- 1. Thư Tòa Soạn
- 2. Hơn 1.000 lần cạo tóc
- 3. Thầy Tôi Thế Đấy
- 4. Đời Vân Thủy
- 5. Hoằng Pháp là nhiệm vụ...
- 6. Câu Chuyện Của Dòng Sông - Dòng Sông Của Câu Chuyện
- 7. Một Áng Mây Bay
- 8. Ngôn Từ Sắc Pháp Thế Gian
- 9. Kính Mến Thầy
- 10. Nhân Duyên Thầy Trò
- 11. Có Một Điều Tôi Không Bao Giờ...
- 12. Hội Ngộ
- 13. Trùng Điệp Nhân Duyên
- 14. Năm Mươi Năm
- 15. Có Chút Gì Để Nhớ...
- 16. Nhìn Lại 50 Năm Xuất Gia...
- 17. Nguồn Cội
- 18. Viết Về Kỷ Niệm Với Sư Phụ
- 19. Trăng Nguyên Tiêu Trước Cổng Chùa
- 20. Những Kỷ Niệm Khó Quên
- 21. Als der vietn. Buddhismus nach Deutschland kam
- 22. Kể từ khi Phật giáo VN đến Đức
- 23. Chú Điển Trong Tôi
- 24. Thầy Và Tôi
- 25. 50 Năm Chặng Hành Trình Bất Tận
- 26. Tập Sách Của Thầy
- 27. Chúc Mừng 50 Năm Sinh Nhật Bổn Sư
- 28. HT Thích Như Điển Trải Nghiệm...
- 29. Thích Tử Như Lai
- 30. Sư Phụ Tôi - Bồ Tát Trợ Duyên
- 31. Đôi Dòng Về Ôn
- 32. Người Thầy Cũ
- 33. Nhớ Ngày Đầu Gặp Gỡ
- 34. Vài Kỷ Niệm Về HT Thích Như Điển
- 35. Thơ Kính Dâng Thầy
- 36.Những Chiếc bao Ny-Lông
- 37. Những Chuyến Tàu
- 38. Tự Cảm
- 39. Như Một Dòng Sông
- 40. Nhớ Lại Chuyện Xưa
- 41. Sơ Tâm Lồng Lộng
- 42. Thầy Tôi
- 43. Trăng
- 44. Bóng Mát Chùa Viên Giác
- 45. Hương Đạo Bay Xa
- 46. Người Thầy Khả Kính
- 47. Nét Bút Bên Song Cửa
- 48. Thầy Tôi
- 49. Xin Nguyện Làm
- 50. Sinh Nhật
- 51. Dấu Ấn Thần Tượng Trong Đời Tôi
- 52. Thầy Và Quê Hương
- 53. Một Thời
- 54. Hạnh Ngộ
- 55. Cảm Niệm Những Tháng Ngày...
- 56. Những Ký Ức Nhỏ Về Sư Phụ
- 57. Mấy Năm Làm Thị Giả
- 58. Sư Phụ Đã Xuất Gia Trên Nửa Thế Kỷ
- 59. Ngày Ấy Bây Giờ
- 60. Chùa Viên Giác
- 61. Sư Cố Là Ai?
- 62. 20 Năm Quỹ Học Bổng Thích Như Điển
- 63. Tôi Đi Chùa
- 64. Điểm sách
- 65. Kỷ Niệm Dưới Mái Chùa Xưa
- 66. Người Gieo Mầm Phật Pháp
- 67. Nhớ Mãi Ơn Thầy
Thật là một đại phước duyên cho tôi, bản thân tôi vì nghiệp dày phước mỏng bận bịu gia duyên nên không có nhân duyên xuất gia, nhưng được Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở Ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần, nhất là việc tu tập v.v… Tôi áp dụng những gì Ngài chỉ bảo để tiến tu trên con đường học đạo.
Thời gian dài, cuộc sống trong xã hội dồn dập bao nhiêu chuyện thị phi ngoài đời, trong đạo, nhưng tôi được diện kiến rất gần với Ngài, cuộc sống của Ngài rất đơn thuần, phong thái của Ngài rất giản dị và hiền hậu. Nhớ lại tháng 10 năm 2010 Ngài nhập Thất ở Thất Đa Bảo Úc Châu để dịch quyển ’’Chết an lạc tái sanh hoan hỷ”, nguyên tác Anh Ngữ của Đại Sư Tulku Thondrup, và viết quyển tiểu thuyết “Giai nhân và Hòa Thượng’’ tôi được may mắn theo Ngài hộ Thất thời gian 3 tháng trên núi cao, chỉ có hai Thầy trò nên mới biết Ngài rất rõ. Ngài khó với những ai không chịu học, làm việc không giữ đúng giờ giấc, không tinh tấn tu tập. Cái khó của Ngài là nuôi dưỡng hạt giống từ bi tạo cho con người được trưởng thành, còn ngoài ra Ngài rất dễ, bản thân tôi những ngày hộ Thất ở Đa Bảo Úc Châu, ngoài việc lái xe đi siêu thị 2 lần một tuần mua thức ăn, hằng ngày đơn giản nấu 3 bữa cơm sáng, trưa và chiều. Thời gian chia ra một ngày 4 thời kinh, sáng tụng Lăng Nghiêm, trưa tụng Phổ Môn, chiều tụng kinh A Di Đà, tối tụng kinh Kim Cang, đúng giờ đúng giấc nên tôi, được Thầy khuyến tấn và cũng rất dễ dãi với tôi. Ngài ăn uống rất chừng mực không hơn, không kém dù cho bữa ăn đó thức ăn có cao sang mỹ vị, hay đơn giản, nhất là buổi trưa Ngài chỉ ăn một chén cơm, với thức ăn, ngoài ra Ngài không ăn vặt phi thời. Ngài thương mọi loài chúng sanh, cứ sau bữa ăn sáng Thầy đem những thức ăn ra chia cho đàn kiến, hoặc cho đàn chim két kêu ríu rít bay nhảy trên cành. Thầy trầm tư có lần Thầy nói với tôi biết thuở nào đàn kiến, và những con chim chúng có dịp được ăn như thế này. Đối với loài vật Ngài còn thương như thế đó.
Tấm lòng bao la độ lượng của Ngài, Ngài giúp tài thí cho mọi Tăng, Ni sinh mà Ngài có duyên gặp, nhất là hằng năm ngài cấp học bỗng cho 100 Tăng, Ni sinh theo học lấy bằng Tiến Sĩ tại Ấn Độ. Mỗi Tăng, Ni sinh hằng năm được nhận 600 Dolla, ngoài ra Ngài còn giúp cho các Tăng Ni sinh các nước như Việt Nam, Thái Lan, Đài Loan v.v… nơi nào có Tăng, Ni sinh Việt Nam cần là Ngài đều giúp đỡ. Ngoài ra hằng năm Ngài ủng hộ từ thiện cho những mảnh đời bất hạnh tại Việt Nam, người khuyết tật, người mù, già yếu bệnh tật nghèo khổ, trẻ em mồ côi v.v… Nơi nào xảy ra thiên tai bão lụt, sóng thần, động đất như ở Nhật Bản, Ấn Độ, Sri Lanka, Thái Lan, Phi Luật Tân, Việt Nam v.v… làm cho con người phải mang nghiệp khổ, cũng đều có cánh tay mở rộng cứu giúp của Ngài. Tình cảm thương yêu của Ngài đối với đại chúng, đối với mọi người thật dạt dào. Mỗi lần đi Phật sự nơi xa Ngài đều mang vật lưu niệm về tặng cho Phật tử, quà, bánh, trái cây, như chuối, mít, xoài, hay kẹo bánh Schokolade v.v... cho đại chúng cùng hưởng lộc.
Trong đời này tôi có một đại nhân duyên phước đức, một Phật tử tại gia như tôi mà được theo hầu Ngài một vị Hòa Thượng tài ba lỗi lạc, có những lần đi hành hương các nước như Nhật Bản, Thái Lan, Sri Lanka, Ấn Độ, hay dự các khóa tu học Âu Châu ở Thụy Điển, Đan Mạch, Ý, Bỉ, Áo, Anh Quốc v.v… được nghe Ngài giảng pháp. Ngài nói lưu loát nhiều thứ tiếng, dịch nhiều kinh sách qua nhiều ngôn ngữ, Anh, Pháp, Đức, Nhật,… Cho đến nay Ngài đã viết và dịch trên 62 đầu sách để lại cho hậu thế mai sau. Ngài quả là một kho tàng trí tuệ sống, một trí nhớ tuyệt vời của Ngài, lịch sử đất nước Việt Nam qua nhiều thời triều đại Ngài nhớ rất rõ, nhất là những bài thơ từ thuở học trò bây giờ Ngài đọc lại vanh vách, trong những lần tạm ngưng các bài giảng pháp, bài thơ Nhớ Chùa của cố Hòa Thượng Mãn Giác gồm 36 câu, 252 chữ Ngài ngâm thơ không sót chữ nào.
Từ khi ra đi du học đến giờ Ngài chưa một lần đặt chân về đất mẹ Việt Nam, nhưng tâm Ngài luôn luôn hướng về quê hương thương yêu những con người Việt Nam, do vậy bài thơ Nhớ Chùa là đề tài đầu tiên. Tôi còn nhớ năm 2010 tôi lái xe trong một chuyến đi từ Sydney đến Canberra thăm chùa Vạn Hạnh ở nước Úc, đường dài trên 250 km Ngài với một vị Thượng Tọa cùng đi trên chuyến xe, để kiểm chứng lại trí nhớ hai vị đã đọc hết bản kinh Di Giáo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật trước khi nhập Niết Bàn. Còn ở Đức khi lái xe đưa Ngài đi Phật sự thì khỏi cần dùng Navigation chỉ đường, không con đường nào Ngài không nhớ, địa chỉ nào Ngài cũng không quên một khi Ngài đã đến. Trên đường đi Ngài luôn luôn nhắc nhở lái xe cẩn thận, và nói những mẩu chuyện ngắn. Ngài ban những pháp thoại quý báu do vậy mà suốt trong thời gian lái xe tôi không buồn ngủ đưa Ngài đi Phật sự được hoàn mãn an toàn, đi đến nơi về đến chốn.
Trên 23 năm, mỗi lần tôi về chùa làm công quả hay sinh hoạt dự các khóa tu tại chùa Viên Giác một tuần, 10 ngày hay 15 ngày, tôi thường nghe Ngài dạy là người đệ tử của Phật, phải hạ thủ công phu chuyên trì bái sám, tụng niệm, kinh chú thì con đường tu tập mới tăng tiến được. Ngài trên 50 năm mỗi sáng Ngài tụng Kinh Lăng Nghiêm không bỏ một ngày, việc bái sám lễ lạy hằng năm cứ vào mùa an cư kiết hạ lạy kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi tối lễ lạy trên 300 lạy nhứt tự nhứt bái suốt trong thời gian mùa an cư. Nhờ đạo hạnh của Ngài ánh sáng hào quang chiếu rọi mà hàng Phật tử tại gia ở chùa Viên Giác nói riêng, trong các đạo tràng ở nước Đức nói chung có rất nhiều vị Phật tử thuộc làu Kinh Lăng Nghiêm.
Tuy Ngài làm việc nhiều, sáng tác nhiều đầu sách dịch kinh hăng say, có tài hùng biện, giảng pháp, dạy học v.v... nhưng bao giờ Hòa Thượng cũng luôn luôn khiêm tốn Ngài nói rằng, Hòa Thượng là một nông dân của quê hương xứ Quảng. Và trong suốt quá trình hoạt động đó Hòa Thượng luôn nguyện rằng: “Mình là một dòng sông để chuyên chở những trong đục của cuộc đời và sẽ là mặt đất để hứng chịu những sạch nhơ của nhân thế”.
Nhân Sinh Nhật 65 tuổi Tây (1949 – 2014) tức 66 tuổi Ta của Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác,
50 Năm Xuất Gia và Hành Đạo, chúng con/chúng tôi xin viết một vài dấu ấn thần tượng trong đời tôi với vị Thầy khả kính.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật