Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 11

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8352)
Phần 11


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 11

Chỗ này làm cho chúng ta sáng thêm về ý nghĩa đạo tràng. Thường thường nói đạo tràng là cái gì? Chữ tràng là trường, là chỗ, là nơi mà mình tụ hội lại để nghe kinh, để học đạo, để tụng, để ngồi thiền... chỗ đó thường gọi là đạo tràng phải không? đạo tràng là nơi tụ hội để học đạo, để tu thì gọi đó là đạo tràng. Thường nếu mình nghe nói người đó từ đạo tràng ra, thí dụ có người ở trong thành phố ra, họ tới trước cửa Thường Chiếu. Ra tới đó thấy có người ở trong cổng Thường Chiếu đi ra. Hỏi huynh ở đâu lại. Nói làm sao? Nói tôi ở trong đạo tràng Thường Chiếu mới ra, phải không? Nói đạo tràng tức là chỗ tu. Từ chỗ tu mà ra. Còn cái này một ông từ trong thành đi ra, ông nọ ngoài thành đi vào, không có chùa chiền, không có tịnh xã, không có gì hết, mà đi vào chợ. Hỏi ông từ đâu vào, nói từ đạo tràng vào. Như vậy cái đạo tràng của ông Duy Ma Cật khác với cái đạo tràngquan niệm các người tu bây giờ hay người tu thuở đó. Như vậy cái đạo tràng của chúng ta thấy là đạo tràng hình tướng. Chỗ hội hợp tu hành thì gọi đó là đạo tràng. Còn đạo tràng của ông Duy Ma Cật thấy là đạo tràng gì? Đạo tràng ở ngay trong tâm hạnh của mình, phải không? Trong tâm mình mà làm những điều tốt, làm những điều hay, ứng dụng những pháp để được tỉnh giác thì đó là đạo tràng. Dù đi đâu, dù ở chỗ nào mà mình đều sống được với những cái đó thì chỗ nào cũng là đạo tràng hết. Còn nếu mình ngồi thiền ở trên chùa, đó là đạo tràng không? Là đạo tràng rồi. Nhưng lúc đó tâm mình nghĩ xấu, nghĩ bậy thì lúc đó phải đạo tràng không? Vậy thì đạo tràng của chúng ta chỉ là đạo tràng hình thức. Chớ còn chưa đi sâu trong vào tâm tánh

Còn ông Duy Ma Cật nói đạo tràngđi thẳng vào tâm tánh. Cho nên ông mới dẫn những điều ông nói trực tâmđạo tràng, rồi phát hạnh là đạo tràng. Hai câu đó quí vị thấy, trực tâmđi thẳng vào tâm ngay thẳng, đó là đạo tràng. Phát hạnh đó là việc làm. Khởi làm những điều thiện, đó là đạo tràng. Rồi thâm tâmđạo tràng. Bồ Đề tâmđạo tràng. Rồi Bố Thíđạo tràng. Trì giớiđạo tràng. Chó tới lục độ đều là đạo tràng hết. Như vậy cho tới hàng ma nè, cho tới giảng pháp, giảng kinh... lúc nào cũng là đạo tràng

Nói tóm lại cho dễ hiểu, đạo tràng của ông Duy Ma Cậtđạo tràng của tự tâm, đạo tràng của hành động chân thật, từ tâm chân thật phát hiện. Như vậy những cái đó điều là đạo tràng. Đạo tràng đó rất là bao la, rất là rộng rãi, phải không? Bởi vì ở đâu mà chúng ta tâm được thanh tịnh, tâm hợp với đạo lý, ở đó có đạo tràng. Ở đây mà chúng làm lợi ích cho chúng sanh, làm lợi ích cho mọi người mà không có ngã, không có người thì chỗ đó cũng là đạo tràng

Như vậy hiểu được nghĩa đạo tràng này chúng ta mới thấy, người tu có khỉ ở chỗ vắng vẻ, ở trong chùa, ở những ngôi tịnh xá để tâm an lành tu. Nhưng cũng có khi mình phải đi giáo hóa nơi này nơi nọ, ở chỗ chợ búa, xóm làng. Nhưng nếu ở trong chùa, ở tại tịnh xá mà mình được thanh tịnh, tâm ý trong sạch, việc làm trong sạch thì đó là đạo tràng. Đi ra chợ búa, vào xóm làng mà tâm thanh tịnh, việc làm thanh tịnh thì ở đó cũng đạo tràng. Đừng vì chấp phải ở chùa, phải ở tịnh xá mới đạo tràng. Ra chợ búa, vào làng xóm không phải đạo trang. Nếu mình chấp như vậy đó là bệnh, phải không? Cho nên hành động của Bồ Tát là luôn luôn mỡ rộng. Chỉ nhắm vào tâm. Bởi nhắm vào tâm cho nên có khi hành động ở chỗ không hợp đạo lý mà vẫn thấy đạo lý. vì các Ngài không kẹt, không mắc. Hiểu vậy mới thấy ý nghĩa của đoạn này. 

Phật bảo Bồ Tát Kỳ Thế: 

( Ông đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật

Bồ Tát Kỳ Thế bạch Phật rằng: 

( Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ lại thuở xưa con ở trong tịnh thất. Khi đó Ma Ba Tuần đem 1 muôn 2000 Thiên nữ, dáng giống như là Đế Thích, đánh nhạc, ca hát, đi đến chỗ của còn cùng những quyến thuộc của nó, đầu lễ dưới chân con, chấp tay cung kính đứng qua một bên. Con nghĩ nó là Đế Thích nên nói rằng: Lành thay! Kiều Thi Ca. Tuy có cái phước được như vậy. không có nên tự buông lung. Phải quán ngũ dụcvô thường đề gốc lành nơi thân, mạng, tài mà tu pháp kiên cố

Liền khi ấy chúng nói với con rằng: 

( Này Chánh Sĩ! nên nhận 1 muôn 2000 Thiên nữ này có thể đủ để quét dọn cái thất của Ngài. 

Còn nói rằng: 

( Kiều Thi Ca! Không nên đem vật phi phápcúng dường cho Sa môn Thích Tử. Đây không phải chỗ ta nên nhận. 

Con vừa nói rồi thì khi ấy có ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng: 

( Không phải là Đế Thích. Âúy là ma nó đến nhiễu loạn ông vậy! 

Như vậy đoạn này là Ngài Kỳ Thế tuy là Bồ Tát rồi, nhưng Ngài con tu hạnh rất thanh tịnh ở chỗ thất vắng. Tâm hồn Bồ Tát nhưng chưa nhập thế, còn yên tu thanh tịnh. Cho nên ma đánh lừa Ngài. Nó tới giả ra Thiên Đế Thích. Ngài tưởng thiệt là Thiên Đế Thích. Nó thưa hỏi xong xuôi, nó còn đem 1 muôn 2000 Thiên nữ cúng dường cho Ngài. Ngài nghĩ mình là người tu. Như vậy Bồ Tát này là Bồ Tát xuất gia phải không? Cho nên nghiêm trì giới luật, nói không được ông đem nhưng người này cúng cho ta là phi pháp. Ta không nhận. Lúc đó gặp ông Duy Ma Cật, tức là ông già bụi đời. Cho nên gặp ông thì ông nhận hết. Khi gặp ông rồi, ông liền giảng trạch cho Ngài Kỳ Thế biết rằng đó không phải là Thiên Đế Thích, mà là Ma Ba Tuần. Để cho Ngài biết Ngài đã lầm. Bây giờ đây là ông bắt đầu nói chuyện với ma. 

Ngài Duy Ma Cật liền nói với ma rằng: 

( Những người nữ này có thể đem cho tôi. Như tôi thì mới đáng mà nhận (Đáng thọ nhận). 

Ma liền hoảng sợ, nghĩ rằng ông Duy Ma Cật đâu không làm não hại ta. Muốn ẩn hình đi (tức muốn tàng hình trốn đi) mà không thể ẩn. Dùng hết thần lực của nó cũng không thể đi được. Liền nghe trong hư không có tiếng rằng: 

( Ba Tuần, hãy đem những người nữ này cho đi (nghĩa là cho ông đó) thì mới có thể đi được. 

Ma vì sợ nên mới miễn cưởng mà cho (sợ quá miễn cưỡng cho. Khi ma cho thì Ngài nói làm sao.). Khi ấy Ngài Duy Ma Cật mới bảo những người nữ ấy rằng: 

( Ma đã đem các chị cho tôi rồi. Này các chị đều phải phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác

Mình giải nghĩa có đầu đuôi gốc ngọn. Lát chị, lát ngươi, nghe lộn xộn. Ăn nói không có trật tự, phải không? Nếu là chị thì chị hết. Ngươi thì ngươi hết. Gặp chữ “tỷ” thì gọi là chị. Gặp chữ “nhĩ” thì gọi là ngươi. Cũng nói với mấy người đó thôi mà sao lộn xộn vậy. Cho nên ở đây phải biết rõ. 

Liền tùy căn cơ thích hợp mà vì nói pháp, khiến cho các vị đó phát đạo ý. Lại nói rằng: 

( Các chị đã phát đạo ý, có pháp lạc có thể tự vui. Không nên lại vui theo ngũ dục nữa. 

Các Thiên nữ liền hỏi rằng: 

( Những gì là pháp lạc? 

Ngài đáp rằng: 

( Cái lạc thường tin nơi Phật. Cái lạc vốn nghe pháp. Cái lạc cúng dường chúng Tăng

Như vậy 3 cái vui đầu của người học đạo. Cái vui thứ nhất là tin Phật. Cái vui thứ 2 là nghe pháp. Cái vui thứ 3 là cúng dường chúng Tăng. Đó là ba cái vui. Ba cái vui đầu là vui về Tam bảo. Rồi tới cái vui kế, vui lìa ngũ dục

Vui quán ngũ ấm như là quán tặc. Vui quán tứ đại như là rắn độc. Vui quán nội nhập như là cái xóm rỗng1 (hay là cái nhóm rỗng). 

Mấy cái vui này là vui gì? Ba cái vui trước là vui đối với tam bảo. Vòn vui lìa ngũ dục. Vui quán 5 ấm như quán tặc. Vui quán tứ đại như rắn độc. Vui quán các nhập hay là nội nhập như là nhóm rỗng. Cái vui đó là vui về cái gì? Vui nhìn vào cái thân của mình. Thân của mình đầu tiên thì phải làm sao? Lìa ngũ dục. Lìa ngũ dục đó là vui. Rồi vui xét thấy thân 5 ấm này như oán tặc, tức là như giặc thù. Năm ấm làm sao như giặc thù? Bởi vì thân 5 ấm này luôn luôn là phiền nhiễu, luôn luôn là khổ đau. Cho nên nói không có cái gì là vui thích. Không có cái gì đáng cho mình phải mến yêu, mà mình lại lầm sanh ra mến yêu nó. Cho nên phải quán thân năm ấm này như là oán tặc. Rồi vui quán tứ đại như 4 con rắn độc, nó chực hại nhau. Mình hằng quán thích quán như vâỵ, đó là vui. Rồi vui quán nội nhập, tức là lục nhập của mình, như là một nhóm rỗng vậy thôi, không có cái gì thật hết. 

Như vậy trong mấy cái vui, cộng lại mấy cái? Vui lìa ngũ dục là một. Vui quán 5 ấm như oán tặc là 2. Quán tứ đại như rắn độc là 3. Vui quán lục nhập như nhóm rỗng là 4. Bốn cái vui này là nhìn thẳng vào thân của mình. 

Vui tùy hộ đạo ý. Vui làm lợi ích cho chúng sanh. Vui cung kính bậc sư trưởng

Ba cái vui này về cái gì? Tùy hộ đạo ý tức là vui tùy hỷ. Ai có tâm đạo mình bảo bọc cho họ để tâm đạo không bị mất, không bị lui sụt. Đó cũng là cái vui của mình. Vui làm lợi ích cho chúng sanh. Rôi vui cung kính các bậc sư trưởng. Hay là vui cúng dường cung kính các bậc sư trưởng. Đó là ba cái vui bên ngoài, thầy bạn. Rồi tới cái 

Vui rộng làm việc Bố thí. Cái vui để gìn giữ giới cho được vững vàng. Cái vui nhẫn nhục được như hòa. Cái vui siêng năng làm các căn lành. Cái vui thiền định không có loạn. Cái vui lìa cấu được trí tuệ sáng suốt

Mấy cái vui này thuộc về vui gì. Cái gì? Là cái vui lục độ phải không? Thứ nhất là vui Bố thí. Thứ hai là vui Trì giới. Thứ 3 là vui Nhẫn nhục. Thứ 4 là vui Tinh tấn. Thứ 5 là vui Thiền định. Thứ 6 là vui Trí tuệ. Mỗi khi làm một pháp đều có lợi ích của riêng nó. Cho nên Thiền định thì tâm không loạn. Trí tuệ thì lìa được cấu. 

Vui rộng phát tâm Bồ đề rộng rãi. Cái vui hàng phục các ma. Vui đoạn các thứ phiền não. Vui là thanh tịnh cõi nước Phật. Cái vui thành tựu những tướng tốt. Cho nên tu các công đức cái vui trang nghiêm đạo tràng

Như vậy mấy cái vui? Vui khi phát Bồ đề tâm rộng lớn. Vui hàng phục các ma. Rồi vui đoạn trừ phiền não. Vui là thanh tịnh cõi nước Phật. Vui thành tựu các tướng tốt. Vui trang nghiêm đạo tràng. Mấy cái vui đó là vui tu những công đức để được dứt hết phiền não. Dứt hết các ma và trang nghiêm cõi Phật, trang nghiêm đạo tràng

Vui nghe những pháp thâm sâu mà không sợ. Vui ba môn giải thoát chẳng ưa việc phi thời

Hai cái vui này, vui nghe pháp mà thích tam giải thoát môn (tam giải thoát môn là không, vô tướng, vô nguyện). 

Vui gần những người đồng học. Vui đối với những người không phải đồng họctâm không giận cũng không có ngại. Vui đem sự bảo hộ những người ác tri thức. Vui gần gũi những thiện tri thức

Mấy cái vui này nó hơi khó. Vui thứ 1 gần gũi bạn đồng học thì dễ phải không? Cái vui thứ 2 là những người không phải là bạn đồng họctâm không có sân, cũng không có ngại với họ nữa. Vui đó dễ hay khó. Người đó không phải là bạn đồng học tức người không phải cùng một tư gống mình, cùng một tâm trọng tu hành giống mình. baay giừo họ ngược ngạo với mình, mình sống chung với họ, mình không giận, cũng không có chướng ngại gì hết. Vui đó dễ hay khó? Cái đó ráng tập vui đó. Vui đó mới là vui tiến bộ dữ à! Kế đó vui đem bảo bọc cho những người ác tri thức nữa. Thiện tri thức mình bảo bọc phải rồi, bổn phận phải không? Aïc tri thức mình cũng bảo hộ họ nữa. Như vậy cái vui đó dễ hay khó? Người mình biết là ác tri thức đó, mình làm sao? Mình ghét. Tìm cách này cách nọ cách kia, mình tống họ đi phải không? Họ đi được là vui. Bây giờ họ ở mình mình phải vui với họ đó dễ hay khó. Như vậy mà vui được đó mới thật là học hạnh của Bồ tát. Các khó làm của người tu theo hạnh Bồ tát là ở chỗ đó. Những cái thông thường, hợp đạo, hợp lý mình vui thì phải. Cái không hợp đạo lý mà mình cũng vẫn vui với họ. Điều đó hết sức là khó. 

Như vậy hai phần ở đây thấy rõ. Phần thứ nhất là gần những bạn đồng học, đó là người thuận chiều. Phần thứ 2 là những người không đồng học mà mình cũng không giận, không ngại, đó là cái nghịch chiều. Rồi tới cái sau là đối với thiện tri thức thì mình gần gũi. Thân cận, gần gũi đó thuận chiều. Ác tri thức mà mình vẫn bảo hộ họ, đó là nghịch chiều. Như vậy hai chiều thuận và nghịch mình vẫn xử sự đều tốt hết. Đó mới là tâm của Bồ Tát

Vui tâm hỷ thanh tịnh. Vui tu vô lượng đạo pháp (hay là đạo phẩm). Ấy là pháp vui của những vị Bồ Tát

Như vậy các pháp vui của Bồ Tát, ở đây quí vị thấy mình dễ được cái pháp vui đó không? Nghĩa là vui tâm tùy hỷ được thanh tịnh. Vui tu hết vô lượng đạo pháp. Cái đó tương đối cũng dễ. Còn mấy cái trên thật là khó. Nhưng muốn được nguồn vui đó mình phải ráng hằng ngày, hằng tháng, hằng năm huân tập những tính tốt. Những tính tốt: Nhẫn nhục, nhu hòa để tránh những điều trái mà mình không bị chướng. 

Khi ấy Ba Tuần mới bảo những Thiên nữ rằng: 

( Tôi muốn cùng các vị trở về Thiên cung

Các vị Thiên nữ mới nói: 

( Đã đem chúng tôi cho ông Cư sĩ này rồi, có pháp vui, chúng tôi rất là vui. Không có trở lại vui cái vui ngũ dục nữa. 

Mới giảng sơ mấy bà đã được vui rồi, phải không? Còn quý vị nghe có vui chưa? Như vậy thì thua, thua mấy bà Thiên nữ ở trên kia. Cho nên phải biết, cái pháp Bồ Tát nó khó nhưng người có tâm dễ nhận dễ hiểu đó là cũng có chủng tử tốt rồi. Nhiều khi chúng ta cứ môt bề nói họ là ma thì cho họ là đủ thứ xấu hết. Nhưng biết đâu ma phát tâm cũng tốt vậy. còn nhiều khi mình tu mình tốt. Cũng có khi mình cũng có phát tâm xấu vậy, phải không? Cho nên đừng lầm cho ma 1 bề xấu hết. Có khi nó cũng tốt. 

Ma vương liền nói với cư sĩ

( Ông có thể xã những người nữ này (Bây giờ ông mới lấy đạo lý nói đây). Tất cả những cái gì mình có mà đem thí cho người, ấy mới gọi là Bồ Tát

Nếu ông tu Bồ Tát hạnh thì tất cả cái gì mình có nên thí cho người mới gọi là Bồ Tát. Bây giờ thôi thí hết mấy người nữ này trả về cho tôi, Ngài mới là Bồ Tát hạnh chớ. 

Ông Duy Ma Cật liền bảo: 

( Tôi đã xả rồi. Ông hãy đem những người đó đi, khiến cho tất cả chúng sanh được cái pháp nguyên đầy đủ. 

Tôi xả, muốn nguyện cho tất cả chúng sanh đều được pháp nguyện đầy đủ. 

Khi ấy những vị Thiên nữ hỏi ông Duy Ma Cật rằng: 

( Chúng tôi làm sao mà ở trong cung ma được? 

Ông Duy Ma Cật mới nói: 

( Vì phát Bồ Đề tâm rồi. Mà pháp Bồ Đề tâm thì ra khỏi cung ma chớ ở cung ma sao được. Này các chị, có pháp môn tên là Vô Tận Đăng. Các chị phải học Vô Tận Đăng đó. Thí như có ngọn đèn sáng, rồi mồi trăm ngàn ngọn đèn, những chỗ tối đều sáng. Sáng trọn không cùng tận. Như thế các chị phàm một vị Bồ Tát đã mở được đạo (tức là đã khai mở con đường đạo) thì trăm ngàn chúng sanh khiến đều được phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đối với đạo kia ý cũng không có diệt hết. Tùy chỗ nói pháp mà tự tăng trưởng lợi ích tất cả pháp lành, ấy gọi là Vô Tận Đăng

Bây giờ ông mới giảng pháp Vô Tận Đăng cho mấy vị ma nữ này biết. Tuy rằng ở trên cung ma nhưng một người đã sáng, thì giống như một ngọn đèn đã thắp sáng thì có trăm ngàn ngọn đèn khác đem tới mồi đều sáng, phải không? Một ngọn đèn sáng, thì trăm ngàn ngọn đèn khác mồi cũng được sáng. Mà trăm ngàn ngọn đèn mồi đều sáng, thì còn chỗ nào tối không? Tất cả chỗ tối đều sáng hết. Như vậy gọi đó là Vô Tận Đăng. Bây giờ quí vị đã phát tâm Bồ Đề rồi thì lên cung ma hướng dẫn người ta. Khai đạo tức là hướng dẫn người ta cho được trăm ngàn chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ đề nữa. 

Như vậy đối với đạo ý của những người đó nó không có diệt hết. Tùy chỗ nói pháp làm cho tăng trưởng những điều lành. Đó gọi là Vô Tận Đăng

Các chị tuy ở trong cung ma, do pháp Vô Tận Đăng này khiến cho vô số Thiên tử, Thiên nữ phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác để mà đền ơn Phật, cũng là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh vậy. 

Như vậy ở ngay trong cung ma mà đem pháp Phật này để giáo hóa cho người ta đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vậy là đền ơn Phật, là làm lợi ích cho chúng sanh. Đó vẫn là tốt, vẫn làm đạo được. 

Khi ấy Thiên nữ đầu lễ dưới chân ông Duy Ma Cật rồi đi theo ma trở về cung, bổng nhiên chẳng hiện. 

Bạch Thế Tôn! Ông Duy Ma Cậtthần lực trí tuệ biện tài tự tại như thế cho nên con không kham đến thăm bệnh ông. 

Như vậy đoạn này có ý nghĩa thế nào? Bởi vì lâu nay chúng taquan niệm kêu bằng hơi chấp cứng, chấp chặt, cái gì là ma là cía đó đáng ghét, đáng sợ, phải không? Có ai không sợ ma không? Bởi vì ma là cái gì đáng ghét, cái gì đáng sợ. Tưởng chừng ma không bao giờ phát tâm Bồ đề được. Tưởng không bao giờ ma chịu tu phải không? Mình luôn luôn nói phá sự tu. Phá tu thì làm gì ma tu được. Nhưng ở đây cái hình ảnh ma phát tâm Bồ đề để cho chúng ta thấy rằng, ma là ngầm nói lên những người xấu, người ác. Những kẻ xấu, ác, chúng ta cứ quan niệm người nào xấu, người nào ác là người đó không thể tu. Nhưng đó là tại mình chưa có phương tiện phải không? Bởi mình chưa đủ phương tiên. Cũng như ở đây Ngài Kỳ Thế cũng là Bồ tát nhưng nó nói gạt Ngài, Ngài cũng bị gạt tỉnh bơ, phải không? 

Còn ông Duy Ma Cật cũng là hạnh Bồ tát nhưng thấy nó liền biết. biết liền ngay trong khi nói tới, nó phá, nó làm nhiễu loạn Bồ tát. Ngược lại Ngài Duy Ma Cật giáo hóatrở thành phát tâm Bồ đề. Như vậy ma thật xấu hay là không xấu. Sở dĩ ma 1 bề nhiễu loạn chúng ta là tại sao? Tại vì chúng ta không có cái phương tiện phải không? Không có đủ sức thần thông phương tiện để chuyển hóa nó, cho nên nó phá chúng ta. Ngược lại chúng ta có đủ phương tiện thì chúng ta chuyển nó được. 

Như vậy qua câu chuyện này chúng ta lại càng thấy rõ hơn những người chung quanh mình. có nhiều người cho là xấu, là ác, không thể xài được. Cái đó lỗi tại họ mà cũng lỗi tại ai nữa? Tại sao mình lỗi? Tại mình chưa đủ trí tuệ, tài năng để chuyển họ. Chớ nếu ai đủ trí tuệ, tài năng thì cũng chuyển họ được. Như vậy họ là bẩm sinh không tốt rồi chúng ta chũng thiếu tài ba nữa, phải không? Như vậy họ 1 phần lỗi, mình cũng 1 phần lỗi, chứ đừng đổ trút cho họ hết. Cái thứ này xài không được. Không phải vậy. cũng có cái lỗi là mình không nổi hay là mình không đủ khả năng để chuyển hóa họ. 

Như vậy quý vị thấy 2 vị Bồ tát, ông Bồ tát xuất gia, ông Bồ tát cư sĩ, phải không? Mà ông Bồ tát xuất gia bị nó gạt. Ông Bồ tát cư sĩ lại giáo hóa được nó. Như vậy đâu phải là 1 bề ma chỉ có hại người thôi. Ma nếu khéo chuyển thì nó cũng phát Bồ đề tâm được vậy. Cho nên dù cho kẻ trộm, kẻ cướp, những kẻ xấu xa, nếu chúng ta có đủ phương tiện, có đủ đức độ, cũng có thể cảm hóa nó được, chứ không phải là kẻ thường thôi. Còn cảm hóa không được là chứng tỏ ta chưa đủ tài năng đức độ. Chứ không phải một bề trút tội trên đầu họ hết, mà mình cũng có một phần trách nhiệm trong đó. Hiểu như vậy, thấy như vậy mình mới là người sáng suốt, là người thực công bình. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32611)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6439)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11096)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30233)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30315)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7886)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12039)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11497)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12591)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34461)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9724)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52120)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10629)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10390)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10595)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21647)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9521)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12534)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12653)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16119)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16397)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16407)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11963)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14230)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16129)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16108)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12619)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11952)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15551)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11408)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12517)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14866)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11880)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14386)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20544)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13113)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20567)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14234)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20155)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17470)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13859)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11909)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant