Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bốn Đế

24 Tháng Năm 201100:00(Xem: 4393)
Bốn Đế

BỐN ĐẾ

Đức Phật sau khi thành đạo vài tuần dưới gốc cây Bồ Đề, bèn lên đường đến vườn Nai, ngoại thành Bénarès (Ba la Nại), thuyết pháp cho năm người bạn đồng tu cũ, là các ông Kiều trần Như... được Phật lựa chọn như là những người có khả năng nhứt để tiếp thu giáo lý đạo Phật. Chủ đề của bài thuyết pháp đầu tiên của Phật là Bốn đế, tức là bốn chân lý

NỘI DUNG BÀI THUYẾT PHÁP ĐẦU TIÊN : 
Trong kinh “Chuyến pháp Luân” có ghi lại bài thuyết pháp đầu tiên của Phật về Bốn đế. Đại khái như sau : 
“Này các Tỷ kheo, sanh là khổ, già cũng là khổ, bịnh cũng khổ, chết cũng khổ, gần kẻ mình không ưa là khổ; xa người mình yêu cũng khổ, cầu không được là khổ, chấp chặt năm uẩn là khổ. Như vậy khổ là một chân lý thánh (Khổ Thánh đế). 
Lại nữa, này các Tỷ kheo ! Dẫn tới luân hồitái sanh là lòng ham thíchthèm khát, nơi nào ham thích đều thèm khát mong cầu, đó là chơn lý thánh về nguyên nhân của sự khổ (Khổ tập thánh đế). 
Lại nữa, này các Tỷ kheo ! Xa lìa, đoạn trừ lòng ham thích, thèm khát nói trên, giải thoát không còn vưóng mắc, đó là chơn lý thánh diệt khổ (Khổ diệt Thánh đế). 
Lại nữa, này các Tỷ kheo ! Tám con đường đạo chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định là con dường diệt Khổ (Khổ diệt dạo thánh đế)
 

BA GIAI ĐOẠN NHẬN THỨCTHỰC HÀNH THUYẾT BỐN ĐẾ : 
Đối Với thuyết Bốn đế, giai doạn đầu tiên của người tu học là : 
(1). Thông suốt về mặt lý luận, nhận thức bốn đế là chơn lý không sai.
(2). Giai đoạn hai là căn cứ vào nhận thức lý luận đó, mà có hành động thực tiễn hằng ngày, về ý nghĩ, cũng như về lời nói và hành động, không bao giờ sai chệch. 
(3). Trên cơ sở thực hành được sự nhứt trí giữa lý luậnthực tiễn, con người đạt tới chỗ hoàn thiện về nhân cách. 

Sách Phât gọi đó là ba lần chuyển. Lần chuyển thứ nhứt là khai thị cho người nghe thấy được đạo lý (sau này, luận A Tỳ Đàm gọi là kiến đạo), lần chuyển thứ hai gọi là khuyến khích người nghe sống và ứng xử theo đúng đạo lý đã được nghe (Luận A Tỳ Đàm gọi là tu đạo) và giai đoạn ba là người tu đạo đạt tới thánh quả Vô lậuđược giải thoát. Luận A Tỳ Đàm gọi là chứng đạo, người tu hành chứng đạo trở thành bậc Thánh vô lậu tức A La Hán. Vô lậu nghĩa là không còn khuyết điểm sai sót gì nữa.
 

THUYẾT BỐN ĐẾ VÀ LÝ DUYÊN KHỞI
Trong bốn đế thì hai đế khổ và tập nói về sự khổ và nguyên nhân của sự khổ, giải thích quá trình lưu chuyển sinh tử của con người từ đời này sang đời khác. Gọi chung là duyên khởi của sự lưu chuyển hay luân hồi
Còn hai đế diệt và đạo, nói về cảnh giới lý tưởng đoạn trừ mọi nỗi khổ (tức Niết bàn) và nguyên nhân dẫn tới cảnh giới lý tưởng đó. Gọi chung là duyên khởi của sự hoàn diệt
Khổ đế : thuyết minh thế giới hiện thực đầy đau khổ
Tập đế : căn nguyên của thế giới hiện tưọng dầy đau khổ
Diệt đế : Thế giới lý tưởng giác ngộgiải thoát, tức Niết bàn.
Đạo đế : con đường đạo dẫn tới cảnh giới Niết Bàn
 

BỐN ĐẾ VÀ NGUYÊN LÝ TRỊ BỊNH : 
Phàm phu là người bịnh. Bịnh ấy là khổ, Phật là thầy thuốc. Thầy thuốc trước hết chẩn đoán bịnh và tìm ra nguyên nhân của bịnh. Nguyên nhân của bịnh là lòng thèm khát, chấp thủ. Phật chỉ cho thấy cảnh giới lý tưởng không bịnh là Niết bàn, đồng thời cũng chỉ bày phương thuốc chữa trị, là con đường đạo (Bát chánh đạo), dẫn tới đoạn trừ mọi khổ não và chứng đạt cảnh giới lý tưởng Niết bàn
Về thuyết Bốn đế, Tập A Hàm quyển 15 viết : “Thời ấy, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo ! Có bốn thánh đế. Bốn Thánh đế là gì ? Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế, Khổ diệt đạo tích thánh đế. Này các Tỷ kheo, ở Khổ thánh đế, nên biết, nên hiểu. Ở tập Thánh đế nên biết nên đoạn. Ở khổ diệt thánh đế, nên biết nên chứng. Ở khổ diệt đạo tích thánh đế, nên biết nên tu !” 
Một câu hỏi : sao lại viết “Khổ diệt đạo tích thánh đế” ? 
- Tích là dấu vết. Thánh đế về dấu vết của đạo diệt khổ”. 

Trong kinh Niết bàn, Thánh đế được gọi là chân đế. Trong phẩm “Phạm hạnh” viết : “Phật nói với các Tỷ kheo ! Xưa, ta và các người, ngu si không có trí tuệ, không có thể hiểu biết được như thực về bốn chân đế, do đó mà trôi dạt mãi trong vòng sanh tử, chìm nơi biển khổ lớn. Bốn chân đế ấy là gì ? Khổ, tập, diệt, đạo”. 
Nghĩa chữ đế : Đế là chơn thực, không hư vọng. Sách Nghĩa Lâm Chương viết : đế có nghĩa là thực. Sự là sự thực. Lý là lý thực. Cả lý và sự đều không sai. Cho nên gọi là đế... 

Các Thánh dế là các chơn lý, các nguyên lý chơn thực mà các bậc Thánh đã chứng ngộ, là các chơn lý giúp chúng ta vượt qua địa vị phàm phu, tiến lên hàng bậc thánh. Các tên gọi khác là bốn chân đế, hay bốn đế pháp. 
 

I. KHỔ ĐẾ
Chân lý về sự khổ : 
Phương pháp nhận thức của Phật là thực tiễn, tuyệt đối không có gì là siêu hình hay thần thoại. Phật nói thẳng đời người khổ như thế nào : già khổ, ốm khổ, sanh khổ, chết khổ, xa người mình yêu là khổ, gần người mình không ưa là khổ, cầu không được là khổ... Đấy là những nỗi khổ rất thực tế mà ai cũng cảm nhận được, miễn là có chút lương tri

Cách phân tích khổ theo Phật giáo Nam Tông
Cuốn “Thanh tịnh đạo luận” phân tích chi tiết thành 12 loại khổ : 
1/ Sanh là khổ 
2/ Già là khổ. 
3/ Bịnh là khổ 
4/ Buồn rầu (sorrow) là khổ 
5/ Rên la là khổ (lamentation) 
6/ Đau đớn là khổ (pain) 
7/ Ưu tư là khổ (grief) 
8/ Thất vọng là khổ (despair) 
9/ Gần gũi người mình ghét là khổ 
10/ Xa người mình thương là khổ 
11/ Không có được cái mình mong muốn là khổ 
12/ Nói tóm lại, tức năm thủ uẩn là khổ. 

Điểm khác giữa sự phân tích của Phật giáo Nam Tông với Phật giáo Bắc Tông là ở các điểm từ 4 đến 8, và cuối cùng là điểm 12, mà Bắc Tông thường gọi là ngũ ấm xí thịnh khổ. Chúng ta sẽ bắt đầu từ điểm 4 buồn rầu là khổ. 
(4) Buồn rầu, bản dịch Anh ngữ của Thanh tịnh đạo luận gọi là sorrow và Buddhaghosa (Hán dịch âm là Phật Âm) giải thíchnỗi buồn hun cháy trong tâm người, thí dụ khi có người thân qua đời, một nỗi buồn liên tục và kéo dài. 
(5) Rên la là khổ. Bản dịch Anh ngữ cuốn “Thanh tịnh dạo luận” gọi là Lamentation, dịch là rên la, gào thét, tức một nỗi buồn bộc lộ ồn ào. Buồn rầu đã là khổ rồi, buồn rầu thêm kêu gào, rên la lại càng khổ hơn. 
(6) Đau đớn là khổ. Bản Anh ngữ cuốn “Thanh tịnh đạo luận” dịch là pain. Phật âm giải thích là sụ đau đớn trong thân. 
(7) Ưu tư là khổ. Bản Anh ngữ cuốn “Thanh tịnh đạo luận” dịch là grief, và Phật âm giải thíchnỗi buồn trong tâm. Tâm bị o ép nặng nề. Người ưu tư, tuy đau trong tâm, nhưng nhiều khi bộc lộ nỗi ưu tư của mình bằng nhiều hành động như đấm ngực, ngồi rũ lưng, thậm chí tự tử. 
(8) Thất vọng là khổ. Bản Anh ngữ dùng từ despair. Là một tâm trạng suy sụp tinh thần do một sự mất mát nghiêm trọng nào đó đem lại, trên con đường tình yêu danh vọng, làm giàu. 

Phật Âm đưa ra ảnh dụ sau đây để phân biệt : buồn rầu giống như nấu nước trên một ngọn lửa cháy âm ỉ. Rên la giống như nước sôi reo trong bình. Thất vọng giống như nước đã đun lên sôi rồi, và sôi cho đến khi cạn. 

Mục 12 : Năm thủ uẩn là khổ : Thủ là chấp thủ, nắm bắt làm của mình không chịu buông tha. Năm thủ uẩnchấp thủ năm uẩn cho nên khổ. Trong “Thanh tịnh đạo luận” dưới mục này, viết : “Nói tóm lại, năm thủ uẩn là đối tượng chấp thủ là khổ”.
Bắc tông dùng khái niệm : Ngũ ấm xí thịnh khổ ý tứnăm ấm, tức năm uẩn lớn mạnh chi phối, đem lại khổ não. Lại có nghĩa, do con ngườinăm ấm mà chịu nhiều nỗi khổ (cũng có sách viết là ngũ ấm thịnh khổ). Khái niệm ngũ ấm xí thịnh khổ có trong các kinh Trung A Hàm quyển 7 , Tăng nhứt A Hàm quyển 17, Du Già sư địa luận quyển 66, Đại Trí Độ Luận quyến 23, Hiến dương Thánh giáo luận quyển 15...
 

Khổ ở cõi ác :
Bàn về cái khổ ở các cõi khổ, cõi ác, sách nói tới địa ngục, nơi khổ cùng cực, một ngày một đêm có tới vạn lần chết, vạn lần sanh : có tám địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh, ở đấy có cái khổ núi tua tủa giáo, lá cây là kiếm. Cõi quỷ đói thì bụng thường bị đói vì bụng to như cái trống, cuống họng thì bé như cái kim, bị đao chém gậy đánh. Cõi súc sanh thì có cái khổ ăn thịt, cấu xé nhau, con thú mạnh ăn tươi nuốt sống con thú yếu. Cõi Tu la có cái khổ hay nóng giận và đánh nhau
 
 

Khổ ở cõi nguời và cõi Trời
Cõi người có tám khổ, có cái khổ thiên tai, đói kém, ôn dịch... đao bịnh. 
cõi Trời Dục giới có cái khổ, khi hưởng hết phúc phải đọa xuống các cõi sống thấp hơn, khổ hơn. Ở cõi Địa cư thiên có cái khổ phải chiến tranh với A tu La; ở cái cõi Trời Vô sắc, vẫn còn “hành khổ” tuy có thọ mạng lâu 6 vạn kiếp, nhưng rồi cũng trở lại luân hồi trong các cõi.
 

II. TẬP ĐẾ 
Nội dung của Tập đế, chân lý về nguyên nhân của Khổ là phiền não và nghiệp. Từ sanskrit Samudaya có tiền tố sam nghĩa là tập, tích tập. Do các phiền não tích tập khởi lên dẫn tới tạo nghiệp chồng chất
A. PHIỀN NÃO 
GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
S. Klesa P.Kilesa, Hán dịch nghĩa là Hoặc, Trần lao (bụi trần làm cho con người khổ sở). Nhiễm : làm dơ bẩn
Công năng của phiền não là làm rối loạn thân tâm của chúng sinh, gây trở ngại cho việc tu hành chứng đạo, thoát khỏi sanh tử, thể nhập Niết bàn

CÁC TỪ ĐỒNG NGHĨA VỚI PHIỀN NÃO 
Tùy miên : Anusaya, ý tứphiền não có sẵn, nhưng dưới dạng tiềm ẩn ở trong tâm người, chờ có nhơn duyên mới biểu hiện. Miên có nghĩa đen là ngủ, nằm ngủ. Tùy có nghĩa là đeo đuổi, không tách rời. Các phiền não nằm phục sẵn trong tâm chúng ta và luôn đeo đuổi chúng ta. Khi phiền não biểu hiện thì sách Phật gọi là triền, với nghĩa trói buộc chi phối S.parijavasthana P.pariyutthana. 

Kết S.samyojana : Chia thành 3 kết, 5 thượng phần kết , 5 hạ phần kết , 7 kết, 9 kết, 10 kết...
a/Ba kết : là thân kiến, tức chấp cái thân này là Ta hay của Ta. 
Nghi (không có niềm tinchân lý, lẻ phải) tướng của nghi là do dự, phân vân. 
Giới cấm thủ, thủ là chấp, bám lấy, không chịu buông ra. Có một số giới cấm vô ích, phi lý có hại cho sức khỏe của thân, và sự lành mạnh của tâm, nhưng có người vẫn cho là đúng, bám chặt vào không chịu buông tha, thí dụ tin rằng ép xác làm khổ thân xác, như bò không đi thẳng người, cả đời đứng 1 chân, còn chân kia treo lên... Sống như vậy lầm tưởng sẽ được giải thoát và khi chết sẽ được sanh lên cõi Trời
b/ Năm thượng phần kết : 
1) Sắc tham ; 2) Vô sắc tham ; 3) Trạo cử ; 4) Mạn ; 5) Vô minh
1) Sắc tham : là thèm muốn cuộc sống ở cõi Trời sắc giới.
2) Vô sắc tham : thèm muốn cuộc sống ở cõi Trời Vô sắc. Ở đây cần phải chú ý là, theo đạo Phật cuộc sống ở hai cõi Trời Sắc giớiVô Sắc giới tuy sung sưóng hơn rất nhiều so với cõi Người , nhưng vẫn chưa phải là ra khỏi được vòng luân hồi sanh tử, chưa được giải thoát, chưa phải là cảnh giới Niết bàn
3) Trạo cử : thân tâm lăng xăng, không yên. 
4) Mạn : kiêu ngạo
5) Vô minh : tức là si. 
Năm kết sử này, vừa nặng nề vừa nhỏ nhiệm, nên khó đoạn phải chứng quả A La Hán mới được trừ hết (cho nên gọi là Thượng phần Kết, tức là loại kết sử cao cấp) cũng gọi là 5 độn sử. Theo Hữu bộ, tham, sân, si, mạn, nghi là 5 độn sử

c) Năm hạ phần kết 
(Kết sử hạ cấp, vì thô cho nên dễ đoạn trừ hơn, so với thượng phần kiết sử
1) Dục tham 
2) Sân giận 
3) Thân kiến (chấp thân 5 uẩn này là Ta hay của Ta). Vì vậy cũng gọi là hữu thân kiến, hay ngã kiến
4) Nghi 
5) Giới cấm thủ
Chứng được quả A Na Hàm (quả Thánh thứ ba) thì đoạn hết 5 hạ phần kết sử này (cũng gọi là 5 lợi sử).Theo hữu bộ, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ là 5 lợi sử

d/ Bảy kết : 
1) Dục tham 
2) Sân giận 
3) Tà kiến 
4) Nghi 
5) Mạn 
6) Hữu tham (tham muốn tồn tại
7) Vô minh

e/ Chín kết : 
1) Ái ; 2) Sân giận ; 3) Mạn ; 4) Vô minh ; 5) Kiến (tà kiến) ; 
6) Giới cấm thủ ; 7) Nghi ; 8) Tật (ghen ghét) ; 9) Xan (keo kiệt). 

f/ Mười kết : 
(Trong chín kết nói trên, chia Ái làm hai: Dục thamHữu tham).

Cái: S.Nivarana. Cái ngăn che.
Năm cái : Dục tham, sân giận, hôn trầm thụy miên (viết tắt là hôn miên), trạo hối (cũng gọi là trạo cử) và nghi. Nhập sơ thiền thì bỏ được 5 cái nói trên. 
Ách : cái ách bò, tròng vào cổ con bò, phiền não cũng như ách bò, nhưng tròng vào cổ người (S. Yoga) ách = Dục hữu, kiến, vô minh
Lậu : S.Asrava, Rasava (sai sót, khuyết điểm) có ba lậu : Dục lậu : sai sót vì đam mê dục vọng; Hữu lậu, sai sót vì đam mê tồn tại ở 2 cõi trời sắc và vô sắc; Vô minh lậu, sai sót vì ngu si
Bộc lưu : S.Ogha : giòng chảy xiết. Có bốn Bộc lưn là : dục tham, hữu tham, kiến (tà kiến, vọng kiến), vô minh
Hệ : trói buộc, S.grantha P.gantha, các từ có nghĩa tưong tự là Hệ phược, kết phược.
Có bốn hệ : Dục, hữu, kiến, vô minh
Ngoài ra, có các từ Tam hỏa (3 ngọn lửa), Tam cấu (ba cái nhơ bẩn), Tam độc (ba độc). 
Cụ thể tức là tham dục, sân giận và ngu si
Tiễn : mũi tên. Phiền não ví như mũi tên. 
Trù lâm : rừng rậm. Phiền não nhiều như rừng rậm. 
Kết phược : phiền não kết liền lại, kết tụ lại để trói buộc chúng sanh. S.jata. 
Tăng thịnh : S.Utsada, Ussada; phiền nãodục vọng, càng tìm cách thỏa mãn chúng, thì chúng càng tăng trưỏng. 

Người tu hành, khi chứng quả Tu đà hoàn (tức là quả Dự lưu hay Sơ quả) thì đoạn trừ đuợc ba phiền nãothân kiến, nghi và giới cấm thủ
Khi chứng quả A Na Hàm tức là quả Bất Lai thì đã đoạn hết mọi phiền não thuộc Dục giới, tức đoạn hết năm hạ phần kiết sử, đến quả A La Hán thì đoạn luôn năm thượng phần kiết sử, (tức là mọi phiền não của Sắc giớiVô sắc giới). 
Các bậc Thánh gọi là 4 đôi, 8 chúng theo kinh nguyên thủy. Bốn đôi đồng nghĩa với tám chúng : 
1. Hướng tới Tu Đà Hoàn (Sơ quả, 1 đôi, cũng gọi là Dự Lưu
2. Đã chứng Tu Đà Hoàn– 2 đôi. 
3. Hướng tới Tu Đà Hàm (Nhất lai
4. Đã chứng Tư Đà Hàm–3 đôi 
5. Hướng tới A Na Hàm
6. Đã chứng A Na Hàm– 4 đôi 
7. Hướng tới A La Hán
8. Đã chứng A La Hán

Quá trình tu chứng bốn quả Thánh : Tu đà Hoàn, Tư đà Hàm, A Na Hàm, A la Hán chia làm ba giai đoạn: Kiến đạo vị - Tu đạo vị - và Cứu kính vị. Vị là quả vị. Quả vị cứu kính là quả A La Hán

Trong giai đoạn Kiến đạo thì đoạn trừ kiến hoặc, tức là mọi mê lầm, mê hoặc trong kiến giải, nhận thức, đồng thời đoạn trừ mọi phiền não, gắn với kiến hoặc. Trong giai đoạn tu đạo, thì đoạn trừ mọi tu hoặc. Đoạn hết kiến hoặctư hoặc thì sẽ chứng quả A La Hán. Tư hoặc cũng gọi 1à Tu hoặc là những mê lầm chỉ có hành trì tu trì mới đoạn trừ được. 

Phân biệt kiến hoặctư hoặc
Kiến hoặcmê lầm về lý luận, về kiến giải. Những mê lầm này không phải bẩm sinh, mà do học tập sai lầm, học không đến nơi đến chốn mà có. Nếu được nghe chánh pháp, gần bạn lành, thì sẽ đoạn trừ được kiến hoặc. (Vì vậy mà cũng gọi là Lợi sử, Sử là hoặc, phiền não). Tư hoặcphiền não bẩm sinh, rất khó doạn trừ, mặc dù biết chúng là sai lầm đưa đến khổ não. Vì đó là sai lầm đã thành thói quen phải tu hành lâu dài, kiên trì, mới trừ bỏ được, cho nên cũng gọi chúng là độn sử, tức kiết sử trì trệ, khó đoạn. 
Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ là năm lợi sử (5 hạ phần kiết). 
Tham, sân, vô minh (si), mạn, nghi là năm độn sử (năm thượng phần kiết). 

Sáu loại, mười loại phiền não căn bổn : 
Trong kiến hoặctư hoặc, cái chủ yếu là các phiền não căn bổn. Các sách phân biệt có sáu loại và 10 loại phiền não căn bổn. Trong số này, tham, sân, si là ba loại nổi bật nhứt, đứng hàng đầu, và trong ba loại này, thì si cũng gọi là vô minhcăn bản nhứt. Ví dụ, trong 12 nhơn duyên, vô minh được xếp hàng đầu. 
Sáu loại phiền não căn bổn sắp xếp như sau : 
1/ Tham ; 2/ Sân ; 3/ Si (vô minh) ; 4/ Mạn ; 5/ Nghi ; 6/ Kiến giải sai lầm (gọi tắt là kiến). 
Kiến giải sai lầm thường gọi tắt là kiến và phân tích thành năm mục : 
- Thân kiến
- Biên kiến
- Tà kiến
- Kiến thủ
- Giới cấm thủ
Tổng hợp lại thành 10 phiền não căn bổn (do kiến tách thành năm loại kiến). Trong 10 phiền não căn bổn liệt kê trên đây thì tham, sân, si, mạn là tư hoặc. Nghi và kiến là kiến hoặc
Tư hoặc cũng có 10 loại : 4 loại ở Dục giới, 3 loại ở sắc giới và 3 loại ở vô sắc giới
Sắc giớiVô sắc giới không còn có sân, chỉ có tham, si, mạn, tống cộng là 10 tư hoặc
Tham, sân, si, mạn ở Dục giới 
Tham, si, mạn ở Sắc giới
Tham, si, mạn ở Vô sắc giới

Tám mươi tám kiến hoặc : là tổng số kiến hoặc ở ba giới. Đây là cách phân chia của A Tỳ Đàm, chi ly và phức tạp cho nên không thể bàn ở đây. 
Tám mươi mốt tư hoặc : đem sắc giới chia làm bốn cấp, ứng với bốn cấp thiền sắc giới. Đem Vô sắc giới chia làm bốn cấp, ứng với bốn cấp thiền của vô sắc. Và mỗi cấp như vậy lại chia thành ba cấp vị : thượng, trung, hạ : chín cấp. Mỗi cấp có chín vị. Tổng cộng thành 81 Tư hoặc

Các cách xếp loại phiền não
Về xếp loại phiền não, môn Duy thức học có sự xếp loại hoàn chỉnh hơn, lập thành biểu như sau: 
Phiền não căn bổn (6) : 
1. Tham; 2. Sân; 3. Si; 4. Mạn ; 5. Nghi ; 6. Kiến. 
Tùy phiền não (20) : chia làm : 
Tiểu tùy phiền não (10). 
1. Phẫn; 2. Hận; 3. Phú; 4. Não; 5. Tật; 6. Xan; 7. Cuống; 8. Siểm ; 9. Kiêu ; 10. Hại ; 
Trung tùy phiền não (2) : 11. Vô tàm; 12. Vô quý
Đại tùy phiền não : (8) 
13. Hôn trầm; 14. Trạo cử; 15. Bất tín; 16. Giải đãi (lười); 17. Phóng dật (buông thả, phóng túng); 18. Thất niệm (hay quên, không nhớ điều thiện, điều phải); 19. Tán loạn; 20. bất chánh tri. 

Dưới dây sơ lược giải thích từng món phiền não
Căn bổn phiền não
1. Tham : (S.Lobha, raga, abhidhya. P.abhijjha) cũng gọi là ái, S.trsna, P.tanha). 
Lòng tham ở cõi Trời Sắc giới gọi là Sắc tham. 
Lòng tham ở cõi Trời vô sắc gọi là Vô sắc tham
2. Sân : S.dvesa, dosa, pratigha. P.patigha, vyapada, tức là tỏ thái độ cự tuyệt, phản kháng đối với điều mình không hoan hỷ, thích thú. Các tùy phiền não phẫn, hận, hại, đều thuộc phạm vi của sân. Phẫn S.Krodha P.Kodha là giận dữ đến mức độ kịch liệt. Hận Upanaha, là giận ôm ấp trong lòng, như nói oán hận. Hại, vihimasa do giận mà có hành vi hại người, hại vật. 
3. Mạn : Mana, tức là đề cao mình, hạ thấp người khác xuống, xem mình là trung tâm của tất cả. Sách Phật phân biệt ba mạn : Ngã thắng mạn, Alimana. Là tự cho mình hơn người. Ngã đẵngmạn, tự cho mình bằng người, Mana. Ngã liệt mạn, tự cho mình kém người (một cách không thực), avamna, cũng gọi là ty mạn hay ty hạ mạn. 

Có sách phân biệt 7 mạn : 
1/ Mạn,
2/ Quá mạn
3/ Mạn quá mạn, maha-timaha 
4/ Ty mạn 
5/ Tăng thượng mạn, Manatimana, adhimana. 
6/ Ngã mạn asmimana. 
7/ Tà mạn, mithymana, micchamana. 

Trong tùy phiền não, có kiêu, mada thường dùng trong hợp từ kiêu mạn. Tuy nhiên, mạn khác với kiêu là so với người, cho rằng mình hơn gọi là mạn. Còn kiêu là một sự tự hào, không có so sánh với người khác. 

4. Vô minh : S.Avidya, P.Avijja. Cũng gọi là ngu si, moha, là không hiểu biết hay là hiểu biết sai sự lý của duyên khởi, của bốn đế. 

5. Kiến : S.Drsti P.ditthi, tức là mọi kiến giải sai lầm. Hữu bộ phân biệt có năm loại kiến : 
a/Thân kiến : S.satkaya drsti, P.sakkayaditthi. Tức là thấy có thân của ta, cũng dịch âm là Tất cả gia kiến. Chấp năm uẩn là Ta, là của Ta. 
b/ Biên kiến: Antagraha drsti. Pantaggaha ditthi. Cũng gọi là biên chấp kiến. Nghĩa là có thái độ cực đoan, tuyệt đối chấp vào một bên, như chấp thế gian là thường còn hay đoạn diệt, vũ trụhữu biên hay vô biên... 
c/ Tà kiến : S.mithya drsti P.Miccha ditthi, nghĩa rộng là mọi kiến giải tà ác, sai lầm. Nhưng ở đây chỉ cho 10 tà kiến là không bố thí, không cúng dường, không tế tự, không thiện ác, và quả báo, không đời này, không đời sau, không cha, không mẹ, không có hữu tình, không có hóa sinh, không có người tu hành chứng quả
Không chấp nhận lý nhơn quả là tà kiến tệ hại nhứt, ngoài ra còn có các tà kiến khác như không chấp nhậnTam bảo
d/ Kiến thủ : S.arsti - paramasa, P.ditthi paramana, cũng gọi là kiến thủ kiến. Tức là tự cho ý kiến của mình là đúng hơn tất cả, ý kiến của các người khác đều là sai lầm, rồi chấp chặt vào ý kiến đó. 
e/ Giới cấm thủ kiến : S.Silata - paramana, P.Silabbata paramana. Chỉ cho 1 số giới luật của ngoại dạo, như giới con chó, giới con voi (giới ngồi chồm như chó, giới đi như voi...) Ngoại đạo cho rằng sống khổ hạnh theo những giới đó thì sẽ được giải thoát hoặc sanh thiên. Hữu bộ phân biệt có hai loại giới cấm thủ là : 
(1) : Phi đạo kế đạo : không phải là đạo giải thoát mà chấp là đạo giải thoát
(2) Phi nhân kế nhân : Không phải là nhân sanh thiên mà chấp nhân là nhân sanh thiên

6/ Nghi : 
 S. Vicikitsà ; P.Vickiccha, chỉ cho lòng hoài nghi Tam bảo, nghi nghiệp báo thiện ác, nghi nhân quả ba đời, nghi thuyết bốn đế... 

Tùy phiền não (giới thiệu những món chính). 
Xan : là keo kiệt. Có năm loại keo kiệt là : 
Trú xứ xan : keo kiệt về nơi ở. Gia lan : keo kiệt thu vén cho gia đình. Lợi dưỡng xan : keo kiệt về lợi dưõng. Xưng thán xan : chỉ muốn một mình mình được khen ngợi. Pháp xan : không muốn nói pháp cho người khác được nghe. 

11. Vô tàm : Nội tâm không biết thẹn. 
12. Vô quý : Đối với người không biết thẹn. 
13. Hôn trầm : tâm nặng nề, mê muội
14. Trạo cử : tâm căng thẳng, không định tỉnh, lăng xăng, không yên. 
15. Giải đãi : lười nhác, không siêng năng, tinh tấn
16. Phóng dật : buông thả, phóng túng.

Quan hệ giữa trí tuệphiền não
Phiền não gây chướng ngại đối với đạo Thánh, đối với trí tuệ. Do dó, dùng trí tuệ có thể đoạn trừ phiền não, đoạn trừ hết phiền não tức là giải thoát, là Niết bànBồ Đề (giác ngộ). 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2226)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6476)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6439)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3835)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5084)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7886)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3254)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34460)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21646)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3068)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12533)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12517)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20567)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17469)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11697)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4297)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12645)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10186)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16283)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11650)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14649)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11911)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16693)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12630)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 51775)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12522)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9850)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14358)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19983)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13624)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15291)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17368)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16686)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13383)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12370)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 11964)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13179)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12417)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25389)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14424)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28178)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10198)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant