Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Những Suy Ngẫm Giúp Biết Tôn Kính Pháp Môn Tịnh Độ

29 Tháng Tám 201406:17(Xem: 7459)
Những Suy Ngẫm Giúp Biết Tôn Kính Pháp Môn Tịnh Độ

 

Những Suy Ngẫm Giúp Biết Tôn Kính Pháp Môn Tịnh Độ

Tuệ Thiền Lê Bá Bôn

 

(Nhân đọc các phát biểu thiếu tôn kính pháp môn Tịnh Độkinh luận Đại Thừa PG của một số Phật tử - đăng trên một số trang mạng). 

 

1)- Xin mời đọc trích dẫn trong Kinh Canki, Trung Bộ Kinh (PG Nguyên Thủy):

“Này Bharadvaja, nếu có người có lòng tin và nói: “Đây là lòng tin của tôi”, người ấy hộ trì chân lí, nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm”. Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là sự hộ trì chân lí. Cho đến như vậy, chân lí được hộ trì. Và cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lí. Cũng vậy, nếu có người chấp nhận một quan điểm và nói: “Đây là sự chấp nhận quan điểm của tôi”, người ấy hộ trì chân lí. Nhưng người ấy không đi đến kết luận một chiều: “Chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm”. Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là hộ trì chân lí. Cho đến như vậy, chân lí được hộ trì. Và cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lí”. (Theo Văn Hóa Phật Giáo số 26-1/2/2007).

2)- Nếu là Phật tử thì phải tin rằng có các cõi chư Thiên (các cõi siêu hình); nếu đã tin có các cõi chư Thiên, thì tin có cõi Tây Phương Cực Lạc (môi trường thuận duyên tu tập) là việc bình thường của trí tuệ tâm linh hướng thiện-hướng thượng.

*

3)- Trong kinh PG Nguyên Thủy có nói đến lục niệm, trong đó có “niệm Thiên”; đã có tâm nhớ nghĩ về chư Thiên, thì nhớ nghĩ về Đức Phật A-Di-Đà (và cầu vãng sinh) đâu có gì sai lầm.

4)- Chất lượng của tâm niệm thiện lành (giải thoát tham sân si) sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.

5)- Là Phật tử tu theo pháp môn Tịnh Độ, tất nhiên họ đã học về Bát Chánh Đạo; khi nhất tâm niệm Phật là họ đang phát triển chánh định và các phẩm chất khác; chánh định chắc chắn sẽ sinh tuệ giác. (Chánh định rất quan trọng; theo kinh PG Nguyên Thủy, trong thời Phật có nhiều Phật tử – thậm chí có cả người ngoại đạođịnh lực – chỉ nghe Phật thuyết một pháp thoại, và có khi Ngài chỉ “thuyết pháp” bằng sự im lặng, là đã chứng đắc thánh quả).

6)- Có người nói kinh Đại Thừa là do các Thánh Tăng tạo nên, nếu tin như thế thì cũng đâu thể phỉ báng kinh luận Đại Thừapháp môn Tịnh Độ được. Xin mời đọc đoạn văn này:
(Trích trong tác phẩm Biết Và Thấy của Thiền sư Pa-Auk Sayadaw; dịch giả Pháp Thông; NXB Tôn Giáo; 2006. Ngài là một vị thiền sư danh tiếng, theo truyền thống Theravàda – Phật giáo Nam tông. Theo lời giới thiệu thì lời dạy của ngài giống như những gì được mô tả trong Thanh Tịnh Đạo, nhưng nhiều chi tiết hơn; Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga) do ngài Buddhaghosa biên soạn, là một giải trình về tam học).
Đức Phật tùy theo căn tánh của người nghe mà dạy bốn phương pháp phân biệt duyên khởi. Trong Vô Ngại Giải Đạo, còn có một phương pháp nữa. Vị chi là có năm phương pháp hay năm pháp môn. (…).
Phương pháp thứ năm do Ngài Xá Lợi Phất dạy, và được ghi lại trong Kinh Tạng Pali, bộ Vô Ngại Giải Đạo (Patisambhidamagga), tương đối dễ đối với hành giả mới thực hành minh sát. (…).
Nhưng, cho dù Đức Phật dạy duyên khởi theo căn tánh người nghe, một phương pháp cũng là đủ để đắc Niết Bàn rồi. Cũng vậy, vì phương pháp thứ nhất được xem là phổ biến trong Đạo Phật Nguyên Thủy, nên chúng tôi dạy cả hai phương pháp thứ nhất và thứ năm cho tiện. (…).
(…) Vì vậy không hiểu rõ duyên khởi với tùy giác trí và thông đạt trí, ta không thể đạt đến Niết Bàn. Từ đoạn kinh trên, chú giải nói rằng không hiểu rõ duyên khởi, không ai có thể thoát vòng luân lưu sanh tử, dù là trong giấc mơ. (Tr. 148-150).


(Ghi chú của người đọc: Ngay thời Phật còn tại thế, ngài Xá Lợi Phất cũng tùy duyên sáng tạo pháp môn. Về sau, trong PG Nguyên Thủy, Thanh Tịnh Đạo cũng do ngài Buddhaghosa biên soạn. Các vị Độc Giác Phật cũng tự giác ngộ và giải thoát do quán duyên khởi. Hiểu vậy, chúng ta sẽ hiểu sự phát triển của PG Đại Thừa là tất yếu, nhất là trong thời mạt pháp, tâm tính chúng sinh phức tạp).

7)- Mời đọc thêm tác phẩm Biết Và Thấy (của vị thiền sư theo truyền thống Theravàda) để suy ngẫm thêm về PG Đại Thừa:
(…) Có bốn loại người đạt đến Niết Bàn. Loại thứ nhất là Độc giác Phật, ở đây chúng ta không đề cập đến. Ba loại còn lại là: 1- một vị Bồ tát, 2- một vị Thượng thủ Thanh văn, 3- một vị Đại Thanh văn và một vị Thanh văn thường.
Đức Bồ tát của chúng ta trong thời kì của đức Phật Nhiên Đăng đã đắc tám thiền chứng và năm thần thông hiệp thế (ngũ thông). Trong các kiếp quá khứ, ngài cũng đã hành Chỉ và Quán đến “Hành xả tuệ”. Nếu ngài thực sự muốn đắc Niết bàn, ngài có thể đắc một cách nhanh chóng, do nghe một bài kệ ngắn mà đức Phật Nhiên Đăng thuyết về Tứ Thánh Đế. Nhưng ngài không chỉ mong mỏi Niết Bàn, mà muốn phát nguyện thành Phật trong tương lai, nên sau đó ngài nhận được lời thọ kí xác định của đức Phật Nhiên Đăng. (…).
(…) Sở dĩ có điều này là vì con đường thực hành của Bồ tátcon đường thực hành của vị Thanh văn thường không giống nhau. Quý vị có thể xác chứng điều này trong các bản Kinh Pali – Buddhavamsa (Phật Sử) và Cariyapicaka (Hạnh Tạng). Hai con đường này khác nhau như thế nào? Mặc dù một vị Bồ tát đã được đức Phật thọ kí, vào lúc ấy, các ba-la-mật của họ vẫn chưa thành thục để đạt đến Toàn giác trí. Vị ấy còn phải tu tập các ba-la-mật thêm nữa. (…). Lúc đó, ngài vẫn chưa thể hủy diệt hoàn toàn nghiệp lực bất thiện. Vì vậy, khi các nghiệp bất thiện chín mùi, ngài không thể thoát khỏi quả báo của chúng. Đây là một quy luật tự nhiên.
Nhung một vị Thanh văn bậc thường đã đắc Tuệ phân biệt nhân duyên, hoặc Sinh diệt tuệ, hoặc Xả hành tuệ, có các ba-la-mật đủ để đắc đạo – quả tuệ. Vì lí do này, họ đắc đạo – quả, tức là thấy Niết Bàn ngay trong kiếp này hoặc trong kiếp tương lai nào đó của họ. Đây cũng là một quy luật tự nhiên.

8)- Nếu không nương theo phương tiện pháp môn để “Tự Thắp Đuốc Lên Mà Đi”, nếu cố chấp cho rằng chỉ có kinh PG Nguyên Thủy mới có giá trị tu tập thì xin mời đọc đoạn văn trích dẫn này (nguồn: Thuvienhoasen.org):
(…) Dẫu rằng, các lần kiết tập thứ nhất, hai và ba không đề cập đến tên các kinh điển của Phật giáo Đại thừa, chỉ đề cập đến 5 bộ Nikāya và 4 bộ A-hàm nhưng nội dung tư tưởng trong các kinh điển của Phật giáo Đại thừa đều có nguồn gốc từ các kinh trong A hàm và Nikaya.
(…)
Như vậy, trong khoảng thời gian từ khi đức Phật nhập diệt cho đến thời đại A Dục lời Phật dạy lưu truyền bằng cách nào? Nếu không kiết tập bằng văn tự thì dĩ nhiên bằng khẩu truyền, tức bằng hình thức thầy đọc lên cho đệ tử nghe, đệ tử ghi nhớ và học thuộc lòng. Cứ thế truyền đi từ người này đến người khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Cách ghi nhớ và học thuộc lòng đó là cách truyền thừa Phật pháp sau khi Phật nhập diệt, kéo dài hơn 200 năm. Cách đó cũng đã được ghi lại khá nhiều nơi trong kinh điển A-hàm hay Nikāya. Để làm sáng tỏ vấn đề, ở đây xin trích dẫn một đoạn kinh trong “Kinh Tăng Chi Bộ” (AguttaraNikāya) như sau:
“Ở đây, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo học thuộc lòng kinh, được lãnh thọ sai lầm, với văn cú sắp đặt bị đảo lộn. Do văn cú bị sắp đặt đảo lộn, này các Tỷ-kheo, nên nghĩa lý bị hướng dẫn sai lạc. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ nhất đưa đến Diệu pháp hỗn loạn và biến mất.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, đối với các Tỷ-kheo nghe nhiều, thông hiểu các tập A-hàm, bậc trì Pháp, trì Luật, trì toát yếu. Các vị ấy không nói lại kinh cho người khác một cách cẩn thận. Khi họ mệnh chung, kinh bị cắt đứt tại gốc rễ, không có chỗ y cứ. Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ ba đưa đến Diệu pháp hỗn loạn và biến mất.”
Trong đoạn kinh thứ nhất, giải thích lý do tại sao đạo lý (diệu pháp) của lời Phật dạy bị biến mất, đó chính là sự học thuộc lòng kinh mà được lãnh thọ sai lầm.
(…)
Thế thì kinh điển được kiết tập sau 218 năm đó có giữ được nguyên vẹn từ kim khẩu đức Phật giảng dạy khi Ngài còn tại thế không, chắc chắn còn khá nhiều vấn đề để chúng ta cùng nhau nghiên cứutìm hiểu.
Phần tiếp theo:
Sự xuất hiện Kinh Điển Đại Thừa
(…)
Lý do thứ hai, nếu cho rằng kinh điển Đại thừa thường đề cập những vấn đề siêu hình mang tính thần thoại, mô tả đức Phật như là vị thần, từ đó đi đến kết luận kinh điển này không phải do Phật thuyết, không cần xem xét về mặt tư tưởng của nó. Thế thì ở đây tôi xin đặt vấn đề: ‘Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp’ (Acchariya-abbhùtadhamma sutta) số 123, trong “Trung Bộ Kinh” (Majjhima Nikaya), rõ ràng nội dung kinh này mô tả đức Phật mang tính thần thoại[1]. (…). Ở đây tôi xin nói rằng, Phật giáo Đại Chúng Bộ dựa vào nội dung tư tưởng của ‘Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp’ này mà thành lập quan điểm tư tưởng của mình. (…).
Niên đại xuất hiện Kinh điển Đại thừa
(…)
Thích Hạnh Bình
(Tuệ Chủng)

Nguồn: http://thuvienhoasen.org/a16181/kinh-dien-dai-thua-co-phai-do-phat-thuyet-khong.

9)- Mời tham khảo thêm:

Tinh Thần Phá Chấp Của Ngài Achaan Chah 

(Trăng Soi Đáy Nước; Vương Tinh Phàm; NXB Hải Phòng, 2007)
Thiền sư Achaan Chah thuộc Phật giáo Nam tông (Theravada), một hôm ngài nói với một vị tăng đi thuyết giảng Phật pháp ở phương Tây: “ Tại sao thầy không nói với họ Đạo pháp thầy nói ra đó là (tinh thần) Thiên Chúa? Người phương Tây sẽ không hiểu gì nếu thầy nói về Phật Thích Ca”. (Trang 136).
Một người hỏi ngài:
Môn đệ của ngài có học về Duy thức?
– Tất nhiên là có chứ.
– Họ nên học bộ sách nào là tốt nhất?
– Chỉ có ở đây. (Ngài vừa nói vừa chỉ vào trái tim mình). Chỉ có ở đây, không đâu khác. (Tr. 136).

Ngài nói: “Mọi tôn giáo đều có ý nghĩa chân thật, trong đó có đạo Phật. Tôn giáo nào cũng đưa con người đến với hạnh phúchạnh phúc đó phải bắt nguồn từ một cái nhìn chân thật, trong sáng về mọi bản chất của sự vật…”. (Tr. 156).

Khi Đức Phật còn tại thế, ngài yêu cầu các tăng sĩ thực hành một số nghi thức để ban phước lành và cầu an cho một số tín đồ tại gia mỗi khi họ gặp khó khăn. (Tr. 140).

10)- Xin được thêm vào đây bài tản bút của tôi:
THAY LỜI CẢM TẠ BẬC MINH SƯ VĨ ĐẠI
(Tản bút)


Đức Phật Thích Ca – một trong những minh sư vĩ đại
(Xin nhấn mạnh: “một trong”, chứ không phải là “duy nhất”)
Tôi nhớ (đại khái) những lời minh triết của Ngài
Ngài nói: Hãy tự thắp đuốc lên mà đi!
Ngài nói: Đừng vội tin bất cứ gì, ngay cả lời của Phật
Ngài nói: Chân líchân lí, ai nói cũng vậy thôi
Ngài nói: Những điều tôi đã dạy, chỉ ít ỏi như một nắm lá giữa rừng
Ngài nói: Đường tu tập có hơn tám vạn bốn nghìn pháp môn
Ngài nói: Chia sẻ đạo lí, phải biết khế lí khế cơ
Ngài nói: Phải biết quý dù là điều thiện nhỏ
Ngài nói: Phải biết vui theo công đức của người khác
Ngài nói: Phải mẫn cảm từ bi với bể khổ chúng sinh
Ngài nói: Đừng chấp thủ “hơn thua” về ngôn từ, hình tướng
Ngài nói: Mục tiêu cuối cùnggiải thoát vô minhcố chấp nhân-ngã
Ngài nói: Phải tu tâm để có tâm thái thiện ích-hòa bình
vân vân, vân vân…

 

Tôi cảm động với những lời minh triết
Nên không kì thị tôn giáo này tôn giáo kia
Tôn kính mọi tôn giáovăn hóa có những điều hướng thiện tâm linh
Tôn giáo nào cũng có những lỗi lầm và có những điều đáng học
Kinh luận nào, triết lí nào cũng “tam sao thất bổn”…
Tôi biết minh sư vĩ đại nhất của chính mình
Là tự tri-tỉnh thức
Để giải thoát khỏi những khuôn đúc của cái “tôi”
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã”
Là mẫu số chung của đạo của đời (*)
Là ngọn đuốc soi đường, biết tùy duyên-bất biến…

 

Tôi cảm động với những lời minh triết
Nên tôn kính Phật giáo nguyên thủy
Cũng như tôn kính Phật giáo đại thừa (phát triển)
Tôn kính Mật tông, Thiền tông, Tịnh độ tông…
tôn kính mọi giao thoa văn hóa hướng thiện tâm linh
Biết chân lícủa chung
Nên ung dung Chân-Thiện-Mĩ trên mọi nẻo đường thuận-nghịch
Trong hữu tướng, biết mục tiêu vô tướng
Trong hữu hạn, biết sống với Vô Cùng
Cùng bạn lữ trên đường về Tối Thượng
Tin yêu mọi người cùng hướng thiện tâm linh
Chia sẻ thiện lành cùng tất cả chúng sinh.

 
**
(*): -“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ,
là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền;
mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ,
cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
-“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất
của chính mình. 

(Đường Về Minh Triết; Tuệ Thiền Lê Bá Bôn; Hoavouu.com). 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 65)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 144)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 223)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 188)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 718)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 798)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 801)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 684)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 793)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 676)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 683)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1087)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1087)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1232)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1318)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1062)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 918)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1042)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1078)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1238)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1255)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1149)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant