ĐIỀU TRỊ BỆNH TẬN GỐC
NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM BI MẪN
Lama Zopa Rinpoche
Nguyễn Văn Điều & Đỗ Thiết Lập dịch Việt
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội
PHẦN MỘT: TÂM LÝ ĐIỀU TRỊ BỆNH
2. CÁC TRƯỜNG HỢP ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG
Vì có một số bệnh là nan y, không có thuốc chữa, nên con người ngày nay đang sử dụng rất nhiều những phương pháp chữa bệnh khác nhau, đặc biệt là những phương pháp liên quan đến năng lực của tâm. Việc thoát khỏi ung thư và nhiều căn bệnh khác nhờ thiền định giờ đây cũng phổ biến
giống như việc nhờ vào phương pháp điều trị chuẩn mực. Như tôi đã có giải thích, cách tốt nhất để tự chữa bệnh cho mình là thiền định, sử dụng tâm của mình. Như vậy, chúng ta trở thành bác sĩ, nhà tâm lý học và
vị thầy dẫn dắt cho chính mình.
Theo như tôi biết, những ai chân thành dốc tâm tu tập thiền định, cuối cùng đều sẽ đạt kết quả; dù không chữa khỏi hẳn thì ít nhất họ cũng kéo dài hơn tuổi thọ. Điều này chứng minh rằng sức khỏe của ta có liên quan đến tâm, liên quan đến các cách suy nghĩ của ta. Sau đây, tôi muốn giới thiệu một số câu chuyện về những người đã tự chữa bệnh thành công bằng thiền định.
Alice
Bản thân tôi được biết người đầu tiên dùng
thiền định chữa lành bệnh ung
thư là cô Alice, một nhà
tư vấn thời trang
nổi tiếng. Khi Alice
biết mình bị ung thư, cô ta nhờ một người bạn đang
tu tập ở
Tu viện Vajrapani
(Vajrapani Institute) ở bang California nước Mỹ hỏi xin tôi chỉ dạy về
tu tập thiền định. Tôi đề nghị cô ta hãy
thiền định về Vajrapani, một
hiện thân hung nộ của Phật rất có
hiệu lực trong việc
điều trị ung thư. Một cách
vắn tắt, tôi bảo cô ta
quán tưởng đức Vajrapani trên đỉnh đầu cô,
tỏa ra các tia nước
cam lồ để tịnh hóa cho cô. Tôi cũng khuyên cô mua các
động vật sắp
bị giết rồi đem
phóng sinh ở nơi
an toàn để chúng có thể sống lâu hơn.
Alice nhận được lời chỉ dạy của tôi về hai
pháp thực hành
căn bản này khi cô đang ở bệnh viện. Cô ta trình bày với các
bác sĩ là cô muốn rời bệnh viện để
thực hành hai việc này; họ khuyên cô nên ở lại bệnh viện nhưng cũng nói rằng nếu cô thực sự tin vào hai phép chữa bệnh bằng
tâm linh đó thì cô có thể về nhà. Cô liền
quyết định rời bệnh viện.
Alice đã
phóng sinh rất nhiều
động vật mua lại từ các tiệm ăn và các
nơi
khác nữa, khi chúng sắp
bị giết. Tôi đã khuyên cô ta
phóng sinh số lượng
động vật [
ít nhất là] bằng số tuổi của cô, nhưng Alice đã thực sự
phóng sinh tới hai hay ba ngàn con vật, chủ yếu là gà, cá và giun đất. Cô ta chăm sóc các con gà được
phóng sinh ở một nông trại, thả cá ra ao hồ. Cô ta mua một hay hai ngàn con giun đất và thả ra khu vườn quanh nhà. Giun đất rất dễ mua và rẻ.
Phóng sinh giun đất là một ý hay vì khi được thả ra chúng chui thẳng vào đất. Vì không có
động vật ăn thịt nào bắt chúng, nên chúng có thể sống lâu hơn. Những con vật khác được
phóng sinh ở trong rừng hoặc trên biển, ao hồ... ít có khả năng sống lâu hơn vì có nhiều loài
ăn thịt ở đó.
Khi Alice
trở lại bệnh viện để
kiểm tra sức khỏe sau một
thời gian thực hành những điều nói trên, các
bác sĩ đã không
tìm thấy dấu hiệu ung thư.
Họ rất
ngạc nhiên. Đó là
trường hợp đầu tiên họ thấy có bệnh nhân ung thư được chữa lành bằng
thiền định. Họ muốn viết một cuốn sách về
trường
hợp này vì đối với họ, sự chữa khỏi bệnh ung thư của Alice là một
hiện tượng mới mẻ và rất lạ thường, nhưng cô ta bảo họ là cô sẽ tự mình viết cuốn sách đó.
Sau đó Alice đi Nepal để trực tiếp bày tỏ sự
biết ơn tôi; cô ta nói rằng
tôi đã cho cô ta một quà tặng, đó là phần đời còn lại của cô ta.
Mặc dù bệnh ung thư đã được chữa khỏi, nhưng tôi tò mò muốn biết xem bệnh có tái phát hay không nên tôi
thỉnh thoảng vẫn
hỏi thăm tình trạng sức khỏe của cô ta. Cô ta khỏe mạnh được 5 năm, sau đó khi nhiễm phải một loại bệnh vi rút thì bệnh ung thư tái phát. Cô ta bảo tôi rằng bệnh tái phát có thể vì cuộc sống quá
rối loạn, cô ta không còn
tự chủ được. Trong một
thời gian dài cô ta đã
duy trì được
giới hạnh trong sự
tu tập tâm linh, nhưng vào lúc đó cô ta ngưng việc
tu tập, và rồi cuộc sống bị
đảo lộn.
Kinh nghiệm của Alice cho thấy rằng
điều trị tâm quan trọng hơn
điều trị
thân. Bệnh ung thư của cô ta tái phát vì cô ta ngưng
tu tập, ngưng
rèn luyện tâm. Cô ta đã không
bảo vệ tâm mình bằng
thiền định.
Rèn luyện cuộc sống tức là
tu luyện tâm. Alice
tu tập trở lại,
thiền định về Vajrapani,
phóng sinh động vật,
thọ trì tám giới
Đại thừa,
thực hành giới nguyện trong một ngày không phạm tám điều
bất thiện.
Một
thời gian sau, cô ta đi
kiểm tra sức khỏe,
bác sĩ bảo rằng bệnh ung thư
hoàn toàn biến mất. Sau khi
hồi phục, Alice đã được
phỏng vấn nhiều lần trên truyền hình về
kinh nghiệm chữa lành bệnh ung thư bằng
thiền định.
Chúng ta có thể chữa lành bệnh qua
thiền định; nhưng sau đó nếu
chúng ta
không
bảo vệ được tâm mình thì cuộc sống của
chúng ta bị
đảo lộn trở lại, và rồi các
vấn đề sẽ tái phát. Nếu
chúng ta bỏ mặc cho
bản thân mình
chạy theo những điều xấu như chỉ biết chăm lo
bản thân (
vị kỷ),
tham lam và các
vọng tưởng khác nữa, như vậy
tâm không được
bảo vệ, và
chúng ta tạo ra
nguyên nhân để các
vấn đề tái diễn.
Alan
Tôi đã gặp nhiều
trường hợp khi bệnh
nhân không tiếp tục tu tập thiền định thì
đời sống bị
đảo lộn và
tình trạng sức khỏe bị giảm sút nhiều. Ông Alan là một ví dụ. Ông ta đã chết mấy năm về trước vì bệnh AIDS. Khi
còn sống ở
Tu viện Quán Thế Âm (Chenrizig Institute), một
trung tâm thiền tập ở nước Úc, ông đã
hành trì rất nghiêm túc cũng như
tu tập nhiều phép
thiền định khác nhau khi được
chỉ dẫn. Tôi nghĩ cũng chẳng có
nhiều chọn lựa trong một môi trường như thế – chẳng có việc gì khác để làm.
Alan
tham dự các khóa thiền mỗi ngày, chủ yếu tập trung vào
thiền định đức Phật Dược Sư và còn
tu tập các Bổn tôn khác.
Năng lực của các Bổn tôn đó rất mạnh,
mật chú của các vị rất
linh thiêng, cho nên
thiền định về các Bổn tôn rất
hiệu nghiệm.
Chắc chắn sự
tu tập đã tạo được
cảm ứng và làm cho tâm ông ta thấy khỏe lên. Sắc diện
thể hiện cái tâm, Alan trông người rất tươi sáng,
thoải mái vì có được tâm đang khỏe. Khi tâm
sung sướng nhờ
thiền định và
nếp sống theo khuôn khổ tốt thì kết quả này
cũng phô bày ra trên gương mặt và
thân thể mình. Sau
thời gian hoàn tất
việc
tu tập thiền định, Alan trông như
thể không còn bị bệnh và
đủ sức làm các việc giúp cho
Tu viện.
Lẽ ra Alan nên ở lại
Tu viện thêm ít tháng hay ít tuần nữa, nhưng ông ta
muốn về thành phố để có thể giúp đỡ những người bị bệnh AIDS.
Vấn đề ở chỗ là khi
trở về thành phố ông ta không thể
tiếp tục tu tập, cuộc sống bị
đảo lộn và rồi
tình trạng sức khỏe bị
sa sút. Ông ta đã quá bận rộn khi ở thành phố, nhưng tôi cho rằng
sức khỏe bị
sa sút nhiều không phải vì bận rộn mà vì ông ta không
tiếp tục tu tập thiền định được. Sau đó ông ta
trở lại Tu viện tu tập để cố
lấy lại sức khỏe và tìm lại nguồn
cảm ứng.
Tuy nhiên, mỗi khi
sức khỏe được
phục hồi, Alan lại
trở về thành phố để giúp những người khác, và cái chu kỳ như thế cứ
tiếp tục, ông ta
đi lui đi tới
Tu viện Chenrizig rất nhiều lần.
Dĩ nhiên, việc giúp đỡ người khác là một
ý tưởng quí báu. Dù vậy, tôi chưa thấy những người bị bệnh ung thư
quan tâm giúp đỡ nhau nhiều như những người bị bệnh AIDS. Sự
đau khổ mà tự
bản thân phải
chịu đựng khiến
cho họ
thông cảm sâu sắc với những người cũng đang
chịu đựng như họ. Nên dù đang đau ốm, họ như có sự
thôi thúc tự nhiên muốn đi giúp người đồng
cảnh ngộ. Không
nghi ngờ gì nữa, đây là một
thái độ đáng quí và có được
cách cư xử cao đẹp này là điều đáng
ca tụng.
Tuy nhiên, điều cần
quan tâm là,
sức khỏe của họ thường
sa sút vì họ không thể
duy trì được mức độ
cần phải có cho một
nếp sống khuôn khổ và
tu tập.
Vào lần cuối trước khi chết, Alan có gặp tôi, và tôi thấy ông ta rất yếu, phải có hai người bạn dìu mới bước đi được. Ông ta ngồi trên ghế, lắng nghe tôi giảng
trong khoảng hơn một giờ đồng hồ về việc ông ta có thể
chuyển hóa suy nghĩ để thấy được rằng việc bị bệnh nan
y như thế này
là điều tốt và có
ý nghĩa chứ không phải điều tệ hại và
tuyệt vọng. Tôi
nói với ông ta rằng bị bệnh AIDS là việc
may mắn cho ông ta, vì nhờ vậy
ông ta mới có được một cơ hội
vô cùng hy hữu để đưa
cuộc đời hướng theo
con đường tâm linh, theo
con đường dẫn tới
giác ngộ. Bệnh nan y đã mở cánh cửa đi tới
giác ngộ và sự
hạnh phúc trọn vẹn.
Tôi đã nói với ông ta về
lợi lạc của việc bị bệnh AIDS. Chẳng hạn như, nhờ bị bệnh AIDS mới có được
phương pháp nhanh chóng và mãnh liệt để phát triển
tâm từ bi, vì khi bị bệnh bạn mới dễ dàng
cảm thấy bi mẫn
xót
thương những người cùng
hoàn cảnh hay những người bị các bệnh nan y khác. Nương vào bệnh tật để phát triển
tâm từ bi, như vậy sẽ mang lại sự
tịnh hóa nghiệp rất
hiệu lực.
Tôi không thể nhớ từng lời mà tôi đã nói với Alan, nhưng chủ yếu là: bệnh tật đã mang ông ta nhanh chóng đến
giác ngộ. Tôi muốn ông ta thấy được các khía cạnh
tích cực khi mắc phải bệnh AIDS, tôi muốn ông ta thấy
được một cơ hội
hy hữu mà ông ta đang nắm giữ trong lúc này.
Chúng ta cần
chuyển hóa suy nghĩ, vì cách thức
suy nghĩ có
liên quan mật
thiết với việc chữa lành bệnh.
Chúng ta phải biết rằng đau ốm là một
sự
kiện rất cần có, chứ không phải một
vấn đề không cần có, không muốn có.
Chúng ta phải
nhận diện bệnh tật như một sự phô bày
hiển lộ đau khổ của
tất cả
chúng sinh hữu tình.
Chúng ta đừng xem bệnh tật là
chướng nạn, mà nên
sử dụng nó để phát triển
từ bi và
trí tuệ.
Cũng giống như
sử dụng chất độc làm dược phẩm,
chúng ta nên
sử dụng bệnh
tật như
con đường dẫn tới
hạnh phúc. Thông qua việc
chuyển hóa tâm,
chúng ta làm cho
kinh nghiệm đau ốm trở nên có
ý nghĩa, không chỉ cho
bản thân mà còn cho những người khác. Bệnh giúp ta phát triển được các phẩm chất quí báu của
con người là
lòng từ ái, bi mẫn, và chính điều này
giúp ta có thể mang
hạnh phúc và
bình an đến cho từng
chúng sinh hữu tình.
Dù gì thì ta cũng đã bị bệnh, ta nên biến nó thành việc có
lợi lạc bằng cách
sử dụng nó để mang
hạnh phúc tạm thời cũng như
vĩnh cửu đến cho
bản
thân và cho mọi
chúng sinh hữu tình. Đây là kế sách hay nhất để
vượt qua bệnh tật.
Sau khi nghe tôi giảng về việc
chuyển hóa tâm theo cách này, Alan
cảm thấy như được khỏe hơn. Trước lúc nói chuyện, ông ta ngồi sụm người trên
ghế, nhưng khi
kết thúc câu chuyện, ông ta đã có thể tự
đứng dậy và bước đi mà không cần người giúp. Ông ta rất
ngạc nhiên về sự
phục hồi sức khỏe bất ngờ như thế. Ông ta quơ tay, nói: “Ồ, xem kìa! Bây giờ tôi có thể tự đứng lên được!”
Alan đã có được sự
phục hồi tức thì, nhưng
dĩ nhiên, có được
trạng thái tâm phấn chấn như thế vào lúc đó là chưa đủ, ông ta phải
tiếp tục duy trì tâm luôn luôn trong
trạng thái đó thì mới có thể giúp ông ta sống lâu hơn.
Từ
câu chuyện này bạn có thể thấy được vì sao thể trạng có
liên quan mật
thiết với tâm trạng. Điều này
đặc biệt chính xác với
trường hợp bệnh AIDS. Nếu những người bị bệnh AIDS có được tâm khỏe mạnh, họ có thể sống
lâu hơn và cơ thể cũng sẽ khỏe mạnh hơn, bất chấp là bệnh tật vẫn còn đó.
Lucy
Nhiều năm về trước, Lucy –
một sinh viên người Úc – có nói với tôi rằng cô ta bị bệnh ung thư. Tôi đã đề nghị cô ta
thực hành nhiều lần phép nyung-n. Đó là một phép
thực hành tịnh hóa nghiệp nhờ vào đức
Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Phật
Đại bi. Mỗi lần
nhập thất kéo dài hai ngày.
Hành giả thực hành lễ lạy sám hối và nhịn
ăn uống. Vào ngày đầu,
hành giả chỉ ăn một bữa, nhưng vào ngày thứ hai sẽ không
ăn uống gì cả. Việc nhịn
ăn uống thực chất không có gì
đặc biệt, chỉ là sự
hành xác.
Tuy nhiên, bạn
thực hành việc nhịn
ăn uống với một động cơ
đặc biệt là
lòng bi mẫn, trong đó bạn tự mình nhận lấy
trách nhiệm làm sao cho tất cả
chúng sinh hữu tình thoát khỏi khổ đau và hưởng được
hạnh phúc.
Lucy đã
thực hành một số lần
nhập thất hành trì pháp nyung-n tại Bồ-đề
Đạo tràng, một
thánh tích ở
Ấn Độ, nơi
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành đạo.
Tôi cũng dạy Lucy
chú nguyện vào nước uống bằng cách niệm hết ba
chuỗi hạt (108 hạt)
mật chú Quán Thế Âm bản có độ dài trung bình rồi thổi vào
nước. Sau đó Lucy dùng nước đã
chú nguyện này để uống nhiều lần trong ngày. Cô ta cũng
tiếp tục thực hành phép
chú nguyện vào nước uống như vậy ngay cả sau khi rời
Ấn Độ trở về Úc.
Sau đó mấy năm, tôi có gặp lại Lucy ở Luân Đôn trong một kỳ giảng, cô ta
trông tươi tắn khỏe mạnh. Mới
gần đây, tôi đã gặp cô ta ở Úc, cô ta vẫn
khỏe mạnh. Mỗi lần gặp tôi, Lucy đều nhắc lại rằng chính nhờ vào việc
thực hành trì chú Quán Thế Âm mà cô ta đã chữa lành bệnh ung thư.
Luke
Khi Luke,
một sinh viên người Hoa ở Singapore, đến bệnh viện
kiểm tra sức khỏe tổng quát định kỳ,
bác sĩ cho biết anh ta bị bệnh AIDS. Là người rất
sùng tín, Luke liền viết thư gửi đến thầy mình là ngài Rato Rinpoche, một vị Lama cao cấp ở Dharamsala,
Ấn Độ. Vị này
đến nay đã qua
đời.
Luke đã có đủ
nghiệp lành để nhận được những chỉ dạy
thiền định từ thầy mình. Mặc dù vào lúc đó chính ngài Rato Rinpoche cũng đang
thị hiện tướng bệnh, nhưng ngài đã
ưu ái gửi cho Luke những hướng dẫn pháp
thiền định đặc biệt về
tâm từ bi, được gọi là pháp “cho và nhận”, tiếng
Tây Tạng là tong-len.
Trong pháp
thiền định cho và nhận, để
rèn luyện tâm bi,
chúng ta nhận về
mình tất cả khổ đau, kể cả bệnh tật của
chúng sinh hữu tình và
sử dụng khổ đau đó để phá trừ tâm
vị kỷ của ta, vốn là nguồn gốc của mọi khổ đau. Pháp
tu tập thiền định này trực tiếp
đối trị mong muốn thông thường
của ta là “không nhận lãnh bệnh tật của người khác”.
Tiếp theo, để
rèn luyện tâm từ,
chúng ta nguyện dâng
hiến thân thể, các vật
sở hữu,
hạnh phúc và
thiện hạnh của mình cho mọi
chúng sinh hữu tình khác.
Pháp
tu tập thiền định này không phải là
bí mật hay hiếm thấy. Đây là một pháp
thiền định thông
thường có trong
giáo pháp của “Con đường
tu tập từng bước
đưa tới giác ngộ” (tiếng Tạng là Lam rim).
Sau khi nhận được chỉ dạy từ Rato Rinpoche, Luke đã
hành trì thiền định chỉ trong bốn ngày. Rồi anh ta đến bệnh viện
kiểm tra lại
sức khỏe, và các
bác sĩ đã không
tìm thấy bất kỳ dấu hiệu nào của vi-rút HIV. Khi tôi
hỏi anh ta đã
thiền định trong bao lâu, tôi đã
hết sức kinh ngạc khi anh ta
trả lời rằng chỉ
thiền định trong khoảng ba hay bốn phút mỗi ngày. Tôi tưởng rằng anh ta hẳn đã phải
thiền định trong nhiều giờ.
Điểm quan trọng
cần phải hiểu là: mấy phút
thiền định của anh ta đã cực kỳ mãnh liệt.
Trong suốt thời gian thiền định, anh ta không nghĩ gì về
bản thân, về bệnh tình của mình, như thể
vấn đề của anh ta không hề
tồn tại. Anh ta
hoàn toàn chỉ nghĩ đến khổ đau của những người khác,
đặc biệt là khổ đau của những người mắc bệnh AIDS, và
sinh khởi tâm bi mẫn mãnh liệt. Nước mắt trào ra trên gương mặt mỗi lần anh ta
thiền định, không phải vì nghĩ đến căn bệnh của mình mà vì quá
xót thương những người khác đang bị bệnh AIDS và cả những bệnh khác nữa. Anh ta
quan tâm đến những người ấy hơn là chính
bản thân mình. Anh ta đã có sự
chân thành sùng mộ mãnh liệt và
trong suốt các thời
thiền định luôn cảm nhận được rằng vị thầy (Rato Rinpoche) đang ở bên cạnh và đang dẫn dắt anh ta.
Chữa lành một bệnh nặng cần
thời gian lâu nếu bạn
sử dụng loại thuốc yếu
với liều nhẹ; nhưng sự
phục hồi sẽ nhanh hơn nếu bạn
sử dụng thuốc mạnh, cho dù bạn dùng ít thuốc, ít lần trong một ngày. Sự chữa bệnh của Luke đã
thành công nhanh chóng nhờ vào
năng lực tâm của anh ta, nhờ vào
uy lực vô cùng mãnh liệt của
tâm từ bi mà anh ta có được cho dù các thời
thiền định không kéo dài. Anh ta nhanh chóng khỏi bệnh nhờ làm nảy sinh
được
tâm bi mẫn rất mãnh liệt giúp tịnh hóa được rất nhiều
nghiệp bất thiện cùng với các che chướng
mê lầm, vốn là nhân của bệnh AIDS.
Luke đã
trở lại bệnh viện nhiều lần để
kiểm tra sức khỏe tổng quát, anh ta vẫn khỏe mạnh. Theo chỗ tôi biết được, đây là
trường hợp duy nhất áp dụng thiền định chữa lành
hoàn toàn bệnh AIDS.
Tôi đã
yêu cầu Luke cho tôi một ghi chép
chính xác về việc
thiền định của anh ta để tôi có bằng chứng nói cho người khác biết về
câu chuyện này (Xem thêm ở chương 15,
phân đoạn Pháp
thiền định cho và nhận, trang 308)
Pháp
thiền định Tong-len là tâm điểm của việc chữa lành bệnh. Một khi hiểu được pháp thiền này, ta có thể mang ra
áp dụng với mọi
vấn đề bất ổn trong cuộc sống và
chuyển hóa tất cả thành
hạnh phúc.
Vấn đề chỉ
đơn giản là bạn có
thực hành thiền định hay không mà thôi. Trong khi
thiền định chúng ta không thể có
cảm giác chán nản, vì
vấn đề bất ổn của
chúng
ta đã được
chuyển hóa ngay lập tức thành
hạnh phúc.
Pháp
thiền định đặc biệt này là phương thuốc chữa bệnh tốt nhất, nhưng
lợi lạc quan trọng nhất của nó không phải việc chữa bệnh mà là giúp ta phát triển
tâm từ,
tâm bi và
Bồ-đề tâm, vốn là nhân chính
đưa tới giác ngộ.
Bồ-đề tâm là
tâm nguyện vị tha, khao khát
đạt đến giác ngộ để
giải thoát cho tất cả
chúng sinh hữu tình khỏi khổ đau và
nguyên nhân của khổ
đau, dẫn dắt họ đến sự
giác ngộ viên mãn.
Thực hành thiền Tong-len có thể chữa bệnh và
chuyển hóa các
vấn đề bất ổn thành
hạnh phúc, nhưng quan trọng nhất là nó giúp
chúng ta phát triển sự
thực chứng Bồ-đề tâm. Những niệm tưởng
từ bi và
thương yêu của
Bồ-đề tâm là phương thuốc hữu hiệu nhất cho cả tâm và thân.
Ông Lee
Ông Lee, một doanh nhân người Hoa ở Singapore, đã
thiền định để tự chữa bệnh ung thư dạ dày. Lần đầu tôi gặp ông ta ở một buổi giảng, trong hành
lang một phòng thi đấu môn bowling ở Singapore. Hôm đó trông ông ta rất
gầy yếu, phải tựa vào bà vợ để bước đi.
Bác sĩ bảo ông ta chỉ có thể sống thêm ít tháng nữa. Ở Singapore, Hong Kong và
Đài Loan, các bệnh nhân thường đến
nghe pháp và ngay sau buổi giảng họ đến gặp và
yêu cầu tôi
thảo luận về bệnh của họ hay cho họ vài
lời khuyên.
Tôi đã khuyên ông Lee
thiền định về Tara và
đặc biệt trì tụng bài “Hai mươi mốt câu
xưng tán hồng danh đức Tara”. Mặc dù là một
thương gia bận rộn đi khắp
thế giới, nhưng ông Lee đã tận tụy hết mình trong việc
cầu nguyện Tara và mau chóng chữa khỏi
hoàn toàn bệnh ung thư bao tử.
Sau đó ít lâu, khi
tham dự khóa
thiền định một tháng ở
Tu viện Kopan tại
Nepal, ông Lee nói với tôi rằng, không chỉ tự chữa lành bệnh ung thư bao tử của mình, ông ta còn chữa lành căn bệnh tim
trầm trọng của con trai ông. Trong một giấc mơ, ông nhìn thấy một bánh xe đang quay nơi tim
của người con trai, và rồi con trai ông khỏi bệnh...
(... ... ...)
... Với khả năng chữa bệnh như vậy, ông ta trở nên rất bận rộn vì có nhiều người
hằng ngày đến chờ ông ta đi làm về để chữa bệnh. Tôi cũng đã
yêu cầu ông ta mở lớp dạy chữa bệnh ở
trung tâm Phật giáo Amitabha (Amitabha Buddhist Center) thuộc Tổ chức FPMT ở Singapore, sao cho các
huynh đệ ở
trung tâm đó, dù là người đang khỏe mạnh, có thể cùng nhau
cầu nguyện để chữa trị cho những bệnh nhân.
Năng lực chữa bệnh sẽ mạnh mẽ hơn khi có một nhóm người cùng nhau trì tụng
cầu nguyện.
Điểm quan trọng
cần phải hiểu là nguồn
năng lực chữa bệnh của ông Lee.
Mặc dầu có vẻ như khả năng tự chữa bệnh cho mình và người khác của ông Lee đến từ một đối tượng bên ngoài, đức Tara, nhưng
thực ra khả năng đó chủ yếu có được nhờ vào
thái độ tích cực của chính
bản thân ông ta.
Năng
lực chữa bệnh của ông ta là kết quả của tâm sùng mộ mãnh liệt đối với đức Tara và
đạo đức thanh tịnh của chính
bản thân ông ta.
Điểm
cốt lõi là tất cả
chúng ta ai cũng có tiềm năng chữa bệnh. Bằng việc phát huy
năng lực các
hành vi hiền thiện của mình,
chúng ta có thể chữa lành bệnh ung thư, bệnh AIDS và nhiều bệnh khác cho chính mình và người khác.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn nhiều là phải
loại bỏ những
nguyên nhân gây bệnh,
nếu không thì mọi sự ngăn chặn đều chỉ là tạm thời. Ngay cả khi ta chữa lành bệnh cho một người, ta cũng chỉ là tạm thời
giải quyết một
vấn đề bất ổn trong cuộc sống của họ, và nếu
nguyên nhân vẫn còn thì
vấn đề đó sẽ
quay trở lại.
Nói chung,
thiền định có thể chữa bệnh, nhưng nếu chỉ
thiền định về Bổn tôn và trì tụng
mật chú không thôi thì chưa đủ.
Chúng ta cần thay đổi
thái độ sống và
hành vi của
chúng ta nữa. Nếu
chúng ta không giảm dần những
hành vi bất thiện gây hại cho
bản thân và người khác, thì một khi được khỏi bệnh
chúng ta lại
tiếp tục tạo ra
nguyên nhân bệnh. Điểm thiết
yếu nhất là ngừng hẳn việc tạo ra
nguyên nhân của bệnh.