích nhờ nó mà mọi
giáo huấn được
thắt chặt. Nó là một
thực hành dễ
thực hiện, không có những khó khăn thật sự hay nguy cơ
lạc đường, và sẽ đưa dẫn tới kết quả cao tột. Như một cỗ máy được chế tạo khéo léo có thể
hoàn thành trong một giờ công việc của hàng trăm công nhân, ở đây một
giáo huấn duy nhất tập hợp tất cả các
giáo huấn khác trong chính nó;
không giáo huấn nào, không
vấn đề nào dù
sâu xa đến đâu chăng nữa phải
bị loại trừ. Guru yoga là
phương pháp chính yếu để ta
tiến bộ hơn nữa trong sự
thực hành và để giải tan mọi
chướng ngại. Nó là “một
pháp thành tựu tất cả pháp”.
Nói một cách chuyên môn, Guru yoga là bộ phận của những
thực hành được gọi là chuẩn bị, nhưng thật ra nó là
cốt lõi của sự
thực hành chính yếu. Trong mọi trường phái khác nhau của
giáo lý đạo Phật – đó là Nyingma, Sakya, Kagyu, hay Geluk – không có một
con đường nào không lấy Guru yoga làm nền tảng
chính yếu.
Trong
truyền thống Sakya,
chúng ta tìm thấy giáo lý Lamdre
nổi tiếng, sự
thực hành đồng thời “con đường và quả.” Trong
giáo lý này
chúng ta cũng sẽ bắt đầu với sự
thực hành “con đường
sâu xa của Guru yoga.” Trong
giáo huấn đó,
chúng ta sẽ nhận lãnh sự
ban phước hay
nhập môn về thân, ngữ và tâm của
Đạo Sư và sau đó sẽ
thiền định về ngài. Lại nữa, dòng Kagyu cũng
nổi danh là người
thừa kế của
thực hành sùng mộ mãnh liệt.
Đi vào sự
thực hành Pháp mà không có lòng sùng mộ thì giống như một người không có đầu. Dù ta có thể
thực hành bao nhiêu các nhánh khác nhau của
con đường chăng nữa, nếu
chúng ta thiếu lòng sùng mộ, là sự
tôn kính nồng nhiệt đối với vị Thầy, nó
cho phép ta nhìn ngài như một vị Phật thực sự, thì ta sẽ không có cơ may để những
kinh nghiệm và
chứng ngộ phát khởi trong ta.
Vị Thầy vĩ đại phái Kadampa, ngài Gyalse Ngulchu Thogme không có
pháp thực hành
chính yếu nào khác ngoài
sự thiền định về việc nhìn vị Thầy của ngài là Đức Atīsa như vị Phật thực sự, và
phụng sự Thầy bằng
toàn bộ thân, ngữ và tâm
trong suốt cuộc đời mình. Trong
giáo huấn nổi tiếng nhất của dòng Kadampa, Bảy Điểm
Tu hành Tâm thức,
bước đầu tiên là
thực hành Guru yoga. Đối với
truyền thống Nyingma, trong tất cả các dòng khác nhau là Kama,(41) hay sự giảng dạy
truyền khẩu, và Terma, hay sự trao truyền kho tàng được
khám phá, thì cũng
hoàn toàn tương tự như vậy. Không có
con đường hay sự
thực hành nào mà không bắt đầu bằng cách tự
củng cố trong
phạm vi của Guru yoga.
Không giống như những
thực hành của các
giai đoạn phát triển và
thành tựu, pháp Guru yoga có thể được
thực hành trong mọi lúc. Ví dụ, nếu
chúng ta đang
thực hành kyerim và dzogrim, thì có nhiều
vấn đề trọng yếu liên quan đến tư thế của
thân thể, ngữ và tâm cần được
tuân thủ. Trong kyerim, khi làm một cuộc
nhập thất,
chúng ta phải
phân chia sự
thực hành của ta thành bốn thời khóa vào những thời điểm
đặc biệt trong suốt ngày, và
chúng ta phải
sắp đặt một
bàn thờ với những vật
cúng dường bên ngoài là nước, hoa, hương và v.v… cũng như các vật
cúng dường bên trong là torma, rakta và amrita. Nhưng pháp Guru yoga thì có thể được
thực hành bất cứ lúc nào, trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, và
tuy thế đem lại mọi
thành tựu của
giai đoạn phát triển.
Trong dzogrim, hay giai đoạn
thành tựu, sự
thực hành nội nhiệt và sự
tu tập các
thực tập vật lý khác nhau chẳng hạn như bình chứa lớn và sự cầm giữ
hơi thở bộc lộ các nguy hiểm do
sự chướng ngại và
lạc đường,
đặc biệt là nguy hiểm của việc
gia tăng lung, hay “năng lực tinh túy”, và sự
rối loạn theo sau của
tâm thức mà sự
gia tăng như thế có thể phát sinh.
Trái lại,
thực hành Guru yoga không mang lại sự nguy hiểm như vậy, và nhờ nó các lung khác nhau sẽ
đi vào kinh mạch trung ương một cách
tự nhiên. Giống như việc dùng
thực phẩm lập tức giải trừ cơn đói,
thực hành Guru yoga sẽ phát sinh sự
chứng ngộ trí tuệ sẵn có trong
chúng ta.
Khi ngủ, khi thức, khi đi lại hay làm việc hoặc
thực hiện bất kỳ loại
hoạt động nào,
chúng ta nên
cần khẩn cầu Đạo Sư,
nghĩ tưởng rằng: “Đạo Sư, ngài thấu biết. Xin nhìn con với
thiện tâm.” Nếu
chúng ta luôn luôn
duy trì lòng khao khát và sùng mộ như thế, thì tâm
chúng ta sẽ trở nên
tương ưng với những sự
ban phước của vị Thầy. Như có câu nói: “Khi tâm trở nên sẵn sàng, bậc
Đạo Sư không ở bên ngoài.”
Tâm thức chúng ta trở nên sẵn sàng nếu, sau khi lắng nghe một vị Thầy và nương tựa vào ngài,
chúng ta luôn luôn nhớ tưởng một cách
rõ ràng cái gì cần tránh và điều gì phải
tuân theo và
duy trì sự
cẩn mật bền bỉ trong những hành động,
lời nói, và
tư tưởng của ta. Được trang bị sự
hiểu biết này,
chúng ta phải
kiên quyết, ngay cả trong khi mộng, không bao giờ làm ngay cả một
ác hạnh nhỏ bé nhất.
Đồng thời,
chúng ta nên
nuôi dưỡng ngay cả những
thiện hạnh nhỏ nhất, vì giống như một thùng chứa lớn đặt dưới một giòng nước nhỏ giọt được làm đầy trong một
thời gian rất ngắn, vì thế
chúng ta có thể
tiến bộ nhanh chóng trên
con đường bằng sự
chú tâm như thế vào các
thiện hạnh. Nếu
chúng ta không phát triển loại
tâm thức hay sự
tỉnh giác mạnh mẽ này, rất có thể
chúng ta sẽ không địch nổi
sức mạnh của các tập quán xấu và các chiều hướng
tiêu cực, và vì thế sẽ có khuynh hướng không biết được điều gì là
tích cực.
Chúng ta cũng phải phát triển một
năng lực đối với “sự
hồi quang phản chiếu cẩn mật”, qua đó
chúng ta thường xuyên tỉnh thức về các
hoạt động của ta từ sáng cho tới đêm. Theo cách này, nếu
nhận thức rằng ta đã làm các
ác hạnh,
chúng ta nên
suy nghĩ: “Xin thương tưởng tới con ! Con đã thọ nhận quá nhiều
giáo lý từ
Đạo Sư tốt lành của con, tuy vậy con vẫn rơi vào những
ác hạnh. Con
cảm thấy bối rối trước sự
hiện diện của ngài. Tất cả các Dāka và Dākinī chắc hẳn
hết sức thất vọng về con.” Rồi
chúng ta cần
thực hiện một
sự sám hối
trong sáng,
chân thành, và phát sinh một
ý hướng không thể lay chuyển là từ giờ trở đi ta chỉ
thực hiện những
thiện hạnh. Nếu
chúng ta đã có thể tích tập các
thiện hạnh trong suốt ngày,
chúng ta nên luôn luôn nhớ
củng cố chúng bằng ba điểm hay
ý niệm siêu việt: sự chuẩn bị hay
phát khởi Bồ đề tâm, ở đây là
ý hướng hành động
nhân danh tất cả
chúng sinh; phần
chính yếu, hay sự
chứng ngộ tánh Không kết hợp với
sự thiền định
nhất tâm; và sự
kết thúc, trong đó bất kỳ
công đức hay
lợi lạc nào có được từ các hành động của ta đều được
hồi hướng cho
sự giải thoát mau chóng của tất cả
chúng sinh.
Từ sự
thảo luận của
chúng ta về những
vấn đề này, ta có thể thấy rằng sự
tỉnh giác và
hồi quang phản chiếu cẩn mật tạo nên
Đạo Sư bên trong và
Đạo Sư gốc
chân thực. Không có ai như tôi,
đắp y và ngủ trên một cái ngai! Nếu
chúng ta luôn luôn
duy trì sự
tỉnh giác và
cẩn mật như thế,
chúng ta sẽ tích tập các
thiện hạnh và loại trừ các
ác hạnh không chút khó khăn.
Guru yoga là cốt tủy của tám vạn
tư Pháp môn. Không có gì
sâu xa hơn và không có gì rộng lớn hơn nó. Tất cả các bạn, các
đệ tử may mắn, cần giữ sự
thực hành này tận
đáy lòng. Ngay cả khi bạn đến tuổi tám mươi, bạn phải như Patrul Rinpoche, người mỗi sáng không quên
đánh thức lòng sùng mộ bằng
thực hành Guru yoga này. Ngài Jamyang Khyentse Wangpo có sự thấu triệtà tám thừa của sự
thành tựu.(42) Ngài không chỉ
hiểu biết về chúng, mà cũng đã
thực hành tất cả chúng.
Tuy nhiên,
thực hành chính của ngài là pháp Guru yoga của dòng Long-chen Nyingthig này. Ngài
thường xuyên cầu nguyện Guru Rinpoche. Nghĩ rằng mặc dù pháp Guru yoga này rất dễ
thực hành và
kinh nghiệm, nhưng
đồng thời là một
thực hành phi thường và
sâu xa nhất, ngài đã bền bỉ giảng dạy nó cho các
đệ tử của ngài.
Có thể có những
thực hành rất cao, như trekchư và thưgal(43) trong Dzogpa Chenpo (Đại
Viên Mãn), nhưng đối với
chúng ta thực hành các pháp đó vào lúc này thì giống như cho một em bé quá nhỏ ăn
thực phẩm cứng đặc. Em bé sẽ không thể
tiêu hóa được
thực phẩm như thế, và nó chỉ làm hại em. Giờ đây nếu
chúng ta cố gắng thực hành những
giáo lý cao cấp đó, chúng sẽ
hoàn toàn vô ích.
Trái lại, nhờ những sự
ban phước xuất phát từ
nỗ lực chân thực trong việc
thực hành pháp Guru yoga này, sự
chứng ngộ Dzogpa Chenpo sẽ tự
phát khởi từ sâu thẳm của
con người chúng ta giống như
mặt trời buổi sáng, và
ý nghĩa của sự
thực hành trekchư và thưgal sẽ hé nở trong
chúng ta.
Chúng ta đừng nên cho rằng vì pháp Guru yoga này ngắn gọn nên nó là một
thực hành không quan trọng, như thể
Đạo Sư chỉ cho ta vài mẩu
thực phẩm. Không phải như vậy; nó là
thực hành tinh túy nhất trong tất cả
thực hành. Như chính Jigme Lingpa nói trong bản văn này: “Pháp Guru yoga này mở toang cánh cửa
đi vào kho tàng
mênh mông như bầu trời của terma cốt tủy này.” Pháp Guru yoga phát sinh từ
phạm vi bao la của sự
chứng ngộ của ngài Jigme Lingpa. Nếu
chúng ta có
lòng tin nơi ngài, thì
chúng ta cũng nên có
lòng tin vào pháp Guru yoga này. Không có
đức tin như thế, bất kỳ
giáo lý sâu xa nào khác như Yeshe Lama(44) cũng chẳng giúp ích được gì. Nếu bạn
nhất tâm thực hành pháp Guru yoga và từ chối không rơi vào
sai lầm khi nhìn nó như một
thực hành không quan trọng thì sự
chứng ngộ cao nhất sẽ hé nở trên
chính pháp môn này.
Pháp Guru yoga này được nhắc đến như một “thực hành bên ngoài,” nhưng đây
tuyệt nhiên không phải là một
thuật ngữ chỉ sự không tán thành. Ví dụ, ngữ và tâm
tùy thuộc vào “lớp vỏ bên ngoài” của thân người, không có nó bất kỳ
tiến bộ nào trên
con đường sẽ rất khó khăn.
Tương tự như vậy, pháp Guru yoga
bao gồm toàn bộ con đường. Ngày nay, dường như người ta cho rằng họ nên
tìm kiếm một
thực hành “cao cấp” hơn. Họ cần nhớ rằng những vị Thầy vĩ đại nhất đã dùng pháp Guru yoga này như
thực hành chính
trong suốt cuộc đời các ngài.
Nếu
chúng ta thực hành kyerim, như đã đề cập tới, ta phải
quán tưởng rõ ràng, phải nhớ lại
biểu tượng, và ta phải có sự tự hào
kim cương rằng
chúng ta chính là Bổn Tôn. Hơn nữa,
chúng ta phải chú trọng tới các
phương diện khác nhau của sự trì tụng: nyenpa, “sự tiếp cận”; drupa, “sự thành tựu”; và drupchen, “sự
thành tựu vĩ đại.”
Chúng ta phải
kiên trì nhiều năm tháng, tích tập nhiều trăm ngàn lần trì tụng, trước khi có thể thâu hoạch kết quả của sự
thực hành. Ngoài điều này cũng còn có bốn
hoạt động.(45) Nếu tất cả những
phương diện này không được
thực hiện trong một cách thế
hoàn toàn chính thống, thì các sự
thành tựu thông thường và
siêu việt không thể được
hoàn tất bằng pháp kyerim.
Trong dzogrim thì cũng vậy,
chúng ta phải
nỗ lực một
thời gian dài trong các
thực hành, và không phải là không nguy hiểm nếu chúng không được
thực hành đúng đắn. Nhưng trong Guru yoga, nếu
chúng ta có chiếc vòng
đức tin, thì cái móc
đại bi và
trí tuệ của
Đạo Sư sẽ dễ dàng đưa
chúng ta tới sự
chứng ngộ tối thượng.
Chính Guru Rinpoche đã
ban tặng pháp Guru yoga này. Như được nói tới trong các
tiên tri của dòng Longchen Nyingthig: “Từ trong cung điện của kinh mạch trung ương, Đức Guru Pema Thưtrengtsal sẽ
ban tặng giáo huấn này, ban ân phước của ngài bằng một cách
biểu tượng.”
“Cung điện kinh mạch trung ương” là
quang minh của tâm-như-vậy, trong khi “Pema Thưtrengtsal” có nghĩa là “Sức mạnh
Hoa Sen của Vòng Đầu lâu.”
Hoa Sen là
danh hiệu của Guru Rinpoche, và vòng đầu lâu mà ngài đeo
tượng trưng cho cái chết của mọi
tư tưởng mê lầm và chiến thắng của sự
Toàn Giác. Tiết đoạn này trích từ bản văn cũng nói rằng sự
chứng ngộ thâm sâu của Jigme Lingpa trở nên tương đương với sự
chứng ngộ của Guru Rinpoche.
Như
chúng ta đã thấy
lúc đầu,
tiên tri có
liên quan tới dòng Longchen Nyingthig
biểu thị rõ ràng rằng tất cả
chúng sinh thiết lập mối
liên hệ với những
giáo lý và
thực hành này –
đặc biệt là Guru yoga này và cả Rigdzin Düpa, sādhana
Đạo Sư chính yếu – sẽ đi tới các cõi
Cực Lạc Núi Màu-Đồng-Đỏ.
Chúng ta nên có
lòng tin kiên cố vào điều này và hãy
nhất tâm thực hành. Nếu
chúng ta thực hành phương pháp này, chẳng hạn như trong một năm, mà
không kinh nghiệm sự
chứng ngộ phi thường nào, thì
chúng ta đừng nên
ngã lòng, cũng đừng
hoài nghi về sự
thực hành. Như ngài Jetsun Milarepa nói: “Đừng ấp ủ những
hy vọng một sự
chứng ngộ tức thì, mà hãy
thực hành suốt đời bạn.”
Nếu bạn
suy nghĩ với sự
hoàn toàn quyết tâm: “Tôi sẽ
thực hành cho tới khi thân xác tôi được đưa ra nghĩa địa,” thì mọi
kinh nghiệm và
chứng ngộ về
con đường sẽ
phát khởi một cách
tự nhiên.
Trái lại, nếu
chúng ta chỉ
thực hành trong một
thời gian ngắn với sự thiếu
kiên nhẫn, thì các
kinh nghiệm này sẽ không xảy ra. Như có nói: “Pháp không có chủ nhân ngoại trừ những người
kiên trì trong nó.” Nếu ai có sự
quyết tâm thực hành Pháp, thì pháp này đã sẵn sàng để được
thực hành./.