Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 20: Quán Về Nhân Quả

02 Tháng Tám 201000:00(Xem: 7304)
Phẩm 20: Quán Về Nhân Quả

TRUNG LUẬN 
(MADHYAMAKA SASTRA)
Tác giả: Nagaruna
Dịch và chú giải: HT Thích Thiện Siêu
Nhà xuất bản: TP. Hồ Chí Minh 2001

PHẨM XX: QUÁN VỀ NHÂN QUẢ.

(Gồm 24 bài kệ)


Hỏi: Các nhân duyên hòa hiệp hiện có quả sinh ra, nên biết quả ấy từ các duyên hòa hiệp mà có ?

Đáp:

1. Nếu các duyên hòa hiệp mà có quả sinh ra, quả ấy sẵn có trong hòa hiệp rồi, cần gì phải hòa hiệp mới sinh.

Nếu cho rằng các nhân duyên hòa hiệp mà có quả sinh. Vậy thời quả ấy trong hòa hiệp đã có sẵn mà lại từ hòa hiệp sinh, là không đúng, vì sao ? Vì quả trước đã có định thể, thời không thể từ hòa hiệp sinh.

Hỏi: Trong các duyên hòa hiệp tuy không có sẵn quả, nhưng quả từ các duyên sinh, có lỗi gì ?

Đáp:

2. Nếu trong các duyên hòa hiệp không sẵn có quả, thời làm sao từ các duyên hòa hiệp mà có quả sinh.

Nếu nói “trong các duyên hòa hiệp không có quả, mà từ hòa hiệp có quả sinh”, là không đúng, vì sao ? Vì nếu vật gì không có tự tính, thời vật ấy không bao giờ sinh được.

Lại nữa,

3. Nếu trong các duyên hòa hiệp đã sẵn có quả, vậy trong các hòa hiệp đều phải có quả, song thật sự không thể có được.

Nếu từ trong các duyên hòa hiệp đã sẵn có quả, vậy nếu quả ấy là sắc thời mắt có thể thấy, nếu quả ấy là phi sắc thời ý có thể biết, nhưng kỳ thật trong hòa hiệp không thể có quả, nên mắt và ý không thể thấy biết. Thế nên nói trong các duyên hòa hiệp có quả, là không đúng.

Lại nữa.

4. Nếu trong các duyên hòa hiệp không sẵn có quả, thế thời trong các duyên với trong các phi duyên giống nhau.

Nếu nói trong các nhân duyên không có quả. Như vậy nhân duyên đồng với phi nhân duyên, (trong phi nhân duyên cũng không có quả) như sữa làm nhân duyên cho phô-ma, nếu trong sữa không có phô-ma, thì trong nước (là phi nhân duyên của phô-ma) cũng không có phô-ma, như vậy sữa và nước đồng nhau, không nên nói phô-ma từ sữa mà ra. Thế nên nói trong các duyên hòa hiệp trước không sẵn có quả, là không đúng.

Hỏi: Nhân làm nhân cho quả xong thì diệt, nhưng mà có nhân, thì quả mới sinh. Nên không mắc cái lỗi như vậy ?

Đáp:

5. Nếu nhân làm nhân cho quả, làm nhân xong thì diệt. Vậy nhân ấy có hai thể, một là làm nhân cho quả, hai là làm nhân xong thì diệt.

Nếu nói nhân làm nhân cho quả xong thời diệt. Thời cái nhân ấy có hai cá thể: 1. Là làm nhân cho quả. 2. Là làm nhân xong thì diệt, việc ấy không đúng. Vì một pháp mà có hai cá thể, nên nói nhân làm nhân cho quả mà diệt, là không đúng.

Hỏi: Nếu cho rằng nhân không làm nhân cho quả xong mà diệt, nhưng cũng có quả sinh, thời có lỗi gì ?

Đáp:

6. Nếu nhân không làm nhân cho quả xong thì diệt, nhân diệt mà quả sinh, thời quả ấy không có nhân.

Nếu nhân không làm nhân cho quả xong thì diệt, thời là nhân diệt rồi mà có quả sinh, thời quả ấy là quả không có nhân. Việc ấy không đúng, vì sao ? Vì hiện thấy hết thảy quả, không có quả nào là quả không có nhân. Thế nên ông nói nhân không làm nhân cho quả xong mà diệt, rồi sinh, cũng có quả sinh. Là không đúng.

Hỏi: Ngay khi các duyên hòa hiệp mà có quả sinh, có lỗi gì ?

Đáp:

7. Nếu ngay khi các duyên hòa hiệp mà có quả sinh, vậy thời sinh và cái được sinh, cùng có trong một lúc.

Nếu ngay khi các duyên hiệp có quả sinh, thời cái chủ thể sinh (các duyên hòa hiệp) và cái được sinh (quả) cùng có trong một lúc, việc ấy không đúng, vì sao ? Vì như cha con không được sinh trong một lúc. Thế nên nói ngay khi các duyên hòa hiệp có quả sinh, việc ấy không đúng.

Hỏi: Nếu trước đã có quả sinh rồi sau các duyên hòa hiệp có lỗi gì ?

Đáp:

8. Nếu trước đã có quả sinh, sau các duyên hòa hiệp, thế tức là tách lìa nhân duyên, quả ấy gọi là quả không có nhân.

Nếu khi các duyên chưa hiệp mà đã có quả sinh, là không đúng. Vì quả ấy tách lìa nhân duyên, quả ấy là quả không có nhân.

Hỏi: Nhân diệt biến làm quả, có lỗi gì ?

Đáp:

9. Nếu nhân biến làm quả, tức là nhân đi đến quả, ấy là tiền sinh nhân, đã sinh rồi lại sinh.

Nhân có hai thứ: 1. Là tiền sinh nhân, cái nhân sinh ra trước, 2. Là cọng sinh nhân, là nhân và quả cũng sinh một lần (tiền sinh nhân là tướng sinh nhân quả, nhân có trước sinh ra quả sau. Cọng sinh nhân là tương duyên nhân quả, cùng có một lúc, làm nhân làm quả cho nhau, như kèo cột và nhà cùng làm nhân quả cho nhau). Nếu nhân diệt biến làm quả, thế là tiền sinh nhân, có thể trở lại sinh nữa. Nên việc ấy không đúng, vì sao? Vì vật đã sinh không thể lại sinh nữa. Nếu cho rằng chính nhân biến làm quả, cũng không đúng, vì sao ? Vì nếu nhân chính là quả rồi, thời không gọi là biến, nếu biến thời không gọi chính là:

Hỏi: Nhân không diệt hết, chỉ diệt trên danh tự, nên tự thể của nhân biến làm quả, như nắm đất biến làm bình, chỉ mất cái tên nắm đất, mà lại sinh cái tên bình ?

Đáp: Nắm đất diệt trước rồi mà có bình sinh ra, thời không gọi là biến. Lại tự thể nắm đất không chỉ sinh ra bình, mà bồn, chậu v.v… cũng đều từ nắm đất sinh ra. Nếu nắm đất chỉ có cái tên thời không thể biến làm bình, biến là như sữa biến làm phô-ma. Thế nên ông nói cái tên của nhân tuy diệt, mà lại biến làm quả. Việc ấy không đúng.

Hỏi: Nhân tuy diệt mất, mà có thể sinh quả, thế nên có quả; không có lỗi như vậy ?

Đáp:

10. Làm sao nhân diệt mất, mà có thể sinh quả. Lại nếu nhân ở nơi quả, thời làm sao nhân sinh quả.

Nếu nhân diệt rồi thời làm sao sinh quả; nếu nhân không diệt mà vẫn hiệp với quả, thời làm sao có thể lại sinh quả nữa.

Hỏi: Biến khắp trong nhân có quả nên quả sinh ?

Đáp:

11. Nếu nhân biến khắp quả, thời còn sinh ra quả gì. Trong nhân thấy có quả hay không thấy có quả, đều không sinh quả.

Nếu trong nhân không thấy có quả, còn không thể sinh quả, huống gì trong nhân thấy có quả. Nếu trong nhân tự không thấy có quả, thời không thể sinh quả, vì sao? Vì nếu trong nhân không thấy có quả, thời quả không tùy theo nhân. Lại trong nhân trước chưa có quả thời làm sao sinh quả; nếu trong nhân trước thấy có quả, thời không thể lại sinh quả nữa, vì đã có rồi.

Lại nữa,

12. Nếu nói nhân ở quá khứ, thì nhân ấy hoàn toàn không hòa hiệp với quả quá khứ, quả vị lai, hiện tại.

13. Nếu nói nhân ở vị lai, thì nhân ấy hoàn toàn không hòa hiệp với quả vị lai, quả hiện tại, quá khứ.

14. Nếu nói nhân ở hiện tại, thì nhân ấy hoàn toàn không hòa hiệp với quả hiện tại, quả vị lai, quá khứ.

Quả quá khứ không hiệp với nhân quá khứ vị lai hiện tại; quả vị lai không hiệp với nhân vị lai hiện tại quá khứ; quả hiện tại không hiệp với nhân hiện tại vị lai quá khứ. Như vậy ba thứ quả không bao giờ hiệp với nhân quá khứ vị lai hiện tại.

Lại nữa,

15. Nếu nhân và quả không hòa hiệp, thời nhân làm sao có thể sinh quả, nếu có hiệp, thời nhân làm sao có thể sinh quả.

Nếu nhân và quả không hòa hiệp thời không có quả, nếu không có quả thời làm sao nhân có thể sinh quả. Nếu cho rằng nhân và quả hòa hiệp, thời nhân có thể sinh quả, cũng không đúng, vì sao ? Vì nếu quả ở trong nhân, thời trong nhân đã có quả, làm sao lại sinh quả.

Lại nữa,

16. Nếu trong nhân mà trống không quả, thời nhân làm sao có thể sinh ra quả ; nếu trong nhân mà chẳng trống không quả, thời nhân làm sao có thể sinh quả.

Nếu trong nhân không có quả. Vì không có quả nên nhân ấy trống không, làm sao nhân ấy sinh ra quả. Như người không mang thai làm sao có thể sinh con. Nếu trong nhân trước đã có quả, quả đã có rồi nên không thể lại sinh quả.

Lại nữa nay sẽ nói quả:

17. Quả nếu chẳng trống không, thì không sinh; quả nếu chẳng trống không, thì không diệt, vì quả đã có sẵn chẳng trống không, nên chẳng sinh chẳng diệt.

18. Vì quả trống không nên chẳng sinh, vì quả trống không nên chẳng diệt, vì quả là trống không, nên chẳng sinh chẳng diệt.

Nếu quả chẳng trống không thời không thể sinh không thể diệt, vì sao? Vì nếu quả đã quyết định có ở trong nhân rồi thời không cần phải sinh nữa. Vì sinh không có, nên diệt cũng không có. Như thế vì quả chẳng trống không nên không sinh không diệt. Nếu cho rằng vì quả trống không nên có sinh có diệt, cũng không đúng, vì sao ? Vì nếu quả trống không tức là không có, thời làm sao có sinh diệt. Thế nên nói vì quả trống không nên không sinh không diệt.

Lại nữa, giờ đây lấy một và khác để phá nhân quả.

19. Nhân quả là một, việc ấy không đúng, nhân quả khác nhau, việc ấy cũng không đúng.

20. Nếu nhân quả là một, thời sinh và cái được sinh là một, nếu nhân quả khác nhau, thời nhân đồng như phi nhân.

21. Nếu quả nhất địnhthể tính, thời nhân làm sao sinh được; nếu quả nhất định không có thể tính, thời nhân làm sao sinh được.

22. Nhân không sinh quả, thời không có tướng nhân, nếu không có tướng nhân, thời cái gì có thể sinh ra quả ấy.

23. Nếu từ các nhân duyên mà có pháp hòa hiệp, nhưng tính hòa hiệp tự nó không sinh, thời làm sao có thể sinh ra quả.

24. Thế nên quả không từ các duyên hòa hiệp hay không hòa hiệp sinh. Nếu không có quả, thời ở chỗ nào có pháp hòa hiệp.

Pháp hòa hiệp từ các duyên sinh, chứ không thể sinh ra từ tự thể nó. Như vậy tự thể pháp hòa hiệp không có nên làm sao có thể sinh quả. Thế nên quả không từ các duyên hòa hiệp sinh, cũng không từ không hòa hiệp sinh. Nếu không có quả, thời chỗ nào có pháp hòa hiệp.

*

Tóm tắt phẩm XX: Quán về nhân quả.

Nhân quả là một quy luật của tất cả sự vật, Phật giáo triệt để ứng dụng luật nhân quả để cắt nghĩa mọi hiện tượng sinh thành hoại diệt, tốt xấu. Nhưng nhân quả là do nhân duyên hòa hiệp mà sinh ra quả, nếu khôngnhân duyên hòa hiệp thời không sinh ra quả. Nếu chấp nhân thật là nhân, quả thật là quả mỗi mỗi đều thật có, thời sẽ đưa đến các kiến chấp sai lầm khác, như chấp trong nhân trước đã có quả và không có quả, nhân có cho quả hay không cho quả, nhân quả đồng thời hay không đồng thời, nhân biến thành quả hay không biến thành quả v.v… tất cả đều là hý luận, không đúng với thật nghĩa nhân quả duyên sinh. Cho nên có phẩm Quán nhân quả để chỉ rõ nhân quả duyên sinh.

Phẩm này: 1. Phá chấp trong nhân đã có quả hay không có quả (kệ 1 đến kệ 4). 2. Phá chấp nhân có cho quả hay không cho quả (kệ 5 đến kệ 8). 3. Phá chấp nhân biến thành quả hay không biến thành quả (kệ 9,10). 4. Phá chấp nhân biến khắp ở quả (kệ 11). 5. Phá chấp nhân quả hiệp nhau (kệ 12 đến kệ 14). 6. Phá chấp nhân quả hiệp và không hiệp (kệ 15). 7. Phá chấp quả có thật thể hay không có thật thể ở trong nhân (kệ 16 đến kệ 18). 8. Phá nhân quả là một hay là khác (kệ 19,20). 9. Phá quả thể (kệ 21,22). 10. Phá nhân quả hòa hiệp (kệ 23,24).

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33259)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6551)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11293)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30408)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30439)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7989)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12204)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12266)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11610)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12838)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34795)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9850)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52276)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10756)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10534)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10720)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10476)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13092)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16295)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21855)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9628)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7130)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10402)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12769)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12802)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16240)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16540)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13873)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16600)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12136)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13830)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14336)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9220)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11765)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11285)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16334)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14348)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16196)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12701)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12085)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11802)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15672)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11521)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14024)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12020)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12638)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15002)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11966)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13137)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14564)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20730)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13241)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10970)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20717)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14371)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20401)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17669)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14026)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31864)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12023)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant