Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 35

17 Tháng Chín 201417:07(Xem: 8079)
Quyển 35

 

Đại Tạng No. 1451

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

- Mùla-Sarvàstivàda -

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

- Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -

(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Đường, Trung Quốc

Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998

 Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự

 

Quyển thứ ba mươi lăm

 

--- ooOoo ---

 

Tiếp theo nhiếp tụng chín trong biệt môn tám (nói về Bà-la-môn Diệu-hoa).

 

Khi ấy, Thế Tôn suy nghĩ: "Đến đây, muốn xem ba mươi hai tướng của Ta, thanh niên Thọ-Sinh này đã thấy ba mươi tướng nhưng còn nghi về hai tướng lưỡi và âm tàng vì chưa được thấy. Ta hãy phương tiện hiện tướng kín để cho họ thấy".

 

Sau khi hiện tướng kia rồi, Thế Tôn lại le lưỡi đến tận chân tóc, che khắp cả mặt.

 

Thấy như vậy, Thọ Sinh suy nghĩ:

 

- Sa-môn Kiều Đáp Ma đầy đủ các tướng tốt, như vậy có hai trường hợp, sống tại gia làm Luân vương, xuất gia thành bậc Chánh-giác ... cho đến danh tiếng vang khắp nơi.

 

Với tâm rất hoan hỷ, thanh niên ấy lễ Phật rồi từ giã.

 

Trong khu vườn nọ, Bà-la-môn Diệu Hoa đang ngồi đàm luận cùng các vị kỳ túc để trông chờ Thọ Sinh. Khi trông thấy, Thọ Sinh đến lạy sát chân Diệu Hoa cùng các vị tôn túc khác rồi ngồi qua một bên. Diệu Hoa bảo:

 

- Này thanh niên, Kiều Đáp Ma có tiếng khen tốt vang khắp mười phương, đủ các tướng tốt, sự việc ấy đúng không?

 

Đáp:

 

- Thưa đại sư, những điều tán dương ấy đều là sự thật.

 

Hỏi:

 

- Ngươi có đàm luận cùng với ông ấy không?

 

Đáp:

 

- Thưa có.

 

Hỏi:

 

- Ngươi hãy tuần tự trình bày hết lại cho ta nghe những điều đàm luận ở đó.

 

Thọ Sinh đem hết những điều đã đàm luận với Thế Tôn thưa lại cho Diệu-Hoa nghe. Nghe nói xong, Diệu Hoa rất phẫn nộ, lấy chân đạp trên đầu Thọ Sinh, giận nói:

 

- Giỏi thay cho sứ giả đã làm việc ấy, khiến cho thân ta bị chìm đắm trong đường ác. Như khi cùng vị ấy đàm luận, ngươi đã có những sai trái. Theo sự dẫn chứng của vị ấy, ta cũng có lỗi lầm đó. Lúc này, trời đã xế chiều, không thể đến thăm hỏi cung kính, chờ đếùn sáng mai, ta sẽ đích thân đến.

 

Ngay đêm ấy, Diệu Hoa liền làm các món ăn uống thơm ngon. Vừa sáng sớm, ông ta dùng xe vận tải những thứ ấy đến chỗ Thế Tôn. Sau khi chào hỏi ngồi qua một bên, ông ta thưa với Phật: - Thế Tôn! Con làm các món ăn thanh tịnh cho Kiều Đáp Ma, đã mang đến đây, xin Ngài từ bi thương tưởng nhận cho.

 

Khi ấy, đức Phật bảo A Nan Đà đang quạt sau lưng cho Ngài mát:

 

- Ông hãy bảo tất cả các Bí-sô trong tụ lạc này tập họp hết trong trai đường.

 

Sau khi đi bảo các Bí-sô tập trung hết trong trai đường, A Nan Đà trở lại bạch Phật:

 

- Mọi người đã tập họp, xin Ngài định liệu.

 

Sau khi đến nơi, Thế Tôn an tọa.

 

Thấy Thế Tônchư Tăng đã an tọa, Bà-la-môn đích thân bưng các món ăn ngon hai tay dâng lên đức Phậtchư Tăng. Sau khi thọ trai, đại chúng xỉa răng, rửa tay, thu xếp bát. Diệu Hoa đặt một chỗ ngồi nhỏ trước đức Phật để nghe giáo pháp.

 

Sau khi thọ trai của Bà-la-môn Diệu Hoa dâng cúng, nói lời chúc phúc xong, Thế Tôn nói kệ:

 

    Tế tự, lửa hơn hết,

    Đề sách dẫn đầu sách,

    Vua đứng đầu toàn dân,

    Biển lớn nhất các dòng,

    Các sao, trăng sáng nhất,

    Ánh mặt trời sáng nhất,

    Trong phàm Thánh mười phương,

    Đức-Phật là tốt thượng.

    Những người có bố thí,

    Tất được quả lợi ích,

    Cố ý vui bố thí,

    Sau tất được an lạc.

 

Khi nghe Phật dạy kệ này, trong chúng có một Bí-sô già cả, tuy đã ăn no nhưng vẫn nhai thêm bánh khô làm vang lên tiếng lớn. Thấy vậy, Bà-la-môn bạch Phật:

 

- Thanh văn đệ tử của Kiều Đáp Ma có làm theo lời dạy không?

 

Phật đáp:

 

- Này Bà-la-môn, có người làm theo, có người không làm theo.

 

Hỏi:

 

- Này Kiều Đáp Ma! Ở đây có người ưa pháp, có kẻ tham ăn. Đệ tử của con tên Thọ Sinh có đến gặp Phật và đàm luận không?

 

Đáp:

 

- Người ấy có đến bàn luận sơ qua với Ta.

 

Hỏi:

 

- Xin Ngài kể lại những lời vấn đáp đàm luận với Thọ Sinh cho con nghe.

 

Sau khi nghe Phật tuần tự kể lại sự việc trên, Bà-la-môn bạch Phật:

 

- Thưa Kiều Đáp Ma, Thọ Sinh ấy hiểu biết nông cạn nên tâm kiêu mạn, không biết kính sợ, xúc phạm tôn nhan, xin Ngài từ bi tha thứ lỗi cho hắn.

 

Phật bảo Bà-la-môn:

 

- Ta đã dung thứ.

 

Bà-la-môn lại bạch Phật:

 

- Thưa Kiều Đáp Ma! Khi con đang đi xe mà kềm dây cương ngựa lại, hoặc giơ roi hét lớn, ngay khi ấy, xin biết cho con là Bà-la-môn Diệu Hoa đảnh lễ dưới chân Phậtthăm hỏi Ngài không bệnh, không khó chịu, sinh hoạt thoải mái, khỏe mạnh an ổn không?

 

Lại nữa, thưa Kiều Đáp Ma! Nếu Ngài thấy con đang đi bộ mà bỏ giày dép ra hoặc tránh qua một bên đường hoặc đưa tay, ngay khi ấy cũng như trước, xin biết cho con đang biểu lộ sự kính chào. Lại nữa, thưa Kiều Đáp Ma! Khi thấy con đang nói chuyện giữa đồ chúng của mình mà dời chỗ ngồi hay trịch áo trên ra, hoặc lấy khăn đội đầu xuống, ngay khi ấy cũng như trước, xin biết cho con đang biểu lộ sự kính chào. Vì sao?

 

- Thưa Kiều Đáp Ma! Pháp Bà-la-môn của con rất cần danh tiếng, những y phục, thức ăn, dụng cụ đều nhờ vào danh tiếng mà được, thế nên nhờ vào đó mà con giữ được đồ chúng.

 

Khi ấy, Thế Tôn suy nghĩ: "Bà-la-môn này rất là cao mạn, Ta hãy thuyết pháp để dẹp tâm kiêu mạn ấy".

 

Thế Tôn tuyên dương giáo pháp làm cho vị ấy lợi ích hoan hỷ. Cũng như thường pháp, Thế Tôn tuần tự thuyết minh rộng về những pháp bố thí, trì giới; năm dục có ít vị ngọt mà nhiều tội lỗi gây phiền não nhiễm ô làm trầm luân trong sinh tử, nên cầu xuất ly đạt đến Niết-bàn thanh tịnh. Biết vị kia đã ưa thích hoan hỷ, phát tâm thanh tịnh, có thể làm bậc pháp khí thọ trì được sự việc thù thắng, nên Thế Tôn lại giảng rộng về pháp bốn Thánh-đế: Khổ - Tập - Diệt - Đạo.

 

Như tấm vải sạch rất dễ nhuộm màu, ngay tại chỗ ngồi Bà-la-môn chứng tri đế-lý, không còn nghi hoặc, chứng quả dự-lưu, rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, lạy trước đức Phật thưa:

 

- Con đã được xuất ly, xin quy y Phật, Pháp, Tăng, thọ trì năm học xứ, xin chứng nhận cho con là cận sự nam với đầy đủ niệm thanh tịnh.

 

Sau đó, Diệu Hoa lạy sát chân Phật rồi từ giã.

 

Đức Phật suy nghĩ: "Bà-la-môn ấy chê trách thật đúng, vì khi nói kệ chúc phúc bố thí, Bí-sô già kia vẫn tiếp tục ăn. Thế nên, trong lúc ấy không được ăn".

 

Ngài bảo các Bí-sô:

 

- Bà-la-môn ấy chê trách đúng, vì khi nói kệ chúc phúc bố thí, Bí-sô già ấy vẫn tiếp tục ăn nên gây ra sự chê bai. Khi có Bí-sô nào đang nói kệ chúc phúc bố thí, ai vẫn tiếp tục ăn, bị tội vượt pháp.

 

Như Phật chế định không được ăn trong khi nói kệ chúc phúc bố thí, có người vì không dám ăn nhanh, đến cuối bữa cũng chưa ăn xong nên bị qua giờ ăn. Phật dạy:

 

- Nếu khi có Bí-sô nói kệ chúc phúc bố thí, người không nghe tiếng, không hiểu nghĩa, được ăn không phạm. Nếu có nghe tiếng nhưng không hiểu nghĩa, ăn cũng không phạm. Người nghe tiếng, hiểu nghĩa mà cứ ăn, bị tội vượt pháp.

 

Như Thế Tôn dạy:

 

- Nghe tiếng hiểu nghĩa không được ăn, ở trú xứ nọ có nhiều Tăng chúng ở, họ sai dọn ăn ngược từ dưới lên trên. Ở trên, nghe tụng kệ phúc chúc nên họ đều không dám ăn, bị qua giờ ăn. Phật dạy: - Trường hợp này nghe tiếng hiểu nghĩa đều không nên ăn, chờ nói hai ba câu xong, sau đó ăn không lỗi.

 

Đức Phật ở rừng Thi Lộc, Tiên nhân đọa xứ, thuộc Ba La Ny Tư . Vào buổi sáng, Thế Tôn mặc y mang bát vào thành khất thực. Nhiều Bí-sô cũng đi khất thực. Đến khu vườn nọ, có người đứng lại vì nhìn thấy nam nữ nên phát sinh tư tưởng xấu đưa đến ý niệm tà dục. Thấy Bí-sô đang có tà niệm tương ưng với bất thiện, Thế Tôn đến gần bên bảo:

 

- Này Bí-sô, ngay trong thân mình, ông đang trồng hạt giống khổ và chảy ra phẩn hôi thúi mà ruồi trùng không ăn, thật không có như vậy.

 

Nghe nói như vậy, Bí-sô suy nghĩ:

 

- Thế Tôn đang biết tà tâm của ta.

 

Vị ấy rất sợ hãi, lông toàn thân dựng đứng, vội đi ra khỏi vườn.

 

Đức Phật suy nghĩ: "Bí-sô đứng lại ở nơi không được dừng nên gây ra lỗi như vậy".

 

Sau khi khất thực, trở về chỗ ở, thọ trai xong, thu xếp y bát, rửa sạch chân, Thế Tôn vào phòng ngồi yên tịnh. Vào buổi chiều, sau khi xuất thiền, Thế tôn đến ngồi giữa Tăng chúng, bảo các Bí-sô:

 

- Vừa rồi, Ta vào thành để khất thực, thấy một Bí-sô cũng đang khất thực đi đến một khu vườn phát sinh tư tưởng xấu và ý niệm tà dục. Khi biết người ấy có ác niệm, Ta đến bên cạnh bảo rằng:- Này Bí-sô! Bí-sô! Chính thân ông đang trồng hạt giống khổ và chảy ra phẩn hôi hám mà ruồi trùng không ăn, thật không có việc ấy.

 

Nghe Ta nói như vậy, với ý nghĩ rằng Thế Tôn đang biết tâm xấu của ta, lông toàn thân người ấy dựng đứng và đi vội ra khỏi khu vườn. Thế nên, Bí-sô không nên dừng lại ở nơi không nên đứng. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Nghe Phật nói như vậy, có một Bí-sô rời khỏi chỗ ngồi đảnh lễ sát chân Phật, thưa:

 

- Đại đức Thế Tôn! Trong thánh giáo, hạt giống khổ ác là gì? Phẩn hôi chảy ra, ruồi trùng đều ăn là gì?

 

Phật dạy:

 

- Này Bí-sô! Hạt giống khổ là ba loại pháp gây ra tội ác do suy nghĩ sai quấy bất thiện. Ba pháp là gì? Đó là suy nghĩ ác dục, suy nghĩ sân hận, suy nghĩ sát hại. Phẩn hôi chảy ra, ở đây phẩn hôi là năm dục sắc, thanh, hương, vị, xúc; chảy ra là dục trói buộc tâm nên năm căn chạy theo năm cảnh lưu động không ngừng. Ruồi trùng nghĩa là thế gian đối với sáu xúc xứ không có tâm chế ngự nên phát sinh tham sân ... ưu bi khổ não gây ra các nghiệp tội ác.

 

Thế Tôn nói kệ:

 

    Không hộ trì mắt tai ...

    Bị ái dục lôi kéo,

    Trồng giống khổ trong thân,

    Hôi thúi thường chảy ra.

    Ai sống trong làng xóm,

    Hay trong chỗ yên tịnh,

    Nhưng cả ngày và đêm,

    Không tư duy chánh pháp,

    Luôn với ý niệm ác,

    Nên suy nghĩ bất thiện,

    Rời xa duyên lạc trú,

    Sẽ nhận quả báo khổ.

    Người nào hành thiền định,

    Tu tập tuệ thù thắng,

    Thường được mắt an ổn,

    Không bị khổ ruồi trùng.

    Thân cận với bạn lành,

    Lời dạy bậc hiền trí,

    Ai học được như vậy,

    Sẽ không còn tái sinh.

 

Như Thế Tôn dạy:

 

- Bí-sô không được đứng nơi phi pháp, họ không biết thế nào là nơi phi pháp?

 

Phật dạy:

 

- Nơi phi pháp có năm là: nhà ca hát, nhà dâm nữ, nhà bán rượu, nhà vua chúa, nhà Chiên Trà La. Đó là năm nơi không nên đi đến.

 

 

 

Nhiếp tụng mười trong biệt môn tám.

 

    Do xà quán ngọa cụ,

    Nhất y bất vi lễ,

    Sơ chí tự trung thời,

    Lão niên ưng lễ tứ.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Đang giữ ngọa cụ của bạn thân gửi, muốn du hành, Bí-sô nọ vẫn để yên ngọa cụ ấy tại chỗ cũ chứ không xử dụng. Khi ấy, đến tìm chỗ ở nên rắn độc cuộn mình nằm dưới tấm nệm. Có Bí-sô khách đến trú ở đây. Sau khi ổn định, vị này đi lễ tháp Phật cùng Bí-sô khác, đến chiều thì về phòng. Bí-sô cựu trú bảo:

 

- Cụ thọ! Đây là nước, bột tẩy, đèn, dầu, trước hết trải ngọa cụ.

 

Do đi đường mệt nhọc nên sau khi rửa chân, vị ấy nằm ngủ yên. Do nghiệp lực không xem ngọa cụ ở đời trước nên khi ngủ say vị này đè trên rắn độc kia. Vùng ra khỏi tấm nệm, rắn mổ Bí-sô. Quá đau đớn, Bí-sô lăn lộn trên rắn. Một lúc sau, cả hai đều chết.

 

Sáng hôm sau, chủ nhân đến gọi, nhưng Bí-sô kia đã chết không thể cứu được. Chủ nhân tưởng rằng đi lại mệt mỏi nên ngủ say, sau khi đã giấc, vị ấy sẽ thức dậy.

 

Đến giờ ăn, chủ nhân lại đến gõ cửa, gọi:

 

- Hãy thức dậy, sắp đến giờ thọ trai.

 

Không nghe đáp lại, chủ nhân mở khóa vào phòng, thấy vị kia đã chết. Kéo tấm nệm ra, vị này thấy có rắn chết. Cùng đến xem, biết rõ vị này bị rắn cắn chết, mọi người đem sự việc bạch Phật. Đức Phật suy nghĩ: "Do không xem xét ngọa cụ nên người kia bị chết như vậy".

 

Ngài bảo các Bí-sô:

 

- Ngọa cụ nhận của người gửi, nên giao cho tri-sự, hoặc tùy lúc tự đem phơi nắng, đặt trên giá cao, buộc chặt đừng cho rơi xuống. Ai muốn dùng ngọa cụ để n?m ngủ, cần xem xét kỹ.

 

Ban đêm, họ dùng đèn để rọi xem, Phật dạy:

 

- Không được như vậy, nên dự bị xem trước vào ban ngày.

 

Bấy giờ, không xem xét cũ mới, các Bí-sô đều lật xem hết. Phật dạy:

 

- Cần xem cái cũ, không nên lật cái mới. Có nệm vải phải thường xuyên đập giũ, ai không làm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Có hai Bí-sô cùng ở chung một phòng. Một Bí-sô độ một đệ tử trẻ tuổi. Người đệ tử này ngủ nhiều thức ít nên thường bị thầy quở trách. Một hôm, khi gần sáng, bỗng nhiên người đệ tử này giật mình thức dậy, đi đến gặp thầy nhưng chỉ mặc Tăng-khước-chi. Vị thầy đứng dậy, muốn mặc hạ y. Đến gần thầy, lạy sát chân rồi ngửng lên, vì mới cạo tóc nên đầu người đệ tử mắc vào hạ y của thầy. Đội cả tấm y như vậy, người đệ tử ngã lăn ra đất làm cho cả hai thầy trò đều bị lộ hình. Thấy vậy, Bí-sô kia nói:

 

- Cụ thọ, đến nay tôi mới biết các vị là đàn ông đầy đủ nam căn.

 

Bấy giờ, cả hai thầy trò đều mắc cở, im lặng bỏ đi. Sau đó, người đệ tử bị thầy quở trách. Thấy vậy, các Bí-sô hỏi:

 

- Ông có lỗi gì mà thường bị thầy giận như vậy.

 

Đáp:

 

- Trước đây giận có lý do, nay không lỗi gì. Tình nghiã thầy trò không còn nữa, tôi ra đi đây.

 

Họ lại hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Sau khi nghe người kia kể lại, họ bảo:

 

- Cụ thọ! Ông có lỗi, bị quở trách thật đúng.

 

Nghe nói, người này phải im lặng.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Vị thầy kia chê trách thật đúng pháp".

 

Ngài bảo các Bí-sô:

 

- Từ nay về sau không được chỉ mặc một y mà làm lễ người khác. Ai vi phạm, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên khởi tại thành Vương Xá. Như Thế Tôn dạy, đối với Bí-sô khác nếu họ không đến làm lễ ra mắt thì không thu xếp chỗ nghỉ cho họ.

 

Bấy giờ, có nhiều Bí-sô từ nơi khác đến làm lễ tháp. Không có ai thu xếp chỗ nghỉ nên họ ở tùy tiện như bị tẫn xuất. Có người ở trước hiên, ở dưới cửa, ở dưới gốc cây. Thấy vậy, các cư sĩ Bà-la-môn có tín tâm hỏi:

 

- Thánh giả! Vì sao bị đuổi mà phải ở như vậy?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Không phải bị đuổi, tôi là khách mới đến.

 

Bà-la-môn nói:

 

- Như vậy sao không ở trong phòng?

 

Đáp:

 

- Tôi không có người quen, ai lại cho ở! Vì lễ bái tháp Phật nên đến đây ở tạm thời gian ngắn rồi trở về.

 

Nghe nói như vậy, mọi người đều chê trách: - Tôi đã nghe Sa-môn Thích tử có tính bình đẳng vậy mà có hành động bình đẳng chỗ nào đâu. Thấy khách đồng tu vừa đến, họ không cho ở.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Từ nay trở đi, khách Tăng khi đến chùa, trước tiên phải làm lễ vị kỳ túc, nên với bốn vị. Chủ chùa nên có lòng tốt theo pháp cho họ ở.

 

Một lúc khác. Có Bí-sô khách du hành nhân gian. Trời sắp về chiều, vị này đến thành Vương-xá. Biết Phật có chêù định phải làm lễ vị trưởng lão trước nên vị này hỏi các Bí-sô:

 

- Tôn giả Kiều Trần Như đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Đang ở trong vườn Trúc Lâm.

 

Nghe tiếng vị này gõ cửa phòng mình, tôn giả Kiều Trần Như hỏi:

 

- Ai đó?

 

Đáp:

 

- Con là khách Tăng.

 

Tôn giả cho vào để vị kia nghỉ ngơi. Khách Tăng hỏi:

 

- Tôn giả Đại Ca Diếp đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ, vị ấy đang ở hang Tất Bát La.

 

Theo lời chỉ dẫn, khách Tăng đến nơi chào hỏi như trước đây.

 

Tôn giả gọi vị ấy vào để thăm hỏi và nghỉ ngơi. Khách Tăng hỏi:

 

- Tôn giả Chuẩn Đà đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Vị ấy đang ở núi Thứu Phong.

 

Khách Tăng đến nơi thăm hỏi. Tôn giả gọi vào cho nghỉ ngơi như trước. Khách Tăng hỏi:

 

- Tôn giả Thập Lực Ca Diếp đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Vị ấy đang ở hang Tế Nhĩ Ca.

 

Đến nơi, sau khi khách Tăng chào hỏi, tôn giả bảo nghỉ ngơi. Khách Tăng thưa:

 

- Trời đã sáng rồi, phải đi khất thực, không thể nghỉ lại.

 

Tôn giả nói:

 

- Như Thế Tôn dạy khách Tăng đến nơi, trước tiên phải làm lễ bốn vị kỳ-túc. Đấy là phương tiện sửa trị người khách bằng cách gây khó khăn.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trước đây, Ta nào có bảo Bí-sô khách làm lễ hết các vị tôn túc đâu, chỉ khiến họ làm lễ bốn vị kỳ túc tại chỗ.

 

Nội nhiếp tụng:

 

    Thế Tôn vi cao thắng,

    Quảng thuyết đệ tử hành,

    Hành vũ vấn đại sư,

    Vi thuyết thất lục pháp.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Vào xế chiều, sau khi xuất thiền, cụ thọ Cao Thắng đến gặp đức Phật, lạy sát hai chân rồi ngồi qua một bên, thưa:

 

- Xin Thế Tôn dạy về những pháp phải làm của người đệ tử phục vụ thầy.

 

Phật dạy Cao Thắng:

 

- Ông hãy lắng nghe, đối với thầy mình, đệ tử phải luôn cung kính và có tâm sợ sệt, không vì tiếng khen, không cầu lợi dưỡng, phải dậy sớm đích thân thăm hỏi hai thầy về sức khỏe của thân thể, an ổn khi đi lại, dọn dẹp vật đựng tiểu tiệnxoa bóp cho thầy. Nếu thầy nói có bệnh nên hỏi rõ và đến gặp y sĩ để nói rõ căn bệnh và yêu cầu họ điều trị. Theo sự chỉ dẫn của y sĩ mà chữa trị cho thầy. Nếu thầy có sẵn thuốc thì dùng để chữa trị, nếu không có thì hỏi người thân cận. Nếu nhiều thân quyến nên hỏi thầy cần xin với ai. Nghe thầy nói xong, học trò làm theo đúng lời dạy. Nếu khôngthân quyến nên đến nhà khác xin thuốc theo lời chỉ dẫn. Hoặc đến bệnh viện hay nơi phát thuốc miễn phí. Nếu không có những nơi này, nên theo khả năng của mình cung cấp thức ăn uống cho thầy an ổn.

 

Khi bệnh đã hết, dâng cây chà răng cho thầy. Khi thầy muốn đến nơi đánh răng, nên quét dọn sạch trước và làm nền, bố trí chỗ ngồi, đặt bình nước đầy, bột rửa, đất vụn, cây chà răng sạch, cây nạo lưỡi. Sau khi thầy làm vệ sinh xong, thu dọn những vật cần thiết. Nếu thầy đau mắt, học trò nên hỏi thầy thuốc để làm thuốc nhỏ mắt. Thứ đến dâng y phục để thầy mặc, xếp cất y khác, không để lẫn lộn.

 

Khi thầy đang lễ tháp, nên vào phòng rưới nước quét dọn cho sạch. Nếu có bụi bặm nên dùng phân bò trát láng hay lá xanh quét sạch. Thứ đến lễ bái tôn tượng và thầy mình hoặc thăm hỏi và thưa các việc. Mỗi ngày, lễ bái ba lần tùy theo sức mình, đối với các vị đồng phạm hạnh cũng nên biểu lộ sự kính lễ. Thứ đến là phải siêng năng tọa thiền, đọc tụng. Mỗi nữa tháng, đích thân xem xét và đem chiếu ra phơi.

 

Đến bữa ăn nên rửa hai bát. Nếu là Bí-sô khất thực, mình ôm bát nặng, cái nhẹ đưa cho thầy. Khi trời lạnh, đem Tăng-già-chi dầy đưa thầy đắp, còn mình đắp cái mỏng. Khi trời nóng, mình xử dụng cái dầy, đưa thầy cái mỏng. Khi đi ngược gió, thỉnh thầy đi trước, mình đi sau. Khi đi thuận gió, mình đi trước, thỉnh thầy đi sau. Qua sông, nước, dìu thầy đi qua. Khi đi khất thực, nên hỏi thầy cần đi chung hay đi riêng. Nếu thầy bảo đi chung, phải tuân lời.

 

Nếu được bột khô, đậu, bánh, các loại nước ép chua thì để vào bát mình. Nếu được sữa, bơ, đường phèn, bánh, cơm, đường cát ... thì đặt vào bát thầy. Khất thực xong, trở về chỗ cũ, dọn dẹp hai chỗ nhỏ trải lá, Bố trí hai chỗ ngồi để ăn cơm. Nếu đi riêng, sau khi khất thực xong, đem đến trình cho thầy biết thức ăn nhận được, cần gì thầy lấy. Vị thầy nên nhận vừa đủ dùng.

 

Nếu ở trong chùa, đệ tử nên rửa vật để đựng trước rồi đến nhà bếp hỏi tri-sự đang làm món ăn uống gì cho Tăng. Sau khi được tri sự cung kính báo cho biết, vị này trở về thưa với thầy những món ăn của Tăng trong hôm nay và thưa thầy có lấy không rồi theo lời dạy mà mang về. Thầy nên xem xét để nhận vừa đủ dùng và đúng lúc. Chỗ hai vị thầy tắm rửa, nên quét dọn sạch và làm nền cao, bố trí ghế nhỏ và vật đựng nước, bột rửa, cây chà răng để xử dụng đúng pháp. Nếu thầy cần rửa chân, nên làm cho thầy, hoặc chỉ dùng nước, hoặc có thể dùng dầu thoa, dùng bột để kỳ cọ, sau đó lấy nước rửa rồi trao dép da, hỏi thầy về chuyện ăn uống, lại hỏi ở chỗ này nên tu tập về thiện pháp gì và cần đi đến chỗ yên tịnh khác không. Nếu vị thầy bảo cần đến trú xứ ấy ngay ban ngày, nên mang vật để ngồi đến và quét dọn nơi ấy cho sạch sẽ; thường xuyên dùng phân bò để trát nền.

 

Nếu trò học kinh thì thầy dạy họ đọc. Nếu trò học thiền quán thì dạy họ tác ý. Nếu khi trở lại nên xem xét chỗ nằm. Trước tiên, rửa sạch chân, lễ bái tôn tượng và các vị đồng phạm hạnh tùy theo sức mình, xếp đặt chỗ ngồi cho thầy và rửa chân như trước. Trời lạnh nên chú ý làm nước nóng; trời nóng nên quạt cho mát. Thầy cũng phải biết thời giờ để bảo họ tu tập chớ để uổng phí thời gian. Khi cần sắm y bát ... làm những việc cần gì, phải làm cho thầy trước, làm cho mình sau.

 

Phật dạy:

 

- Này Cao Thắng! Ngươi phải biết các đệ tử môn nhân của chúng Bí-sô nên phục vụ hai thầy, xem như cha mẹ. Đối với đệ tử, thầy cũng xem như con. Nếu có đau bệnh phải săn sóc nhau đến hết bệnh hay đến chết mới thôi. Ta đã lược nói về sự việc ấy, ngươi hãy làm đúng như vậy. Ai không làm theo những sự việc như thế, bị tội vượt pháp.

 

Đối với thầy, nếu đệ tử nào phục vụ với tâm kính thuận như vậy, thì hay làm cho thiện pháp phát triển không ngừng cũng như hoa sen ở trong nước tăng trưởng mãi suốt ngày đêm. Thế nên các ông phải học như vậy.

 

Bấy giờ, cụ thọ Cao Thắng và các Bí-sô nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

 

* Phật ở núi Thứu Phong, thành Vương Xá. Vua Vị Sinh Oán nước Ma Yết Đà chống lại nước Phật-Lật Thị. Trước mọi người, nhà vua tuyên bố:

 

- Nước An Ổn Phong Lạc nghịch mạng, ta muốn hưng binh đến trị tội làm cho chúng tan tành.

 

Nhà vua lại bảo đại thần Bà-la-môn Hành Vũ:

 

- Khanh hãy đến đảnh lễ sát chân Phật, thay mặt ta thăm hỏi về sinh hoạtsức khỏe của Ngài có an ổn không?

 

Sau đó, thưa rằng:

 

- Đại đức! Vua Vị Sinh Oán tuyên bố trước mọi người, nước Phong Lạc nghịch mạng, ta muốn hưng binh đến trị tội làm cho chúng tan tành. Thế Tônđồng ý không? Hãy ghi nhớ những điều Thế Tôn dạy, đem về trình lại cho ta. Vì sao? Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri không nói lời hư vọng.

 

Tuân lệnh vua, Hành Vũ cỡi xe ngựa trắng, cầm gậy vàng, mang theo bình vàng, ra khỏi thành Vương Xá, đi gặp đức Phật. Đến chỗ xuống xe, ông ta đi bộ lên núi Thứu Phong. Gặp Thế tôn, ông ta cung kính thăm hỏi, ngồi qua một bên thưa:

 

- Vua Vị Sinh Oán nước Ma Yết Đà đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, thăm hỏi Ngài sinh hoạtthoải mái, sức khỏean ổn không?

 

Nghe thăm hỏi như vậy, Thế Tôn bảo Bà-la-môn:

 

- Cầu chúc vua và ngài khỏe mạnh an lạc.

 

Sau đó, Bà-la-môn đem lời của vua ra trình bày với Phật và xin Ngài ban cho lời chỉ dẫn. Phật bảo:

 

- Này Bà-la-môn! Ta không ở lâu tại nước Phật Lật Thị, chỉ an cư nơi đó ba tháng. Khi ấy, Ta có tuyên thuyết bảy pháp bất thối cho mọi người.

 

- Này Bà-la-môn! Khi nhân dân nước ấy thi hành bảy pháp bất thối thì đất nước và nhân dân ngày càng thịnh vượng, thiện pháp không bị suy giảm.

 

Bà-la-môn thưa:

 

- Con chưa được hiểu biết về diệu phápĐại đức đã chỉ dạy, xin Ngài từ bi giảng rõ để con được thông suốt.

 

Khi ấy, Thế Tôn nói với cụ thọ A Nan Đà đang đứng quạt sau lưng:

 

1. - A Nan Đà, ông có nghe biết nhân dân nước Phật Lật Thị thường xuyên tập họp để bàn luận về nghĩa lý của pháp không?

 

Đáp:

 

- Bạch Đại-đức! Con có nghe nhân dân nước ấy thường tập họp để bàn luận về nghĩa lý của pháp.

 

Phật bảo Bà-la-môn:

 

- Nếu ở nước ấy, mọi người thường tập họp để bàn luận về nghĩa lý của pháp thì biết rằng nước ấy ngày càng thịnh vượng, thiện pháp không bị suy giảm.

 

2. - Này A Nan Đà! Ông có nghe biết nhân dân nước Phật Lật Thị hòa thuận cùng đứng, cùng ngồi để bàn luận quốc sự không?

 

Đáp:

 

- Con có nghe ... nói đủ như trên.

 

Phật bảo Bà-la-môn ... như trên, cho đến thiện pháp không bị suy giảm.

 

3. - Này A Nan Đà! Ông có nghe biết nhân dân nước ấy không mong cầu những việc không nên mong cầu, không hủy bỏ những việc nên làm, thường vui vẻ tuân hành những điều quy định trong nước không?

 

Đáp:

 

- Con có nghe ... như trên.

 

Phật bảo Bà-la-môn ... như trên cho đến thiện pháp không suy giảm.

 

4. - Này A Nan Đà! Ông có nghe biết ở nước ấy những phụ nữthiếu nữ còn trong sự bảo hộ của mẹ, cha, anh chị em, cha mẹ chồng, thân tộc mà có lỗi bị trị tội vì tự ý làm thê thiếp cho người, cho đến lén trao hoa hứa làm vợ người, cùng nhau làm những chuyện qua đường, phi pháp không?

 

Đáp:

 

- Con có nghe ... nói đủ như trên.

 

Phật bảo Bà-la-môn ... như trên, cho đến thiện pháp không bị suy giảm.

 

5. - Này A Nan Đà! Ông có nghe thấy đối với cha mẹ, thầy học, trưởng thượng, nhân dân nước ấy cung kính cúng dường, tuân theo lời dạy, ý không nghịch lại gây phiền không?

 

Đáp:

 

- Con có nghe ... nói đủ như trên.

 

Phật bảo Bà-la-môn ... như trên, cho đến thiện pháp không bị suy giảm.

 

6. - Này A Nan! Ông có nghe biết nhân dân nước ấy thường xuyên cúng dường tháp miếu, không bỏ phế những phép tắc đáng tôn trọng đã có từ trước không?

 

Đáp:

 

- Con có nghe ... nói đủ như trên.

 

Phật bảo Bà-la-môn ... như trên, cho đến thiện pháp không bị suy giảm.

 

7. - Này A Nan Đà! Ông có nghe biết đối với bậc A La Hán, nhân dân nước ấy cung kính tôn trọng, thường xuyên nghĩ đến, mong cầu những vị chưa đến nên đến, những vị đã đến được sống an ổn, cung cấp tất cả y phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc trị bệnh, những tư cụ cần thiết không cho thiếu thốn ... nói đủ như trên cho đến thiện pháp không bị suy giảm.

 

Phật bảo Bà-la-môn:

 

- Khi nào nhân dân nước ấy thực hành bảy pháp không suy giảm này thì biết nước ấy thường xuyên thịnh vượng không tổn thất, thiện pháp hưng thịnh.

 

Bà-la-môn thưa:

 

- Đại đức! Nếu nhân dân trong nước ấy chỉ cần thi hành một trong bảy pháp, vua Vị Sinh Oán cũng không thể chinh phạt họ, huống chi họ thực hành đủ bảy pháp.

 

- Thưa Đại-đức Kiều Đáp Ma! Con còn nhiều việc, xin cáo từ.

 

Phật bảo:

 

- Tùy ý.

 

Nghe Phật dạy xong, Bà-la-môn hoan hỷ vâng làm.

 

Sau khi Bà-la-môn ấy từ giã, Phật bảo A Nan Đà:

 

- Ông hãy đi bảo hết các Bí-sô ở vùng núi Thứu Phong này cùng nhau tập họp trong ngôi nhà phục vụ.

 

Sau khi đi bảo hết các Bí-sô ở vùng núi Thứu Phong này cùng nhau tập họp trong ngôi nhà phục vụ, A Nan Đà trở về gặp Phật, đứng qua một bên, thưa:

 

- Thế Tôn! Các Bí-sô đã tập họp lại hết, xin Ngài định liệu.

 

Đến nơi, sau khi an tọa, Phật bảo các Bí-sô:

 

- Ta sẽ giảng bảy pháp không suy giảm cho các ông. Các ông hãy lắng nghe và hết sức chú ý. Bảy pháp ấy là:

 

    1. Bí-sô các ông thường tập họp để bàn luận pháp luật thì biết phúc đức của Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

    2. Bí-sô các ông nếu thường cùng tập họp, cùng ngồi, cùng đứng dậy để làm các pháp sự trong sự hòa hợp, thì biết phúc đức của Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

    3. Bí-sô các ông không cố tìm cầu những việc không nên cầu, không làm cho mất đi những thiện pháp đã đạt được, thường xuyên hoan hỷ thực hành những pháp chân chính. Như vậy nên biết phúc đức của Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

    4. Này các Bí-sô, những khát ái cùng tham câu sinh với hỷ mong muốn về tương lai, do các nghiệp tương tục nên luân hồi. Bí-sô trừ bỏ thứ này thì biết được sống an ổn, làm cho phúc đức của Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

    5. Này các Bí-sô, đối với vị xuất gia đã lâu, tịnh tu phạm hạnh mãn hai mươi hạ, bậc trưởng lão, kỳ túc được Đại-sư khen ngợi, là vị tri-thức cho các vị đồng phạm hạnh, đại chúng đều cung kính tôn trọng cúng dườnghoan hỷ nghe theo những lời họ dạy bảo. Như vậy nên biết phúc đức của Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

    6. Này các Bí-sô, nếu Bí-sô cư ngụ ở nơi thanh vắng yên tịnh, nhận ngọa cụ tầm thường với tâm hoan hỷ biết đủ; nên biết phúc đức của Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

    7. Này các Bí-sô, nếu Bí-sô đối với các vị đồng phạm hạnh có tâm ân cần tôn trọng, thường giữ chánh niệm mong mỏi những vị đồng phạm hạnh chưa đến xin đến đây, những vị đã đến làm cho sống an lạc, tâm không nhàm chán việc cung cấp y phục mới, thức ăn, ngọa cụ, thuốc trị bệnh, vật cần dùng, không để thiếu thốn ... phúc đức của Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

- Này các Bí-sô! Khi thường thực hành bảy pháp như vậy, nên biết thiện pháp của Bí-sô luôn tăng trưởng, không bị suy giảm, sống an lạc.

 

Này các Bí-sô, lại có bảy pháp không suy giảm mà các ông hãy lắng nghe. Bảy pháp đó là:

 

    1. Nếu đối với Bâïc Đại-sư, các Bí-sô cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán. Khi hành động như vậy, được sống an lạc, làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

    2 đến 7. Như vậy, nên biết các Bí-sô đối với pháp, với giới, với việc được dạy bảo, với việc không phóng dật, với việc ngọa cụ, với việc tu tập thiền định, có tâm tôn trọng cung kính cúng dường. Khi hành động như vậy thì sống an lạc làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

- Này các Bí-sô! Lại có bảy pháp không suy giảm khác mà các ông hãy lắng nghe. Bảy pháp đó là: Nếu các Bí-sô không ưa thích làm các việc thế sự, không ưa nói nhiều, không ưa thích ngủ nghỉ, không ưa tụ tập, không ưa thân cận bạn xấu, không tham danh lợi, thường tham vấn người khác về việc tu tập thiền định, không thỏa mãn với sự chứng pháp tăng thượng mà luôn tinh tấn không ngừng nghỉ cho đến khi chứng đắc chân-thật-đế. Khi tu tập như vậy, được sống an lạc làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

- Này các Bí-sô! Lại có bảy pháp không suy giảm khác mà các ông nên lắng nghe. Bảy pháp đó là: Bí-sô nào có tín tâm thanh tịnh, tàm, quý, đủ đại tinh tấn, niệm, định, tuệ. Khi tu tập như vậy được sống an lạc, làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện pháp không bị tổn giảm.

 

- Này các Bí-sô, lại có bảy pháp không suy giảm khác mà các ông nên lắng nghe. Bảy pháp đó là: Biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết tri túc, biết tự thân, biết môn đồ, biết hành động của người khác. Khi tu tập như vậy được sống an lạc, làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện pháp không bị tổn giảm.

 

- Này các Bí-sô! Lại có bảy pháp không suy giảm khác mà các ông nên lắng nghe. Bảy pháp đó là: Các Bí-sô khi tu tập quán sát về niệm giác phần, sống nơi hoàn toàn yên tịnh, sống ly dục, sống tịch diệt xa lìa tai nạn. Cũng như vậy, khi Bí-sô tu tập quán sát về trạch-pháp, tinh-cần, khinh-an, định, xả giác phần, sống nơi hoàn toàn yên tịnh, sống ly dục, xa lìa tai nạn. Khi tu tập như vậy, được sống an lạc làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

- Này các Bí-sô! Đấy là bảy pháp làm cho không suy giảm, cần phải thường xuyên tu tập. Các ông phải nhất tâm ân cần hộ trì làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

Này các Bí-sô! Lại có sáu pháp làm cho người khác hoan hỷ, hãy chú ý lắng nghe Ta nói. Sáu pháp ấy là:

 

    1. Thân nghiệp của ta nên thực hành từ bi, nghĩa là đối với Bậc Đại-sư và các vị hiền thánh đồng phạm hạnh, ta đem thân kính lễ với thiện tâm từ bi, quét dọn lau chùi nền nhà, rắc hoa, đốt hương cúng dường, hoặc xoa bóp tay chân cho các vị ấy, tùy lúc phục vụ cung cấp khi họ bị bệnh. Khi ta thực hành như vậy làm cho vị khác hoan hỷ, thương mến kính trọng thân cận nhau, hòa hợp hỗ trợ không tranh cãi nhau, một lòng làm việc như nước hòa với sữa.

 

    2. Ngữ nghiệp của ta nên thực hành từ bi, nghĩa là đối với Bậc Đại-sư và các vị hiền thánh đồng phạm hạnh, ta phải phát sinh thiện tâm từ bi dùng nói khen ngợi đức độ tốt đẹp chân thật của họ làm cho những người chưa nghe được nghe, đọc tụng pháp suốt ngày đêm không nghỉ. Khi ta tu tập như vậy làm cho vị khác hoan hỷ, yêu mến kính trọng cùng nhau thân cận, hòa hợp giúp đỡ nhau không có tranh cãi, một lòng làm việc như nước hòa với sữa.

 

    3. Ý nghiệp của ta nên thực hành từ bi, nghĩa là đối với các vị hiền thánh đồng phạm hạnh, ta phải phát sinh thiện tâm từ bi không có ý tư?ng gây hại, ganh ghét, hành động thân nghiệpngữ nghiệp luôn luôn với suy nghĩ từ bi không cho đoạn tuyệt, dù gặp tai nạn cũng không mất chánh niệm huống chi lúc bình thường. Với các loài chúng sinh, ta phải có tâm từ bi, không giết chết, không gây đau khổ cho chúng. Ta phải xa lìa phiền não, đạt đến chỗ giải thoát. Khi ta thực hành như vậy, làm cho vị khác hoan hỷ, yêu mến kính trọng cùng nhau thân cận, hòa hợp giúp đỡ nhau không có tranh cãi, một lòng làm việc như nước hòa với sữa.

 

    4. Đối với những lợi dưỡng nhận được như pháp, cho đến một chút thức ăn trong bát, ta đều hoan hỷ cùng hưởng thụ chung với vị khác, không ăn riêng, không có lòng hơn thua với các vị đồng phạm hành. Khi ta thực hành như vậy làm cho vị khác hoan hỷ, yêu mến kính trọng cùng nhau thân cận, hòa hợp giúp đỡ nhau không có tranh cãi, một lòng làm việc như nước hòa với sữa.

 

    5. Đối với giới đã thọ, không nứt, không lủng, không vỡ, không cấu, không uế, ta giữ gìn thanh tịnh từ đầu đến cuối, được bậc trí khen ngợi, không bị các vị đồng phạm hạnh khinh bỉ, cùng giữ tịnh giới, đồng hưởng pháp thực. Khi ta thực hành như vậy, làm cho vị khác hoan hỷ ... như nước hòa với sữa.

 

    6. Đối với những chánh kiến đã có, không còn nghi ngờ, là pháp xuất ly của bậc Thánh không thể bị phá hoại, mau vượt qua cảnh giới khổ, ta cùng trao đổi với các vị đồng phạm hạnh những tri kiến này. Khi ta thực hành như vậy, làm cho vị khác hoan hỷ ... như nước hòa với sữa.

 

- Này các Bí-sô, đây là sáu pháp hoan hỷ, phải thường xuyên tu tập, ân cần hộ trì, làm cho chúng Bí-sô được tăng trưởng, thiện pháp không suy giảm.

 

Nghe đức Phật dạy như vậy, các Bí-sô đều hoan hỷ tín thọ phụng hành.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA-TẠP-SỰ

 

Quyển thứ ba mươi lăm hết.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33160)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6536)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11254)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30392)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30429)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7967)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12168)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12238)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11584)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12792)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34730)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9831)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52253)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10729)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10497)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10699)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10458)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13065)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16250)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21823)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9606)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7111)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10381)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12764)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16217)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16515)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13843)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16564)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13792)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14308)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9185)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11735)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11251)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16287)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14329)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16189)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12686)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12073)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11792)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15653)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11499)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12001)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12617)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14986)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11953)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13121)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14522)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20669)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13207)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10931)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20683)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14342)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20360)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17647)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14007)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31851)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12011)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant