Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Chủ Đề Sống Chết

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 4224)
04. Chủ Đề Sống Chết

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC NGƯỜI CƯ SĨ
Pháp sư Thông Kham
Mahà Medhivongse
Nhà xuất bản Tôn Giáo 2000

Chủ đề SỐNG CHẾT

-oOo-

HỎI: Thưa ông, người đời ai ai cũng không tránh khỏi phải chết một lần, mặc dù biết vậy nhưng ai ai cũng tham sống sợ chết. Vaäy đối với Phật giáo, chết có đáng sợ không?

ĐÁP: Đức Thế Tôn dạy "Sự chết không đáng sợ", cái đáng sợ hơn hết là cái Sinh.

 

HỎI: Sao có chuyện lạ vậy?

ĐÁP: Có gì lạ đâu. Ý nghĩa Phật dạy: Con người vì còn sinh mới có chết. Nếu không sinh thì đâu có cheát. Vậy cái chết có gì đáng sợ, nên sợ sự sinh mới phải hơn. Đức Thế Tôn có dạy trên đời này có năm điều mà chúng sinh không ai tránh khỏi, trong đó có một điều là Chết. Vậy thì cũng nên nghĩ, quán tưởng thường xuyên để tâm ta được thuần thục và không còn sợ cái chết nữa.

Năm Pháp hằng quán tưởng ấy là:

1/- Cái già sẽ đến với ta tự nhiên, không thể nào ta tránh khỏi.
2/- Cái bệnh sẽ đến với ta tự nhiên, không thể nào ta tránh khỏi.
3/- Cái chết sẽ đến với ta tự nhiên, không thể nào ta tránh khỏi.
4/- Sự chia lìa nhân vật thương yêu quí mến sẽ đến với ta tự nhiên, không thể nào ta tránh khỏi.
5/- Nghiệp của ta đã tạo sẽ đến với ta tự nhiên, không thể nào ta tránh khỏi.

Không nên dể duôi mà không nghĩ đến 5 Pháp này.

 

HỎI: Theo ông, thì ta sợ cái chết là sợ sai lầm, sợ cái không đáng sợ. Nhưng tôi thiết nghĩ, phần đoâng người đời nhận định rằng: Chết là mất hết những gì mà mình đã có, kể cả xác thân này. Còn cái Sinh là sự được, trước hết là được Thân này, vì vậy người đời sợ mất chớ không sợ được. Bằng cớ là trong gia đình nào sinh con thì ăn mừng vui vẻ. Trái lại gia đình nào có người chết thì khóc lóc tiếc thương và rất buồn rầu.

Thưa ông không hiểu Phật giáo do nơi lý do gì lại dạy: Người không nên sợ chết. Và không sợ chết như thế có ích lợi gì?

ĐÁP: Cái lý như đã nói ở đoạn trên: khi con người đã sinh ra rồi thì thế nào cũng phải chết. Dầu có sợ cũng không khỏi, vì vậy không cần sợ làm gì chuyện không đáng sợ. Còn sự ích lợi là: người không sợ chết là người không dể duôi, vì biết chắc rằng: mình phải chết nên cố gắng hành theo chính pháp, để khỏi phải tái sinh nữa. Người chỉ biết sợ chết, sợ không đươïc thọ hưởng ngũ trần lâu dài, nên không nghĩ tới sự hành đạo cho mau giải thoát, càng già càng miệt mài theo ngũ trần, người như thế gọi là người kém trí tuệ nếu không nói là si mê, hay cũng có thể gọi là dể duôi. Nguyên nhân sợ chết là vì quá thương yêu thân này, khi sắp lâm chung nhìn lại đời mình không làm được việc lành để hưởng về ngày vị lai. Sợ sẽ không được có một cái thân này ngày vị lai và càng sợ hơn nữa là thấy mất hết những vật mà chính mình thương yêu quí mến. Sở dĩ người còn sợ chết là vì chưa nhận thức được rõ rệt theo lời Phật dạy.

 

HỎI: Kết luận Đức Thế Tôn dạy người không nên sợ chết đừng dể duôi ham mê theo tài sắc lợi danh.

Đáp: Đúng vậy, Khi Đức Thế Tôn sắp nhập diệt, Ngài ngự nơi rừng cây Salà có lời di ngôn cuối cùng rằng "Àmant ayami bhikkhave vaya dhamma-sankhara sampadetha", nghĩa là: Này các thầy Tỳ Khưu, Như Lai xin nhắc nhở các thầy: Pháp hành là những gì cấu tạo ra Thân này đều phải tiêu diệt là lẽ cố nhiên. Các thầy không nên say mê (trong các pháp hành) mà dể duôi.

 

HỎI: Thưa ông, theo tôi nghĩ sự dể duôi chẳng có liên quan gì đến sự sợ chết. Hay ta có thể nói trái ngược hẳn là không sợ chết con người mới dể duôi, không làm lành. Phải chăng vì không sợ chết, con người mới dám làm ác?

ĐÁP: Không phải vậy đâu. Chỉ quên trong khoảnh khắc đó thôi.

 

HỎI: Họ quên gì thưa ông?

ĐÁP: Họ quên sự chết. Thường thường người đời không sợ gì hơn là sợ chết. Sở dĩ họ làm ác là vì bị phiền não làm cho tâm họ thiếu sáng suốt đó thôi. Chạy theo dục vọng mà họ lầm tưởng là hạnh phúc. Nhưng khi đã làm ác xong nhớ lại caùi chết thì tuổi đã về chiều, cái chết đã gần bên rồi, càng lo thì càng ăn năn càng sợ chết. Nhưng khi đã biết thì muộn lắm rồi.

Đây tôi xin đem lại một ví dụ để ông nhận thức.

Có một ông tiều phu đang đốn củi trong rừng, ngày nọ ông bị một con voi rượt, ông ráng heát sức trốn, nhưng con voi vẫn theo kề bên. Tới một cội cây to, ông ta thấy có một rễ cây từ trên thòng xuống, hy vọng thoát khỏi voi dữ, nên liền níu lấy rễ ấy leo lên. Khi leo cao đã mệt ông ngó lên thì thấy có một tổ ong mật đầy tràn và nhểu xuống ngay miệng ông ta. Há miệng ra uống mật thật là không còn thú vị nào bằng. Nhưng cùng lúc ấy ông ta thấy có hai con chuột, một con đen một con trắng đang gậm rễ cây ông đeo. Nhưng ông vẫn ung dung há miệng hứng mật.

Ông quên mất rằng: Voi sắp đến gần, mà nguy hiểm nhất là chuột gặm rễ cây càng lúc càng mòn đi rất nhiều, nếu không chết vì voi thì cuõng chết vì chuột cạp đứt rễ cây té xuống mà chết.

Voi ấy ví như Tử thần đang đuổi sát bên ta; rừng đó là Tam giới; ông Tiều phu ấy chính là ta. Sợi dây ấy ví như tuổi thọ của chúng ta. Hai con chuột, con chuột trắng là ban ngày, còn con chuột đen là ban đêm. Ngày và đêm càng qua đi thì tuổi thọ của ta càng giảm thiểu. Tuổi thọ càng hao mòn thì chúng ta càng gần kề bên cái chết, cũng như hai con chuột càng gặm thì cái rễ cây kia càng bị đứt lần đi. Mật ong ấy chính là miếng mồi ngon làm cho chúng ta quên mất sự tu hành giải thoát. Những miếng mồi ấy là Tài, Sắc, Lợi, Danh. Vì ham mê theo mồi ấy mà quên tử thaàn đến kề bên.

Nơi đây tôi muốn nói: Những người không sợ chết ấy không phải không sợ, nhưng họ chỉ quên vì họ còn lo miệt mài theo mùi phú quí bả lợi danh nên không nhớ đó thôi, nếu nói họ không sợ là chưa đúng.

Người đời dù sinh sống bằng nghề nào, ở nơi nào, sang trọng hay nghèo khó, vua chúa hay dân chúng cuõng không ai chạy khỏi cái chết. Nhưng người quên chếtnhớ chết có khác nhau. Vì người nào nhớ đến cái chết người ấy không sợ chết, bởi người ấy đã chuẩn bị đầy đủ mọi phương tiện để đối phó với tử thần. Còn người quên cái chết vì lý do ham mê theo ngũ trần không hề chuẩn bị để đối phó, khi tử thần đến thì lấy làm kinh sợ, vì nhìn lại trong tay không có món chi để chống lại tử thần.

 

HỎI: Thưa ông, ông vừa nói người nhớ đến cái chết thì không sợ chết. Vì người ấy đã chuẩn bị đầy đủ những gì cần để chống lại Tử thần. Xin ông cho biết người phải chuẩn bị những món gì để chống tử thần?

ĐÁP: Khí cụ mà người cần phải chuẩn bị đối với Tử thần có rất nhiều, nhưng tóm lại có 3 điều là Bố thí, Trì giớiTham thiền về chỉ quán. Sau dùng Minh sát tuệ để diệt tận phiền não. Phàm khi người biết rằng mình có đủ khả năng để làm việc gì thì không biết lo sợ khi đối mặt với việc ấy. Cũng như người thấy mình có đủ khả năng chống Tử thần thì không hề sợ Tử thần.

 

HỎI: thưa ông, người ta có đầy đủ khả năng thì không sợ, còn như chúng ta là người chưa có đủ khả năng chạy trốn Tử thần thì làm sao không sợ hãi Tử thần?

ĐÁP: không cần phải có đầy đủ khả năng, hiện giờ chúng ta đã có Bố thí, Trì giới niệm tưởng coâng đức của Đức Thế Tôn hằng ngày không dể duôi.

Khi không dể duôi lúc lâm chung chính mình kiểm soát thấy mình không làm gì nên tội và phước thiện đã đào tạo xong rồi. Phạm hạnh là nơi nương nhờ mình cũng đã có rồi tự nhiên không còn kinh sợ tử thần. Phạm hạnh là khí cụ có đủ khả năng chống với Tử thần rất hữu hiệu. Nếu ông ráng tu hành thì ông sẽ nhận thấy sự can đảm của lòng mình.

Khi mình nhận thấy đủ can đảm chống với Tử thần thì sau khi quá vãng chắc chắn được sinh về cõi yên vui thơ thới. Ông sẽ nhận thấy chết chẳng qua là đổi cái nhà cũ ra cái nhà mới và tốt đẹp hơn, còn người không lo trau dồi đức hạnh khi chết thấy mất cả mọi vật mà mình đã có.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2267)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33266)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6587)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6552)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3883)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5134)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11294)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30410)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7990)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12208)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3290)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34796)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52276)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13094)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21856)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9630)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3110)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10403)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12773)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12802)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16240)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13835)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14336)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9220)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11765)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11286)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11522)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12638)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20719)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17669)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31864)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12024)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11825)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4340)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12758)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10341)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16427)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11785)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14798)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12030)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16852)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12735)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52117)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12653)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9931)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14497)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20140)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13780)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15399)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17492)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16803)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13487)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12488)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12062)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13289)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12540)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25598)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14559)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28335)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10301)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant