Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

B/ Nghiệp

24 Tháng Năm 201100:00(Xem: 4207)
B/ Nghiệp

B/ NGHIỆP

1. NGUỒN GỐC CỦA TƯ TƯỞNG NGHIỆP LỰC

Các nhà Ấn Độ học như người Đức Zimmer và Basham đều cho rằng, ngay trước khi bộ tộc Aryan vào Ấn Độ, những người thổ dân ở đây (giống người Dravidiens) vốn đã có các khái mệm về nghiệp, Du già (yoga), giải thoát

Trong các giáo pháiẤn Độ cổ đại, Kỳ na Giáo (Jainism) - là tôn giáo có nhiều liên hệ với Phật giáo Nguyên thủy, và với tín ngưỡng dân gian Ấn Độ

Thuyết nghiệp của Kỳ Na giáoPhật giáo Nguyên thủy khác nhau và giống nhau ở chỗ nào ? Quan điểm của Phật giáo, nghiệp thiện hay ác chỉ có thể hình thành trên cơ sở động cơ tâm lý của đương sự (tức là dụng tâm - motivation). Kinh Phật Nguyên thủy gọi dụng tâm đó là tác ý (cetana). Nói cách khác, tác ý chính là nghiệp. Không có tác ý thì không có nghiệp. Kỳ Na giáo có một quan điểm cơ giới về nghiệp : nhơn biểu hiện ra như thế nào thì quả biểu hiện ra như thế ấy, bất kể động cơ tâm lý hay dụng tâm của đương sự như thế nào, ví dụ, một người do vô ý mà phạm tộí sát sinh, thì sẽ phải chịu quả báo của sát sinh, không thể tránh .khỏi được. Kỳ Na giáo lại còn chủ trương, nên sống khổ hạnh ép xác tự làm khổ mình thì có thể bù cho nghiệp ác tạo ra từ đời trước, triệt tiêu nghiệp ác này, nhờ đó mà được giải thoát. Đồng thời, kiên trì không làm gì hết để không còn tạo nghiệp mới nữa. Đó là phương pháp giải thoát của Kỳ Na giáo

Quan diểm về nghiệp của Kỳ Na giáo “tuy không cố ý sát, nhưng cũng phải chịu quả báo sát sinh” được phê phán trong bộ luận Kathavatthu. Đối với Phật giáo, động cơ tâm lý (dụng tâm, tác ý) thiện hay ác là cái quyết định sự hình thành nghiệp lực, chứ không cố chấp vào hành vi tạo nghiệp bên ngoài. Quan điểm nghiệp lực của Phật giáo là một quan điểm không chấp tướng, nó thúc đẩy mọi người hướng thưọng về mặt nội tâm. Luận sư Buddhaghosa (Giác Âm cũng gọi là Phật Âm) đã so sảnh hai quan điểm nghiệp lực khác nhau của Phật giáoKỳ Na giáo như sau : 

“Phật giáo đồ như con sư tử vậy, khi kẻ đi săn nhắm bắn vào con sư tử, thì con sư tử dũng mãnh xông vào kẻ đi săn : Người Phật tử nỗ lực diệt khổ não, biết rõ phưong pháp diệt khổ nãodiệt trừ căn nguyên của khổ não (chứ không phải diệt trừ cái ở bên ngoài căn nguyên đó). Còn ngoại dạo Kỳ Na giáo, thì giống như con chó vậy. Khi con chó bị người ta đánh thì nó không xông lại cắn người đánh mà lại cắn cái gậy. Người Phật tử nói : phương pháp loay hoay trong quả báo, chứ không phải trực tiếp đối trị nguyên nhân tạo thành quả báo”. Nghiệp của Phật Giáo không có tính cơ giới, và định mạng. Do đó, nó coi trọng ý chí tự do của con người, nó đề cao nỗ lực đạo đức

Nghiệp lực, theo quan điểm Phật giáo là một sức mạnh lớn lao, nó không những chi phối sự diễn biến của đời sống con người, mà còn thông qua con người, chi phối sự diễn biến của vũ trụ nữa. Nghiệp lực chính là cốt lõi của quy luật nhân quả báo ứng; quy luật đạo đức. Vì sự vận hành của nghiệp lực quan hệ với nhiều điều kiện, nhiều nhân, nhiều duyên lý tri con người khó lường hết quan hệ của nghiệp lực. Thậm chí có tác giả viết : Nghiệp lực là một cái gì huyền bí ! 
 

2. NGHIỆP LỰC LÀ MỘT SỨC MẠNH 

Nghiệp là hành dộng, và hành động nào cũng tự nhiên tạo ra một sức mạnh, sức mạnh đó lại thúc đẩy con người có hành động mới, như vậy cứ xoay vòng mãi. 
 
 

Nghiệp lực từ đời sống Giáo dục hiện tại 
trước nỗ lực hiện tại 
 
 

Nhân cách

Thế nhưng, hành động không những tạo ra sức mạnh, thúc đẩy con người có hành động mới, mà đồng thời cũng thúc ép con người phải chịu hậu quả của hành động của mình, ràng buộc con người với hậu quả đó. Thí dụ, kết hôn là một loại hành động, nó thúc đẩy người đàn ông, người đàn bà phải có quan hệ tình dục với nhau, dẫn tới sinh con, đẻ cái, và quy dịnh trách vụ của cha và mẹ đối với việc nuôi nấng, giáo dục con cái nên người... 

Nghiệp là hành động, nó tạo ra sức mạnh thúc đẩy con người có hành động mới, mặt khác cũng tạo ra một sự ràng buộc đối với con người. Đó là ý nghĩa cơ bản của nghiệp. 

Một người có hành động tạo thành một sức mạnh. Hàng trăm ngàn vạn người hành động, phối hợp tạo thành sức mạnh vĩ đại. Đó là sức mạnh của cộng nghiệp, lớn hơn nhiều sức mạnh của riêng từng người, biệt nghiệp.

Một ví dụ sống động của cộng nghiệp là chiến tranh. Chính cộng nghiệp thúc đẩy hàng trăm nghìn vạn thanh niên rời bỏ quê hương, đến chiến trường sát hại những thanh niên khác, làm cái việc mà thực ra họ không muốn làm. 

Nghiệp là nguyên động lực thúc đẩy, sáng tạo và hủy diệt các loài hữu tình cũng như thế giới, thì một câu hỏi đặt ra : Do đâu mà có nghiệp? 

Phật giáo trả lời : “Do vô minh và Hành. Vô minh chữ Sanskrit là Avidya nghĩa là không biết, ngu si. Hành, chữ Sanskrit là sankara là một loại xung động bản năng (A. impulse)”. 

Triết gia Đức Schopenhouer gọi đó là một loại ý dục (will), nếu phân tích cụ thể thì có hai loại: ý dục sinh tồn (will to live), và ý dục hoạt dộng (will to act). Schopenhouer gọi cái ý dục dó là cái Ta thực của con người

Theo đạo Phật, vô mỉnh chính là phiền não tham, sân, si v.v... Phiền não thúc đẩy con người tạo ra các nghiệp thiện, ác, gọi chung là hành, do đó mà có từ hành nghiệp, và nghiệp lôi kéo chúng sanh vào cõi luân hồi sanh tử
 

3. NGHIỆP LỰCSỨC MẠNH BỒI DƯỠNG NHÂN CÁCH 

Đại sư Tây Tạng Tkongsapa viết : “Nếu một người ở đời sống trước thích thú sát sanh, đời sống này cũng thích thú sát sanh; đời sống trước thích thú ăn cắp, đời sống này cũng thích thú ăn cắp, do đó chúng ta thấy, có người từ nhỏ tuổi đến lớn tuổi lấy sát sinh làm vui, nhưng lại có người không nở sát hại con kiến và côn trùng”.
(Bồ đề thứ đệ luận) 

Đó là cái mà đạo Phật gọi là “đẳng lưu quả” (S. Nisyandaphala). 
Cho nên, có thể nói một người thường làm một việc gì đó thì sẽ biến thành một loại người tương tự. Một người ba mươi năm làm cảnh sát thì tư tưởng, hành động, cách nói chuyện của anh ta sẽ mang dấu ấn của người cảnh sát. Nếu anh ta làm nghề thợ mộc ba mươi năm, thì tư tưởng, hành động, cách nói chuyện của anh ta sẽ là của anh thợ mộc. Nhà kinh doanh gặp gỡ, thấy gì cũng tính chuyện làm ăn lổ lãi. 

Nhân cách con người là do tập quán hun đúc thành. Nếu không có sự huân tập của tập quán thì không thể thành nhân cách được, nó là một sự huân tập nhiều khi bắt đầu từ nhiều cuộc sống trước, cho nên mới có những hiện tượng thiên tài hay thần đồng kỳ lạ mà các thuyết về di truyền học không thể giải thích một cách thỏa mãn được. Trong khi đó thì thuyết nhơn quả ba dời của Phật giáo có thể cung cấp một lý giải thỏa đáng nhứt. Tuy rằng sự huân tập của đời trước ảnh hưởng lớn đến sự hình thành nhân cách, nhưng hoàn cảnh hiện tại, nền giáo dụcnỗ lực trong đời sống hiện tại cũng đều là nhân tố quan trọng, ảnh hưỏng tới sự hình thành nhân cách của con người hiện tại

Có thể thấy qua biểu đồ nhân cách được tạo thành bởi hai loại nhân tố: Nghiệp lực của đời sống trước, giáo dụcnỗ lực trong hiện tại
 

4. NGHIỆP LỰC LÀ MỘT QUY LUẬT ĐẠO ĐỨC CÔNG BẰNG 

Bài kệ “Thập lai” sau đây cũng đồng một tư tưởng như vậy : 

(Dạng mạo) đoan chính từ ở nhẫn nhục mà đến 
Nghèo khố từ ở keo kiệt đến 
Cao sang từ ở lễ bái đến 
Bần tiện từ ở kiêu mạn đến 
Ngọng câm từ ở phỉ báng lại 
Đui mù từ ở bất tín lại 
Sống lâu từ ở từ bi lại 
Sống yểu từ ở sát sanh lại. 
Các căn không đầy đủ từ ở phá giới lại 
Sáu căn đầy đủ từ ở giữ giới lại. 

Trong kinh “Na tiên Tỷ kheo” (cũng gọi là Di Lan Đà Vấn đạo kinh), cũng có một đoạn nói về nghiệp: 
 Vua Milinda hỏi: “Thưa trưởng lão, vì duyên cớ gì mà người đời khác nhau: người sống lâu, người chết yểu, người nhiều bịnh, người xấu xí, người mạnh khỏe, ngưòi yếu ớt, người giàu có, người nghèo khổ, người phú quý, người bần tiện, người thông minh, người ngu độn? 
Tỷ kheo Na Tiên trả lời: Thưa Đại vưong, vì sao lại có các loại quả khác nhau? Quả chua, quả mạn, quả đắng, quả cay, quả nhạt, quả ngọt? 
Vua trả lời : Tôi cho rằng đó là tự giống của các quả ấy khác nhau. 
Tỷ kheo Na Tiên trả lời: Thưa Đại vương, cũng như vậy, người đời sở dĩ khác nhau, là vì nghiệp lực của họ khác nhau. Do đó mà có người sống thọ, ngườl chết yểu, người mạnh khỏe người nhiều bịnh, người đẹp đẽ, người xấu xí, người cường tráng, người yếu đuối, người giàu có, người nghèo khổ người phú quý, người bần tiện, người thông minh, người ngu độn. Tâu Đại vương, ngoài ra Phật còn nói: Hỡi người thanh niên, tất cả chúng sinh đều thừa hưởng di sản do nghiệp đời trước truyền lại. Chúng đều là kẻ thừa kế của nghiệp, từ nghiệp mà sanh ra, là quyền thuộc của nghiệp. Nghiệp che chở cho chúng và quyết định chúng là bần tiện hay phú quý. (X. Buddhism in Translation by henry Warren p.215). 

Đại sư Tây Tạng Tsongkapa, viết trong cuốn “Bồ đề thứ đệ luận” : 
Đời trước, nghiệp sát quá nặng, thì đời nay chịu quả báo chết yểu, và nhiều bịnh; trẻ con chết sớm là do dời trước tạo ra nghiệp sát sanh. Do nghiệp đời trước mà có người đời nay, mắc bịnh nan y, suốt đời không chữa khỏi. Có người làm việc cật lực nhưng vẫn không có tiền xài; có người không mệt nhọc gì lại có nhiều tiền của. Đó là quả báo khác nhau của người ở đời trước keo kiệt hay là ưa bố thí... có những người nói rất nhiều nhưng chẳng ai tin, có người nói ít thôi mà lại được mọi người tin cậy, đó cũng là quả báo của hai loại người: một người thành thực, một người hay lừa dối. (X. H Guenther... “The Jewel ornament of liberation” - Chương 6 bàn về nghiệp quả). 

Tư tưởng “nhơn quả báo ứng” ăn sâu vào tâm lý của người phương Đông có ảnh hưỏng thực lớn lao đến đời sống xã hội. Ở các nước Phật giáo Nam phương như: Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan... tăng sĩ không có tài sản riêng, cũng không làm ruộng, hàng ngày cầm bát khất thực. Cả năm, ngày nào cũng vậy, nhân dân chuẩn bị thức ăn sẫn, với thái độ hết sức cung kính đem cúng dường chư Tăng. Còn ở phương Tây, khi một khách lạ đến nhà không báo trước, dù là ăn một bữa, cũng chịu đựng không nổi rồi. 

Nhân dân các nước Phật giáo Nam phương sở dĩ có tập tục tốt đẹp như vậy là vì trong kinh Phật thường dạy cúng dường Tăng chúng được phước đức rất lớn, tăng chúngruộng phước tối thượng

Nhưng nếu có người hỏi, vì sao quả lại tương ưngđồng loại với nhân? Từ đâu lại có nguyên lý đồng loại tương ưng đó? Kinh Phật thường chỉ trả lời : “Pháp là vậy” (pháp nhĩ như thị). Nói một cách khác, tự nhiên là vậy. Nếu anh cười nhạo người ta thì người ta cười nhạo lại anh. Nếu anh giận dỗi đối với người ta, thì người ta cũng không vui vẻ đối với anh. Tự nhiên nó là như vậy, làm sao mà giải thích được. Hãy xem bản vẽ hai mặt người sau đây: 
 

Trong hai bản vẽ này, mắt, lông mi, mũi dều giống nhau, chỉ miệng là khác. Miệng nhếch xuống thì là dáng mặt lo buồn miệng nhếch lên thì là dáng mặt vui vẻ. Sao lại như vậy? Sao mà giải thíeh được? 

Đối với tiền đề lớn quả báo thiện ác, các tôn giáo lón nói chung nhứt trí như trong sách Tân ước (Galatian 6 : 07) có câu: 
“Chỉ có tự lừa dối mình, không thể coi thường Thượng Đế được đâu Người trồng gì thì thu hoạch nấy” 

Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu. (Lão tử)
Nghĩa: Lưới trời lồng lộng, sửa mà không bỏ sót.

Các tôn giáo Thần quyền (Tự nhiên thần luận Deism) hay là nhân cách thần luận (Theism) cũng vậy đều cho rằng Thượng Đế sáng tạo ra vũ trụ, đồng thời cũng sáng tạo ra qui luật vận hành vũ trụ, đó là luật nhơn quả tương ưng. Thượng Đế tất nhiên khen thưỏng người thiện lành, và xử phạt kẻ làm ác, đó là thần ý luận. Còn cách nhìn của Phật giáo đối với luật nhơn quả, là tự nhiên luận, không phải là thần ý luận. Giải thích bằng tự nhiên luận, thực ra không phải là giải thích. Giải thích bằng Thần ý luận là một lối giải thích, nhưng lối giải thích chưa hẳn là cao minh cho lắm. Nếu chúng ta hỏi thêm các nhà Thần học Thiên chúa giáo : “Vì sao Thượng đế lại khen thưởng người thiện và xử phạt người ác, mà không làm ngược lại?” Lại hỏi Thượng Đế từ ở đâu đến? Nhà Thần học Thiên chúa giáo sẽ không thể trả lời được. Lối giải thích mọi hiện tưọng tự nhiên, khó hiểu bằng thần thánh an bài gọi là “Luận thuyết lấy Thần thay người” (Anthropomorphism). 
 

5. NGHIỆP LỰC LÀ MỘT LOẠI QUAN HỆ 

Quan hệ nghiệp lực khá phức tạp, tạm minh họa bằng biểu đồ sau đây: 
 

Biểu đồ có bảy vòng, mỗi vòng đại diện cho một phạm vi nghiệp lực. Vòng ngoài nhứt cũng là vòng lớn nhứt, phổ biến nhứt. phạm vi cọng nghiệp lớn nhứt. Tạm gọi tất là vòng cực cọng nghiệp

Vòng thứ hai, so với vòng thứ nhứt có một phạm vi nghiệp lực hẹp hơn, tạm gọi là vòng đại cọng nghiệp. Như vậy, phạm vi cọng nghiệp thu nhỏ dần cho tới vòng bảy, là vòng cuối cùng, vòng bất cọng nghiệp của cá nhân. Đó là nghiệp do cá nhân tạo ra, và một mình cá nhân chịu quả báo mà thôi. 
Vòng 1, vòng cực cọng nghiệpphạm vi của con người được nhận thức như là một sinh vật. Người cùng với bất cứ một sinh vật nào khác có cọng nghíệp đều cần có ánh sáng mặt trời, không khí và nước để mà sinh tồn. Đó là cọng nghiệp của tất cả mọi sinh vật sống trên trái đất này. Vòng cọng nghiệp này bao gồm cả sinh vật và loài người ở trong đó. Phạm vi cọng nghiệp càng lớn, tính bắt buộc của nghiệp càng chặt. Thí dụ: người có thể không mặc quần áo, không có nhà ở vẫn sống được, nhưng không thể nào thoát ly ánh sáng mặt trờí, không khí và nước mà có thể sống được. 
Vòng hai, là vòng đại cọng nghiệp, của riêng loài người. Ở vòng nghiệp lực này, chỉ có người, loài người mới được hưởng thụ và chịu hạn chế bởi cọng nghiệp này mà thôi. Thí dụ: chỉ có loài người mới dùng ngôn ngữchữ viết để thông tin cho nhau. Các động, thực vật khác không biết dùng ngôn ngữchữ viết. Việc dùng ngôn ngữchữ viết để thông tin có mặt hạn chế của nó. Thí dụ : những người không cùng một ngôn ngữ, khó nói chuyện với nhau được. Người không biết đọc, biết viết được cung cấp một lượng thông tin ít hơn, so với nguời biết đọc biết viết. 
Một đặc sắc thứ hai của loài người là có ý thức dạo đức. Tuy rằng, một số động vật cao cấp khác cũng có ý thức đạo đức nhưng tình hình này ít phổ biến hơn, chỉ là cá biệt
Một đặc sắc nữa của loài người, so với các loài vật khác là người có lý trí, có năng lực tự giác (self conscious) còn các loài vật khác thì thường là hành động theo bản năng, theo phản xạ. Con người không những có thể quan sát sự vật bên ngoài, tìm ra chân tướng của sự vật bên ngoài, mà người còn có khả năng siêu việt tự ngã (self transcendance), lấy tự ngã làm đối tượng khách quan để quan sát và tự hoàn thiện mình. 
Nói tóm lại loài người có ba năng lực: dùng ngôn ngữ, có ý thức đạo đức, có năng lực tự giác khiến con người thành một sinh vật có lý tánh, có cảm tình (đạo dức), và sống, hành động có mục đích

Vòng nghiệp thứ ba là vòng cọng nghiêp của quốc gia dân tộc. Vì con người là một động vật xã hội, cho nên cuộc sống và hoạt động của nó không thể không bị chủng tộc dân tộc và quốc gia chi phối và ảnh hưỏng. Kỹ thuật rất tiên tiến của giao thông liên lạc hiện đại cũng không làm giảm sút vai trò của chủng tộc, dân tộc và quốc gia. Hiện nay các quốc gia vẫn là những đơn vị, những chủ thể chi phối cục thế chính trị quốc tế, quyết dịnh hòa bình và chiến tranh. Trong mỗi quốc gia, mỗi người đều có quyền lợitrách nhiệm là phần cọng nghiệp của người đó trong quốc gia đó. 
Thí dụ : nhân dân Việt Nam trong lịch sử của mình, có thể nói là liên tiếp bị ngoại xâm, đồng thời cũng chủ động gây nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, đó là cọng nghiệp của nhân dân Việt Nam
Theo báo chí cho biết, thì ở ChiLê, có thời gian quân dịch tương dối dài hơn, so với các nước khác. Ở Anh, nhân dân dóng thuế thu nhập cao hơn hết. Ở Koet, một nước xuất cảng dầu hỏa giàu có, tỷ lệ nhà nước chi phí phúc lợi cho nhân dân cao hơn hết, so với các nước khác. Còn ở vương Quốc Brunei ( Đông Nam Á) vì quá giàu về dầu hỏa nên nhân dân không phải đóng một khoản thuế nào hết, lại được hưởng rất nhiều phúc lợi

Vòng cọng nghiệp thứ tư, thuộc những tập đoàn hay cộng đồng nhỏ hơn quốc gia. Một thí dụ: cọng nghiệp của người Việt Nam sống ở thành phố Hồ Chí Minh khác với cọng nghiệp của người Việt Nam sống ở nông thôn lục tỉnh. Học sinh Anh Văn ở thành phố Hồ Chí Minh thường có trình độ Anh ngữ giỏi hơn học sinh Anh Văn ở những nơi khác, do các điều kiện như thầy giỏi hon học cụ tốt hơn v.v. Tất nhiên đây là nói chung, còn số người học Anh Văn kém ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng không ít, số người học Anh văn khá ở lục tỉnh cũng không ít. 

Vòng cọng nghiệp thứ năm là vòng cọng nghiệp của gia dình, các thành viên trong gia đình đều chịu (hay là hưởng) cọng nghiệp của gia đình đó. Nếu đó là gia đình giàu có, sung túc, chủ gia đình là nguời giỏi, có trình độ nghề nghiệp cao thì cả gia đình đều được lợi. Trái lại, nếu chủ gia đình là người sống bừa bãi, đã không làm ra tiền lại còn ăn chơi tiêu xài, thì cả gia đình phải chịu khổ lây. 

Vòng cọng nghiệp thứ sáu, tạm gọi là vòng cực bất cọng nghiệp, có một phạm vi còn nhỏ hơn gia đình nữa. Một thí dụ: là quan hệ vợ chồng, rõ ràng đó là quan hệ riêng có giữa hai vợ chồng, không thể có người thứ ba nào xen vào được, dù là cha mẹ, anh em. Các vòng quan hệ thầy trò, người yêu, anh em đều thuộc loại vòng cọng nghiệp thứ sáu. Vì chỉ là cọng nghiệp giữa hai người mà thôi, cho nên gọi là cực bất cọng nghiệp

Cuối cùng là vòng nghiệp thứ bảy, là của riêng từng người, chỉ có cá nhân người ấy biết, chịu đựng hay hưỏng thụ mà thôi. Chỉ riêng người ấy cảm nhận, lạnh, nóng, khát, đói, buồn rầu hay vui vẻ... Đấy là vòng có thể gọi là tối cực bất cọng nghiệp
 
 

6. NGHIỆP LỰC LÀ MỘT CÁI GÌ KHÓ HIỂU : 

Khi nói thần bí là nói trí tuệ hạn chế của con người, không thể hiểu nổi không thể lường được. Trước loại sự kiện như vậy, người theo đạo Gia Tô nói: Đó là ý Chúa. Còn người theo đạo phật thì nói: “Đó là do nghiệp”. Thế nhưng, cơ chế của nghiệp dẫn tới sự kiện đó thì Phật giáo cũng khó nói ra một cách rành mạch, vì vậy mà có sách Phật nói: Nghiệp lực là một cái gì thần bí

Sau đây là một đoạn đàm thoại giữa vua Di Lan Đà (MilinDa) và tỷ kheo Na Tiên Nagasena, có liên quan dến tính chất thần bí của nghiệp.
Vua hỏi: “Phật giáo đồ thường nói: Lửa địa ngục nóng hơn nhiều so với lửa bình thường. Nếu ném một hòn đá nhỏ vào ngọn lửa bình thường thì cả ngày cũng không cháy hết. Nhưng nếu đem một tảng đá lớn ném vào lửa địa ngục, thì trong khoảnh khắc tảng đá bị cháy rụi. Tôi không thể tin điều đó. Các người lại nói, chúng sinh đọa địa nguc, tuy thân bị đốt cháy liên tục trong nhiều năm, nhưng chúng sinh đó cũng không bị cháy hết. Tôi cũng không thể tin điều đó”. 
Tỷ kheo Na Tlên trả lời : “Tâu dại vương, Ngài có thấy con cá mập, con rùa, con vịt, con khổng tước ăn sỏi, ăn đá hay không?.” 
Vua trả lời: thường có thấy. 
Tỷ kheo Na Tiên: khi sỏi đá vào ruột những con vật lớn, phải chăng không bao lâu chúng cũng được tiêu hóa? 
Vua nói : đúng như vậy. 
Tỷ kheo Na Tiên : Vì sao bào thai ở trong bụng người mẹ lại không bị tiêu hóa
Vua : Tất nhiên là không bị tiêu hóa
Tỷ kheo Na Tiên hỏi: Vì sao lại không bị tiêu hóa? 
Vua : Tôi cho rằng đó là do nghiệp lực của thai nhi
Tỷ kheo Na Tiên: Cũng như vậy, thưa Đại vương do nghiệp lực của chúng sinh đọa địa ngục, cho nên dù chúng có bị đốt cháy trong nhiều năm tháng, chúng cũng không bị thiêu cháy hết. Cho nên Đức Phật nói: chỉ khi nào toàn bộ nghiêp lực của chúng sinh đó đã tiêu diệt hết rồi, thì chúng sinh mới chết được ở chỗ ấy. 

Cách trả lời của Tỷ Kheo Na Tiên tuy không phải là thực hoàn hảo, không thể bắt bẻ lại được, nhưng nó cũng cho chúng ta thấy tính bất khả tư nghì của nghiệp. Cũng do nghiệp lực mà chim Khổng Tước ăn dồ độc, đã không chết, lại còn khỏe ra, còn người trúng độc thì chết ngay, nếu không kịp chữa chạy. 
 

7. LƯỚI NGHIỆP VÀ 12 NHƠN DUYÊN

Chúng sinh vùng vẫy trong lưới nghiệp, hết đời sống này qua đời sống khác, không thoát ra được lưới nghiệp đó chính là 12 nhơn duyên

1. Vô minh: ( Các phiền não tham , sân , si . . ) 
2. Hành: tạo các nghiệp tức là nghiệp nhân quá khứ 
3. Thức : Kiết sanh thức tức là thức nhập thai
4. Danh sắc: Bào thai hình thành trong bụng mẹ.
5. Lục nhập : sáu căn hình thành đầy đủ. 
6. Xúc : sau khi lọt lòng mẹ, sáu căn tiếp xúc với sáu trần
7. Thọ : Cảm thọ vui, khổ. 
8. Ái : đam mê năm món dục. 
9. Thủ : bám cảnh năm dục
10. Hữu : tạo ra nhơn hữu lậu và chịu quả báo tái sanh
11. Sanh : tái sanh với thân năm uẩn
12. Lão tử : (già chết). 

Xúc thọ, ái, thủ, hữu là năm chi thuộc nghiệp nhân của đời sống hiện tại
Sanh, già, chết là quả vị lai. 
12 nhơn duyên là nguyên động lực, lôi kéo chúng sanh ra vào ba cõi, tạo ra các nghiệp. 
 

Muốn thoát khỏi lưới nghiệp phải dùng gươm trí tuệ đoạn trừ vô minh, phiền não (phiền não chướng), không còn tạo nghiệp và tái sinh nữa: đó là giải thoát. Giá trịý nghĩa của nhân sinh đối với đạo Phật như vậy là khá rõ. Con dường thoát khổ cũng được Đức Phật vạch ra minh bạch. Nhưng ngoại đạo lại bị tà kiến che mờ, cho nên họ không hiểu được ý nghĩa của nhân sinh và con đưòng thoát khổ. Kinh Tăng Chi của Phật giáo Nam phương có trích lời Phật như sau: “Này, các tỷ kheo, các ngoại dạo có ba loại tà kiến, nếu tin theo thì phước đức sẽ bị tiêu tan, bại hoại. Ba tà kiến dó là gì ?” 

Thứ nhất là tà kiến về mạng vận. Đời này được vui hay chịu khổ là do mạng vận quyết dịnh trước. Thứ hai là tà kiến về Thần. Mọi việc đều do ý chí của Thần, Thượng đế an bài, con người không thể làm gì để tránh khỏi được. Thứ ba là cho rằng, mọi việc xảy ra ở đời này đều là ngẫu nhiên, tình cờ, do đó mà con người sống rồi thác đi buông trôi. Ta gặp nhĩmg người đó và hỏi : “những diều ấy đáng tin chăng ?”. Họ đáp : “đáng tin”. Ta bèn hỏi : “thế thì các tội sát, đạo, dâm, vọng... cũng đều do thần an bày cả chăng? Đều do mạng vận sắp đặt cả chăng? Hay đều là do ngẫu nhiên chăng?” Thế nhưng hành vi của mình sai thì tự mình phải sửa chữa, theo thiện, bỏ ác. Con người phạm sai lầm thì phải trách mình, và tự hối, đoạn trừ lỗi lầm cũ thì mới tạo ra được mạng vận mới cho mình. Ngoại đạo nghe lời dạy bảo cu 3a Phật, không trả lời được câu nào bèn bỏ đi nơi khác.

8. PHÂN LOẠI NGHIỆP

Có nhiều cách phân loại:
I. Một cách là phân loại theo thân, khẩu, ý:
– Thân: thân nghiệp gồm có thân biểu nghiệp và thân vô biểu nghiệp.
Biểu nghiệp là nghiệp biểu hiện thành hành vi cụ thể, nhưng có dấu vết lưu lại của nó trong nội tâm
Vô biểu nghiệp là nghiệp tiềm ẩn sẽ sinh quả trong tương lai, khi có đủ nhơn duyên chín mùi.

– Khẩu: ngữ nghiệp gồm có ngữ biểu nghiệpngữ vô biểu nghiệp.

– Ý: ý nghiệp gồm mọi ý nghĩ có tạo nghiệp.

II. Cách thứ hai là phân loại theo thiện, ác, vô ký (3 tánh)
A/ Thiện nghiệp: (cũng gọi là an ổn nghiệp)
 Phóng sanh, không sát sanh.
 Bố thí, không lấy của không cho.
Thân thiện nghiệp:
Sống trong sạch, không tà dâm.
Nói thực, không nói dối.
Nói lời có ích, không nói lời uế tạp, vô nghĩa.
– Ngữ thiện nghiệp:
Nói lời dịu hiền, không nói lời cay độc
Nói lời đoàn kết, hòa hợp, không nói lời chia rẽ, ly tán.
Giữ tâm xả, không tham.
Giữ tâm từ bi, không giận.
– Ý thiện nghiệp:
Giữ vững niềm tin nhơn quả, không có tà kiến.

B/ Ác nghiệp:
– Thân ác nghiệp:sát sanh, lấy của không cho, tà dâm.

– Ngữ ác nghiệp:
Nói dối
Nói lời vô ích
Nói ác
Nói y gián, chia rẻ. (lưỡng thiệt)

– Ý ác nghiệp:
Tham
Sân
Si
Tà kiến

C/ Vô ký nghiệp:
 Không thiện, không ác. Do sức nghiệp yếu, cho nên không sinh quả.

III. Cách thứ ba là phân loại theo giá trị đạo đức, phúc đức, hay không phải phúc đức:
1) Phúc nghiệp:
Làm các thiện nghiệp, lợi cho chúng sanh.
2) Phi phúc nghiệp:
Làm các nghiệp ác, có hại cho chúng sanh.
3) Bất động nghiệp:
Tu thiền định, dẫn tới tái sanh ở các cõi trời sắc giớivô sắc giới; ở cõi này chỉ có bất động nghiệp.

IV. Phân loại nghiệp theo đen trắng, đen trắng lẫn lộn, và không đen, không trắng:
Đen có nghĩa nhơ bẩn, trắng là sạch, thanh tịnh.
1) Hắc nghiệp: (nghiệp đen)
Làm ra các nghiệp bất thiện, làm dơ bẩn thân, tâm.
2) Bạch nghiệp: (nghiệp trắng)
Làm nghiệp thiện, thanh tịnh, cho nên gọi là trắng.
3) Nghiệp đen trắng lẫn lộn:
Làm nghiệp thiện nhưng có yếu tố ác xen lẫn, gọi là tạp nghiệp, hay nghiệp đen trắng lẫn lộn, pha tạp.
4) Nghiệp không đen không trắng:
Là nghiệp vô lậu, dẫn tới quả vô lậu của hàng Thánh, cho nên gọi là “không đen”, lại cũng không tạo ra quả dị thục, dù là thiện cho nên gọi là không trắng.

V. Phân loại nghiệp theo phạm vi tác dụng của nghiệp: cá nhân hay tập thể.
1) Cọng nghiệp:
Thuộc nhiều người cùng tạo và cùng chịu quả.
a) Cọng trung cọng:
như núi, sông, đất, không khí. Nhiều người thọ dụng.
b) Cọng trung bất cọng:
như nhà cửa, ruộng vườn, do cá nhân tự thọ dụng.

2) Bất cọng nghiệp:
a) Bất cọng trung cọng:
như thân người, tuy do cá nhân mình sử dụng nhưng cũng có những người khác nương tựa vào như con cái nương tựa vào cha mẹ.

b) Bất cọng trung bất cọng:
như tai, mắt trên thân người, thì chỉ có người đương sự mới thọ dụng được mà thôi.

VI. Phân loại nghiệp theo năng lực của nghiệp:
1) Năng sanh nghiệp:
Nghiệp dẫn tới tái sanh, cũng có nghĩa nghiệp tạo ra quả vị lai (sinh ra quả vị lai).

2) Năng trì nghiệp: (A. supporting karma)
Đã sinh ra làm người rồi tạo các nghiệp duy trì cái thân người này.

3) Năng tiêu nghiệp: (A. Counteractive karma)
Thí dụ, đối với gnhiệp ác đã làm, chúng ta tạo ra các nghiệp thiện để tiêu nghiệp ác đó.

4) Năng hủy nghiệp: (Destructive Karma, Supplarting Karma)
Đang chịu nghiệp làm người, nhưng phạm tội ác trầm trọng, hủy ngihệp được làm người đó. Như Đề Bà Đạt Đa, tuy mang thân người, nhưng nuôi ác tâm hại Phật, phải đọa địa ngục A Tỳ.

VII. Phân loại nghiệp theo tính chất nặng nhẹ của nghiệp:
1) Cực trọng nghiệp:
Nghiệp lực rất mạnh, quyết định hướng tái sinh, lấn át các nghiệp khác. Có thể thiện, có thể ác. Nói về ác thì tội ngũ nghịch: giết cha, mẹ, A la hán, làm chảy máu Phật và phá hòa hợp Tăng.

2) Cận tử nghiệp: Death proximate Karma
Nghiệp lực tạo ra khi lâm chung, cũng quyết định hướng tái sinh nếu khôngcực trọng nghiệp.

3) Tập quán nghiệp:
Nghiệp thân, khẩu, ý làm mãi thành thói quen, cũng quyết định hướng tái sinh, nếu không có sự hiện diện các nghiệp khác, mạnh hơn.

4) Tích lũy nghiệp:
Nghiệp dự trữ, chưa thành quả.
Nếu không có nghiệp mới, quyết định hướng tái sanh, thì vai trò này thuộc về nghiệp lực tích lũy, từ vô thỉ đến nay.

VIII. Phân loại nghiệp theo hiệu lực đối với tái sanh:
1) Dẫn nghiệp:
Nghiệp lực dẫn tới tái sanh ở cõi này, cõi khác, cõi người, cõi súc sanh, cõi quỷ đói, cõi trời...

2) Mãn nghiệp:
Nghiệp hỗ trợ cho dẫn nghiệp, “nối tiếp và hoàn thành dẫn nghiệp”, như cùng sinh ra làm người (là cọng nghiệp), nhưng có người mạnh, yếu, sống lâu, chết yểu, giàu, nghèo.. Đó là loại nghiệp dẫn tới quả báo riêng biệt của mỗi người, gọi là biệt báo.

IX. Phân loại nghiệp theo sự lãnh thọ:
1) Tâm thọ nghiệp:
Tức là tâm thức của người cảm nhận quả báo buồn vui, ưu não...Tâm thức này là ý thức là thức thứ sáu.

2) Thân thọ nghiệp:
Tức là năm thức đều cảm thọ, khác với tâm thọ là thức thứ sáu cảm thọ. Năm căn gắn liền với năm thức đầu, cùng cảm thọ cho nên gọi là thân thọ nghiệp.

X. Phân loại nghiệp theo thời gian chịu báo: có hai nhóm lớn:
A/ Định nghiệp:
1) Nghiệp nhứt định đem lại quả báo trong đời này. Quả báo và thời điểm chịu báo đều được xác định. Hoặc là thời điểm chịu báo là xác định, nhưng quả báo chưa xác định như thế nào. Thường được gọi là hiện báo.
2) Nghiệp đem lại quả báođời sau: quả báothời gian chịu báo đều xác định. Hoặc là thời điểm chịu báo xác định, nhưng quả báo chưa xác định. Thường được gọi là sanh báo.
3) Nghiệp đem lại quả báo ở các đời sa u nữa. Quả báo và thời điểm chịu báo đều xác định. Hoặc là quả báo chưa xác định, nhưng thời điểm đã xác định, thường sách Phật gọi là hậu báo.

B/ Bất định nghiệp:
 Thời điểm thọ báo chưa xác định, quả báo đã xác định, nhưng thời điểm chịu báo chưa xác định, hay là quả báo và thời điểm chịu báo đều chưa xác định.

XI. Phân loại nghiệp theo quả báo:
1) Nghiệp địa ngục: làm cả 10 nghiệp ác (loại tội ác nặng nhứt).
2) Nghiệp súc sanh: làm 10 nghiệp ác (loại tội ác trung bình).
3) Nghiệp quỷ đói: làm 10 nghiệp ác (loại tội ác tương đối nhẹ so với nghiệp địa ngục và nghiệp súc sanh).
4) Nghiệp người: tạo thiện nghiệp với tâm tán loạn (hạ cấp).
5) Nghiệp loài Trời: tạo thiện nghiệp với tâm phân tán (thượng cấp), tâm loài Trời dục giới chưa phải là định tâm.
6) Nghiệp bất định: làm đôi chút thiện, xen lẫn tội ác nhỏ nên chưa xác định là sanh ở cõi nào.
 

9. TỔNG KẾT BÀI NGHIỆP–TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGHIỆP VÀ BÀI HỌC NGHIỆP

Nghiệp chính là nguyên động lực khiến cho chúng sanh luân hồi trong ba cõi. Vì vậy mà trong kinh nói: “Thế gian dựa vào nghiệp mà chuyển, chúng sanh dựa vào nghiệp mà chuyển, chúngsanh bị nghiệp ràng buộc, giống như bánh xe dựa vào trục mà quay” (chuyển dẫn từ cuốn “Câu xá luân tụng giảng ký” tr. 215: Thế gian y nghiệp nhi chuyển, hữu tình y nghiệp nhi chuyển, hữu tình vi nghiệp sở triền, như xa y trục nhi hành.)

 Cũng về tầm quan trọng của nghiệp, Kinh “Tiểu nghiệp phân biệt” (Trung bộ Kinh III.) viết như sau:
“Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, Nghiệp phân chia các loài hữu tình, nghĩa là có liệt có ưu”.
 Đoạn trên của bản Hán dịch viết như sau:
 “Hữu tình dĩ nghiệp vi tự thể, vi nghiệp chi sở tương tục giả, dĩ nghiệp vi mẫu thai, dĩ nghiệp vi quyến thuộc, dĩ nghiệp vi sở vi giả. Phàm thử thượng hạ chi khu biệt, quân vi nghiệp sở chi phối”.
(Chuyển dẫn từ cuốn “Câu xá luân giảng ký” quyển trung tr. 125)

Tuy nội dung hai bản có khác nhau đôi chút, nhưng đều nhất trí về tầm quan trọng của nghiệp. Cái gọi là sinh mạng của chúng ta, kể cả chúng taloài người, chủ thể của nó chính là nghiệp. Nghiệp mới là cái bào thai đích thực sinh ra loài hữu tình. Tinh trùng của người cha, trứng của người mẹ bất quá chỉ là cái môi vật chất của nghiệp. Chính cái thần thức mang theo nghiệp (vì vậy mà cũng gọi là nghiệp thức hay kiết sanh thức) đã đi vào bụng người mẹ. Loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, vì chính mình đã tạo ra nghiệp, nhưng cũng là kẻ thừa tự, chịu kết quả của nghiệp nhân đã tạo ra. Nghiệp không bao giờ tách rời chúng sanh, cho nên gọi là quyến thuộc. Chính do nghiệp tạo ra có thiện có ác, mà chúng sanh cũng có sự phân biệt kẻ sung sướng, kẻ đau khổ, người bần tiện, người giàu sang.

Chính sự khác biệt về nghiệp giữa các loài hữu tình, cũng như giữa loài người với nhau tạo ra sự khác biệt về thân phận cũng như cảnh ngộ trên thế gian này. Luận Câu Xá viết:
“Thế biệt do nghiệp sanh”
(Thế gian có sự khác biệt là do nghiệp)

 Sự khác biệt đó không phải là do số phận, cũng không phải là do Thần hay Thượng Đế định đoạt, càng không phải do ngẫu nhiên, mà chính là do nghiệp nhân của mỗi chúng sanh tạo ra từ trong các đời trước có khác nhau.

 Trong Kinh có câu: “nghiệp hữu thiện ác, quả phân tịnh uế”
 Nghĩa: nghiệp có thiện ác, thì quả báo có chia ra thanh tịnh hay là nhơ bẩn khác biệt nhau.

Điều nên chú ý là, mọi nghiệp đều phải qua một thời gian nhất định, có đủ nhân đủ duyên thì nghiệp mới chín mùi: Có người đời trước tạo nghiệp nhân ác, đời này tuy tu tỉnh tạo nhiều nghiệp thiện, nhưng cảnh ngộ vẫn bất hạnh, nhưng vì hiện tại biết tu tỉnh, thường xuyên làm thiện cho nên nội tâm vẫn an lạc. Trường hợp trái ngược với trường hợp trên là có người, do đời trước tạo nghiệp thiện cho nên đời này gặp cảnh ngộ sung sướng, nhưng lại không biết tu tập, hiện tại chuyên tạo nghiệp ác, thì nội tâm anh ta vẫn đau khổ, không an lạc. Chính hai trường hợp trái ngược nhau trên khiến cho người bình thường không hiểu, cho nên không tin ở thuyết nghiệp. Còn tất nhiên, có người đời trước tạo nghiệp ác, đời này có cuộc sống bất hạnh, lại không tu tỉnh, cứ tiếp tục theo đà tạo nghiệp ác, cho nên cả cảnh ngộ bên ngoài và nội tâm bên trong đều đau khổ. Lại có người, đời trước tạo nghiệp thiện, đời này tiếp tục tạo nghiệp thiện, cho nên cả cảnh ngộ bên ngoài và đời sống nội tâm bên trong đều an lạc, sung sướng.

Thuyết nghiệp của Phật giáo không phải là thuyết định mệnh:
Khi khẳng định nghiệp không phải là định mệnh, Phật giáo mặc nhiên chủ trương, người tuy tạo ra nghiệp, là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nhưng quyết không phải là nô lệ của nghiệp. Đối với nghiệp quá khứ đã tạo ra, con người quyết không có thái độ tiêu cực như Kiều, trong truyện thơ của Nguyễn Du:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”.

Nhờ hiểu rõ nghiệp là gì, cơ chế vận hành của nghiệp ra sao, con người có thể chuyển nghiệp quá khứ, hạn chế nó, thậm chí triệt tiêu nó.
Phật nói:
“Này các Tỳ Kheo, nếu có người nào đó nói một người phải chịu quả báo theo đúng hành vi của anh ta, thì trong trường hợp đó, này các Tỳ Kheo, sẽ không có đời sống tôn giáo, sẽ không có cơ may để đoạn trừ toàn bộ khổ não. Nhưng này các Tỳ Kheo, nếu có người nào đó nói rằng quả báo mà một người chịu, thích ứng với hành vi của anh ta làm thì trong trường hợp đó, này các Tỳ Kheo, có đời sống tôn giáo, có cơ may để đoạn trừ toàn bộ khổ não”.
(Tăng chi I, 284-290)

Nói giản đơn một cách khác, một người tạo ra các nghiệp ác. Nếu anh ta biết thực thà hối lỗi, cãi tà quy chánh, tích cực làm các điều thiện, điều lành, thì dần dần những nghiệp thiện mới được anh ta làm có khả năng đối trị, hạn chế, thậm chí triệt tiêu những nghiệp ác cũ đã làm trước đây.
Trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ, đã từng có trường hợp của Angulimala, một tướng cướp đã giết nhiều người, về sau được Phật giác ngộ, cho phép xuất giatrở thành A La Hán. Trường hợp của Ambapali, một dâm nữ tài sắcgiàu có ở thành Vaisali cũng được Phật giác ngộ, về sau cũng xuất gia làm Tỳ Kheo ni, và trở thành A La Hán.

Chồng chất tội ác nặng nề như Angulimala, quá nửa đời đam mê dục lạc vật chất và xác thịt như Ambapali, nghiệp bất thiện của họ thực là cao hơn núi, sâu hơn biển, thế mà họ vẫn hối cãi được xuất gia tu hànhtrở thành bậc thánh.

Subhata là tu sĩ ngoại đạo ở Kusinagra, nơi Phật nhập Niết Bàn, khi ông đã 120 tuổi, thì được duyên lành gặp Phật, nghe Phật thuyết pháp, được Phật cho thọ đại giới, và ngay đêm hôm đó chứng quả A La Hánnhập Niết Bàn trước Phật.

Tu sĩ ngoại đạo thường có nhiều tà kiến lại hay cố chấp, thế mà sau khi thành tâm quy y Phật, được xuất gia làm tăng, tinh tấn tu hành chỉ trong vài giờ là chứng được quả Thánh.

Những ví dụ sinh động nói trên à bằng chứng cho thấy con người chỉ thụ động chịu quả báo của nghiệp, khi chưa được giác ngộ, chưa hiểu nghiệp là gì, chưa nắm được cơ chế vận hành của nghiệp. Còn đối với người có kiến thức đúng đắn về nghiệp, nắm vững cơ chế vận hành của nghiệp, thì sẽ thực sự là chủ nhân của nghiệp, chứ không phải là nô lệ của nghiệp.

Thể của nghiệp là tư tâm sở là chỗ dụng tâm của người trước khi hành động ở nơi thân, lời nói hay ý nghĩ. Với dụng tâm cao cả, thuần thiện, thì mọi hành động của chúng tabề ngoài có vẻ tầm thường, đều trở thành cao cả, thuần thiện và có tác dụng to lớn đối với bản thân chúng ta cũng như đối với người khác. Trái lại, với một dụng tâm nhỏ hẹp, vị kỷ, xuất phát từ tham, sân, si thì mọi hành vi của chúng tabề ngoài có cao thượng đến đâu cũng thực sự chỉ là rất tầm thường, không có giá trị hay chỉ có giá trị ít ỏi mà thôi.

Đó là bài học của kinh Hạt Muối (Tăng chi I, 284-85-86-87-88...). Trong kinh, Phật đã khéo dùng ảnh dụ hạt muối để so sánh hai trường hợp, một nhúm muối nhỏ bỏ vào chén nước nhỏ làm cho nước trong chén hóa mặn không uống được, nhưng cũng một nhúm muối như vậy, nếu bỏ vào sông Hằng thì nước sông Hằng vẫn không bị mặn, vẫn có thể uống được. Cũng như vậy, đối với một người có tâm địa nhỏ hẹp như chén nước nhỏ, không tu tập tâm, giới, đức, thì một nghiệp ác nhỏ cũng đủ làm cho người đó khổ sở đến mức không chịu được. Nhưng đối với một người có tu tập tâm, giới, đức, tâm địa rộng lớn như sông Hằng, thì một nghiệp nhân ác nhỏ tương tự tuy có ảnh hưởng, nhưng vẫn không làm anh ta đau khổ đến mức không chịu được. Cũng như một người chỉ nợ một đồng tiền, năm đồng cho tới một trăm đồng, mà phải ngồi tù, bởi vì quá nghèo không thể trả được. Một người khác cũng nợ một đồng tiền, năm đồng cho đến một trăm đồng, nhưng không ngồi tù vì anh ta giàu có nợ bao nhiêu cũng trả hết bấy nhiêu.

Có thể nói, kinh Hạt Muối cung cấp cho chúng ta cái bí quyết không những để hạn chế, triệt tiêu nghiệp ác quá khứ, mà còn làm cho mỗi hành động của chúng ta, ở nơi thân lời nói hay ý nghĩ, phát huy được hiệu lực tối đa và tốt đẹp nhứt đối với tương lai của bản thân và của xã hội. Tất cả vấn đề là ở chỗ chúng ta có hay không tu tập tâm, mở rộng tâm từ vị kỷ đến vị tha, từ nhỏ hẹp đến rộng lớn, nghĩa là như lời Phật dạy, phải tự tịnh kỳ ý, làm cho tâm mình trở thành thuần tịnh, trongsáng, cỡi mở thực sự, rộng lớn thực sự. Như trong các kinh Nguyên thủy, khuyến cáo tu tập bốn vô lượng tâm: từ bi, hỷ xả, hay như trong kinh Kim Cang, Phật khuyến cáo các vị Bồ Tát hãy lấy cái tâm không trú tướng để thực hành bố thí, vì bố thí như vậy, sẽ có công đức vô lượng.

Phật giáo đại thừa sở dĩ có sức hấp dẫn mạnh mẽ chính vì nó khuyến cáo mọi người phát tâm bồ đề rộng lớn, phát hạnh nguyện rộng lớn, độ cho tất cả chúng sanh cùng với mình trọn thành quả giác ngộ và giải thóat vô thượng tức là quả Phật. Với tâm bồ đề rộng lớn đó, với hạnh nguyện to tát vĩ đại đó, như các hạnh nguyện của Bồ Tát Địa TạngBồ Tát Phổ Hiền, thì sẽ không có sự nghiệp gì dù khó khăn đến đâu mà Bồ Tát không thành tựu được viên mãn. Chứ đừng nói gì những nghiệp thân ác đã làm từ trước, chúng cũng sẽ hòa tan vào cái tâm vô lượng đó, như nhúm muối bị hòa tan vào nước sông Hằng.

Nghiệp không phải là định mệnh nếu hiểu biết cơ chế của nghiệp, và với tâm được tu tập, trở thành cao cả rộng lớn, con người hoàn toàn có thể hạn chế tiến tới triệt tiêu nghiệp quá khứ. Tôi nghĩ rằng, một số kinh luận đã quá nhấn mạnh tính bất khả kháng của nghiệp, với mục đích răn dạy chúng sanh đừng có tạo nghiệp ác, khiến cho một số người hiểu lầm, tưởng rằng đạo Phật chủ trương thuyết định nghiệp. Như câu trích dẫn sau đây, của cuốn “Đại trí độ luận”:

Nghiệp lực là lớn hơn cả, không gì so sánh được trong thế giới, như người chủ nợ, đeo đuổi người không tha, quả báo của các nghiệp, không có người nào chuyển biến được, cũng không nơi nào trốn tránh được”.
(Nghiệp lực vi tối đại, thế giới trung vô tỉ, thí như trái vật chủ, truy trục nhân bất trí, thị chư nghiệp quả báo, vô hữu năng chuyển giả, diệc vô đào tỵ xứ).

Rõ ràng câu trích trên của “Đại trí độ luận” phần nào cường điệu tính bất khả kháng của thuyết nghiệp của đạo Phật. Rất có thể Bồ Tát Long Thọ đã nói như vậy nhằm mục đích răn dạy người đừng có tạo nghiệp ác mà thôi.
 

Bài học của nghiệp

Càng học hiểu thuyết nghiệp, chúng ta càng thấy rõ hơn nhiều vấn đề trong cuộc sống, xảy ra cho chúng ta, cho mọi người, cho đất nước, cho thế giới, mà trước kia vốn đã từng làm chúng ta phân vân, không lý giải được.

Vâng, tất cả đều do biệt nghiệp (đối với mình), hay cộng nghiệp (đối với xã hội, quốc giathế giới). Thế giới xã hộimuôn vàn sai biệt, giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, sung sướng hay đau khổ, văn minh tiên tiến hay lạc hậu, tất cả đều do nghiệp, đúng như câu tụng mở đầu phẩm nghiệp của Luận câu Xá:
“Thế biệt do nghiệp sanh”
Nghĩa là thế giớisai biệt là do nghiệp sanh ra.

Từ đó, bài học thứ nhứt mà thuyết nghiệp của đạo Phật dạy chúng ta là bài học nhẫn nại và bình thản. Một việc gì không may xảy ra cho mình đều chỉ là một sự trả giá công bằng cho một nghiệp nhân bất thiệnchúng ta đã làm từ trước. Ta đã làm thì ta chịu. Trả xong thì hết nợ, cả thân và tâm đều thanh thản. Gặp việc may mắn, chúng ta cũng khhông vui mừng thái quá đến mất tỉnh táo. Bất quá, cũng như chúng ta tiêu xài một số tiền đã dành dụm được từ trước. Nếu chúng ta không siêng năng tiếp tục làm điều thiện, thì sẽ có ngày kết vốn, và sự đau khổ sẽ chờ đợi chúng ta. Gọi là vào cầu, vận đen hay đỏ, chỉ là sự vận hành của cơ chế nhân quả nghiệp báo mà thôi, một cơ chế tuyệt đối công bằng. Đúng như câu của Lão Tử:
“Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”
Lưới trời mang mang, tuy thưa mà không bỏ sót

Bài học thứ hai là bài học của niềm tinnỗ lực tối đa. 
Tin chân chánh là gốc của mọi điều thiện, vì vậy mà sách Phật gọi là tín căn (gốc tin). Tin chân chánh là sức mạnh, giúp làm mọi điều thiện, vì vậy sách Phật nói tín lực (sức mạnh của tin). Niềm tin chân chính vào thuyết nghiệp của đạo Phật thúc đẩy chúng ta làm việc hết mình, sống hết mình vì lý tưởng cao cả độ mình, và độ người, và làm tất cả mọi việc có thể làm được vì lý tưởng cao cả đó. Một khi đã phát tâm bồ đề vô lượng, thì mọi việc làm của chúng ta đều có giá trị vô lượng, đối vi cả hai mặt biệt nghiệp và cộng nghiệp, đối với bản thân, cũng như đối với xã hội quốc gia dân tộc, và nhân loại thế giới.

Bài học thứ ba là bài học về tỉnh giáctinh thần trách nhiệm.
Chỉ có người không hiểu thuyết nghiệp của đạo Phật mới sống buông thả, phóng dật, không tỉnh giác đối với mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của mình, không biết rằng mỗi suy nghĩ, lời nóihành vi của mình, đều có tác động đến bản thân, gia đình, xã hội hoặc là ngay trong hiện tại, hoặc là về sau này.

Người có hiểu biết về thuyết nghiệp của đạo Phật, sẽ luôn luôn tỉnh giác và có ý thức trách nhiệm cao đối với mọi hành vi của mình, đến ảnh hưởng lớn hay nhỏ, trực tiếp hay gián tiếp, hiện nay hay về sau của những hànhvi đó, đối với bản thân và đối với xã hội.

Trên đây là bài học của thuyết nghiệp của đạo Phật. Đây không phải là lý thuyết, mà là bài học của cuộc sống, bài học có giá trị thiết thực hiện tại đối với cuộc sống của mỗi chúng ta.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2224)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 32585)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6472)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3830)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5075)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30225)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12033)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3252)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34444)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52112)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3067)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12650)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16113)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13695)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9119)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11404)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17463)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11694)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4297)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12641)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10182)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16280)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11643)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14646)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11908)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16688)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12624)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 51767)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9848)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14356)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19981)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15290)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17364)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16682)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13379)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12366)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 11960)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13177)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25378)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14419)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28174)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10198)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant