ĐIỀU TRỊ BỆNH TẬN GỐC
NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM BI MẪN
Lama Zopa Rinpoche
Nguyễn Văn Điều & Đỗ Thiết Lập dịch Việt
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội
PHẦN MỘT: TÂM LÝ ĐIỀU TRỊ BỆNH
8. VẠN SỰ DO TÂM, THÔNG QUA SỰ GÁN ĐẶT TÊN GỌI
Mọi sự đều xuất phát từ tâm; bất cứ việc gì cũng đều do tâm tạo tác. Khi một trăm người nhìn ngắm một người thì mỗi người đều thấy người đó khác nhau: một số người thấy đẹp, những người khác thấy xấu, có người thấy không đẹp cũng không xấu. Những ý kiến khác biệt đó xuất phát từ tâm của những người quan sát. Đối tượng xuất hiện trước mắt chúng ta trông như thế nào là do tâm của chúng ta chứ không phải từ phía đối tượng. Nó tùy thuộc vào cách chúng ta quan sát đối tượng, cách chúng ta diễn giải nó, gán đặt tên gọi, tức là định danh cho nó.
Mọi sự xuất phát từ tâm, hay là “vạn sự do tâm” – đây là nguyên tắc cơ bản của đạo Phật, nhưng các nhà khoa học Tây phương ngày nay cũng đồng ý
rằng: ngay cả sự hiện hữu của một nguyên tử cũng liên quan đến tâm của người quan sát. Mọi sự đều là tạo vật của tâm, kể cả bản thân tâm đó. Vì
mọi sự xuất phát từ tâm, nên tâm chính là yếu tố căn bản của việc chữa lành bệnh tật. Cũng như giáo lý nhà Phật, các sách y học của Trung Hoa và Tây Tạng đều giải thích rằng tất cả mọi bệnh tật xuất phát từ tâm và xem như bệnh tật có liên quan đến ba vọng tưởng cơ bản: vô minh, sân hận
và tham lam. Cội nguồn đích thật của bệnh tật – và của các đau khổ khác
nữa – chính là vô minh, đặc biệt là vô minh không nhận biết được thực tại tối hậu của các hiện tượng.
Để chữa lành không chỉ bệnh tật mà còn là tất cả khổ đau, và để chúng ta
không còn phải trải qua khổ đau lần nữa, chúng ta phải chữa trị những nguyên nhân của khổ đau, vốn nằm trong dòng tâm thức tương tục của ta. Chúng ta phải chấm dứt hoàn toàn các hành vi do vọng tưởng thúc đẩy, kể cả bản thân các vọng tưởng và hạt giống của vọng tưởng. Thuốc mà chúng ta dùng để trị bệnh là thực chứng tánh Không, bản chất tối hậu của mọi hiện tượng. Đây là lý do tại sao sự liễu ngộ tánh Không là rất quan trọng, và tại sao đức Phật đã ban rất nhiều giáo pháp về tánh Không, trong số đó có giáo pháp ngắn nhất là Tinh túy của trí tuệ, thường được biết với tên là [Bát-nhã] Tâm kinh.
Thực tại của một cành hoa
Thực tại của các
hiện tượng có thể được cứu xét theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, một [khía cạnh]
thực tại của một cành hoa là
vô thường,
đang
biến đổi và tàn lụi từ ngày này sang ngày khác, trong từng giây phút. Ngay cả chỉ trong một giây nó cũng đang tàn lụi. Tại sao? Vì nó
tùy thuộc vào các nhân và duyên khác.
Tuy nhiên,
chúng ta để ý thấy được
sự tàn lụi của nó chỉ khi nào sự tàn lụi lộ ra
hiển nhiên,
ảnh hưởng đến màu sắc và
hình dáng của nó.
Chúng ta không thể thấy được sự tàn lụi
vi tế của cành hoa trong từng giây một.
Hoa mọc lên nhờ vào một
số nhân duyên, và nó tàn lụi do những
nhân duyên
khác.
Sự thật là hoa thay đổi trong từng
thời khắc do các
nhân duyên, và cũng vì sự thay đổi rất
vi tế này mà hoa thay đổi theo từng giây phút, từng giờ, từng ngày. Sự thay đổi
vi tế đưa dần tới sự thay đổi thô,
cho đến một lúc
chúng ta nhận ra được là hoa đang tàn lụi. Trước thời điểm ấy đã có rất nhiều sự thay đổi xảy ra rồi, nhưng vì chúng quá
vi tế nên ta không
nhận biết. Và vì không
nhận biết sự thay đổi này nên hoa có vẻ như
thường hằng đối với ta. Qua sự nhận hiểu cái vẻ ngoài
thường hằng sai lệch này là đúng thật,
chúng ta đã tạo ra một khái niệm
huyễn ảo về sự
thường hằng trong mối quan hệ với một sự vật vốn dĩ là
vô
thường.
Bây giờ,
chúng ta hãy xét đến
thực tại tối hậu, cực kỳ
vi tế, của một cành hoa. “Hoa” là một tên gọi (danh), một
từ ngữ, một nhãn hiệu [phân loại] được gán đặt trên nền tảng (
thực thể) một đóa hoa.
Chúng ta nhìn một đóa hoa trong sự
phụ thuộc vào
thực thể của nó, và
chúng ta sẽ không dùng tên gọi “hoa” để gán đặt cho bất kỳ
thực thể nào. Khi
chúng ta nhìn thấy một cái bình hay quyển sách chẳng hạn,
chúng ta không gọi đó là “hoa”. Trước khi gán đặt tên gọi “hoa” cho một sự vật,
chúng ta buộc phải có một
lý do để làm như vậy,
nếu không chúng ta hẳn đã gán tên
gọi này cho bất kỳ đối tượng nào ta nhìn thấy. Nếu bạn tự gọi mình là “hoa”, hẳn bạn có thể bị đưa vào nhà thương điên để điều trị! Trước khi
chúng ta chọn dùng cái tên gọi
cá biệt là “hoa”,
chúng ta phải thấy một
thực thể cá biệt, một vật thể mọc lên từ đất và có hình thể cùng màu sắc
của cái hoa. Việc nhìn thấy một đối tượng như vậy khiến cho
chúng ta quyết định dùng tên gọi “hoa”, nhưng khi nhìn thấy một cái bình, một quyển sách hay cái bàn thì không.
Đây là tiến trình thông qua đó
chúng ta nhìn thấy một cái hoa. Khi ta không phân tích
nhận thức của mình thì có vẻ như ta nhìn thấy cái hoa ngay từ thời điểm bắt đầu [
tiếp xúc với nó], như thể là
chúng ta nhìn thấy cái hoa mà không có việc tâm ta
gán cho nó tên gọi là “hoa”. Nhưng điều này
hoàn toàn sai. Tiến trình
thực tế là:
chúng ta trước hết nhìn thấy
thực thể của một bông hoa, một đối tượng
vật chất cá biệt, rồi
chúng ta gán đặt cho nó tên gọi “hoa”; và khi đó một đóa hoa mới
xuất hiện đối với ta. Chỉ sau khi
chúng ta gán đặt tên gọi “hoa” lên
thực thể
của một bông hoa,
chúng ta mới nhìn thấy hoa. Trước đó,
chúng ta không hề nhìn thấy hoa!
Đối tượng
vật chất với
hình dáng hoa là một
thực thể, và “hoa” là tên gọi.
Ban đầu chúng ta thấy cái
thực thể và sau đó mới thấy hoa, nên cái
thực thể không phải là hoa. Mặc dù điều này là
hiện thực, nhưng
tâm trí ta không
nhận biết được. Đối với tâm
ảo tưởng (
vô minh) của
chúng ta thì
có vẻ như ngay
ban đầu ta đã nhìn thấy hoa chứ không phải
thực thể của hoa. Nhưng trong
thực tại,
chúng ta thấy cái
thực thể [của hoa]
trước tiên và chỉ nhìn thấy hoa sau khi đã gán đặt tên gọi “hoa” lên
thực thể đó.
Trong giai đoạn này, điều quan trọng
cần phải hiểu là:
thực thể và tên gọi không đồng nhất;
thực thể của hoa và bông hoa là khác nhau.
Tuy nhiên, chúng cũng không tách rời, vì hoa không thể
tồn tại tách biệt với
thực thể của nó. Đối tượng mà bạn thấy trước nhất là
thực thể, không phải cái tên gọi “hoa”. Hai cái này khác nhau. Điều
hết sức thiết yếu là
chúng ta phải hiểu được tiến trình
phân biệt giữa tên gọi với
thực thể,
cho dù ta không
hiểu biết nhiều về
sự thiền định quán xét
tánh Không của các
hiện tượng.
Hơn nữa, không hề có hoa nơi
thực thể của hoa. Đối với
chúng ta, dường như có một đóa hoa nơi cái
thực thể, nhưng đó là một
ảo tưởng. Đây là điều được biết như là “đối tượng cần được bác bỏ”. Đây là cái mà
chúng ta phải
nhận ra là trống không. Không có hoa ở đó – không phải với
ý nghĩa là hoa không
hiện hữu, nhưng với
ý nghĩa là không có hoa
hiện hữu nơi
thực thể của hoa!
Cái mà
chúng ta thấy
trước tiên là
thực thể của hoa, nhưng nó không phải
hoa. Ở đâu có
thực thể của một bông hoa thì ở đó có một bông hoa
hiện hữu; nhưng nơi
thực thể của hoa thì không hề có hoa. Vậy điều gì xảy ra cho hoa? Hoa không phải không
hiện hữu; hoa
hiện hữu.
Tuy nhiên, bằng sự
phân tích theo cách này, ta có thể thấy hoa là một cái gì đó
hoàn toàn khác với cái mà trong
quá khứ ta đã tin nó là như vậy.
Vậy, hoa là cái gì? Hoa
hoàn toàn chỉ là cái được tâm
chúng ta gán đặt tên gọi
dựa trên thực thể của nó. Nói cách khác, hoa được tạo ra bởi tâm. Đây là
bản chất cốt lõi của hoa, và
chúng ta thấy rằng nó cực kỳ
vi
tế. Cách ngắn gọn nhất để
diễn đạt điều này là nói rằng: Hoa chỉ là do tâm gán đặt. Chi li hơn một chút, ta có thể nói rằng: Hoa chỉ là do tâm gán đặt
dựa trên thực thể của nó.
Hoa cực kỳ
vi tế, như khoảng không. Không phải là hoa không
hiện hữu; nó
hiện hữu theo một cách thức cực kỳ
vi tế. Một cách
diễn đạt khác là nói
rằng: Hoa chỉ
hiện hữu vì
thực thể của nó
hiện hữu. Không phải là hoa
hoàn toàn không
hiện hữu. Nó
hiện hữu, nhưng
vi tế đến nỗi như thể là nó
không
hiện hữu.
Từ sự phân tích này,
chúng ta có thể thấy rằng, hoa
hoàn toàn không có sự
hiện hữu như một bông hoa thật sự theo
ý nghĩa tự nó
tồn tại. Hoa
hiện hữu như một
duyên sinh tương thuộc
tinh tế, chỉ do tâm gán đặt. Đây
là
thực tại tối hậu của hoa mà tôi đã đề cập ở trước. Dù đây là cách mà
hoa
hiện hữu trên
thực tại, nhưng những ai chưa
thực chứng tánh Không thì không thấy được hoa theo cách này. Đóa hoa có vẻ
như thật đối với
chúng ta và
chúng ta tin đó là thật, là
hoàn toàn giả tạo. Cái hoa có vẻ
như tự nó
hiện hữu đó
hoàn toàn chỉ là một
ảo tưởng; nó
hoàn toàn trống
không.
Z là một nhãn hiệu
Hồi còn trẻ con, lúc bắt đầu đi học, trước khi được dạy rằng chữ cái Z được gọi là “Z” thì chữ Z đó
hiện ra trước mắt bạn như thế nào? Câu
trả lời là: Bạn chỉ thấy những đường ngắn gãy khúc, chứ không phải chữ Z. Tại sao không phải? Vì bạn chưa học biết gọi tên chữ Z, và bạn chưa tin rằng nó là chữ Z.
Chỉ sau khi cha, mẹ hay thầy giáo bảo với bạn: “Đây là chữ Z” và bạn tin
vào
lời nói của người dạy, lúc đó bạn mới gọi tên những đường gãy này là chữ Z và tin rằng nó là chữ Z. Chỉ sau khi bạn dùng tên gọi Z gán đặt
cho cái hình dạng
cụ thể này và tin vào tên gọi đó, bạn mới nhìn thấy hình dạng này như là chữ Z. Nói cách khác, chỉ sau khi bạn gán đặt cho nó cái tên Z thì Z mới là chữ Z . Trước khi bạn gán đặt tên gọi Z cho hình dạng này thì bạn đã không hề thấy chữ Z. [Với sự phân tích này,] bạn có thể thấy sự
xuất hiện của chữ Z
xuất phát từ tâm như thế nào.
Bạn cũng có thể thấy
hình dáng này với những đường nét
cá biệt của nó là
cái
thực thể và “Z” là tên gọi. Hai
yếu tố này,
thực thể và tên gọi, là
không đồng nhất; chúng khác biệt.
Tuy nhiên, chúng không tách rời, vì Z
không
hiện hữu tách biệt với
hình dáng những đường gãy khúc, tức là cái
thực thể được đặt tên chữ Z. Nếu
hình dáng những đường gãy khúc này đã là chữ Z – nói cách khác, nếu
thực thể là một với tên gọi “Z” – thì tại sao ta phải bận tâm đặt tên cho nó làm gì? Nếu cái đầu tiên
chúng ta thấy đã là Z thì
không có lý do gì để
chúng ta đặt tên “Z” cho nó nữa. Đâu là
mục đích khi
chúng ta đặt tên “Z” cho một sự vật vốn đã là Z? Và nếu như thế thì tiến trình đặt tên gán nhãn sẽ không có
kết thúc, vì bạn
sẽ phải đặt tên Z lần nữa chồng lên đầu của Z đó, thêm lần nữa như vậy,
rồi cứ như thế kéo dài mãi sự trùng lặp.
Còn nếu bạn cho rằng những đường gãy mà bạn thấy ngay từ đầu đã là Z và không phải cái
thực thể được gán tên là Z thì đây lại là một nhầm lẫn khác.
Rõ ràng, vì “Z” là một tên gọi nên nó phải
xuất phát từ tâm. Nếu bạn thấy Z ngay từ đầu và không phải cái
thực thể được gán tên kia là Z,
vậy tại sao lại
quyết định dùng tên gọi Z
cá biệt này? Vì nếu việc gọi tên không
tùy thuộc việc bạn nhìn thấy cái
thực thể đầu tiên – những nét
gãy
cá biệt đó – thì bạn sẽ
không có lý do gì để phải chọn tên gọi “Z”
cá biệt này. Và điều này có nghĩa rằng bạn có thể gọi tên bất kỳ cái gì là Z cũng được cả. Thậm chí bạn có thể gọi chữ A hay chữ B là Z!
Điểm cốt yếu là cái
thực thể không phải là tên gọi. Những đường gãy khúc
là
thực thể. Đầu tiên, bạn nhìn thấy những đường gãy khúc
cá biệt này, tức là
thực thể, và chỉ sau khi bạn gán tên gọi “Z” lên
thực thể này bạn
mới thấy có chữ Z.
Hơn nữa, cũng không hề có chữ Z nơi những đường gãy khúc này. Nhưng cho dù bạn không
tìm thấy chữ Z nơi những đường gãy thì
vẫn có chữ Z trên trang giấy này. Bất cứ nơi đâu có
thực thể của chữ Z thì có chữ Z
hiện hữu; nhưng nơi
thực thể của Z không hề có chữ Z. Cho dù có vẻ như có một
chữ Z nơi những đường gãy này, nhưng khi bạn
tìm kiếm chữ Z [ở đây] bạn
sẽ không
tìm thấy. Chữ Z “có thật” này là đối tượng cần
bác bỏ. Nó
hoàn
toàn chỉ là một
ảo tưởng; nó
hoàn toàn trống không.
Cái tôi là một tên gọi
Điểm cốt yếu khi đưa ra các
thí dụ về bông hoa và chữ Z là để giúp
chúng
ta hiểu được
bản chất rốt ráo của “cái tôi”. Như đã
giải thích, mọi sự vật
hiện hữu đều phát xuất
từ tâm,
hoàn toàn chỉ là do tâm gán đặt tên gọi.
Nếu không có cái tâm tạo ra danh xưng “tôi” thì sẽ không có cái tôi. Nói cách khác,
nếu không có khái niệm “tôi” thì cái tôi
tuyệt nhiên
không
hiện hữu.
Chúng ta cần phải hiểu điều này cho thật
rõ ràng.
Thân không phải là cái tôi,
tâm không phải là cái tôi, và ngay cả cái hợp thể thân và tâm cũng không phải cái tôi. Không có gì trong những cái
này là cái tôi. Hợp thể
thân tâm là cái
thực thể được
gán cho tên gọi “tôi”, và “tôi” là một tên gọi. Và như
chúng ta vừa
khám phá, cái
thực thể được gán tên gọi và
bản thân tên gọi không thể nào là đồng nhất; chúng phải khác biệt nhau.
Vậy, cái tôi là gì? Cái tôi đang đi đứng, nằm ngồi, ăn ngủ, trải nghiệm khổ đau và
hạnh phúc này là gì? Cái tôi đó không gì khác hơn là cái
chỉ hoàn toàn do tâm gán đặt tên gọi trong sự
phụ thuộc vào
kết hợp cụ thể của thân và tâm này, và cái tôi
chỉ hoàn toàn do tâm gán đặt tên gọi đó
quả thật có
hiện hữu. Đây là tất cả những gì là “cái tôi” – là cái
chỉ hoàn toàn do tâm gán đặt. Khi ta đang ngồi
đâu đó và tự hỏi mình đang làm gì, ta
trả lời: “Tôi đang ngồi”. Tại sao ta tin rằng ta đang ngồi? Chỉ vì một
lý do duy nhất là
thân thể của ta đang ngồi. Vì
lý do này, ta
mới tạo ra một danh xưng: “Tôi đang ngồi” và rồi ta tin vào danh xưng của chính ta. Đó
hoàn toàn chỉ là một
ý tưởng, một khái niệm.
Tuy nhiên, khi
chúng ta tìm kiếm cái tôi
chỉ hoàn toàn được gán đặt tên gọi này,
chúng ta không thể
tìm thấy nó. Dù cái tôi
hoàn toàn được gán đặt tên gọi đó
hiện hữu, nhưng ta không thể
tìm thấy nó trong các uẩn này, trong
kết hợp của thân và tâm này. Cái tôi
hoàn toàn được gán đặt tên gọi này quả có
hiện hữu, vì nó
thực hiện các
hoạt động của ta, nó trải nghiệm sinh, lão, bệnh, tử; nhưng khi
chúng ta tìm kiếm nó
một cách
cụ thể trong
kết hợp của thân và tâm này, thậm chí
chúng ta không thể
tìm thấy cái tôi
hoàn toàn được gán đặt tên gọi đó ở bất cứ đâu.
Đây không phải là phương thức
chính xác để
thiền định về
tánh Không của cái tôi, vì phương thức này không cứu xét đến cái tôi tự thể, nhưng phương thức này có thể hữu dụng.
Trước tiên,
chúng ta phải
hiểu rõ rằng, cái tôi
chỉ hoàn toàn được gán đặt tên gọi này quả có
hiện hữu. Tiếp đó,
chúng ta không thể
tìm thấy nó
ở bất kỳ chỗ nào trong
kết hợp cụ thể của thân và tâm này, từ đỉnh đầu xuống đến tận ngón chân.
Chúng ta không thể thấy cái tôi
chỉ hoàn toàn được gán đặt tên gọi đó bên trong đầu và não của ta, bên trong lồng ngực, trong tim, trong bụng, trong tay chân... Ta cũng không thể
tìm thấy nó bên trên bề mặt
thân thể hoặc bên ngoài
thân thể. Cho dù nó
hiện
hữu vì tâm
chúng ta đã tạo ra tên gọi trong sự
phụ thuộc vào các uẩn của ta, nhưng ta không thể
tìm thấy cái tôi
chỉ hoàn toàn được gán đặt tên gọi này ở bất cứ đâu cả.
Thông thường,
chúng ta tin rằng cái tôi
hiện hữu trong
kết hợp của thân và tâm ta, nhưng
chúng ta phải hiểu rằng không hề có một cái tôi như thế. Khi
chúng ta không
xem xét kỹ thì có vẻ như có một cái tôi như thế.
Tuy nhiên, khi
chúng ta thực sự
tìm kiếm nó,
chúng ta không thể
tìm thấy nó ở đâu cả, và
chúng ta chợt hiểu rằng nó không hề có ở đó. Cũng giống như việc tưởng rằng cái bóng cây trên mặt đất ban đêm là con bò cạp. Nhưng khi rọi một
ngọn đèn vào nơi đó thì cái mà trước đó trông giống con bò cạp trong bóng tối giờ đây không thể nhìn thấy nữa.
Tương tự như vậy, ngay khi
chúng ta thực sự bắt đầu phân tích, ta
khám phá ra rằng cái tôi không hề có trong
kết hợp của thân và tâm ta.
Cái tôi mà
chúng ta cảm thấy như đang ở
đâu đó bên trong
thân thể ta không hề
hiện hữu; đó
chỉ hoàn toàn là một
ảo tưởng. Nếu nó
quả thật hiện hữu thì nó phải trở nên
rõ ràng hơn khi ta
tìm kiếm nó, nhưng ngược
lại,
chúng ta hoàn toàn không thể
tìm thấy nó. Nếu ta nghĩ là mình có ít tiền trong ví, nhưng khi
xem lại và không
tìm thấy tiền thì hẳn là cái ví đã rỗng.
Tương tự, khi
tìm kiếm cái tôi trong
kết hợp của thân và
tâm, ta không thể
tìm thấy nó ở đâu cả, từ đỉnh đầu xuống đến tận các ngón chân.
Bây giờ,
chúng ta phải
xem xét về cái tôi thật, vốn có vẻ
như tự nó
hiện
hữu và không phải do tâm gán đặt tên gọi. Khi
chúng ta hết sức bối rối –
chẳng hạn như khi có ai
chỉ trích ta, hay
buộc tội oan cho ta về một điều gì – hoặc khi
chúng ta rất kích động về một điều gì,
chúng ta cảm giác rằng cái tôi
hiện hữu thật sự và
độc lập này
đang tồn tại bên trong
thân thể ta. Đối với ta thì dường như có thể tìm được cái tôi thật này ở
đâu đó bên trong
thân thể ta.
Tuy nhiên, nếu
chúng ta không thể
tìm thấy được ngay cả cái tôi
chỉ hoàn toàn được gán đặt tên gọi nơi
thực thể này, thì làm sao ta có thể tìm được cái tôi thật? Không có cách nào
tìm thấy nó! Vì theo
suy luận thì không thể nào
hiện hữu cái tôi thật này, vốn không
liên quan gì đến tâm của
chúng ta.
Khi
chúng ta nhận biết một giấc mơ chỉ là giấc mơ, ta biết rằng người ta
trò chuyện trong mơ là không có thật;
con người đó không
hiện hữu.
Tuy nhiên, nếu
chúng ta không
nhận biết giấc mơ của ta chỉ là mơ thì ta
tin chắc rằng
con người trong giấc mơ của ta là có thật. Theo cách nhìn
trí tuệ thì
con người ta gặp trong giấc mơ không
hiện hữu; nhưng theo cách nhìn
vô minh thì
con người đó
hiện hữu. Với cách nhìn này thì đối tượng không
hiện hữu; với cách nhìn kia thì đối tượng có
hiện hữu. Đối với cái
tôi thật cũng
tương tự như vậy. Theo cách nhìn của
trí tuệ, không hề
hiện hữu một cái tôi thật; nhưng theo cách nhìn của tâm
ảo tưởng vô minh
thì cái tôi thật đó
hiện hữu, vì nó
hiện ra trước mắt chúng ta và
chúng
ta tin rằng nó là thật.
Giờ đây,
chúng ta nên có một vài
ý niệm về việc cái tôi thật sự
hiện hữu
như thế nào. Cái tôi
hiện hữu nhưng
hoàn toàn không có một sự
hiện hữu theo
tự tánh hay
chân thật. Nó không có bất kỳ sự
hiện hữu nào không
liên quan đến tâm ta hay các uẩn của ta. Tâm
chúng ta tạo ra danh xưng “tôi” trong sự
phụ thuộc vào các uẩn của ta, vào sự
kết hợp giữa thân và
tâm của
chúng ta. Đây là tất cả những gì là cái tôi. Không có cái tôi nào
hiện hữu ngoài cái tôi
chỉ hoàn toàn được gán đặt tên gọi bởi tâm
chúng ta. Bất kỳ cái tôi nào có vẻ như
hiện hữu ngoài cái tôi đó đều là
ảo tưởng. Nó
hoàn toàn trống không. Cái tôi đó không hề
hiện hữu.
Tuy nhiên, cho dù
chúng ta hoàn toàn tạo ra cái tôi, nhưng
chúng ta không
nhận biết về
sự tạo tác của mình. Cái tôi
hiện ra trước mắt chúng ta như là một cái tôi có thật và tự nó
tồn tại, chứ không phải
hoàn toàn
được gán đặt tên gọi bởi tâm trong sự
phụ thuộc vào các uẩn của
chúng ta. Nói cách khác, cái tôi
hiện ra trước mắt ta dường như chẳng
liên quan gì đến tâm
chúng ta. Nó có vẻ
như tự nó
tồn tại, thật sự
tồn tại.
Chúng ta hoàn toàn tạo ra cái tôi
không thật này, vốn
không thật trong
ý
nghĩa là nó
hoàn toàn không
hiện hữu. Cái tôi này không chỉ là không
hiện hữu trong các uẩn, mà là
hoàn toàn không hề
hiện hữu.
Việc tự mình tin vào sự
chân thật của cái tôi
không thật này chính là
vô minh, là cội nguồn của tất cả khổ đau. Điều đó tạo ra
các loại vô minh khác cũng như
sân hận,
tham lam và các
phiền não khác, và rồi các
phiền não này lại
thúc đẩy các
hành vi bất thiện mang đến tất cả
đau khổ
cho
chúng ta,
bao gồm sinh, lão, bệnh, tử. Khi ta tự mình tin rằng sự
xuất hiện của một cái tôi thật vốn tự nó
tồn tại là đúng thật, đó là ta đang tạo ra một sự
vô minh vốn là nguồn gốc của mọi
vọng tưởng phiền não
và
hành vi bất thiện cũng như nguồn gốc của mọi khổ đau.
Việc
nhận ra rằng cái tôi
hoàn toàn không tự nó
tồn tại chính là sự
nhận
biết tánh không của cái tôi, hay
sự thật rốt ráo của cái tôi. Cách
duy nhất để tự
giải thoát mình cũng như
giải thoát tất cả
chúng sinh khác khỏi mọi khổ đau và
nguyên nhân khổ đau là
chấm dứt sự
vô minh tin vào sự
tồn tại theo
tự tánh của cái tôi. Mọi sự đều
tùy thuộc vào sự cắt đứt
cội gốc
vô minh này, và cách
duy nhất để làm được điều đó là
nhận biết tánh Không.
Chúng ta phải
thực chứng được
trí tuệ nhận biết tánh Không của cái tôi và của các uẩn.
Chỉ có
trí tuệ thực chứng tánh Không mới có thể
xóa bỏ được sự
vô minh vốn là nguồn gốc của mọi khổ đau.
Chúng ta phải
thực chứng tánh Không, bằng không thì dù có
đạt được bao nhiêu
chứng ngộ khác đi nữa ta cũng không có được vũ khí có khả
năng phá hủy trực tiếp cái
quan niệm ảo tưởng về sự
hiện hữu như thật [của cái tôi]. Khi
chúng ta còn ôm giữ
quan niệm về một cái tôi thật sự
hiện hữu thì các
vọng tưởng khác
nhất định sẽ
tiếp tục nổi lên,
thúc đẩy các
hành vi bất thiện và tạo ra các
vấn đề bất ổn cho
chúng ta.
Sự thật là cái tôi
chỉ hoàn toàn do tâm tạo ra. Mặc dù tâm
chúng ta hoàn
toàn gán đặt tên gọi “tôi” lên hợp thể của thân và tâm ta, nhưng cái tôi
xuất hiện trước mặt chúng ta một cách
giả mạo như thể là tự nó
hiện hữu. Rồi
tư tưởng vị kỷ khởi sự chăm lo và bám chấp vào cái tôi
giả mạo này vì nó có vẻ
như tự hiện hữu chứ không phải
chỉ hoàn toàn do tâm gán đặt.
Chúng ta phát sinh
tư tưởng chăm lo nuông chiều cái tôi
giả mạo này, cho rằng nó quí báu và quan trọng hơn bất kỳ
chúng sinh nào khác. Đối với
chúng ta, điều quan trọng nhất trên
thế gian này là cái tôi
cá biệt này phải được hưởng
hạnh phúc và không phải gánh chịu các
vấn đề bất ổn.
Trong
thực tế, việc chăm sóc “cái tôi” là chăm sóc một
ảo tưởng. Cũng giống như việc có được một triệu đô-la trong giấc mơ và khóa chặt nó
an toàn trong két sắt vì đó là một số tiền rất lớn. Khi giấc mơ vẫn còn kéo
dài thì ta vẫn còn thấy có một triệu đô-la, vẫn còn
quan tâm gìn giữ và
lo lắng về việc cất giữ cho
an toàn. Nhưng sau khi
tỉnh giấc mơ,
chúng ta không còn thấy có một triệu đô-la, thậm chí chỉ một đô-la cũng không thấy! Việc chăm sóc “cái tôi” [tưởng như] có thật này cũng giống như chăm lo
gìn giữ một triệu đô-la kia.
Thực ra không hề có một cái tôi tự tồn nào để [ta] chăm sóc. Đó
chỉ hoàn toàn là một
ảo tưởng. Không có gì cả. Bao lâu
chúng ta còn bị
mê muội trong
quan niệm sai lầm tin vào sự
hiện hữu thực sự [của nó] thì một “cái tôi thật” vẫn còn có vẻ như
hiện hữu và đáng để được chăm sóc.
Tuy nhiên, trong
thực tại thì
ý tưởng chăm
sóc cái tôi chỉ là chăm sóc cho một đối tượng
hoàn toàn không có thật.
Thực chứng tánh Không của cái tôi là một
thiền định có
năng lực mãnh liệt trong sự tịnh hóa và chữa lành bệnh tật; đó là
biện pháp mãnh liệt để
tìm thấy sự
bình an, vì nó
loại bỏ trừ tất cả những
lo âu sợ hãi không
cần thiết của
chúng ta. Bằng
sự thiền định về
tánh Không,
chúng ta
sử dụng sự
suy nghĩ khéo léo của chính mình để loại trừ bệnh tật và các
vấn đề bất ổn khác.