Chương IV
Học Thuyết Phân Kỳ
Và Hệ Thống Phân Giáo
Học thuyết Phân
kỳ và hệ thống Phán giáo (của nền Phật học Trung Hoa) có thể nói là
một phương pháp tiếp cận lịch sử-tư tưởng có hệ thống và rất bao quát. Các giai
đoạn trong lịch sử Phân kỳ và Phán giáo, ở đó phần lớn các tư tưởng đã được hệ
thống hóa hoàn chỉnh. Một cách tương đối, nó giúp chúng ta nắm bắt và xác định
các học thuyết cơ bản của các giai đoạn đáng chú ý trong tiến trình lịch sử tư
tưởng triết học Phật giáo. Vì lẽ đó, ngày nay khi nghiên cứu
Phật học, phần lớn
đều dựa vào phương pháp tiếp cận này.
I.- Học Thuyết Phân Kỳ Và Lịch Sử Tư Tưởng
Một trong những
học thuyết Phân kỳ nỗi tiếng được các nhà Phật
học chuyên môn,
đặc biệt là về Tánh Không luận như T.R.V.Murti, Ed.Conze, J.May... đánh giá rất
cao, đó là học thuyết của Stcherbatsky, một nhà luận lý học Phật giáo
(49).Trong những trang đầu của tác phẩm “Logic học Phật giáo”, cũng như trong
quyển “The Conception of Buddhist Nirvana” (Khái niệm về Niết bàn Phật giáo),
ông đã có những nhận định chính xác và toàn diện về bối cảnh lịch sử-tư tưởng
của Phật giáo tại Ấn Độ. Và theo Stcherbatsky, lịch sử phát triển của Phật giáo
Ấn Độ có thể được chia thành 3 thời kỳ chính cộng với một số tư tưởng trung tâm
của môỡi thời kỳ. Các giai đoạn của lịch sử được bắt đầu và kết thúc trong vòng
1.500 năm, kể từ 500 năm trước Tây lịch. Và môỡi 500 năm là một thời kỳ, gổm có
: sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ.
1- Thời kỳ thứ nhất (500 năm tr.TL)
Sơ kỳ - Thời kỳ
này, triết học Phật giáo được gọi chung là “Đa
nguyên luận” - phủ
định về Ngã thể. Ở đây, khi nói đến từ Đa nguyên luận là nhằm chỉ đến cách thức
phân tích các “pháp” hiện hữu trên cơ sở của 5 uẩn, 12 xứ và 18 giới. Và cũng
trên cơ sở của các uẩn, xứ, giới này, Phật giáo hoàn toàn phủ nhận về Ngã thể
bất biến - (Unreality of the Ego).
2- Thời kỳ thứ hai (500 năm sau TL)
Trung kỳ - Thời
kỳ này, triết học Phật giáo được gọi chung là
“Nhất nguyên luận”
- phủ định về pháp - pháp vô ngã (Unreality of the Elements of existence).
Triết gia xuất sắc trong thời kỳ này là Luận sư Long Thọ, người xiển dương về
tánh Không luận - tất cả pháp vốn không có tự tính.
3- Thời kỳ thứ ba (500 năm kế tiếp)
Hậu kỳ - Thời
kỳ của “Quan niệm luận”, do hai Luận sư Vô Trước
(Asanga) và Thế
Thân (Vasubandhu) xiển dương triết học Duy thức - tất cả pháp đều được xem như
là sự biểu hiện của tâm thức, chúng không có tự ngã, và do đó, sự hiện hữu của
chúng là không thực (Unreality of the External world).
Bảng 5 Học Thuyết Phân Kỳ
Sơ kỳ(500 năm tr.TL)
|
Trung kỳ(500 năm sau TL)
Triết Gia đầu tiên - Luận sư Long Thọ |
Hậu kỳ(500 năm kế tiếp)
(Tất cả pháp đều là biệu hiện của Tàng Thức Alaya) |
Trên cơ sở này, chúng ta thấy được bối cảnh phân kỳ tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ khá rõ ràng. Tuy nhiên, giữa thời kỳ thứ hai (trung kỳ) và thứ ba (hậu kỳ) còn có những mốc lịch sử tư tưởng quan trọng, do đó Stcherbatsky tiếp tục phân chia thêm một bản phân kỳ dành cho sự phát triển của tư tưởng Đại thừa Phật giáo.
Bảng 6
Thế Kỷ I - Hưng Khởi Của Đại Thừa Dòng triết học : A lại da và Chân như Duyên khởi của Mã Minh |
Thế Kỷ II |
Thế Kỷ III & IV |
Thế kỷ V |
Thế Kỷ VI |
Thế Kỷ VII |
Bảng phân kỳ (số 6) trên, theo học giả J.Takakusu, trong “The Essentials of Buddhism Philosophy” (50), khoảng trống của thế kỷ thứ III và thứ IV, có thể điền vào bằng Kiên Huệ (Saramati) và Di Lạc (Maitreya). Di Lạc và thầy trực tiếp hoặc gián tiếp dạy Duy thức cho Vô Trước. Tuy nhiên, có lẽ do Di Lạc được truyền tụng bởi quá nhiều huyền thoại - có thuyết nói Ngài là vị Bổ Tát trên cung trời Đâu Suất, xuống trần gian dạy Duy thức cho Vô Trước... - nên về mặt lịch sử, Stcherbatsky đã không đề cập đến.
Từ các hệ thống phân kỳ lịch sử trên, Giáo sư Takakusu đề xuất thêm một bảng phân kỳ mới, khác hơn, bao gổm 4 thời kỳ : Thực tại luận, Hư vô luận, Quan niệm luận và Phủ định luận.
Bảng 7
1- Thực tại luận Thuộc Tiểu
thừa Hữu tông, đại biểu : thuyết Nhất thiết hữu bộ, xác định tất cả pháp đều
có. 2- Hư vô luận Thuộc Tiểu thừa Không tông, chủ trương “Nhất thiết pháp không” - phủ định thực tính của tâm và vật. Kết luận : Đây là thuyết về Không (Non-ens). Harivarman (Ha Lê Bạt Man) (kh. 250-350 tr.TL). ? đây, Hư vô luận đối lập với Thực tại luận. 3- Quan niệm luận Thuộc Đại thừa Bán giáo, chủ trương Duy thức luận, phủ định thực tính của tất cả pháp, chỉ có sự biểu hiện của thức. Kết luận : Đây là giáo lý về Hữu (Ens) và Phi hữu (Non-ens). 4- Phủ định luận Thuộc Đại thừa Không luận, chủ trương Trung quán luận (Madhyamika), cho rằng thực tại có thể nhận thức bằng phủ định tỗng hợp (synthetic negation) - phủ định cái phủ định. Đại biểu là Long Thọ, giáo thuyết cơ bản là “Bát bất Trung đạo”. Kết luận : Đây là giáo lý về phi hữu - phi phi hữu. |
Trong bảng (số
7) phân kỳ này, mục đích của Giáo sư Takakusu là đưa Không luận của Harivarman
(51) lên trước Long
Thọ (xem bảng số 8
tiếp sau).
Trên đây là một
số nét cơ bản của sự phân kỳ trong tiến trình phát triển của lịch sử-tư tưởng
Phật giáo?n Độ. Như thế, trong suốt 1.500 năm này là thời kỳ phát triển hưng
thịnh của Phật giáo?n Độ. Và từ đó, kéo dài cho đến thế kỷ thứ XI TL thì Phật
giáo?n Độ rơi vào suy vong. Có điều, chúng ta nên nhớ rằng, trước khi Phật giáo
Ấn Độ đi vào thời kỳ suy vong, thì mọi sự phát triển của nó đã được truyền sang
các nước (theo hai hướng Nam
truyền và Bắc truyền) khác. Và tất nhiên, trong sự truyền thừa đó, có cả những phát
triển khác biệt mà nó được nảy sinh từ?n Độ. Trong trường hợp này, có thể nói
tại Trung Hoa là nơi có những bước phát triển mới làm cho nền Phật học trở nên
hoàn thiện, đặc biệt là quá trình
hệ thống hóa các
tư tưởng dị đổng được du nhập từ Phật giáo ẤnĐộ. Điều này được trình bày cụ thể
trong hệ thống Phán
giáo của Phật học
Trung Hoa.
II.- Hệ Thống Phân Giáo Phật Học Trung Hoa
Phán giáo cũng
có nội dung và tính chất như phân kỳ, nhưng phần lớn nó được tập trung vào hệ
thống giáo lý, kinh điển. Nếu, nói một cách chính xác thì lịch sử Phán giáo bắt
nguổn từ?n Độ vào thời đại của ngài Giới Hiền và Trí Quang, hai vị Luận sư này
đều phân chia giáo lý Phật giáo theo ba thời giáo khác nh?au, như được tìm thấy
trong Pháp tướng tông (của ngài Giới Hiền) và Tam luận tông (của ngài Trí
Quang) (52). Tuy nhiên, khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, thì phần lớn đều
được hình thành qua hình thức tông phái, và trên cơ sở của môỡi tông phái mà hệ
thống Phán giáo được tỗ chức
khác nhau, theo
hình thức khởi nguyên từ?n Độ.
Hệ thống Phán giáo Phật học Trung Hoa, như đã đề cập, bắt đầu từ thời đại Nam Bắc triều (53) (cũng gọi là thời đại Lục triều), các nhà Phật học đã tỗ chức hệ thống Phán giáo mà đời sau gọi là “Nam tam - Bắc thất” (ba hệ thống Phán giáo ở phương Nam và bảy hệ ở phương Bắc).
Bảng 8
Hệ Truyền Thừa Của Long Thọ ở Ấn Độ và Trung Hoa
Bổ Tát Long Thọ - Bổ Tát Đề Bà - La Hầu La Đa
Đạo Dung
|
- Ba hệ Thống Phán Giáo? Giang Nam
a)- Hệ thống một (do Pháp sư Hỗ Khưu Sơn Cập lập thành - có ba pháp luân :
1- Đốn giáo : Kinh Hoa Nghiêm
2- Tiệm giáo :
Hữu tướng
giáo : (11 năm thuyết giáo của Phật sau thời Hoa Nghiêm)
Vô tướng
giáo : (12 năm sau cho đến thời Pháp Hoa)
Thường trụ
giáo : (thời Niết Bàn)
3- Bất định giáo : Các kinh điển ngoài đốn, tiệm như kinh Thắng Man, Giải Thâm Mật...
b)- Hệ thống hai (do Pháp sư Tăng Ai lập thành) - có ba pháp luân :
1- Đốn giáo : (như hệ thống một)
2- Tiệm giáo :
Hữu tướng
giáo : (như hệ thống một)
Vô tướng
giáo : (12 năm sau Phương Đẳng và Bát Nhã)
Đổng qui
giáo : (thời Pháp Hoa)
Thường trụ
giáo : (thời Niết Bàn)
3- Bất định giáo : (như hệ thống một)
c)- Hệ thống ba (do Tăng Nhu, Huệ Thứ, Huệ Quán lập thành) - có ba pháp luân :
1- Đốn giáo : (như hệ thống một)
2- Tiệm giáo :
Hữu tướng
giáo : (như hệ thống một)
Vô tướng
giáo : (Bát Nhã)
Ức dương
giáo : (Phương Đẳng)
Đổng qui
giáo : (như hệ thống một)
Thường trụ
giáo : (như hệ thống một)
3- Bất định giáo : (như hệ thống một)
B/- Bẩy hệ Thống Phán Giáo? Giang Bắc
a)- Hệ thống một (Hoặc Sư lập) - có năm pháp luân :
1- Nhân thiên
giáo : (Đề-vị-bà-lợi)
2- Vô tướng giáo :
(Tịnh độ)
3- Đốn giáo : (Hoa
Nghiêm)
4- Tiệm giáo :
(Phương Đẳng)
5- Bất định giáo :
(như trước)
b)- Hệ thống hai (Bổ Đề Lưu Chi lập) - có hai pháp luân :
1- Tiên giáo
bán tự : (12 năm trước - Tiểu thừa giáo)
2- Hậu giáo mãn tự
: (12 năm sau - Đại thừa giáo)
Bán tự và mãn
tự - dụ cho trẻ con khi mới học thì trước hết dạy nửa chữ (tiên giáo bán tự),
rổi sau đó mới dạy tiếp nguyên
chữ (hậu giáo mãn
tự).
c)- Hệ thống ba (Quang Thống lập)
Hệ thống này do ngài Giác Hiền, Huệ Quang đề xuất, có 4 tông :
1- Nhân duyên tông : (thuộc Tiểu thừa - Hữu bộ, chủ thuyết Tứ nhân lục duyên)
2- Giả danh
tông : (thuộc Thành Thật tông, chủ thuyết Thành Thật luận : giảng về Tam giả -
Nhân thành giả, Tương tục
giả, Tương đãi
giả)
3- Cuống tướng tông : (học thuyết Tam luận - Nhất thiết pháp không - Tính Không luận)
4- Thường tông : (giáo lý Hoa Nghiêm và Niết Bàn)
d)- Hệ thống bốn (Hoặc Sư lập) - có năm tông :
1- Nhân duyên
tông : (A Tỳ Đàm)
2- Giả danh tông :
(Thành Thật)
3- Cuống tướng
tông : (Tam luận)
4- Thường trụ tông
: (Niết Bàn)
5- Pháp giới tông
: (Hoa Nghiêm)
e)- Hệ thống năm (Pháp Sư ở Kỳ Xà) - có sáu tông :
1- Nhân duyên
tông : (A Tỳ Đàm)
2- Giả danh tông :
(Thành Thật)
3- Cuống tướng
tông : (Tam luận)
4- Thường trụ tông
: (Hoa Nghiêm - Niết Bàn)
5- Chân tông :
(Pháp Hoa)
6- Viên tông :
(Đại Tập)
f)- Hệ thống sáu (Hoặc Sư lập) - có hai tông :
1- Hữu tướng
Đại thừa
2- Vô tướng Đại
thừa
g)- Hệ thống bảy (Hoặc Sư lập) - có một tông :
Nhất âm giáo : (Phật dùng một âm thanh thuyết pháp, chúng sanh tùy theo đó mà hiểu biết về giáo pháp khác nhau).
Trên đây là
phần trình bày đại cương về “Nam
tam - Bắc thất” - sự khái lược hóa về các hệ thống phán giáo Phật học
Trung Hoa.
C/- Hệ Thống Phán Giáo Của Các Tông Phái Đại thừa
Khi các tông
phái Đại thừa Phật giáo hình thành tại Trung Hoa, thì môỡi tông phái lại tỗ
chức hệ thống phán giáo đặc thù
theo tư tưởng của
từng tông phái. Theo truyền thống lịch sử Phật giáo Trung Hoa, các tông phái
chính có hệ thống phán
giáo được thành
lập như sau
1- Pháp Tướng Tông
Tông phái này y
cứ trên cơ sở của kinh Giải Thâm Mật rổi đem giáo pháp của Phật chia làm ba
pháp luân (ba lần chuyển
pháp luân của
Phật).
a)- Pháp luân I : Phật nói về Hữu (Hữu giáo)
b)- Pháp luân II : Phật nói về Vô (Không giáo)
c)- Pháp luân III : Phật nói về Trung đạo (Trung giáo)
- Hữu giáo là giáo lý thời Nguyên thủy và Bộ phái
- Không giáo là giáo lý tiền Đại thừa và Đại thừa
- Trung giáo là giáo lý Đại thừa và hậu Đại thừa
* Pháp luân I : Giáo lý cơ bản là 4 thánh đế và 12 nhân duyên
* Pháp luân II : Giáo lý cơ bản là “Nhất thiết pháp không”
* Pháp luân III : Giáo lý cơ bản là “Trung đạo đế”
Hai pháp luân
đầu, Phật nói về pháp phương tiện và bất liễu nghĩa (khế lý, khế cơ). Pháp luân
thứ ba, Phật nói về pháp liễu
nghĩa - chân thật
tối thượng - Chủ đề cơ bản là Trung đạo : - 3 tự tính và 3 vô tính (tam tính và
tam vô tính).
Về kinh điển, người đời sau đối chiếu như vầy :
* Pháp luân I : Gổm 4 bộ A Hàm Ạ 4 bộ Nikàya
* Pháp luân II : Gổm kinh Bát Nhã (Không tông)
* Pháp luân III : Gổm kinh Giải Thâm Mật, Hoa Nghiêm...
2- Tam Luận Tông
Tông phái này phân chia giáo pháp của Phật làm hai tạng và ba pháp luân :
Thinh Văn
tạng
Bổ Tát tạng
Pháp luân
gốc
Pháp luân
ngọn
Pháp luân
ngọn về gốc
- Thinh Văn tạng : gổm các kinh A Hàm và Nikàya.
- Bổ Tát tạng : gổm các kinh Đại thừa.
* Pháp luân gốc : Phật nói kinh Hoa Nghiêm
* Pháp luân ngọn : Phật nói kinh A Hàm đến Phương Đẳng
* Pháp luân ngọn về gốc : Phật nói kinh Pháp Hoa
Hệ thống phán giáo này do Cát Tạng đề xuất (xem bảng số 8 và mục chú số 62)
3- Thiên Thai
Tông
Tông này chia giáo
pháp cüa Ph§t thành Ngû th¶i, Bát giáo.
Ngũ thời |
- Hoa Nghiêm |
Năm thời tương ưng với năm vị (của kinh Niết Bàn)
Năm vị |
- Sữa tươi (ngưu nhũ) |
- Đề hổ là tối thượng trong 5 vị, và kinh Pháp Hoa, Niết Bàn được ví như đề hổ - tối thượng trong các kinh.
Tám Giáo (Bát
Giáo)
4 hóa nghi (Hóa nghi tứ giáo) [4 phương pháp giáo hóa] 1- Đốn
|
4 hóa pháp (Hóa pháp 4 giáo) [4 nội dung giáo lý cơ bản] 1 -
Tạng giáo |
Tứ giáo
- Tạng giáo : hệ thống kinh điển A Hàm và Nikàya
- Thông giáo : hệ thống kinh điển xuyên thông cả Tam thừa
- Biệt giáo : giáo lý đặc biệt dành cho đối tượng đặc biệt, như hàng Bổ Tát, Lục độ, Nhị đế v.v...
- Viên giáo : giáo lý viên dung - nhất thừa, chỉ cho kinh Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Pháp Hoa
Tứ nghi
- Đốn giáo : giáo lý đốn ngộ, dành cho hàng trí giả - Đại thừa
- Tiệm giáo : giáo lý được giảng tùy theo trình độ, căn cơ (các kinh A Hàm, Phương Đẳng)
- Bí mật : giáo lý đặc thù dành cho đối tượng đặc thù (không phải ai cũng được nghe và hiểu được)
- Bất định :
cùng một giáo lý, cùng một pháp hội nhưng chôỡ này là đốn giáo, chôỡ kia là
tiệm giáo - tùy theo trình độ mà
nói.
? đây, có một
vấn đề. Tương truyền, ngũ thời bát giáo là do ngài Trí Khải (54), đệ tử của Huệ
Tư, sáng lập. Nhưng học
giả Sekiguchi
Shindai trong bài viết “Khởi nguyên ngũ thời bát giáo” (Goji hakkyo kyohanron
no kigen) (xem Taisho
daigaku kiyo,
tr.1-15 (1975) cho rằng chính Trạm Nhiên (711-782) là người hệ thống hóa phán
giáo này?
4- Hoa Nghiêm Tông
Tông phái này do sư Đỗ Thuận, Trí Nghiễm và Pháp Tạng thành lập. Giáo pháp được chia thành 5 giáo, 10 tông.
* Năm giáo
1- Tiểu thừa
giáo : giáo lý cho hàng Thanh Văn, như A Hàm, A Tỳ Đàm luận, Thành Thật
luận;
2- Đại thừa sơ
giáo : giáo lý cho hàng Đại thừa sơ cấp, như Trung Quán luận, Du Già Sư Địa
luận... ;
3- Đại thừa chung
giáo : giáo lý cho hàng Đại thừa cao cấp, như kinh Lăng Già, Thắng Man...
;
4- Đại thừa đốn
giáo : giáo lý cho hàng Đại thừa ưu tú, như Thiền tông... ;
5- Nhất thừa viên
giáo : giáo lý viên dung, tối thượng, như kinh Hoa Nghiêm..., Nhất thừa viên
giáo có hai loại :
a)- Nhất thừa đổng giáo : tương ứng với Tam thừa (kinh Pháp Hoa)
b)- Nhất thừa biệt giáo : khác với Tam thừa (kinh Hoa Nghiêm)
Thanh |
|
* Mười tông (10 học thuyết cơ bản của Phật giáo Bộ phái và Đại thừa)
Sáu học thuyết của Tiểu thừa :
1- Tông Ngã pháp đều có : thuộc giáo lý của Độc tử bộ, Pháp thượng bộ, Hiền vị bộ, Chính lượng bộ, Mật lâm sơn bộ, Kê dân bộ trong thời kỳ Phật giáo Bộ phái.
2- Tông Ngã không pháp có : thuộc giáo lý của Nhất thiết hữu bộ, Tuyết sơn bộ,?n quang bộ, Kinh lượng bộ.
3- Tông Pháp không khứ lai : thuộc quan niệm “Hiện tại hữu thể, quá vị vô thể” của Hóa địa bộ, Pháp tạng bộ, Đại chúng bộ, Đa văn bộ, Chế đa sơn bộ, Tây sơn trụ bộ, Bắc sơn trụ bộ.
4- Tông Hiện thông giả thật : thuộc quan niệm “Chân giả tịnh hữu” của Thuyết giả bộ.
5- Tông Tục vọng chân thật : Quan niệm của thuyết Xuất thế bộ.
6- Tông Chư pháp giả danh : Quan niệm “Tam thế chư pháp giả danh vô thể” của Nhất thuyết bộ.
Bốn học thuyết của Đại thừa
7- Tông “Nhất thiết pháp không” : thuộc Đại thừa thỉ giáo.
8- Tông “Chư pháp thực tướng” : thuộc Đại thừa chung giáo.
9- Tông “Tướng và Tưởng đều không” : thuộc Đại thừa đốn giáo.
10- Tông “Như thị - viên mãn” : thuộc Nhất thừa viên giáo (55).
Trên đây là các tông phái có hệ thống phán giáo cụ thể. Còn Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông (Chân ngôn tông) thì hệ thống phán giáo không cụ thể và cũng khá đa diện. Tuy nhiên, với ba tông này, chủ yếu là đi vào tu tập thực tiễn. Do đó, nếu lập phán giáo thì phải lập theo một thể cách đặc thù của nó.
Riêng về phần
phán giáo như vừa trình bày trên đây, chúng ta thấy lộ rõ một điều ở các hệ
thống phán giáo, đó là sự tương quan thống thiết giữa nhận thức của con người
và chân lý thực tại. Bởi lẽ, nhận thức của con người thì bất khả thuyết - có
bao nhiêu người thì có bấy nhiêu nhận thức khác nhau. ? đây, sẽ không bao giờ
có bất kỳ một khuôn mẫu tư duy nào có thể dùng cho mọi người; cũng như, tất cả
mọi người đều mang giày, nhưng không thể có một đôi giày nào khả dĩ được dùng
cho tất cả mọi người. Vả lại, chân lý thực tại cũng chỉ có Một, Đông phương hay
Tây phương, đều chỉ có Một và
chỉ Một mà thôi.
Vì lẽ đó, vấn đề được đặt ra ở đây là : chân lý luôn luôn, lúc nào, và ở đâu,
cũng bình đẳng trước mọi người; và, làm thế nào để mọi người có thể trực nhận
được chân lý? Đây là lý do tại sao Phật tử Trung Hoa đề xuất và tổ chức các hệ
thống phán giáo. Nó xuất hiện như là sự nối kết các nhịp cầu phương tiện để
giúp người sang sông. Từ đó, ba thừa phân đốn, tiệm, quyền, thật tất cả đều
viên dung. Đây là phương tiện thiện xảo để mỗi người với căn tánh và trình độ
khác nhau đều có thể tu tập Phật giáo. Có thể tóm tắt ý nghĩa trên qua phát
biểu của Long Thọ như sau : “Nếu không nương tục đế, thì không thể đạt đến chân
lý. Nếu không đạt đến chân lý, thì không thể hiểu được Phật pháp” (56).