Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Mục Tiêu Của Đời Sống

07 Tháng Mười 201300:00(Xem: 5645)
1. Mục Tiêu Của Đời Sống

BẢN CHẤT CỦA HẠNH PHÚC
Cẩm Nang Cho Đời Sống
Nguyên tác:  The Essence Of Happiness – A Guidebook for living
Tác giả: His Holiness The Dalai Lama và Howard C. Cutter, M.D.
Chuyển ngữTuệ Uyển Tỳ kheo Thích Từ-Đức / 20 – 11 – 2010

I- MỤC TIÊU CỦA ĐỜI SỐNG
 

Tôi tin rằng mục tiêu chính của đời sống chúng ta để mưu cầu hạnh phúc. Điều ấy là rõ ràng. Cho dù người ta tin tưởng tôn giáo hay không, cho dù người ta tin tưởng tôn giáo này hay tôn giáo kia, tất cả chúng ta đang tìm cầu điều gì đấy tốt đẹp hơn trong đời sống. Do thế, tôi nghĩ, động cơ chính của đời sống chúng ta là hướng đến hạnh phúc.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Những ngày của chúng ta được đánh số. Ngay lúc này, hàng nghìn người được sinh ra trên thế giới – do nghiệp duyên một số chỉ sống trong một vài ngày hay ít tuần, những người khác vận số kết thúc đánh dấu cả thế kỷ, thậm chí có thể vượt hơn một chút, thưởng thức tất cả những hương vị mà đời sống đã cung hiến: chiến thắng, thất vọng, vui sướng, hận thùyêu thươngChúng ta chẳng bao giờ biết. Nhưng cho dù chúng ta sống một ngày hay một thế kỷ, câu hỏi trung tâm luôn luôn hiện hữuMục tiêu đời sống của chúng ta là gì? Điều gì làm cho cuộc sống của chúng ta đầy đủ ý nghĩa? 

--- HOWARD CUTLER

Mục tiêu đời sống của chúng ta cần phảitích cựcChúng ta không phải được sinh ra với mục đích tạo nên những rắc rối, làm tổn hại người khác. Để đời sống chúng ta thật giá trị, tôi nghĩ chúng ta phải phát triển những phẩm chất lương thiện căn bản của con người – lòng nồng ấm, tính tử tế, bản chất từ bi. Rồi thì đời sống chúng ta sẽ trở nên đầy đủ ý nghĩa và hòa bình hơn – hạnh phúc hơn. Trong Đạo Phật, nguyên lý nhân quả được thừa nhận như một định luật tự nhiên – nếu quý vị muốn một sự kiện hay kinh nghiệm đặc biệt xãy ra, thế thì điều hợp lý để làm là tìm kiếm những nguyên nhânđiều kiện phát sinh ra hoàn cảnh như thế … Do vậy, nếu quý vị khao khát hạnh phúc, quý vị phải tìm kiếm những nguyên nhân có thể sản sinh hạnh phúc, và nếu quý vị không mong ước khổ đau, thể thì những gì quý vị nên làm là bảo đảm rằng những nguyên nhânđiều kiện có thể phát khởi đau khổ không còn sinh khởi nữa.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Mục tiêu đời sống chúng tahạnh phúc. Lời tuyên bố đơn giản ấy có thể được sử dụng như một khí cụ năng động trong việc hổ trợ chúng ta vượt qua những vấn nạn trong đời sống hằng ngày. Từ viễn tượng ấy, nhiệm vụ của chúng ta trở thành việc loại bỏ những thứ có thể đưa đến khổ đau và tích tập những điều dẫn đến hạnh phúcPhương pháp, sự thực tập hằng ngày, liên hệ đến việc tăng trưởng dần dần sự tỉnh thứchiểu biết của chúng ta về những gì thật sự đem đến hạnh phúc và những gì không mang lại hạnh phúc.

 --- HOWARD CUTLER

Mặc dù có thể đạt được hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không là một vấn đề đơn giản. Có nhiều trình độThí dụ, trong Đạo Phật có một liên hệ đến bốn nhân tố của việc hoàn thành, hay hạnh phúc: sự thịnh vượng, mãn nguyện trần gian, tính chất tâm linh, và ánh sáng giác ngộ. Cùng với nhau tất cả những điều này bao hàm nhu cầu của con người cho hạnh phúc.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Khi cuộc sống trở nên quá phức tạp, tràn ngập bối rối, hay mê muội, thật hữu ích để đứng lại và nhắc nhở chính mình về mục tiêu hay ý định của mình. Hãy để một giờ, một buổi chiều, hay ngay cả một vài ngày để quán chiếu trên những gì sẽ thật sự đem đến hạnh phúc, và rồi thì điều chỉnh những ưu tiên của chúng ta căn cứ trên ấy. Việc này có thể đưa cuộc sống chúng ta trở lại trong phạm vi thích hợp, cho phép một nhận thức rõ ràng mới mẻ, và có thể cho làm cho chúng ta thấy phương hướng nào để tiến tới… Sự chuyển hướng đối với hạnh phúc như một mục tiêu đúng đắnquyết định tỉnh thức đến việc tìm cầu một cách có phương pháp có thể thay đổi sâu sắc toàn bộ cuộc sống còn lại của chúng ta. 

--- HOWARD CUTLER

Nếu chúng ta sử dụng những hoàn cảnh thuận lợi của chúng ta, như sức khỏe tốt, hay sự giàu có của chúng ta, trong những phương thức tích cực, trong việc giúp đở những người khác, chúng có thể là những nhân tố đóng góp trong việc đạt đến một đời sống hạnh phúc hơn. Và dĩ nhiên, chúng ta thụ hưởng những điều này – những điều kiện thuận tiện, sự thành công vật chất, và v.v… Nhưng không có thái độ tinh thần đúng đắn, những thứ này có tác động rất nhỏ nhoi trong những cảm giác lâu dài về hạnh phúc. Nếu chúng ta nuôi dưỡng những tư tưởng thù ghét hay giận hờn dữ dội sâu thẩm bên trong chúng ta, nó sẽ tàn phá sức khỏe chúng ta; vì thế nó phá hoại một trong những nhân tố theo thói thường được xem như cần thiết cho một đời sống hạnh phúc… Hay, ngay cả nếu chúng ta có những sở hữu vô cùng quý giá, trong một thời khắc giận dữ, chúng ta có thể cảm thấy như quẳng đi hay làm vở chúng, chúng không có nghĩa gì, do vậy, không có gì bảo đảm rằng chỉ giàu sang có thể đem lại niềm vui sướng hay đầy đủ mà chúng ta đang tìm kiếm … Những thí dụ này đương cử sự ảnh hưởng vô hạn của thể trạng tinh thần, nhân tố tâm thức, có trên kinh nghiệm của đời sống hằng ngày. Thế thì tự nhiên, chúng ta phải đón nhận nhân tố ấy một cách nghiêm chỉnh.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Bây giờ đôi khi người ta lẩn lộn giữa hạnh phúc và khoái lạc … Hạnh phúc chân thật liên hệ nhiều đến tâm thức và trái tim. Hạnh phúc phụ thuộc một cách chính yếu trên khoái lạc vật lý là không bền vững: hôm nay nó ở đấy, nhưng ngày sau nó có thể không ở đấy nữa.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Đôi khi thực hiện “sự lựa chọn đúng đắn” trong đời sống là khó khăn bởi vì nó liên hệ đến việc hy sinh nào đấy đến những khoái lạc hiện thời … Nhưng đặt để bất cứ sự lựa chọn nào thì chúng ta phải đối diện với câu hỏi: “Điều này sẽ mang đến hạnh phúc cho tôi chứ?” có thể là một tiến trình năng động để hổ trợ chúng ta thực hiện một cách thiện xảo tất cả mọi lĩnh vực của đời sống chúng ta, không chỉ trên quyết định chỉ làm thỏa thích trong ma túy hay miếng bánh kem chuối nướng. Tự vấn chính chúng ta câu hỏi căn bản này đặt một quan điểm mới về mọi thứ, thay đổi sự tập trung từ những gì chúng ta đang tự phủ nhận đến những gì chúng ta thật sự đang tìm cầu – đấy là niềm hạnh phúc cơ bản. 

--- HOWARD CUTLER

Tôi hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma: “Ngài hạnh phúc chứ?”
“Vâng, ngài nói. Ngài dừng lại, rồi thì thêm rằng.
“Vâng… Một cách chắc chắn . “Có một sự chân thành lặng lẽ trong giọng nói của ngài mà nó làm chúng ta không nghi ngờ gì nữa.
“Nhưng có phải hạnh phúc là một mục tiêu hợp lý cho phần lớn mọi người chúng ta? Có phải nó thật sự có thể hiện thực?”
“Vâng,” ngài đáp. “Tôi tin rằng hạnh phúcthể đạt được qua việc rèn luyện tâm thức.” 
--- HOWARD CUTLER

Khi tôi nói “rèn luyện tâm thức” trong phạm vi này, tôi không liên hệ đến “tâm thức” đơn thuần như một khả năng nhận thức hay thông minh. Đúng hơn, tôi đang sử dụng thuật ngữ trong ý nghĩa của từ ngữ Tây Tạng “sem”, mà nó có một ý nghĩa rộng rãi hơn nhiều, gần hơn với “tâm hồn” (psyche) hay “tâm linh” (spirit): nó bao hàm thông minh, và cảm giác, trái tim và tâm thức. Bằng việc đem đến một nguyên tắc nội tại nào đấy, chúng ta có thể trãi qua một sự chuyển hóa về tâm thức của chúng ta, toàn bộ sự tiếp cận và quan điểm của chúng ta đến đời sống.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Khái niệm đạt đến hạnh phúc chân thật ở phương Tây dường như luôn luôn không xác định rõ ràng, có tính chất thoái thác, không thể nắm bắt. Ngay cả từ ngữ hạnh phúc (happy) xuất phát từ một chữ Ái Nhĩ Lan: happ, có nghĩa là may mắn (luck) hay cơ hội (chance) … Dường như không là một loại sự việc có thể được phát triển đơn giản bằng việc “rèn luyện tâm thức” – một ý tưởng nền móng của sự thực hành của Đạo Phật 2.500 năm qua. Tuy thế, mới gần đây với sự hổ trợ của những nghiên cứu khoa học có hệ thống đối với quan điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma, chúng ta đã thấy những nguyên tắc Phật Giáo đồng quy với khoa học Tây phương, khi hiện tại những nhà nghiên cứu nhất trí rằng hạnh phúc an lạc có thể trau dồi một cách thận trọng được, rất giống việc nghiên cứu học hỏi những kỷ năng khác.

--- HOWARD CUTLER

Mức độ tĩnh lặng của tâm thức, và niềm hòa bình của chúng ta càng sâu rộng, chúng ta càng có khả năng để hưởng thụ một đời sống hạnh phúc và hỉ lạc sâu xa hơn.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Khi chúng ta nói về thể trạng tĩnh lặng hay hòa bình của tâm thức, chúng ta không nên lẩn lộn với một tình trạng lãnh đạm, vô cảm hoàn toàn của tâm thức. Có một thể trạng tĩnh lặng hay hòa bình của tâm thức không có nghĩa hoàn toàn phù phiếm hay hoàn toàn trống rỗng. Sự hòa bình của tâm thức hay thể trạng tĩnh lặng của tâm tư được bén rể trong tác độngtừ bi. Có một trình độ cảm xúcthông cảm cao cả ở đấy.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

 Cho đến khi nào vẫn thiếu vắng nguyên tắc nội tại đem đến sự tĩnh lặng của tâm thức , bất kể phương tiệnđiều kiện thuận lợi ngoại tại mà chúng ta có, chúng sẽ chẳng bao giờ cho chúng ta cảm giác hỉ lạc và hạnh phúcchúng ta tìm kiếmTrái lại, nếu chúng ta sở hữu phẩm chất nội tại này, sự tĩnh lặng của tâm thức, một trình độ vững vàng nội tại, rồi thì ngay cả nếu chúng ta thiếu vắng những điều kiện thuận tiện đa dạng nội tại mà thông thường chúng ta xem như cần thiết cho hạnh phúc, thì chúng ta vẫn có thể sống một đời sống vui sướnghân hoan.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Chúng ta không cần nhiều tiền hơn nữa, chúng ta không cần sự thành côngdanh tiếng to lớn hơn, chúng ta không cần một thân thể hoàn hảo hay ngay cả một người phối ngẩu hoàn toàn – ngay bây giờ, tại lúc này, chúng ta có một tâm thức có tất cả những khí cụ căn bảnchúng ta cần để đạt đến một niềm hạnh phúc toàn vẹn.

 --- HOWARD CUTLER

Như được cảm thấy rằng một tâm thức kỷ luật đưa đến hạnh phúc và một tâm tư vô nguyên tắc dẫn tới khổ đau, và thật sự như được nói rằng đem kỷ luật vào trong một tâm thức con ngườicăn bản giáo huấn của Đức Phật… Ở đây, tôi đang liên hệ đến kỷ luật tự giác, không phải nguyên tắc bên ngoài áp đặt lên chúng ta bởi những người nào đấy. Cũng thế, tôi đang liên hệ đến kỷ cương [hay giới luật] áp dụng để vượt thắng những tính chất tiêu cực. Một nhóm tội phạm có thể cần những nguyên tắc nào đấy để tiến hành một vụ trộm cướp thành công, nhưng những nguyên tắc ấy là vô dụng

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Khi chúng ta nói về nguyên tắc nội tại này, dĩ nhiên, nó có thể liên hệ đến nhiều thứ, nhiều phương pháp. Nhưng nói một cách tổng quát, chúng ta bắt đầu bằng việc xác định những nhân tố nào điều đưa đến hạnh phúc, những nhân tố nào dẫn tới khổ đau. Đã làm điều này, sau đó chúng ta thực hiện dần dần việc loại bỏ những nhân tố tinh thần, cảm xúc, hay thái độ đưa đến khổ đau và trau dồi những nhân tố nào dẫn tới hạnh phúc. Đấy là phương thức.

 --- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Đạt đến hạnh phúc chân thật có thể đòi hỏi một sự chuyển hóa quan niệm của chúng ta, cung cách chúng ta suy nghĩ, và điều này không phải là vấn đề đơn giảnChúng ta không nên có ý tưởng rằng chỉ có đơn thuần một chìa khóa, một bí mật, và nếu chúng ta có thể tiếp nhận căn nguyên ấy, rồi thì mọi thứ sẽ được giải quyếtTương tự như chăm sóc thích đáng thân thể vật lý; chúng ta cần những sinh tố và dinh dưỡng đủ loại, không chỉ một hay hai loại. Cùng cách như thế, nhằm đề đạt đến hạnh phúc, chúng ta cần những sự tiếp cận và phương pháp đa dạng để đối phó và vượt thắng những thể trạng tinh thần tiêu cực muôn màu muôn vẻ và phức tạp. --- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Bước đầu tiên trong việc tìm cầu hạnh phúchọc hỏi. Trước nhất chúng ta phải học hỏi về việc những cảm xúcthái độ tiêu cực tai hại như thế nào, không chỉ đối với cá nhân một người, mà cũng gây hại đến xã hội và tương lai của toàn thế giới. Điều này nâng cao quyết tâm của chúng ta để đối diện và vượt thắng chúng. Rồi thì có nhận thức về những khía cạnh lợi ích của thái độcảm xúc tích cực. Một khi chúng ta nhận ra điều này, chúng ta sẽ trở nên quyết tâm yêu mến, phát triển, và gia tăng những cảm xúc tích cực bất chấp điều ấy khó khăn như thế nào. Từ trong ấy cũng có một loại ý chí phát sinh đồng thời.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Những nghiên cứuquán sát liên tục đã cho thấy rằng những người có khuynh hướng tập trung sự chú ý nhiều nhất vào chính họ thì không hạnh phúc và thường rút lui, nghiền ngẫm ủ ê, và ngay cả trái ngược hay đối kháng tính chất xã hộiTrái lại, nghiên cứu cho thấy rằng những người hạnh phúc thì thích hợp với những người đồng nghiệp và có những cuộc hôn nhân mạnh mẽ hơn và những mối quan hệ tốt đẹp hơn trong phổ thông. Những người ấy thụ hưởng một thân thể mạnh khỏe hơn, sống lâu hơn người khác mười năm. Hạnh phúc cũng đưa đến sức khoẻ tinh thần tốt hơn, khả năng sáng tạophục hồi to lớn hơn, và tăng trường năng lực để đối phó với nghịch cảnh. Thêm nữa, những cá nhân hạnh phúc đạt được sự thành công trong nghề nghiệp to lớn hơn, thu hoạch nhiều tài chính hơn, hưởng thụ sự thành công cá nhân rộng rãi hơn trên mọi mức độ… Và điều quan trọng nhất, những người ấy được thấy là yêu đời hơn, tha thứ hơn những người không hạnh phúc, có ý chí hơn trong việc mở rộng vòng tay để giúp đở những người khác.

--- HOWARD CUTLER

Chuyển hóa tâm thức chúng ta cần thời gian. Có nhiều điểm tinh thần tiêu cực, vì thế chúng ta cần chăm chú và làm mất tác dụng từng thứ này. Điều ấy không dễ dàng. Nó đòi hỏi sự áp dụng liên tục những kỷ năng đa dạng và cũng cần thời gian để chính chúng ta quen thuộc với những sự thực hành. Đấy là một tiến trình học hỏi.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

 Bất chấp hành động hay thực tập nào chúng ta đang theo đuổi, không có điều gì không được làm dễ dàng hơn qua sự quen thuộcrèn luyện liên tục. Qua rèn luyện, chúng ta có thể thay đổi; chúng ta có thể chuyển hóa chính chúng ta.

 --- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Cải thiện niềm hạnh phúc to lớn hơn bằng việc rèn luyện tâm thức là có thể được do bởi chính cấu trúc và chức năng của não bộ. Mặc dù theo di truyền học mạch điện trường liên kết với kiểu mẫu thái độ bẩm sinh hay bản năng nào đấy, nhưng não bộ không tĩnh lặng im lìm, không phải không thể thay đổi sửa chửa. Nó có thể thích ứng, dễ uốn nắn, thay đổi những thần kinh cá nhân và thay đổi vị thế mạch điện trường của nó thích ứng đến những tư tưởngkinh nghiệm mới. Khả năng cố hữu của não bộ để thay đổi trong việc đáp ứng đến việc học hỏi được biết là “tính tạo hình của não bộ” – một tiến trình cung cấp căn bản sinh lý học cho những ý tưởng rèn luyện tâm thức cho hạnh phúc và khả năng của sự chuyển hóa nội tại.

--- HOWARD CUTLER

Vào lúc bắt đầu, sự thực hành đầy đủ những thực tập tích cực rất khiêm tốn, vì thế những ảnh hưởng tiêu cực vẫn rất mạnh liệt. Tuy thế, cuối cùng, khi chúng ta dần dần bồi đắp những thực hành tích cực, những thái độ tiêu cực tự động giảm bớt… Qua sự thực hành lặp đi lặp lại những phương pháp này, chúng tathể đạt đến điểm, nơi mà một quấy nhiễu nào đấy có thể xảy ra nhưng những ảnh hưởng tiêu cực trong tâm thức chúng ta vẫn duy trì trên ngoài, giống như những làn sóng có thể làm cho gợn sóng lăn tăn trên bề mặt của đại dương nhưng không có nhiều tác động đến chiều sâu bên dưới.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Chúng ta không bao giờ được đánh mất cảnh giác về sự quan trọng của việc có một thái độ thực tiển – của việc thể hiện thật nhạy cảmtôn trọng đến thực tại cụ thể của hoàn cảnh chúng ta khi chúng ta cất bước trên con đường tiến tới mục tiêu cơ bản. Hãy nhận ra những khó khăn cố hữu trên con đường của chúng ta, và sự kiện rằng nó có thể cần thời gian và nổ lực liên tục. Cũng quan trọng để làm một sự phân biệt rõ ràng trong tâm thức chúng ta giữa những ý tưởngtiêu chuẩnchúng ta phán xét chương trình của chúng ta.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Thay đổi cần thời gian .

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Mỗi ngày ngay sau khi thức dậy, chúng ta có thể bày tỏ một thái độ tích cực chân thành của mình, hãy suy nghĩ, “Tôi sẽ sử dụng ngày hôm nay trong một cung cách tích cực hơn, tôi không nên làm uổng phí ngày quan trọng này.” Và rồi, lúc đêm về trước khi lên giường, kiểm soát lại những gì chúng ta đã làm, hãy tự hỏi mình: “Có phải tôi đã sử dụng ngày hôm nay như tôi đã dự tính?”

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Ranh giới giữa những hành động hay khát vọng tích cựcthèm khát tiêu cực không phải là nó cho chúng ta một cảm giác tức thời của sự thỏa mãn hay không mà là nó có kết quả trong những hậu quả tích cực hay tiêu cực.

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Những khao khát nào đấy là tích cực: một sự mong muốn cho hạnh phúc, cho hòa bình, cho một thế giới thân hữu hơn. Những điều này rất hữu ích. Nhưng tại những lúc nào đấy, những khát vọng có thể trở thành vô lý …Tham lam là một hình thức cường điệu của khát vọng, và điều đó dẫn đến rắc rối. Mặc dù động cơ ẩn tàng của tham lam là để tìm kiếm sự thỏa mãn, những mĩa mai thay khi đạt được đối tượng mà chúng ta thèm khát, chúng ta vẫn không thỏa mãn. Thuốc đối trị cho tham lam là lòng toại nguyện. Nếu chúng taý thức mạnh mẽ về toại nguyện, thì có đạt được đối tượng hay không cũng chẳng hề gì, cách nào thì chúng ta cũng toại nguyện

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Những cảm giác về toại nguyện của chúng ta ảnh hưởng mạnh mẽ bởi khuynh hướng so sánh của chúng ta… liên tục so sánh với những người thông minh hơn, xinh đẹp hơn hay thành công hơn chúng ta cũng có khuynh hướng phát sinh ra sự ganh tỵ, chán nản, và không vui. Nhưng chúng ta có thể sử dụng cùng nguyên tắc trong một cung cách tích cựcChúng ta có thể phát triển cảm nhận toại nguyện của chúng ta về đời sống bằng việc so sánh chính mình với những người kém may mắn hơn chúng ta bằng việc phản chiếu đối với tất cả những gì chúng ta có…

Thế nên, làm thế nào để đạt được sự toại nguyện nội tại? Có hai phương pháp. Một phương phápđạt được tất cả những gì chúng ta mong muốn và thèm khát – tất cả những thứ như tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, người phối ngẫu toàn hảo và thân thể không chê vào đâu được. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ ra những bất lợi của cách tiếp cận này – nếu những thứ chúng ta mong muốn và thèm khát tiếp tục không được kiểm soát, chẳng chóng thì chầy chúng ta sẽ đi đến chống lại những thứ chúng ta muốn nhưng không thể có. Phương pháp thứ hai là không có những gì chúng ta muốn, nhưng tốt hơn là muốn những gì chúng ta có.

--- HOWARD CUTLER

Việc sử dụng thời gian thích đáng là rất quan trọng. Trong khi chúng tathân thể này, và đặc biệt là bộ não con người tuyệt vời này, tôi nghĩ mỗi phút là một điều gì đấy quý giá. Ngày từng ngày chúng ta hiện hữu là rất sống động với niềm hy vọng, mặc dù không có gì bảo đảm về tương lai của chúng ta. Không có gì bảo đảm rằng ngày mai vào giờ này chúng ta sẽ hiện diện ở đây. Nhưng chúng ta vẫn đang làm việc hoàn toàn trên căn bản của nguồn hy vọng. Vì thế chúng ta cần thực hiện việc sử dụng thời gian của chúng ta trong một cung cách toàn hảo nhất. Tôi tin rằng việc sử dụng thời gian thích đáng là thế này: nếu chúng ta có thể, phụng sự người khác, những chúng sinh khác. Nếu không, tối thiểu hãy tránh làm tổn hại họ. Tôi nghĩ rằng đấy là toàn bộ căn bản triết lý của tôi. 

--- ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

Một nghiên cứu hấp dẫn gần đây đã thấy rằng hạnh phúc có thể lan truyền cao độ, trãi rộng trong mạng lưới xã hội giống như vi trùng. Những nghiên cứu khác cho thấy rằng những cảm xúc tích cực hoạt động như một loại thuốc đối trị với chứng thành kiến, là nguyên nhân làm thay đổi trong não bộ ngăn chặn những khuynh hướng bản năng chống lại những ai chúng ta nhận định là khác biệt, đánh đổ những ranh giới giữa Chúng Ta và Họ! Những điều tra cũng liên hệ đến những mức độ cao hơn của hạnh phúc với tự dodân chủ trong một quốc gia! Do vậy, có thể biện luận rằng nếu chúng ta thật sự quan tâm về việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, thì nhiệm vụ của chúng ta phải là vui tươi.

--- HOWARD CUTLER

Tôi thường chứng kiến niềm hạnh phúc cá nhân của Đức Đạt Lai Lạt Ma dường biểu hiện như một sự sốt sắng để dang tay ra đến những người khác, tạo nên một sự đồng cảm thân thuộc và trãi rộng thiện chí, ngay cả trong một cuộc chạm trán ngắn ngủi nhất.

Một buổi sáng nọ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đang đi trở lại phòng của ngài trong khách sạn. Thấy một người nữ phục vụ bên cạnh thang máy, ngài dừng lại để hỏi, “Cô là người ở đâu?” Sau một khoảng khắc ngạc nhiên bởi một tu sĩ trong y áo nâu đỏ đoàn tùy tùng, nhưng cô ta mĩm cười và trả lời bẻn lẻn, “Mễ Tây Cơ.” Hai người đối thoại một cách ngắn ngủi trước khi ngài bước đi, để lại cô nàng cái nhìn thích thúhài lòng. Sáng hôm kế, cô ta xuất hiện ngay hiện trường hôm qua với một người phục vụ nữa và họ chào ngài một cách nồng ấm trước khi ngài bước lên thang máy. Sự tiếp xúc tuy ngắn ngủi, nhưng cả hai dường như chứa chan hạnh phúc khi họ trở lại làm việc. Mỗi ngày sau đấy, họ kết hợp với vài người phục vụ nữa tại những thời điểm và nơi chốn quy định, cho đến cuối tuần có cả chục nữ phục vụ trongđồng phục trắng xám sinh động hình thành một hàng tiếp nhận trãi dọc theo con đường đưa đến những thang máy.

--- HOWARD CUTLER

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 216)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 310)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 622)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 639)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 686)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 670)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 711)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 795)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 770)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 962)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 829)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1080)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1063)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 981)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1749)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1161)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 972)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 827)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 950)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 973)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1145)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1175)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 925)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1069)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1520)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1392)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 981)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1289)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant