Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

41 Ngài Huyền Trang

29 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7893)
41 Ngài Huyền Trang

BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN
Lê Sỹ Minh Tùng

41 Ngài Huyền Trang


Nhắc lại truyện Tây Du Ký của ngài Đường Tam Tạng Trần Huyền Trang đi thỉnh kinh bên Ấn Độ. Ngài Huyền Trang tên thậtTrần Vĩ sinh tại đất Yên Sư thuộc tỉnh Lạc Dương vào năm 603 tây lịch. Ngài bắt đầu đi tu khi vừa lên 13 tuổi. Khi ngài được 26 tuổi tức là năm 629 Tây lịch thì ngài bắt đầu cuộc hành trình qua Ấn độ để thỉnh kinh. Ngài Tam Tạng là người có trí tuệ vô songthông minh xuất chúng.

Ngài có thể nói được rất nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới lúc bấy giờ như tiếng Phạn, tiếng Ấn độ, tiếng Pali, tiếng Ba tư…

Trên thực tế thì ngài Huyền Trang đi sang Ần Độ một mình chớ không có Tôn Hành Giả, Sa Tăng hay Trư Bát Giới như chúng ta xem trong phim Tàu. Khi đến Ấn Độ thì ngài lưu ngụ rất nhiều tháng, nhiều năm tại từng tu viện hay đạo tràng để học hỏi từ nhiều cao tăng đắc đạoẤn độnghiên cứu ý nghĩa thâm sâu của Phật pháp. Sau 16 năm ở Ấn độ thì ngài về lại Trung Quốc và cùng rất nhiều học giả phiên dịch ra phần lớn kinh điểnchúng ta có được ngày nay như bộ kinh Bát nhã 600 quyển, Thành Duy Thức Luận…nhưng chính ngài cũng không hề hay biết còn bộ kinh Lăng Nghiêm mà về sau chính ngài Bất Lạc Mật Đế truyền sang Trung Hoa vào thời Võ Tắc Thiên hoàng đế.

Tại sao lại có những nhân vật như Tề Thiên Đại Thánh đi mây về gió kinh thiên, động địa như vậy? Thật ra đây chỉ là do óc tưởng tượng của người làm phim ở Trung Quốc mà thôi. Nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ thì ba nhân vật nầy chẳng qua là đại diện cho Giới, Định, Tuệ của nhà Phật.

Trư Bát Giới thì lúc nào cũng chiến đấu với ngũ dục, lục tình nên ông ta đại diện cho Giới để nhắc nhở ông ta luôn giữ tám giới. Còn Sa Tăng thì trầm tĩnh nên có Pháp danh là Ngộ Tịnh đại diện cho Định. Sau cùng con người

thần thông quảng đại, đi mây về gió, xuất quỷ nhập thần Tôn Hành Giảđại diện cho trí tuệ thông suốt chân không nên mới có cái tên là Tôn Ngộ Không. Họ chính là Tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ để khai thị cho chúng sinh rằng nếu ngài Trần Huyền Trang muốn đến được Ấn Độ mà không bị ma chướng hảm hại để thỉnh kinh thì phải cần đến ba vị nầy. Còn chúng ta nếu muốn đạt thành Phật quả thì Giới, Định, Tuệ là con đường duy nhất để giúp chúng sinh đạt đến cứu cánh tối thượng Bồ-đề. 

Bây giờ Đức Phật mới dẫn dắt chúng sinh lên một trình độ cao hơn đó là mặc dù tất cả vạn pháphữu vi sinh diệt, là vô thường, vô ngã nhưng thật ra nó là không thật. Nó không thật Có vì tất cả vạn pháp là do nhân duyên hòa hợp nên không bền chắc. Cái mà chúng ta thấy biết được trong thế gian nầy chẳng qua là cái Tướng giả Có bên ngoài mà thôi. Còn cái thật Thể bên trong thì vô sanh vô diệt tức là Không. Vì thế nếu chúng ta bỏ cái nhìn của nhục nhãn mà thay bằng mắt trí tuệ thì thế gian đâu có cái gì là khổ. Vì không có khổ cho nên khổ đế, tập đế cũng là không. Khổ đế đã là không thì làm gì có Đạo đếdĩ nhiên Diệt đế tức Niết bàn cũng là không. Có khổ mới cầu Niết bàn bây giờ phiền não khổ đau không có, không còn thì cầu Niết bàn để làm gì? Cũng như đồng tiền hai mặt. Con người chỉ có thể thấy được một mặt của đồng tiềnpháp hữu vi sinh diệt bên ngoài nhưng thật ra mặt bên kia là pháp vô vi thanh tịnh vô sanh vô diệt thì chúng ta không thấy được mặc dù nó vẫn hiện hữu trong không gian vô tậnthời gian vô cùng nầy. Chính cái thật tướng vô tướng nầy là căn bản của tất cả sự duyên khởi của nhân sinh vũ trụ. Vì vạn pháp không sanh diệt cho nên chúng ta có được Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Cũng vì sống với tự tánh thanh tịnh nên con người sẽ không còn phiền não khổ đau và từ đó họ sẽ không còn mong cầu chứng đắc Niết bàn. Đây cũng chính là vô sanh tứ diệu đế.

Khi con người đã thấu hiểu sự sinh diệt của pháp hữu vi và sự vô sinh của thật tướng thì Đức Phật mới nới rộng cho chúng sinh thấy rằng sinh diệt tứ đế thật ra không nhất thiết chỉ giới hạn trong tam khổ hay bát khổ mà nó là vô lượng vô cùng. Đây chẳng qua là hiện tượng biến đổi tâm thức của con người nên được gọi là vô lượng tứ diệu đế. Nếu con người nhìn vật thể chung quanh bằng tâm trạng của người bị vô minh che lấp thì họ nhìn đâu cũng thấy có phiền não khổ đau và nhìn đâu đâu cũng là nguyên nhân của phiền não khổ đau cả. Ngược lại nếu là người có tu học chánh pháp tức là có chánh địnhtrí tuệ thì chúng ta nhìn đâu cũng là Niết bàn, ngồi đâu đi đâu cũng là Niết bàn. Tâm thanh tịnh thì chúng ta không bao giờ rời Niết bàn, không bao giờ rời cực lạc cả. Đây chính là cốt tủy của vô lượng tứ diệu đế. Nói thế có nghĩa là một khi tâm của chúng sinh được thanh tịnh bằng cách xả bỏ những phiền não khổ đau thì không cần đi đâu để tìm Niết bàn mà chính Niết bàn sẽ hiễn hiện trong tâm của chúng ta. Thế thì nếu con người biết quay về sống với cái tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình để thay đổi cái nhìn, cái biết đối với vật thể chung quanh thì cuộc sống sẽ vô cùng an vui tự tại. Ngược lại nếu sống với cái tâm cuồng vọng điên đảo thì không bao giờ cảm chứng được sự thanh tịnh tịch diệt của Niết bàn.

Vô tác tứ diệu đế cho chúng ta thấy rõ rằng tất cả vạn pháp thì tự tánh của nó không có cái gì cả bởi vì không có ai là tác giả của những cái gốc của khổ đau. Nói một cách khác là khổ đế, tập đế, diệt đếđạo đế thật sự không có cái gì mà chúng ta luôn nghĩ rằng có khổ, tập, diệt, đạo. Vì nghĩ như thế mà con người trong thế gian nầy thấy có khổ và vui.

Trọng tâm của chân lý vô tác tứ diệu đế là giúp chúng ta am hiểu tường tận nguyên lý bất nhị hay chân lý nhất như để thấy được lẽ sống thật sự trong đời nầy. Vì thế vô tác tứ diệu đế có nghĩa là:”Phiền não tức Bồ-đề” và “Sinh tử tức Niết bàn”.

1) Phiền não tức Bồ-đề: Sống trong thế giới Ta bà nầy có nghĩa là cuộc sống của chúng ta luôn gắn liền với phiền não khổ đau. Hằng ngày vì chén cơm manh áo mà con người phải đối diện với biết bao là buồn phiền, bất mãn. Chạy theo cuộc sống là chạy theo tiền tài, danh vọng. Vì phát xuất từ tính tham nên trong tâm của chúng ta luôn tìm trăm mưu ngàn chước để thu đoạt tất cả mọi thứ về cho mình. Có một thì muốn mười, tham cho mình chưa đủ mà còn tham cho cả dòng, cả họ thì làm sao tránh khỏi buồn phiền. Nhưng nếu nghĩ kỷ lại thì con người khi chết có ai đem công danh phú quý theo họ được không? Hay là càng lo, càng tính toán, càng gian manh thì càng nhiều bệnh hoạn và dễ chết sớm. Có ai trên đời nầy giàu có mà không lo lắng buồn phiền đâu? Càng giàu thì lo càng nhiều. Công danh càng lớn thì càng lắm khổ đau. Nói thế thì đâu đâu cũng có phiền não khổ đau nhưng Phật dạy rằng ngay trong phiền nãocon người biết giữ chánh niệm, biết tư duy và luôn sống trong tĩnh thức để có thể nhận biết lấy cái trí tuệ vô thượng Bồ-đề chớ không cần tìm kiếm Bồ đề ở bất cứ nơi nào khác. Tại sao? Con người vì bị vô minh quấy phá nên sống trong điên đảo bây giờ chỉ cần quay về sống với tĩnh thức chánh niệm thì trí tuệ sáng suốt sẽ hiện bày. Thật vậy phiền não vô minh dấy khởi làm che lấp Bồ-đề cho nên nếu con người biết làm cho phiền não lắng xuống thì Bồ-đề sẽ hiện ra. Nói một cách khác là con người chỉ cần ngồi yên lại làm cho tất cả phiền não lắng xuống thì Bồ-đề xuất hiện. Vô tác có nghĩa là phiền não do ta mà Bồ-đề thì cũng do ta. Vì thế nếu con người ôm đầy một bụng phiền não mà chạy tìm Bồ-đề thì cho dù chạy đến muôn đời cũng không bao giờ thấy nó được.

Nhắc lại ngày xưa chính Huệ Năng phải làm việc rất nặng nhọc suốt sáu tháng ròng rã trước khi thành Lục Tổ. Ngài chuyên bửa củi, giã gạo và nấu cơm cho trên bảy trăm người thì đây chính là phiền não khổ đau, nhưng Lục Tổ thì rất hoan hỷ nên làm việc rất hăng say và không bao giờ thối chí. Tại sao? Nếu chúng ta làm việc nặng nhọctâm không thanh thản thì việc làm trở thành khó khăn, cực khổ. Ngược lại Lục Tổ tuy thể xác có phần cực khổ, nhưng tâm thể hoàn toàn thanh tịnh. Việc làm của ngài là cơ hội phục vụ hay cúng dường cho Phật pháp thì hàng ngày ngài đang thực hành Bố thí cho chúng sinh trong Bồ-tát đạo vậy. Vì thế càng làm thì ngài càng hăng say phục vụ, vậy từ trong phiền não mà ngài vẫn an trụ trong Bồ-đề.

Trước khi Đức Thế Tôn nói kinh Kim Cang Bát nhã, Ngài cùng 1250 vị Tỳ kheo đều đắp y và mang bình bát vào thành Xá Vệ theo thứ lớp khuất thực. Khuất thực xong, Ngài trở về tịnh xá Kỳ Viên để thọ trai. Thọ trai xong, Ngài cất bình bát, rửa chân rồi trải tọa cụ, ngồi tĩnh tọathuyết kinh Bát nhã. Trong số 1250 vị đại Tỳ kheo nầy thì trước hết có 5 vị là nhóm ông Kiều Trần Như và 50 vị từ gia đình của Da Xá. Trên 200 vị là đệ tử của tôn giả Xá Lợi PhậtMục Kiền Liên. Còn lại khoảng 1000 vị là đệ tử của ba anh em ông Ma-ha Ca-Diếp. Thế thì 1250 vị đều là những đệ tử đã theo chân Đức Phật từ lúc Ngài vừa thành đạo. Tại sao lúc nào cũng có trên ngàn đệ tử theo chân mà Đức Phật luôn an trụ Bồ-đề và tâm thì thường trụ Niết bàn? Lúc Đức Phật còn tại thế, đệ tử muốn quy y xuất gia theo Phật là vì bổn nguyện muốn được giải thoát sanh tửchứng ngộ Niết bàn cho nên mỗi người cũng như Phật phải tự lo khuất thực để nuôi thân mà tu đạo. Với số đệ tử đông đảo như thế mà lúc nào họ cũng sống nghiêm túc trong tăng đoàn và không làm bận lòng Đức Thế Tôn. Như thế thì họ đã biến phiền não thành Bồ-đề. Chính Phật hàng ngày cũng phải tự khuất thực cho mình, ăn xong tự mình cất bát lấy, tự trải tọa cụ mà tâm vẫn thường trụ Niết bàn. Ngài là tấm gương sáng để đo lường cái bản ngã của chúng ta. Đây mới thật là tinh thần bình đẳng cao quý của nhà Phật.

Nói tóm lại nếu con người biết sống tri túc, biết buông xả và đừng chạy theo ái dục một cách mù quáng thì chúng ta từ trong cái phiền não của cuộc sống thế gianvẫn có Bồ-đề để được an vui tự tại. Phiền não là do Tham-Sân-Si phát khởi làm cho trí tuệ sáng suốt bị lu mờ do đó nếu từ trong cái phiền não ấy mà chúng ta biết dùng tĩnh thức và chánh niệm để đánh tan những tư tưởng của Tham-Sân-Si mà quay về với cái trí tuệ sáng suốt thì phiền não tức thì biến mất và Bồ-đề hiển hiện ra ngay. Nói một cách khác là sống trong thế tục nầy thì con người sẽ có sự bất bình, bất mãn từ trong sở làm, trong gia đình cho đến xã hội. Đây chính là phiền não nhưng nếu chúng ta biết theo lời Phật dạy đó là biết buông xả để kiềm chế tâm Tham-Sân-Si, biết giữ chánh niệm không cho tư tưởng chạy theo lục dục thất tình. Tâm có tĩnh thức thì phiền não biến đi và Bồ đề xuất hiện. Vì thế chochúng ta có ở đâu và làm bất cứ nghề nghiệp gì nếu biết giữ chánh niệm và sống trong tĩnh thức thì phiền não sẽ biến thành Bồ-đề làm cho cuộc sống trở thành an vui tự tại.

* Sinh tử tức Niết bàn: Sanh tử là khổ đau còn Niết bànan lạc. Cốt tủy của giáo lý nhà Phật là giúp chúng sinh thấu hiểu và phá cho bằng được Ngũ uẩn ma. Phá Ngũ uẩn ma là phá đi cái chấp ngã của thân ngũ uẩn nầy. Vì con người là do nhân duyên kết tạo nên Ngũ uẩnvô ngã cho nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô ngã. Đã là vô ngã thì phải chịu ảnh hưởng hoàn toàn của luật vô thường tức là sinh, trụ, di, diệt hay thành, trụ, hoại, không. Một khi đã là vô ngã, vô thường thì sanh, lão, bệnh, tử bắt buộc phải xảy ra cho tất cả vạn pháp chớ không nhất thiết chỉ riêng cho con người mà thôi. Như thế thì ngay trong kiếp con người chúng ta có sinh tất có tử hay nói chung cho tất cả vạn vật là hễ có sanh tất có diệt. Thế mà ngay trong cái sanh tử nếu chúng ta biết tu, biết học, biết tư duy, biết quán chiếu thì trong cái sinh tử nầy vẫn có Niết bàn. Do đó Niết bàn là có ngay trong kiếp sống hiện hữu nầy chớ Niết bàn không phải tìm kiếm bất cứ ở nơi đâu. Ngày xưa các vị đại A La Hán như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên hay Phú Lâu Na đã đoạn trừ mọi phiền não khổ đau và chứng được Vô dư y Niết bàn. Chính các vị A La hán có được Niết bàn cũng bởi vì họ thấy được tính vô thường, vô ngã trong thế gian nầy. Tuy là bậc đại thánh nhưng tất cả cũng cùng chung số phận của luật vô thường. Đó là sinh, lão, bệnh, tử. Do đó, khi học vô tác tứ diệu đế thì chúng ta phải thấu biết sinh tử tức Niết bàn có nghĩa là Niết bàn ở ngay trong cõi đời mà mình có sanh có tử chớ đừng tìm nó ở bất cứ nơi nào khác.

Vô tác tứ diệu đế cho chúng ta thấy được cái thực tướng của vũ trụ bao la là không có cái gì hết. Vì thật tướngvô tướng tức là hoàn toàn không có tướng gì hết. Cùng một ý nghĩa thì thật tánh của các pháp là vô tánh. Nói thế có nghĩa là thật tướng của nó là tướng Vô và thật tánh của nó cũng là tánh Vô. Vì thế khi chúng ta nói đến Tánh và Tướng của vạn pháp thì chúng không hề có khổ và không hề có vui. Nếu con người biết sống vị tha, biết buông xả, biết tìm về với bản nhiên thanh tịnh thì tuy chúng ta ở trong cái thật tướng nầy mà vẫn tạo ra cái vui cho mình. Ngược lại, nếu bị màn vô minh che lấp thì cũng trong cái thật tướng nầy mà chính con người tự tạo ra cái khổ cho mình.

Người tu Phật chẳng những phải phá cho được Ngũ uẩn ma mà còn phải phá cho hết Tử ma thì cuộc sống mới thanh thản an vui. Chúng ta khổ vì bị cái màn vô minh che lấp làm cho trí tuệ lu mờ khiến cho Tham-Sân-Si phát khởi liên miên. Tử mađộng lực thúc đẩy làm sinh khởi lòng tham sống sợ chết khiến con người luôn lo âu sợ hãi về cái chết của mình. Nhưng có ai trên thế gian nầy thoát khỏi cái chết chưa? Vì thế cổ nhân mới có câu:”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử?”. Người học Phật đã biết thế gian vô thường thì sống chếtlẽ tự nhiên có gì phải sợ. Nếu bây giờ chúng ta biết sống vị tha, biết buông xả, không chạy theo tham cầu dục vọng để tâm được thanh tịnh và sống với cái thật tánh thanh tịnh của mình thì kiếp nầy chúng taNiết bàndĩ nhiên kiếp sau chúng ta cũng có Niêt bàn. Còn nếu kiếp nầy chúng ta sống sô bồ điên đảo, chạy theo lục dục, thất tình thì dĩ nhiên kiếp sau cũng tiếp tục sô bồ điên đảo, sa hầm, sụp hố. Do đó phá Tử ma là thâm hiểu Phật pháp để thấy đời là vô thường tạm bợ thì sẽ không còn tham sống sợ chết nữa. Người học Phật là phải xem thường sanh, lão, bệnh, tử bởi vì sanh và tử chẳng qua chỉ là những chu kỳ của duyên khởi mà thôi. Khi duyên hợp thì sanh và khi duyên tan thì mất. Chết không hẳn là mất mà chỉ là một hiện tượng duyên khởi dựa theo nghiệp lựcnghiệp quả của chúng ta mà thôi. Do đó nếu kiếp nầy chúng ta tạo dựng vun bồi cho mình tròn đầy phước đức và công đức cũng như tu tâm cho thanh tịnh thì những hạt giống tốt nầy sẽ nẩy mầm làm tăng trưởng mảnh vườn công đức của chúng ta.

Lúc Phật còn tại thế, một ngày nọ có một người đàn bà mắt chưa ráo lệ chắp hai tay quỳ xuống dưới chân Phật và bạch với Ngài rằng:

-Thưa Ngài! Đêm qua con đến xin Ngài một phương thuốc để cứu đứa con trai nhỏ vừa bị rắn cắn chết thì Ngài bảo rằng: “Ngươi hãy đến một nơi nào mà chưa có một người cha, người mẹ, người con hay đứa nô lệ chết mà xin một nắm tro. Nếu ngươi xin được nắm tro ấy thì mới có thể cứu con trai ngươi được”.

Đức Phật hiền từ nhìn người bà đau khổ và hỏi:

-Ngươi đã tìm được nắm tro ấy không?

-Ôi! Con ôm đứa con đã lạnh vào lòng và đi gỏ cửa từng nhà một từ thành thị đến thôn quê để xin thứ tro ấy. Tro thì không thiếu gì nhưng không có nhà nào không có người hoặc mới chết, hoặc chết đã lâu. Con mệt nhọc mà vẫn không tìm ra nay đến tìm nhờ Ngài chỉ dùm nhà nào có thứ tro mà Ngài đã dạy để cứu con của con.

Đức Phật đặt một tay trên vai người đàn bà như để trút cả một niềm thương mến lên đó và nói bằng một giọng xót xa:

-Ngươi à! Không có được thứ tro ấy đâu. Vì chết là một luật chung của sinh vật trong vũ trụ nầy. Hôm qua ta bảo ngươi đi tìm thứ tro ấy là cốt để cho ngươi nhận thấy rằng:” Đã là con người thì phải chịu cảnh sinh ly tử biệt”. Không ai có thể vượt ra khỏi luật cay nghiệt ấy. Hôm qua ngươi tưởng chỉ có một mình ngươi đau đớn. Bây giờ ngươi đã hiểu rằng toàn thể nhân loại đều chịu chung như thế cả. Cái đau đớn của ngươi chỉ là một trong cái đau đớn của toàn thể nhân loại. Đây là một giọt nước mắt trong biển nước mắt mà thôi. Ngươi đừng nên than khóc thái quá vì không thể nào thay đổi cái định luật khắc nghiệt nầy. Thôi ngươi hãy đi chôn hay hỏa táng con của ngươi đi. Nếu Ta có thể cứu được con ngươi thì dầu cần đến máu xương Ta thì Ta cũng không từ.

Đức Phật đã cho chúng ta thấy rõ ràng rằng chính Ngài cũng không thể thay đổi sinh mệnh của con người được. Chân lý của Đức Phật là nhân nào thì quả nấy và chỉ có Ta là có thể thay đổi cuộc đờiđịnh mệnh của Ta mà thôi. Chính Đức Phật còn không thay đổi số mệnh người khác được thì trên đời nầy không có một tha nhân nào có thể siêu cho kẻ khác được. Giáo lý của Đức Thế Tôntùy thuận chân lý tức là Ngài dạy chúng sanh nếu muốn có cuộc sống hạnh phúc viên mãn thì phải nương theo sự sinh tồn của nhân sinh vũ trụ. Đó là có sinh tất có diệt rồi trong cái diệt lại phát ra cái sinh. Nói một cách khác là tùy duyên nhưng bất biếnbất biến lại tùy duyên.

Nói tóm lại, vô tác tứ diệu đế cho chúng ta thấy rõ là trong đời nầy chính nó không có phiền não khổ đau hay sung sướng mà tất cả là do ta tự làm lấy. Vì thế Bồ-đề không có tác nhân và không có tác giảNiết bàn cũng không có tác nhân và cũng không có tác giả. Nó là tự tánh thanh tịnh bản nhiên cho nên Bồ-đề thì do chúng ta làm ra mà ưu bi khổ não thì cũng do chúng ta làm ra. Vậy muốn có cuộc sống hạnh phúc an vui tự tại thì hãy biến phiền não thành Bồ-đề và sinh tử thành Niết bàn.

“Không nên tối ngày cứ dòm ngó lỗi xấu của người. Phải thường xuyên tự nhìn xem mình có lỗi lầm, sai trái gì hay không. Tu như vậy mới không đi ngược lại với Đạo. Phàm thấy việc gì cũng đừng quá chấp tướng. Thấy tướng mạo tốt chớ sanh lòng vui thích; thấy tướng mạo xấu cũng chớ khởi phiền não”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32565)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11090)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7882)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12029)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12153)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12566)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34439)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9719)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10618)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10381)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12970)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21641)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9516)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10295)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12516)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12647)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16111)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13731)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16402)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11184)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16102)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12611)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11934)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11399)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13926)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11906)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12510)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14379)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20528)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13093)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10852)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14226)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20149)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13848)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11904)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant