Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 4

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8611)
Phần 4


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

 Phần 4

Đó là ba cái tâm, nó đơn giản mà rất thâm trầm. Bây giờ mới nói cái hạnh tu. 

Bố thítịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi thành Phật thì tất cả những chúng sinh hay xả hết tất cả thì được sinh về cõi nước kia. 

Trì giớitịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi thành Phật thì những chúng sinh nào hành được thập thiện viên mãn. Mãn nguyện đó. Thì sẽ được sanh về cõi nước kia. 

Nhẫn nhụctịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi thành Phật, tất cả những chúng sinh siêng năng tinh tấn đầy đủ thì sanh về cõi nước kia. 

Thiền địnhtịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi thành Phật nhiếp những chúng mà mà nhiếp tâm không loạn thì sanh về cõi nước kia. 

Trí tuệtịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi thành Phật tất cả những chúng sinh chánh định thì được sanh về cõi nước kia. 

Như vậy thì chúng ta thấy ở đây pháp tu lục độ. Pháp tu lục độ là cái nhân để Bồ tát được cái quả cõi Phật thanh tịnh. Mà cái nhân của Bồ tát tu lục độ được cái quả cõi Phật thanh tịnh. Bây giờ chúng sinh muốn được sanh về cõi Phật thanh tịnh đó thì cũng phải tu cái gì. Cũng phải tu cái nhân lục độ. Như vậy cái nhân lục độ Bồ tát tu được cái quả cõi Phật thanh tịnh. Chúng sinh muốn sanh về cõi Phật thanh tịnh của Bồ tát cũng phải tu lục độ

Ở đây chúng ta thấy hai phần. Bồ tát tu nhân tịnh độ rồi khi thành Phật được cái quả. Còn chúng ta bây giờ muốn sanh về cõi tịnh độ của Phật đó, thì mình là Phật chưa, Phật chưa? Mình muốn sanh về cõi tịnh độ của Phật thì mình cũng phải tu cái nhân lục độ mới được sanh về bên đó, nhưng mà mình Phật chưa. Bây giờ mình là gì? Mình được sanh về đó là Bồ tát chớ chưa phải Phật. Bởi vì Bồ tát tu cái nhân tịnh độBồ tát rồi phải không? 

Tu cái nhân tịnh độ viên mãn thì thành Phật có cái cõi tịnh độ thanh tịnh. Chúng ta nương theo nhân của Bồ tát để mà tu, tu để được về cõi đó. Về cõi đó là được cái quả là Bồ tát sanh vào tịnh độ chớ chưa phải là Phật. Bởi vì Phật, mình có cõi riêng đâu có ở chung nữa phải không? Có ông Phật nào về ở đậu với ông Phật nào không, có không? Đâu có phải không? Cho nên thành Phật rồi thì mỗi người mỗi cõi, không có ở đậu. Mà mình ở đậu là Phật có cõi đó rồi, mình tu cái nhân giống, mình được về ở cõi đó là mình còn Bồ tát, chớ mình chưa phải là Phật. Nhớ như vậy đó. Hiểu vậy thì mới thấy cái ý nghĩa, chớ còn không thì nói rằng chắc mình về bển mình cũng thanh tịnh như Phật. Không phải. Đó là nói cái nhân lục độ. Bây giờ nói tới: 

Tứ vô lượng tâmtịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi thành Phật thì những chúng sinhthành tựu được từ bi hỷ xả thì liền được sanh về cõi nước kia. 

Tứ nhiếp pháptịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi thành Phật thì chúng sinh do cái giải thoát mà nhiếp thuộc hay là nhiếp phục đó. Được sanh về cõi nước kia. Dó cái giải thoát mà nhiếp phục đó, thì được sanh về cõi nước kia. 

Phương tiệntịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi thành Phật đối với tất cả pháp khéo phương tiện. Những chúng sanhphương tiện vô ngại thì được sanh về cõi nước kia. 

Đoạn này nói về Tứ Vô Lượng TâmTứ Nhiếp Pháp phải không? Nghĩa là Bồ tát cũng tu đủ Tứ Vô Lượng Tâm, cho nên cõi Phật của Bồ tát được thanh tịnh. Khi Ngài thành Phật thì cõi Phật được thanh tịnh. Chúng sinh nào cũng tu Tứ Vô Lượng Tâm, khi thành tựu viên mãn thì cũng được sanh về cõi của các Ngài. 

Rồi Tứ Nhiếp Pháp đó là tịnh độ của Bồ tát. Như vậy cho nên khi Bồ tát thành Phật đó thì những chúng sinh nào, do cái công hạnh giải thoát mà nhiếp phục họ thì những người đó đều sanh về cõi Phật

Rồi đến cái phương tiệncõi tịnh độ của Bồ tát. Vậy khi Bồ tát thành Phật, tất cả những người, những chúng sinh được phương tiện vô ngại thì sanh về cõi Phật. Như vậy chúng ta mới thấy, nghĩa là muốn sanh về cõi Phật hay là muốn được trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh thì Bồ tát phải tu đủ mọi công hạnh phải không? Từ lục độ. Lục độ xong rồi thì tới cái gì. Tứ vô lượng tâm rồi tới Tứ nhiếp pháp. Rồi tới phương tiện

Bây giờ tới công hạnh của Thanh Văn nữa. 

37 phẩm trợ đạotịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật thì những chúng sinh được Niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn lực, giác chi, bát chánh đạo, được sanh về cõi kia. 
Hồi hướng Tăng là tịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật được tất cả công đức đầy đủ ở cõi Phật. Nói trừ 8 nạn ấy là tịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật thì các cõi nước không có ba ác đạo vào tám nạn

Tự giữ giới hạnh chẳng chê bai thiếu khuyết của người khác. Ấy là tịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật thì cõi nước không có tên phạm giới. Thập thiệntịnh độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật thì mạng không bị chết yểu. Bất trung yểu (Ở giữa chừng mà yểu. Ở giữa chừng là khoảng nào? Từ 50 tuổi trở xuống đó. Gọi là trung yểu.). Giàu có, phạm hạnh nói ra những lời chân thật. Thường nói lời nhỏ nhẹ. Quyến thuộc không có chia lìa. Khéo điều hòa sự thưa kiện. Nói ra thảy đều có lợi ích cho người. Không có tật đố, không có nóng giận. Được chánh kiến. Những chúng sanh ấy được sanh về cõi nước kia. 

Như vậy đoan này để nói lên công phu tu hành của Bồ tát. Nhờ công phu tu hành đó là nhân mới đạt được cõi thanh tịnh là quả. Bây giờ chúng ta thấy thêm nào là 37 phẩm trợ đạo. Nào là cái gì nữa. Nào là hồi hướng tâm. Rồi nào là không trừ hết các nạn. Bởi trừ hết các nạn nên trong cõi Phật không có ba đường ác cũng không có tám nạn. Trong tất cả nạn này tôi thấy có cái nạn mà mình mà nghĩ thật là mình ham mà Phật cho là nạn. Mấy chú biết cái nạn gì không? Sanh ở cõi Trời Trường Thọ. Thường thườngthế gian mấy chú thấy mình thích sống lâu không? Sống lâu là cái người ta thích phải không? Rồi đầy đủ dục lạc là cái người ta thích. Hai cái sống lâu và giàu có sung sướng là cái người ta thích. Mà cõi Trời Trường Thọ, cõi Trời đó sống lâu vô kể. Thích không? Rồi lại ở cõi Trời là sung sương đầy đủ. Như vậy sống lâu và sung sướng mà tại sao nói nạn. Đó là điều tôi hỏi, mấy chú nói làm sao? Sống lâu và sung sướng là điều hạnh phúc cho con người biết mấy. Tại sao đây lại nói nạn. Hiểu cái này thì mình mới hiểu được tư cách tu hành. Bởi vì Phật nói rằng ngững người sanh về cõi Trời Trường Thọ sống rất là lâu. Tức là cả tiểu kiếp mà luôn luôn thụ hưởng sung sướng đó. Sống lâu để mà hưởng mãi, hưởng mãi không có làm chút lành nào hết trơn. Tới chừng cả triệu năm như vậy rồi trở lại trần tục. Không có một chút phước đức thì đó là tai nạn. Bởi vì không có cơ hội để họ tỉnh giác. Mà không phát tâm, không tỉnh giác thì làm sao mà làm điều thiện mà không làm điều thiện thì làm sao tiến lên. Cho nên lên ở đó cũng như bị nhốt trong cái tháp ngà, thụ hưởng đã rồi xuống. 

Bây giờ mấy chú thích cái đó không? Nghĩa là thế thường người ta thích như vậy, nhưng mà trong đạo Phật là cốt chúng ta sống thế nào, trong hoàn cảnh nào mà dễ phát tâm, dễ thức tỉnh thì đó là cái tốt. Còn chỗ nào mà mình cứ thụ hưởng đã đời cho tới rồi hết kiếp, thì đó là không tốt. Vậy mấy chú nghĩ mình sống mà có sợ tai nạn không? Có sợ khổ không? Có sợ bịnh hoạn không? Nhờ bịnh hoạn mới thấy thân này vô thường phải không? Nhờ tai nạn mới thấy cuộc đời không gì bảo đảm. Nhờ có cuộc sống chật vật nghèo khổ mới thấy cuộc đời là khổ đau. Như vậy có cơ hội để thức tỉnh phải không? Như vậy mình hoan nghinh mấy cái đó hay mình chê mấy cái đó. Như vậy cái mà thế gian sợ đó, chíng là cái Phật cho là cần. Còn cái mà thế gian ưa muốn Phật cho là nạn. 

Bây giờ mấy chú sanh ra trong một gia cảnh nào đó. Mọi sự sung sướng đều như ý hết mà không bao giờ thấy cái gì gọi là buồn lòng hết thì tu được không? Chẳng bao giờ phát tâm tu được. Bởi vì cái gì muốn là được, muốn là được, không có buồn thì làm sao mà tu. Cho nên hiểu vậy rồi mới thấy cái nạn nhà Phật nói, không phải đợi thiếu thốn, khổ đau mới là nạn. Mà chính vì cứ chôn mình trong đó để mà kéo mãi cái đời si mê. Đó là tai nạn. Hiểu vậy thì mới thấy cái ý nghĩa của đạo Phật. Bởi vậy nên nói khi sanh được lên cõi Trời Trường Thọ rồi thì mọi nhu cầu đầy đủ. Sống mãi như vậy cho nên coi như chôn minh trong cái tháp ngà đó. Chớ không có lợi ích gì hết. Vì vậy gọi đó là 1 nạn trong 8 nạn đó. 

Như vậy khi Bồ tát được sanh về cõi tịnh độ rồi, cõi của Ngài không còn những thứ đó nữa. Rồi cho tới những điều trong đây nói, nghĩa là giữ giới hạnh là tịnh độ của Bồ tát. Thì khi giữ giới hạnh và không chê khuyết điểm của người khác. Đó là tịnh độ của của Bồ tát. Cho nên khi Bồ tát thành Phật thì cõi nước của các Ngài không có tên phạm giới nữa. Còn mình bây giờ có khi mình giữ giới hạnh thì cũng có thể ráng phải không? Nhưng mà thấy mình giữ, còn người khác không giữ, quạu không? Có chê không? Đó là một cái điều chưa đầy đủ. Bổn phận mình giữ thì mình ráng giữ. Mình giữ là mình tu, mình tu là cho mình. Còn người khác họ không giữ. Không giữ đó hoặc họ là kẻ không có tinh thần tỉnh giác. Hoặc muốn đi ở trong quần chúng. Muốn làm những điều sai phạm để rồi họ cảnh tỉnh những người khác. Mình có biết đâu phải không? Mình không lo thân của mình chứ ngồi lo chê người ta. Đó là điều không hay. Bởi vậy cho nên Bồ tát mình thấy giữ giới hạnh đó là một bổn phận, rồi cũng không chê cái khuyết của người khác nữa. Đó là cái rất đặc biệt. Nên chúng ta hiểu rồi, cái việc tu của mình đó, nhiều khi nói nghe cũng như hay như phải. Bởi vì mình giữ giới nên mình ghét những người phạm giới phải phải không? Đó nói như vậy để tỏ rằng mình là người trong sạch. Chính khi đó mình đã tổn thương công đức của mình rồi. Vì vậy cho nên sự tu hành của mình không có bổn phận, không có trách nhiệm, thì mình khỏi có chê bai những cái khuyết, cái dở của ai. Chỉ lo mình giữ cho thanh tịnh phần mình thôi. Rồi cho tới. 

Thập thiệntịnh độ của Bồ tát

Bồ tát khi mà thành tựu được cõi nước rồi, cõi nước tịnh độ rồi, những chúng sinh có đầy đủ những điều kiện này: Một là sống lâu nè. Hai là giàu có. Ba là phạm hạnh. Bốn là nói chân thật. Năm là thường nói nhỏ nhẹ

Mười điều lợi ích này, (?) đó là do tu nhân gì mấy chú biết không? Do tu nhân thập thiện mà kết quả. Giữ giới không sát sanh thì kết quả mạng sống không chết yểu, phải không? Giữ giới không trộm cướp thì được giàu có. Giữ giới không tà dâm, thì được phạm hạnh. Giữ giới không nói dối thì được nói lời chân thật. Giữ giới không nói ác khẩu thì được các lời nhu nhuyến. Giữ giới không có nói ly gián thì được quyến thuộc không chia lìa. Giữ giới không nói những lời gọi là ác, vu oan cho người ta thì hòa hợp được sự tranh tụng. Giữ giới mình không nói lời thêu dệt thì được nói ra điều có ích lợi. Giữ giới bớt tham, bớt tật đố. Bớt tham, không tham tức là không tật đố thì nó sanh cõi nước không bị tật đố. Rồi giữ giới không sân thì không bị sanh nhuế. Giữ giới không tà kiến thì được chánh kiến

Như vậy cái tốt lành đó đều do tu thập thiện mà ra chớ không do đâu mà đến. Như vậy thì cõi nước của Phật của Bồ tát, khi Ngài tu nhân đó, Ngài tu thập thiện thì bây giờ chúng tachúng sinh, muốn được về cõi Bồ tát khi thành Phật đó thì chúng ta cũng phải tu cái nhân thập thiện

Phật nói cái nhân rồi. Bây giờ tới Ngài muốn kết thúc lại. 

Như thế Bảo Tích, Bồ tát tùy cái tâm ngay thẳng kia, tức là trực tâm kia thì hay phát hành (Nghĩa là mình nhân có cái trực tâm, rồi mình mới khởi ra cái hành động.). Rồi tùy cái phát hành đó liền được, ắt được cái thâm tâm

Từ cái trực tâm, tâm ngay thẳng của mình, cho nên mình làm cái gì nó đều là cái điều hay, điều lợi ích cho chúng sinh. Đó gọi là phát hành. Nhờ mình làm điều hay điều lợi ích cho chúng sinh, cho nên mới được cái thâm tâm. Rồi tùy cái thâm tâm kia ắt cái được ý điều phục. Rồi tùy cái ý điều phục ắt là được như nói mà làm. Hay là việc làm như lời nói. Như vậy từ thâm tâm nó mới được cái ý của mình, nó điều hòa nó chinh phục nó được. Từ cái điều hòa chinh phục được ý mình rồi, thì lời nóiviệc làm mới đi đôi nhau. Khi lời nói việc làm đi đôi nhau rồi, thì mới hay hồi hướng. Rồi tùy cái hồi hướng đó mà tiến tới phương tiện. Tùy phương tiện đó ắt thành tựu chúng sinh. Tùy cái thành tựu chúng sinh đó ắt là được cõi Phật thanh tịnh. Rồi tùy cái cõi Phật thanh tịnh đó ắt nói pháp được thanh tịnh. Rồi tùy cái nói pháp thanh tịnh đó thì trí tuệ thanh tịnh. Rồi tùy cái trí tuệ thanh tịnh đó tâm được thanh tịnh. Rồi tùy cái tâm thanh tịnh đó ắt là tất cả công đức được thanh tịnh

Như vậy là Phật muốn kết thúc lại cả một đoạn trên. Nghĩa là từ trực tâm dài dài cho đến cuối cùng tất cả công đức được thanh tịnh

Rồi câu này là câu mình phải nhớ mãi mãi

Thế nên Bồ tát, nếu Bồ tát muốn được cái cõi tịnh độ thì phải tịnh cái tâm kia. Tùy cái tâm kia tịnh thì cõi Phật tịnh. 

Như vậy mình mới thấy, Bồ tát mà muốn trang nghiêm tịnh độ đó thì phải làm sao? Trước, cái tâm mình phải thanh tịnh. Nếu tâm mình thanh tịnh thì cõi nước Phật được thanh tịnh. Như vậy mình tu mà muốn cõi nước Phật thanh tịnh thì trước hết mình phải làm sao? Cái tâm mình phải thanh tịnh. Như vậy cái tâm thanh tịnh là cái nhân mà cõi Phật thanh tịnh là cái quả. Còn nếu tâm mình nó cong queo. Tâm mình nó nhơ nhớp mà muốn về cõi Phật tịnh được không? Vì vậychúng ta thấy nhiều người nguyện sanh về tịnh độ mà không lo tịnh cái tâm phải không? Muốn sanh về tịnh độ mà cái tâm không tịnh. Tâm không tịnh thì cõi Phật làm sao mà tịnh được. Cho nên người biết tu thì ngay cái nhân chúng ta phải tạo cho đủ. Cái nhân đủ thì cái quả nó sẽ tròn. Mà cái nhân là gì? Là cái tâm mình thanh tịnh là đầu. Tâm mình thanh tịnh thì cái quả cõi Phật thanh tịnh

Bởi vậy tất cả những người biết tu rồi lúc nào mình cũng nhắm vào cái tâm của mình làm gốc, chớ đừng có lệ thuộc vào cảnh. Muốn cái cảnh nó đẹp mà tâm mình không đẹp thì cái cảnh cũng khó mà đẹp được. Bởi vậy cho nên cái tâm là chủ. Thường thường nói cái thân là chánh báo. Cảnh là y báo phải không? Nhưng ở đây Phật nói thẳng, cái tâm mới là chánh của chánh báo. Vì vậychúng ta phải sửa tâm của chúng ta trước thì cõi Phật mới được thanh tịnh. Điều đó là căn bản của sự tu. 

Đây là một đoạn giải nghi. 

Khi ấy Ngài Xá Lợi Phất nương nơi oai thần của Phật, khởi nghĩ thế này, nếu tâm của Bồ tát thanh tịnh thì cõi nước thanh. Đức Thế Tôn của ta ngày xưa khi làm Bồ tát ý đâu chẳng thanh tịnh. Mà cõi Phật này nó bất tịnh như thế ấy. 

Khởi cái nghi này thật là hợp lý phải không? Vì nói rằng Bồ tát cai tâm thanh tịnh nên cõi nước được thanh tịnh. Bây giờ ông Phật Thích Ca là ông Phật của mình đi. Bây giờ đây hồi tu hạnh Bồ tát chả lẽ lúc đó tâm Ngài không thanh tịnh phải không? Tại sao bây giờ được cái nước Phật là cõi Ta bà này, nó ô uế thế này, thì nói tâm Bồ tát thanh tịnh thì cõi nước tịnh. Đó là một cái nghi rất hợp lý. Phật biết cái nghĩ của Ngài Xá Lợi Phất, liền bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng. 

Ý ông nghĩ sao, mặt trời, mặt trăng há chẳng sáng sau (chữ tịnh có nghĩa là sáng). Mà người mù họ không thấy. 

Ngài Xá Lợi Phất đáp: 

Không phải vậy, bạch Thế Tôn. Cái lỗi là tại người mù, chớ không phải lỗi tại mặt trời, mặt trăng

Mặt trời, mặt trăng lúc nào cũng sáng, nhưng vì người mù họ không có mắt, cho nên họ thấy tối. Thấy tối là lỗi tại người mù. Chớ không phải lỗi tại mặt trời, mặt trăng thì hợp lý quá! 

Phật nói: Xá Lợi Phất, vì chúng sinh tội nghiệp không thấy được cõi Phật của Như Lai trang nghiêm thanh tịnh. Chớ không phải là lỗi của Như Lai

chúng sanh tội nghiệp nặng nề, nên họ không thấy cõi Phậttrang nghiêm thanh tịnh. Chớ không phải là lỗi của Phật. 

Ngài Xá Lợi Phất cõi nước của ta nó thanh tịnh mà ông không thấy. (Cõi nước của ta đây thanh tịnh mà ông không thấy). Khi đó Loa Kê Phạm Vương tức là Phạm Vương tên là Loa Kế mới nói với Ngài Xá Lợi Phất rằng: 

Chớ khởi nghĩ cõi Phật này là không thanh tịnh. Vì cớ sao tôi thấy cõi Phật thanh tịnh của đức Thích Ca Mâu Ni (hay là tôi thấy cái cõi nước của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là thanh tịnh.). Ví như là cái cung của vua Trời Tự Tại vậy. 

Như vậy thì cõi Ta bà này, Ngài Xá Lợi Phất thì thấy không thanh tịnh. Nhưng mà Loa Kế Phạm Vương lại thấy nó thanh tịnh

Ngài Xá Lợi Phất nói: Tôi thấy cõi này gò nỗng, hầm hố, gai góc, cát sỏi, đất đá, núi non, những cái nhớp nhúa dẫy đầy. 

Ông thấy cõi này thanh tịnh, còn tôi thấy nó như vậy đó. dẫy đầy những điều nhơ nhớp. 

Loa Kế Phạm Vương nói nói: Cái tâm nhân gỉa có cao thấp. Không có ý như trí huệ Phật, cho nên thấy cõi này nó nhơ nhớp như vậy. Xá lợi Phất, Bồ tát đối với tất cả chúng sinh thảy đều được bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh y như trí tuệ Phật, thì hay thấy cõi Phật được thanh tịnh

Như vậy nghĩa là ai mà y theo cái tâm bình đẳng thì được cái thâm tâm thanh tịnh. Nương nơi trí tuệ Phật sẽ thấy cõi Phật thanh tịnh. Như vậy cái thấy của Ngài Xá Lợi Phất với cái thấy của Trời Phạm Vương Loa Kế thì hai vị cùng nhìn cõi Phật Thích Ca. Một bên là cho là uế, một bên cho là tịnh, là tại sao? Đều theo nghiệp. 

Bây giờ tôi thí dụ cụ thể. Tôi nói giả sử như ở đây, ở Thường Chiếu này, cảnh này mà ở trong chúng có một người nào đó, tâm hồn họ đương bất an đương rối loạn. Còn có một người nào đó tâm hồn họ được tự tại thoải mái. Thì hai người đó nhìn cảnh Thường Chiếu này có khác nhau không? Khác không? Cũng cảnh Thường Chiếu thôi, mà người tâm hồn họ đang rối loạn, đang bất an đó thì họ thấy cảnh này tới đâu họ cũng thấy bực bội hết, phải không? Còn người tâm hồn họ tự tại thoải mái thì tới đâu họ cũng thấy cũng vui tươi hết. Cảnh này là vui tươi hay cảnh này là bực bội. Là sao? Vui tươi hay bực bộitùy tâm phải không? Như vậy tâm của mình nó bực bội dù cho cảnh thế nào đi nữa cũng thấy bực bội. Tâm mình an lành tự tại, cảnh nào cũng thấy an lành tự tại

Bởi vậy các Thiền sư ở trong rừng trong núi mà thấy nó đẹp hay xấu. Còn mình nhiều khi ở trong chùa trang nghiêm thanh tịnh mà sao nó bực bội, nó rầu rĩ, muốn bỏ chùa mà đi quá! Đó là tại làm sao? Đó là vì trong tâm mình đang rối loạn. Bởi nó không an nên dù trong cảnh nào rồi cũng bất an. Vì vậychúng ta mới thấy rõ cái trọng tâm đặt ở chỗ nào. 

Khi ấy Phật dùng cái chân, ngón chân ấn xuống đất. Liền khi đó tam thiên đại thiên thế giới, bao nhiêu trăm ngàn trân bảo trang sức, ví như là các thứ báu mà trang nghiêm cõi Phật. Vô lượng công đức những báu mà trang nghiêm cõi này. Tất cả đại chúng khen ngợi chưa từng có, mà đều tự thấy đang ngồi trên đài liên hoa (Đài báu liên hoa. Đài báu hoa sen.). 

Như vậy Phật chỉ cần ấn ngón chân thì mọi người thấy cõi này thanh tịnh trang nghiêm. Thấy mình ngồi trên tòa sen đẹp đẽ. Tòa sen báu. Lúc đó tất cả đều trang nghiêm thanh tịnh hết. 

Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất

Ông hãy xem cõi nước Phật trang nghiêm thanh tịnh chăng. Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn: Vâng. Xưa chỗ Phật không thể thấy, xưa chỗ không thể nghe. Mà nay cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh đều hiện bày. 

Hồi trước tới giờ con chưa từng thấy. Hồi trước tới giờ con chưa từng nghe. Bây giờ mới thấy cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh như thế này. 

Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất

Cõi Phật của ta thường thanh tịnh như thế. Vì muốn độ những chúng sanh, những người tâm hạ liệt mà hiện bày ra cảnh xấu nhớp. Cõi nước xấu nhớp không trong sạch. Ví như chư thiên cùng một bát báu đựng thức ăn, tùy phước đức của những người kia mà sắc cơm trong bát hiện khác nhau. Như thế Xá Lợi Phất nếu người tâm tịnh liền thấy cõi này công đức trang nghiêm

Người nào tâm tịnh liền thấy cõi này công đức trang nghiêm, phải không? Còn tâm không tịnh thì sao? Thì cõi này nhớp nhúa. Mấy chú mới thấy rõ điều này là một lẽ thực. Không có chối cãi được. Bởi vì tất cả chúng ta ở nơi nào, cảnh nào mà thấy tâm thanh tịnh thì cõi đó tự nó thanh tịnh. Bây giờ mấy chú thử một hôm nào đó, tâm mình thật nhẹ nhàng thoải mái. Mình ra ngồi mấy gốc đào (điều), mình thấy vui không? Vui quá phải không? Còn khi nào mình đang bị ai nói nặng nói nhẹ. Bị người này làm khó dễ. Ra ngồi gốc đào thấy vui không? Ngồi gốc đào mà coi như tù ngục phải không? Như vậy mới thấy rõ rằng, tâm tịnh liền thấy cõi tịnh. Còn tâm không tịnh thì dù cõi tịnh cũng biến thành không tịnh. 

Chủ yếu là như vậy. Muốn thấy cõi nước Phật thanh tịnh thì trước chúng ta phải tịnh cái tâm của mình. Tâm mình định thì cõi nước mới được thanh tịnh. Còn tâm mình nhơ nhớp thì muốn sanh lên cõi tịnh cũng không gao giờ sanh được. Đó là trọng tâm của sự tu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32606)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30231)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30312)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12158)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12586)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34456)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52116)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10343)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9519)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12527)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12652)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16117)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16396)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13735)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11961)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11188)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16105)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11949)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12514)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14863)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17467)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11908)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant