Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương IV: Học Thuyết Phân Kỳ Và Hệ Thống Phân Giáo

19 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9864)
Chương IV: Học Thuyết Phân Kỳ Và Hệ Thống Phân Giáo


LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC TÁNH KHÔNG
Thích Tâm Thiện
Nhà Xuất Bản TP. Hồ chí Minh 1999

 

Chương IV
Học Thuyết Phân Kỳ 

Hệ Thống Phân Giáo 

Học thuyết Phân kỳ và hệ thống Phán giáo (của nền Phật học Trung Hoa) có thể nói là một phương pháp tiếp cận lịch sử-tư tưởng có hệ thống và rất bao quát. Các giai đoạn trong lịch sử Phân kỳ và Phán giáo, ở đó phần lớn các tư tưởng đã được hệ thống hóa hoàn chỉnh. Một cách tương đối, nó giúp chúng ta nắm bắt và xác định các học thuyết cơ bản của các giai đoạn đáng chú ý trong tiến trình lịch sử tư tưởng triết học Phật giáo. Vì lẽ đó, ngày nay khi nghiên cứu 
Phật học, phần lớn đều dựa vào phương pháp tiếp cận này.

I.- Học Thuyết Phân Kỳ Và Lịch Sử Tư Tưởng

Một trong những học thuyết Phân kỳ nỗi tiếng được các nhà Phật 
học chuyên môn, đặc biệt là về Tánh Không luận như T.R.V.Murti, Ed.Conze, J.May... đánh giá rất cao, đó là học thuyết của Stcherbatsky, một nhà luận lý học Phật giáo (49).Trong những trang đầu của tác phẩm “Logic học Phật giáo”, cũng như trong quyển “The Conception of Buddhist Nirvana” (Khái niệm về Niết bàn Phật giáo), ông đã có những nhận định chính xáctoàn diện về bối cảnh lịch sử-tư tưởng của Phật giáo tại Ấn Độ. Và theo Stcherbatsky, lịch sử phát triển của Phật giáo Ấn Độ có thể được chia thành 3 thời kỳ chính cộng với một số tư tưởng trung tâm của môỡi thời kỳ. Các giai đoạn của lịch sử được bắt đầu và kết thúc trong vòng 1.500 năm, kể từ 500 năm trước Tây lịch. Và môỡi 500 năm là một thời kỳ, gổm có : sơ kỳ, trung kỳ và hậu kỳ.

1- Thời kỳ thứ nhất (500 năm tr.TL)

Sơ kỳ - Thời kỳ này, triết học Phật giáo được gọi chung là “Đa 
nguyên luận” - phủ định về Ngã thể. Ở đây, khi nói đến từ Đa nguyên luận là nhằm chỉ đến cách thức phân tích các “pháp” hiện hữu trên cơ sở của 5 uẩn, 12 xứ và 18 giới. Và cũng trên cơ sở của các uẩn, xứ, giới này, Phật giáo hoàn toàn phủ nhận về Ngã thể bất biến - (Unreality of the Ego).

2- Thời kỳ thứ hai (500 năm sau TL)

Trung kỳ - Thời kỳ này, triết học Phật giáo được gọi chung là 
“Nhất nguyên luận” - phủ định về pháp - pháp vô ngã (Unreality of the Elements of existence). Triết gia xuất sắc trong thời kỳ này là Luận sư Long Thọ, người xiển dương về tánh Không luận - tất cả pháp vốn không có tự tính.

3- Thời kỳ thứ ba (500 năm kế tiếp)

Hậu kỳ - Thời kỳ của “Quan niệm luận”, do hai Luận sư Vô Trước 
(Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu) xiển dương triết học Duy thức - tất cả pháp đều được xem như là sự biểu hiện của tâm thức, chúng không có tự ngã, và do đó, sự hiện hữu của chúng là không thực (Unreality of the External world).

Bảng 5 Học Thuyết Phân Kỳ

 

Sơ kỳ(500 năm tr.TL)

Dòng triết học

Đa nguyên luận

"Nhân Không"

phủ định Ngã thể (Ego)

 

 

Trung kỳ(500 năm sau TL)

Dòng triết học

Nhất nguyên luận

"Pháp Không"

phủ định về pháp - pháp vô ngã

 

 

Triết Gia đầu tiên - Luận sư Long Thọ

 

Hậu kỳ(500 năm kế tiếp)

Dòng triết học

Duy thức 

Triết Gia Xuất Sắc

Vô Trước và Thế Thân 

Chủ Trương

Tam giới duy thức

(Tất cả pháp đều là biệu hiện của Tàng Thức Alaya)

Trên cơ sở này, chúng ta thấy được bối cảnh phân kỳ tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ khá rõ ràng. Tuy nhiên, giữa thời kỳ thứ hai (trung kỳ) và thứ ba (hậu kỳ) còn có những mốc lịch sử tư tưởng quan trọng, do đó Stcherbatsky tiếp tục phân chia thêm một bản phân kỳ dành cho sự phát triển của tư tưởng Đại thừa Phật giáo.

Bảng 6

Thế Kỷ I - Hưng Khởi Của Đại Thừa

Dòng triết học : A lại daChân như Duyên khởi của Mã Minh

Thế Kỷ II
Dòng triết học : Tánh Không, Duyên khởi luận do Long ThọĐề Bà (còn gọi Thánh Thiên) thành lập

Thế Kỷ III & IV
Một khoảng trống

Thế kỷ V
Dòng triết học : Duy thức luận (Vijnànavàda) của Vô TrướcThế Thân

Thế Kỷ VI
Sự phân hóa giữa phái Duy thứctánh Không - An Huệ (Sthiramati và Trần Na (Dingnàga) đại diện cho phái Duy thức; Phật Hộ (Buddhapalita) và Thanh Biện (Bhàvaviveka) đại diện cho phái Khôngluận

Thế Kỷ VII
Hệ thống Trung quán do Nguyệt Xứng (Candrakirti) xiển dương và hoàn thành.

 Bảng phân kỳ (số 6) trên, theo học giả J.Takakusu, trong “The Essentials of Buddhism Philosophy” (50), khoảng trống của thế kỷ thứ III và thứ IV, có thể điền vào bằng Kiên Huệ (Saramati) và Di Lạc (Maitreya). Di Lạc và thầy trực tiếp hoặc gián tiếp dạy Duy thức cho Vô Trước. Tuy nhiên, có lẽ do Di Lạc được truyền tụng bởi quá nhiều huyền thoại - có thuyết nói Ngài là vị Bổ Tát trên cung trời Đâu Suất, xuống trần gian dạy Duy thức cho Vô Trước... - nên về mặt lịch sử, Stcherbatsky đã không đề cập đến.

Từ các hệ thống phân kỳ lịch sử trên, Giáo sư Takakusu đề xuất thêm một bảng phân kỳ mới, khác hơn, bao gổm 4 thời kỳ : Thực tại luận, Hư vô luận, Quan niệm luận và Phủ định luận.

 Bảng 7

1- Thực tại luận

Thuộc Tiểu thừa Hữu tông, đại biểu : thuyết Nhất thiết hữu bộ, xác định tất cả pháp đều có. 
Phủ định về ngã tính (Nhân Không - Pudgala Sùnyata). Kết luận : Đây là thuyết về Hữu (Ens).

 2- Hư vô luận

Thuộc Tiểu thừa Không tông, chủ trương “Nhất thiết pháp không” - phủ định thực tính của tâm và vật. Kết luận : Đây là thuyết về Không (Non-ens). Harivarman (Ha Lê Bạt Man) (kh. 250-350 tr.TL). ? đây, Hư vô luận đối lập với Thực tại luận.

 3- Quan niệm luận

Thuộc Đại thừa Bán giáo, chủ trương Duy thức luận, phủ định thực tính của tất cả pháp, chỉ có sự biểu hiện của thức. Kết luận : Đây là giáo lý về Hữu (Ens) và Phi hữu (Non-ens).

 4- Phủ định luận

Thuộc Đại thừa Không luận, chủ trương Trung quán luận (Madhyamika), cho rằng thực tại có thể nhận thức bằng phủ định tỗng hợp (synthetic negation) - phủ định cái phủ định. Đại biểuLong Thọ, giáo thuyết cơ bản là “Bát bất Trung đạo”. Kết luận : Đây là giáo lý về phi hữu - phi phi hữu.

Trong bảng (số 7) phân kỳ này, mục đích của Giáo sư Takakusu là đưa Không luận của Harivarman (51) lên trước Long 
Thọ (xem bảng số 8 tiếp sau).

Trên đây là một số nét cơ bản của sự phân kỳ trong tiến trình phát triển của lịch sử-tư tưởng Phật giáo?n Độ. Như thế, trong suốt 1.500 năm này là thời kỳ phát triển hưng thịnh của Phật giáo?n Độ. Và từ đó, kéo dài cho đến thế kỷ thứ XI TL thì Phật giáo?n Độ rơi vào suy vong. Có điều, chúng ta nên nhớ rằng, trước khi Phật giáo Ấn Độ đi vào thời kỳ suy vong, thì mọi sự phát triển của nó đã được truyền sang các nước (theo hai hướng Nam truyền và Bắc truyền) khác. Và tất nhiên, trong sự truyền thừa đó, có cả những phát triển khác biệt mà nó được nảy sinh từ?n Độ. Trong trường hợp này, có thể nói tại Trung Hoa là nơi có những bước phát triển mới làm cho nền Phật học trở nên hoàn thiện, đặc biệt là quá trình 
hệ thống hóa các tư tưởng dị đổng được du nhập từ Phật giáo ẤnĐộ. Điều này được trình bày cụ thể trong hệ thống Phán 
giáo của Phật học Trung Hoa.

II.- Hệ Thống Phân Giáo Phật Học Trung Hoa 

Phán giáo cũng có nội dung và tính chất như phân kỳ, nhưng phần lớn nó được tập trung vào hệ thống giáo lý, kinh điển. Nếu, nói một cách chính xác thì lịch sử Phán giáo bắt nguổn từ?n Độ vào thời đại của ngài Giới HiềnTrí Quang, hai vị Luận sư này đều phân chia giáo lý Phật giáo theo ba thời giáo khác nh?au, như được tìm thấy trong Pháp tướng tông (của ngài Giới Hiền) và Tam luận tông (của ngài Trí Quang) (52). Tuy nhiên, khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, thì phần lớn đều được hình thành qua hình thức tông phái, và trên cơ sở của môỡi tông pháihệ thống Phán giáo được tỗ chức 
khác nhau, theo hình thức khởi nguyên từ?n Độ.

Hệ thống Phán giáo Phật học Trung Hoa, như đã đề cập, bắt đầu từ thời đại Nam Bắc triều (53) (cũng gọi là thời đại Lục triều), các nhà Phật học đã tỗ chức hệ thống Phán giáođời sau gọi là “Nam tam - Bắc thất” (ba hệ thống Phán giáo ở phương Nam và bảy hệ ở phương Bắc).

 Bảng 8

Hệ Truyền Thừa Của Long ThọẤn Độ và Trung Hoa 

Bổ Tát Long Thọ - Bổ Tát Đề Bà - La Hầu La Đa

Thanh Mục

Thanh Biện - Trí Quang... 
(Ấn Độ)

Địa Bà Ha La Hiền Thủ.

Con Vua Sa Xa (Ấn Độ) - Cưu Ma La Thập

 

Đạo Dung
Tăng Triệu
Tăng Duệ
Đạo Sinh-Đàm Tế-Đạo Lãng-Tăng Thuyên-Pháp Lãng

Cát Tạng (hoằng truyền Tam luận ở phương Nam)
Minh Thắng (hoằng truyền Tứ luận ở phương Bắc)

 

- Ba hệ Thống Phán Giáo? Giang Nam 

a)- Hệ thống một (do Pháp sư Hỗ Khưu Sơn Cập lập thành - có ba pháp luân :

1- Đốn giáo : Kinh Hoa Nghiêm

2- Tiệm giáo :

 Hữu tướng giáo : (11 năm thuyết giáo của Phật sau thời Hoa Nghiêm)
Vô tướng giáo : (12 năm sau cho đến thời Pháp Hoa)
Thường trụ giáo : (thời Niết Bàn)

3- Bất định giáo : Các kinh điển ngoài đốn, tiệm như kinh Thắng Man, Giải Thâm Mật...

b)- Hệ thống hai (do Pháp sư Tăng Ai lập thành) - có ba pháp luân :

1- Đốn giáo : (như hệ thống một)

2- Tiệm giáo :

 Hữu tướng giáo : (như hệ thống một)
Vô tướng giáo : (12 năm sau Phương ĐẳngBát Nhã)
Đổng qui giáo : (thời Pháp Hoa)
Thường trụ giáo : (thời Niết Bàn)

3- Bất định giáo : (như hệ thống một)

c)- Hệ thống ba (do Tăng Nhu, Huệ Thứ, Huệ Quán lập thành) - có ba pháp luân :

1- Đốn giáo : (như hệ thống một)

2- Tiệm giáo :

 Hữu tướng giáo : (như hệ thống một)
Vô tướng giáo : (Bát Nhã)
Ức dương giáo : (Phương Đẳng)
Đổng qui giáo : (như hệ thống một)
Thường trụ giáo : (như hệ thống một)

3- Bất định giáo : (như hệ thống một)

B/- Bẩy hệ Thống Phán Giáo? Giang Bắc 

a)- Hệ thống một (Hoặc Sư lập) - có năm pháp luân :

1- Nhân thiên giáo : (Đề-vị-bà-lợi)
2- Vô tướng giáo : (Tịnh độ)
3- Đốn giáo : (Hoa Nghiêm)
4- Tiệm giáo : (Phương Đẳng)
5- Bất định giáo : (như trước)

b)- Hệ thống hai (Bổ Đề Lưu Chi lập) - có hai pháp luân :

1- Tiên giáo bán tự : (12 năm trước - Tiểu thừa giáo)
2- Hậu giáo mãn tự : (12 năm sau - Đại thừa giáo)

Bán tựmãn tự - dụ cho trẻ con khi mới học thì trước hết dạy nửa chữ (tiên giáo bán tự), rổi sau đó mới dạy tiếp nguyên 
chữ (hậu giáo mãn tự).

c)- Hệ thống ba (Quang Thống lập)

Hệ thống này do ngài Giác Hiền, Huệ Quang đề xuất, có 4 tông :

1- Nhân duyên tông : (thuộc Tiểu thừa - Hữu bộ, chủ thuyết Tứ nhân lục duyên)

2- Giả danh tông : (thuộc Thành Thật tông, chủ thuyết Thành Thật luận : giảng về Tam giả - Nhân thành giả, Tương tục 
giả, Tương đãi giả)

3- Cuống tướng tông : (học thuyết Tam luận - Nhất thiết pháp không - Tính Không luận)

4- Thường tông : (giáo lý Hoa NghiêmNiết Bàn)

d)- Hệ thống bốn (Hoặc Sư lập) - có năm tông :

1- Nhân duyên tông : (A Tỳ Đàm)
2- Giả danh tông : (Thành Thật)
3- Cuống tướng tông : (Tam luận)
4- Thường trụ tông : (Niết Bàn)
5- Pháp giới tông : (Hoa Nghiêm)

e)- Hệ thống năm (Pháp Sư ở Kỳ Xà) - có sáu tông :

1- Nhân duyên tông : (A Tỳ Đàm)
2- Giả danh tông : (Thành Thật)
3- Cuống tướng tông : (Tam luận)
4- Thường trụ tông : (Hoa Nghiêm - Niết Bàn)
5- Chân tông : (Pháp Hoa)
6- Viên tông : (Đại Tập)

f)- Hệ thống sáu (Hoặc Sư lập) - có hai tông :

1- Hữu tướng Đại thừa
2- Vô tướng Đại thừa

g)- Hệ thống bảy (Hoặc Sư lập) - có một tông :

Nhất âm giáo : (Phật dùng một âm thanh thuyết pháp, chúng sanh tùy theo đó mà hiểu biết về giáo pháp khác nhau).

Trên đây là phần trình bày đại cương về “Nam tam - Bắc thất” - sự khái lược hóa về các hệ thống phán giáo Phật học 
Trung Hoa.

C/- Hệ Thống Phán Giáo Của Các Tông Phái Đại thừa 

Khi các tông phái Đại thừa Phật giáo hình thành tại Trung Hoa, thì môỡi tông phái lại tỗ chức hệ thống phán giáo đặc thù 
theo tư tưởng của từng tông phái. Theo truyền thống lịch sử Phật giáo Trung Hoa, các tông phái chính có hệ thống phán 
giáo được thành lập như sau 

1- Pháp Tướng Tông

Tông phái này y cứ trên cơ sở của kinh Giải Thâm Mật rổi đem giáo pháp của Phật chia làm ba pháp luân (ba lần chuyển 
pháp luân của Phật).

a)- Pháp luân I : Phật nói về Hữu (Hữu giáo)

b)- Pháp luân II : Phật nói về Vô (Không giáo)

c)- Pháp luân III : Phật nói về Trung đạo (Trung giáo)

- Hữu giáogiáo lý thời Nguyên thủyBộ phái

- Không giáogiáo lý tiền Đại thừaĐại thừa

- Trung giáo là giáo lý Đại thừa và hậu Đại thừa

* Pháp luân I : Giáo lý cơ bản là 4 thánh đế và 12 nhân duyên

* Pháp luân II : Giáo lý cơ bản là “Nhất thiết pháp không”

* Pháp luân III : Giáo lý cơ bản là “Trung đạo đế”

Hai pháp luân đầu, Phật nói về pháp phương tiệnbất liễu nghĩa (khế lý, khế cơ). Pháp luân thứ ba, Phật nói về pháp liễu 
nghĩa - chân thật tối thượng - Chủ đề cơ bản là Trung đạo : - 3 tự tính và 3 vô tính (tam tínhtam vô tính).

Về kinh điển, người đời sau đối chiếu như vầy :

* Pháp luân I : Gổm 4 bộ A Hàm Ạ 4 bộ Nikàya

* Pháp luân II : Gổm kinh Bát Nhã (Không tông)

* Pháp luân III : Gổm kinh Giải Thâm Mật, Hoa Nghiêm...

2- Tam Luận Tông

Tông phái này phân chia giáo pháp của Phật làm hai tạng và ba pháp luân :

 Thinh Văn tạng
Bổ Tát tạng

 Pháp luân gốc
Pháp luân ngọn
Pháp luân ngọn về gốc

- Thinh Văn tạng : gổm các kinh A Hàm và Nikàya.

- Bổ Tát tạng : gổm các kinh Đại thừa.

* Pháp luân gốc : Phật nói kinh Hoa Nghiêm

* Pháp luân ngọn : Phật nói kinh A Hàm đến Phương Đẳng

* Pháp luân ngọn về gốc : Phật nói kinh Pháp Hoa

Hệ thống phán giáo này do Cát Tạng đề xuất (xem bảng số 8 và mục chú số 62)

3- Thiên Thai Tông
Tông này chia giáo pháp cüa Ph§t thành Ngû th¶i, Bát giáo.

Ngũ thời

- Hoa Nghiêm
- A Hàm
- Phương Đẳng (Duy Ma, Lăng Già...)
- Bát Nhã
- Pháp Hoa, Niết Bàn

Năm thời tương ưng với năm vị (của kinh Niết Bàn)

Năm vị

- Sữa tươi (ngưu nhũ)
- Váng sữa (lạc)
- Váng bơ (sinh tô)
- Bơ kết (thục tô)
- Bơ lỏng (đề hổ)

- Đề hổ là tối thượng trong 5 vị, và kinh Pháp Hoa, Niết Bàn được ví như đề hổ - tối thượng trong các kinh.

Tám Giáo (Bát Giáo)

4 hóa nghi (Hóa nghi tứ giáo) [4 phương pháp giáo hóa]

 1- Đốn
2- Tiệm
3- Bí mật
4- Bất định

4 hóa pháp (Hóa pháp 4 giáo) [4 nội dung giáo lý cơ bản]

 1 - Tạng giáo 
2 - Thông giáo
3 - Biệt giáo 
4 - Viên giáo

Tứ giáo

- Tạng giáo : hệ thống kinh điển A Hàm và Nikàya

- Thông giáo : hệ thống kinh điển xuyên thông cả Tam thừa

- Biệt giáo : giáo lý đặc biệt dành cho đối tượng đặc biệt, như hàng Bổ Tát, Lục độ, Nhị đế v.v...

- Viên giáo : giáo lý viên dung - nhất thừa, chỉ cho kinh Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Pháp Hoa

Tứ nghi

- Đốn giáo : giáo lý đốn ngộ, dành cho hàng trí giả - Đại thừa

- Tiệm giáo : giáo lý được giảng tùy theo trình độ, căn cơ (các kinh A Hàm, Phương Đẳng)

- Bí mật : giáo lý đặc thù dành cho đối tượng đặc thù (không phải ai cũng được nghe và hiểu được)

- Bất định : cùng một giáo lý, cùng một pháp hội nhưng chôỡ này là đốn giáo, chôỡ kia là tiệm giáo - tùy theo trình độ mà 
nói.

? đây, có một vấn đề. Tương truyền, ngũ thời bát giáo là do ngài Trí Khải (54), đệ tử của Huệ Tư, sáng lập. Nhưng học 
giả Sekiguchi Shindai trong bài viết “Khởi nguyên ngũ thời bát giáo” (Goji hakkyo kyohanron no kigen) (xem Taisho 
daigaku kiyo, tr.1-15 (1975) cho rằng chính Trạm Nhiên (711-782) là người hệ thống hóa phán giáo này?

4- Hoa Nghiêm Tông

Tông phái này do sư Đỗ Thuận, Trí NghiễmPháp Tạng thành lập. Giáo pháp được chia thành 5 giáo, 10 tông.

* Năm giáo

1- Tiểu thừa giáo : giáo lý cho hàng Thanh Văn, như A Hàm, A Tỳ Đàm luận, Thành Thật luận
2- Đại thừa sơ giáo : giáo lý cho hàng Đại thừa sơ cấp, như Trung Quán luận, Du Già Sư Địa luận... ; 
3- Đại thừa chung giáo : giáo lý cho hàng Đại thừa cao cấp, như kinh Lăng Già, Thắng Man... ; 
4- Đại thừa đốn giáo : giáo lý cho hàng Đại thừa ưu tú, như Thiền tông... ; 
5- Nhất thừa viên giáo : giáo lý viên dung, tối thượng, như kinh Hoa Nghiêm..., Nhất thừa viên giáo có hai loại :

a)- Nhất thừa đổng giáo : tương ứng với Tam thừa (kinh Pháp Hoa)

b)- Nhất thừa biệt giáo : khác với Tam thừa (kinh Hoa Nghiêm)

Thanh

- Loa Khê 
- Nghĩa Tịch

 - Bửu Vân 
- Nghĩa Thông

- Từ Vân Tuân Thức 
- Tứ Minh Trí Lễ

- Từ quang
- Chí Nhân 

- Từ Quang 
- Ngộ Ấn

- Trí Viên 
- Khánh Chiêu

 

 * Mười tông (10 học thuyết cơ bản của Phật giáo Bộ pháiĐại thừa)

Sáu học thuyết của Tiểu thừa :

1- Tông Ngã pháp đều có : thuộc giáo lý của Độc tử bộ, Pháp thượng bộ, Hiền vị bộ, Chính lượng bộ, Mật lâm sơn bộ, Kê dân bộ trong thời kỳ Phật giáo Bộ phái.

2- Tông Ngã không pháp có : thuộc giáo lý của Nhất thiết hữu bộ, Tuyết sơn bộ,?n quang bộ, Kinh lượng bộ.

3- Tông Pháp không khứ lai : thuộc quan niệm “Hiện tại hữu thể, quá vị vô thể” của Hóa địa bộ, Pháp tạng bộ, Đại chúng bộ, Đa văn bộ, Chế đa sơn bộ, Tây sơn trụ bộ, Bắc sơn trụ bộ.

4- Tông Hiện thông giả thật : thuộc quan niệm “Chân giả tịnh hữu” của Thuyết giả bộ.

5- Tông Tục vọng chân thật : Quan niệm của thuyết Xuất thế bộ.

6- Tông Chư pháp giả danh : Quan niệm “Tam thế chư pháp giả danh vô thể” của Nhất thuyết bộ.

Bốn học thuyết của Đại thừa

7- Tông “Nhất thiết pháp không” : thuộc Đại thừa thỉ giáo.

8- Tông “Chư pháp thực tướng” : thuộc Đại thừa chung giáo.

9- Tông “Tướng và Tưởng đều không” : thuộc Đại thừa đốn giáo.

10- Tông “Như thị - viên mãn” : thuộc Nhất thừa viên giáo (55).

Trên đây là các tông pháihệ thống phán giáo cụ thể. Còn Thiền tông, Tịnh độ tôngMật tông (Chân ngôn tông) thì hệ thống phán giáo không cụ thể và cũng khá đa diện. Tuy nhiên, với ba tông này, chủ yếu là đi vào tu tập thực tiễn. Do đó, nếu lập phán giáo thì phải lập theo một thể cách đặc thù của nó.

Riêng về phần phán giáo như vừa trình bày trên đây, chúng ta thấy lộ rõ một điều ở các hệ thống phán giáo, đó là sự tương quan thống thiết giữa nhận thức của con ngườichân lý thực tại. Bởi lẽ, nhận thức của con người thì bất khả thuyết - có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu nhận thức khác nhau. ? đây, sẽ không bao giờ có bất kỳ một khuôn mẫu tư duy nào có thể dùng cho mọi người; cũng như, tất cả mọi người đều mang giày, nhưng không thể có một đôi giày nào khả dĩ được dùng cho tất cả mọi người. Vả lại, chân lý thực tại cũng chỉ có Một, Đông phương hay Tây phương, đều chỉ có Một và 
chỉ Một mà thôi. Vì lẽ đó, vấn đề được đặt ra ở đây là : chân lý luôn luôn, lúc nào, và ở đâu, cũng bình đẳng trước mọi người; và, làm thế nào để mọi người có thể trực nhận được chân lý? Đây là lý do tại sao Phật tử Trung Hoa đề xuất và tổ chức các hệ thống phán giáo. Nó xuất hiện như là sự nối kết các nhịp cầu phương tiện để giúp người sang sông. Từ đó, ba thừa phân đốn, tiệm, quyền, thật tất cả đều viên dung. Đây là phương tiện thiện xảo để mỗi người với căn tánhtrình độ khác nhau đều có thể tu tập Phật giáo. Có thể tóm tắt ý nghĩa trên qua phát biểu của Long Thọ như sau : “Nếu không nương tục đế, thì không thể đạt đến chân lý. Nếu không đạt đến chân lý, thì không thể hiểu được Phật pháp” (56).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32575)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12031)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12571)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34443)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12519)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13732)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12613)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11936)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20531)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14228)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13852)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant