Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 31

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10135)
Phần 31


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 31)

 

Pháp Sư Tịnh Không

“Hoại chư dục trạm”

. “Trạm” là thí dụ. Trước thành thị có tường thành, bên ngoài thành có hào giữ thành, hào gọi là trạm. Phật ở chỗ này đem phiền não thí dụ cho thành, đem dục vọng thí dụ cho hào giữ thành. Tất cả chúng sanhthế gian đều có dục vọng, cụ thểngũ dục” gồm năm loại dục vọng mãnh liệt: “tài, sắc, danh, thực, thùy”; “lục dục” gồm “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp” còn gọi là lục trần. Những thứ này phải viễn ly, phải xả bỏ, hạ dục vọng của đời sống xuống mức thấp nhất thì đời sống của bạn liền được đại tự tại, ngay đời này chân thật hạnh phúc mỹ mãn. Thích Ca Mâu Ni Phật hiểu được. Phật và học trò của ngài cũng làm được điều này, nên họ trải qua đời sống thong dong tự tại. Dưới mỗi gốc cây chỉ ngủ một đêm, nửa ngày ăn một bữa, không có gánh nặng nào.

Trong khi người thế gian mê hoặc điên đảo, tham đắm năm dục sáu trần, nghĩ hết cách phải thành gia lập nghiệp, tại dựng cái nhà. Nhà là gì? Các vị xem thử kiểu dáng “nhà”, văn tự Trung Quốc, giống như chữ “hào”. Có một căn phòng nhỏ, trong phòng là chú heo nhỏ, đó chính là chữ nhà. Phật đầy đủ trí tuệ nên không làm việc này. “Nghiệp” là gì? là nghiệp chướng. Bạn còn phải lập nghiệp, chướng ngạiminh tâm kiến tánh”, chướng ngại thoát sanh tử, ra ba cõi. Gia nghiệp trói buộc, người giác ngộ phải biết xả bỏ nó. Vậy ngày nay, người xuất gia chúng ta có thật xuất gia hay không? Không. Họ ra khỏi nhà nhỏ, liền xây nhà to; xả bỏ nghiệp nhỏ, làm một đại nghiệp, khổ nói không ra lời. Cho nên phải tỉ mỉ tư duy, nghĩ xem khi còn ở đời, Phật đã dạy chúng ta như thế nào, tổ sư đại đức xưa nay dạy bảo chúng ta như thế nào.

Khi Thế Tôn còn tại thế, không có đạo tràng. Tuy lúc tuổi già, một số quốc vương đại thần cúng dường tịnh xá, vườn rừng, thỉnh Phật ở đó giảng kinh nói pháp, đó chỉ là thỉnh Phật tạm trú, không hề tặng Phật Thích Ca Mâu Ni. Vườn rừng đạo tràng vẫn là của chính các tín đồ, họ vẫn có quyền sở hữu. Phật Thích Ca Mâu Ni cùng các đệ tử này chỉ có quyền sử dụng, chứ không có quyền sở hữu. Cũng như chúng ta ở nhà nghỉ vậy, chỉ đến ở vài ngày, nhưng ông chủ mới là người có quyền sở hữu. Lão hòa thượng tiền bối cũng từng nói, căn phòng này khi mưa xuống bị dột, người xuất gia thấy dột thì dọn qua nơi không dột. Bị dột nữa thì đi nơi khác. Sửa sang phòng ốc là việc của người chủ. Người tạm nghỉ không lo việc này. Loại cúng dường đó công đức chân thật.

Ngày nay, một số tín đồ mua nhà cửa, cúng dường quyền sở hữu cho pháp sư. Pháp sư liền bước lên thòng lọng, thiệt hại càng to. Không phải bạn đang muốn xuất gia hay sao? Người ta kéo bạn trở lại thì bạn đã quay lại, rồi có một căn nhà, nhốt chết bạn, vĩnh viễn không thể thoát khỏi luân hồi. Tôi hy vọng đồng tu xuất gia chúng ta phải cảnh giác cao độ, quyết không để bị thiệt.

Nếu như bạn muốn hỏi, “không có bất cứ thứ gì vẫn có thể thân tâm an ổn làm đạo sao?”. Cả đời tôi làm tấm gương cho các vị, cả đời tôi không có đạo tràng, đều ở đạo tràng của người khác. Cả đời này chẳng phải tự tại, an vui hay sao? Không có gia nghiệp càng tự tại, càng an vui. Nếu không có người quan tâm đến tôi, không thỉnh tôi giảng kinh, không có nơi để ở, thì tôi càng an vui không gì bằng. Tôi có thể lập tức đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, được A Di Đà Phật tiếp dẫn. Vì các vị vẫn cúng dường, tìm tôi giảng kinh, nên tôi không còn cách nào khác, phải ở thêm vài ngày vậy, đó là sự thật. Dục vọng giảm xuống mức thấp nhất. Hiện tại tôi gần như khôngdục vọng. Hoằng pháp lợi sanh là việc của các vị, không liên quan đến tôi. Tôi ở đây giảng kinh, các vị muốn lưu thành băng đĩa để truyền bá khắp nơi, lợi ích chúng sanh, đó là việc của các vị, không liên quan đến tôi. Từ trước giờ tôi không nghe không hỏi, đó không phải là việc của tôi. Ai thích làm gì thì làm. Tôi cũng không có bản quyền, không gởi quan cáo các vị về tác quyền.

Chúng ta phải học người thông minh, phải biết những thứ này không là việc tốt, quyết không có chướng ngại, xả bỏ tất cả mới có thể được đại tự tại. Mấy ngày nay, một số đồng tu nói với tôi, họ nghe tôi giảng kinh thuyết pháp, đem nhà và gia nghiệp thảy đều buông bỏ để đến học Phật. Sự nghiệp vừa buông bỏ, không làm việc, không thu nhập, qua vài ngày đời sống trở thành vấn đề. Cả nhà kêu khổ, thân thích bạn bè xem thấy cho rằng người học Phật này bị ma ám, mê muội. Nghe xong, tôi thấy họ đã hiểu sai ý nghĩa lời tôi nói. Tôi không dạy như vậy. Kinh nói “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, thực tế không dễ dàng. Ý nghĩa lời tôi nói bạn còn hiểu sai thì làm sao có thể hiểu được ý của Như Lai?

Trong kinh Phật dạy chúng ta buông bỏbuông bỏ phiền não, buông bỏ dục vọng. Không bảo bạn buông bỏ công việc. Kinh luận đại thừa tiểu thừa, không có bài kinh nào Phật bảo bạn buông bỏ công việc. Nếu Phật bảo buông bỏ hết công việc thì công tác giảng kinh nói pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni cũng buông bỏ. Chúng ta sẽ không có kinh nghe, thế gian không có Phật pháp. Việc không hề chướng ngại trên kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Ngại là gì? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chính là nói phiền não, dục vọng. Cho nên, chướng ngại trên tâm lý phải buông bỏ. Trên sự không có chướng ngại. Không chỉ Phật không dạy buông bỏ công việc mà Phật còn dạy bạn làm việc chăm chỉ nỗ lực hơn người. Bạn muốn làm tốt hơn người khác, phải trở thành tấm gương để người khác soi theo.

Sau cùng trong kinh Hoa Nghiêm nói đến năm mươi ba đồng tham, chẳng phải là thí dụ hay sao. Năm mươi ba vị đó không phải là Bồ tát mà là năm mươi ba vị Phật. Họ dùng thân đại sĩ để xuất hiện. Họ nội chứng, vẫn là thị hiện, không phải thật, đều là chư Phật Như Lai. Trên dấu vết có nam nữ già trẻ, các ngành nghề. Nhưng từ một nghề nghiệp nào đó, họ làm ra tấm gương tốt nhất. Cho nên Bồ Tát đạo tu ở đâu? chính ngay cuộc sống thường ngày của mình. Không hề rời khỏi đời sống. Nếu bạn nói, nhất định phải phát tâm, phải học Phật, phải tu hành chứng quả, phải xả bỏ việc nhà, thì nhất định phải xuất gia, nhưng xuất gia có thể thành Phật hay không? Xuất gia nếu không gặp duyên tốt, tạo tội nghiệp càng sâu, đọa a tỳ địa ngục càng nhanh, càng thê thảm. Chúng ta ở năm mươi ba vị đồng tham xem thấy, năm mươi ba vị Phật chính ngay trong đời sống của họ, trong nghề nghiệp của họ, mỗi mỗi đều thành tựu. Chúng ta phải giác ngộ. Những người đó đoạn tham sân si trong cuộc sống, xả bỏ dục vọng, thành tựu vô lượng pháp môn, thành tựu vô thượng Phật đạo, đó gọi là học Phật. Tuyệt nhiên không xả bỏ đi sự nghiệp của mình.

Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện người xuất gia, một nghề nghiệp tu hành chứng quả có thể thành Phật. Cư sĩ Duy Ma cùng Thích Ca Mâu Ni Phật trong một thời đại, thị hiện tại gia thành Phật, có gia nghiệp, có vợ con, dù tại gia nhưng cũng thành tựu cứu cánh viên mãn quả Phật như nhau. Cho nên các vị phải biết, xuất gia là một hạnh trong ba trăm sáu mươi hạnh. Hạnh nghiệp này là giáo dục xã hội, một tính chất nghĩa vụ. Bạn có hứng thú đối với việc này thì có thể chọn lựa. Hạnh nghiệp này là hoàn toàn dốc hết nghĩa vụ, quyết không ham muốn báo đáp. Không nhận báo đáp, bạn mới thanh tịnh.

Nếu bạn tự làm rất nhiều việc từ thiện xã hội thì hà tất phải làm người xuất gia cho phiền. Bạn có tiền có thế lực thì cứ làm. Còn cúng dường pháp sưyêu cầu pháp sư làm từ thiện giúp, như thế chẳng phải phiền người khác hay sao. Thích Ca Mâu Ni Phật không bao giờ làm. Trong hàng đệ tử của Ngài có biết bao quốc vương đại thần, nhưng Ngài không bao giờ tiếp nhận cúng dường hay lời thỉnh mời làm giúp những việc từ thiện. Phật chỉ dạy cách làm và bạn phải tự làm. Phật không làm thay việc này cho bạn.

Hiện tại người xuất gia phá giới phạm quy củ cũng vì tiếp nhận cúng dường của người tại gia, làm việc cho người tại gia. Nếu thông minhtrí tuệ, chúng ta không làm việc ngốc này. Hãy để họ tự làm, chúng ta mới có thể viên mãn tròn đầy bổn phận của mình. Không ít người đi khắp nơi cúng dường tăng, trở thành một phong tục. Nếu bạn không tiếp nhận thì bị mắng và quy kết không từ bi, không chịu để người gieo chút phước điền. Việc này thật bất đắc dĩ cho nên không cách gì. Chẳng hạn ở HongKong, tôi không thể không tiếp nhận. Sau khi tiếp nhận, tôi liền đưa đồng tu mang về, thảy giao cho cư sĩ Lý Mộc Nguyên làm Phật sự. Ở Đài Loan cũng nhận ít cúng dường. Vừa đúng lúcpháp sư đến đại lục cứu tế. Tôi nghe nói đại lục nạn nước rất nghiêm trọng, nên thảy đều giao hết tiền cúng dường cho pháp sư đó. Tôi không hề nhìn qua bao nhiêu tiền bên trong. Nhiều bao đỏ mang đến lại cho đi, rất tự tại.

Phải biết tham sân si mạn, năm dục sáu trần hại chúng ta đời đời kiếp kiếp không ngẩng đầu lên. Không phải chúng ta không có thiện căn, nếu khôngthiện căn, bạn không thể ngồi đây đến hai giờ đồng hồ. Ngồi được hai giờ đồng hồ, chứng tỏ bạn có thiện căn, Phật duyên của bạn rất sâu, quá khứ đời đời kiếp kiếp thân cận chư Phật Như Lai, chư đại Bồ Tát, tổ sư đại đức, nhưng vì sao bạn không thể vãng sanh, vì sao vẫn đọa vào sáu cõi sanh tử luân hồi? Vì phiền não của bạn chưa đoạn, dục vọng chưa xả hết, bạn thường hay nghĩ đến việc này, càng nghĩ càng đáng sợ, càng nghĩ càng thấy nghiêm trọng. Trong đời này chúng ta gặp Phật pháp, được cơ duyên thù thắng, thuận lợi vãng sanh, nhưng còn phải xem bạn có chịu đem phiền não dục vọng hạ xuống mức thấp nhất hay không. Xả bỏ và hạ thấp thì ngay đời này liền thành tựu. Nếu đời này vẫn bị tập khí lôi kéo, vẫn không buông bỏ, hay nói cách khác, đời này cũng giống y đời trước, chỉ kết được thiện duyên với Phật A Di Đà thì không thể đi được. Bạn lại uổng qua một đời nữa, nghĩ xem có đáng tiếc không. Kinh văn mở ra câu thứ nhất liền nói đến phiền não dục vọng, thế mới biết tính nghiêm trọng của nó. Vô lượng kiếp đến nay chúng ta đã bị hại thê thảm, vậy mà vẫn chưa chịu giác ngộ hay sao?

“Tẩy trạc cấu uế”

Cấu” là phiền não chướng, “uế” là sở tri chướng, là vô minh, những thứ chúng ta phải kỳ rửa cho thật tinh sạch. Câu kinh này từ trên thí dụ mà nói, vậy phải dùng phương pháp gì để tẩy rửa? Lý luận trong kinh điển đại tiểu thừa cho chúng ta nhiều phương pháp phương tiện khéo léo tẩy rửa sở tri chướngphiền não chướng. Tịnh tông Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng tagom nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục”, đó là phương pháp tốt, nhưng làm thế nào để gom nhiếp sáu căn? “Nhiếp” là thâu nhiếp. Phật dạy như vậy, thánh nhân thế gian cũng dạy chúng ta như vậy. Các vị đọc Tứ Thư, Mạnh tử đã nói ra ý này, “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ”. “Cầu kỳ phóng tâm” chính là “gom nhiếp sáu căn”. Tâm phàm phu chúng ta tùy theo sáu căn mà chạy rong bên ngoài, phan duyên sáu trần, nhãn duyên sắc, tai duyên tiếng, tâm hướng ra ngoài. Những thánh hiền thế xuất thế gian dạy bảo chúng ta phải gom nhiếp tâm đó lại. Mắt không duyên sắc trần, tai không duyên thinh trần, đó chính là học vấn, là công phu.

Xã hội hiện đại rất phức tạp. Kinh Lăng Nghiêm nói “tà sư thuyết pháp như cát sông Hằng”, Phật không quá đáng chút nào. Phàm hễ mê hoặc bạn thì đều là tà sư. Truyền hình đang dạy bạn, ca vũ đang dạy bạn, sáu căn của bạn tiếp xúc với cảnh giới đều đang dạy bạn tạo mười ác nghiệp, tăng thêm tham sân si mạn, mục đích kéo bạn vào a tỳ địa ngục, không dễ gì thoát khỏi. Bồ Tát Địa Tạng ở nơi đó khổ cực lắm mới kéo bạn từ địa ngục đi ra. Kéo ra chưa được mấy ngày, những ma vương bên ngoài thấy bạn lại tạo nhiều sự mê hoặc. Bạn vừa nắm lấy thì lập tức trở vào. Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh đã nói, Bồ tát Địa Tạng thấy bạn vừa ra khỏi, rồi đánh một vòng lại trở vào, “chúng sanh Diêm Phù Đề, cang cường nan hoá”. Do đó chúng ta phải ghi nhớ lời của Phật Bồ Tát, không nên rơi vào thòng lọng yêu ma quỷ quái. Phải hiểu được gom nhiếp sáu căn.

Phàm hễ tà ác, tà thì không chánh, ác thì không thiện, nhất định phải biết nguyên lý. Người chân thật tu hành không nên xem truyền hình. Truyền hình thời đại hiện nay là dấu hiệu của ma vương. Bạn qua lại với nó thì phiền não sẽ to. Vô số chúng sanh trên thế giới này từ nhỏ đã kết giao mật thiết với nó, một ngày không rời khỏi. Chúng ta phải cảnh giác cao độ. Không chỉ đó là ma vương, tương lai e rằng càng hung hơn, tà ác hơn. Đường truyền internet không cách gì phòng bị. Nội dung trong đó quá tà ác. Internet là một công cụ rất tốt để ma vương lợi dụng. Chúng tađệ tử Phật, phải phát tâm dùng công cụ này tuyên dương chánh pháp. Trong số người thế gian, người có thiện căn vẫn rất nhiều, họ sẽ giác ngộ, quay đầu.

Lần trước tôi đến HongKong, lão pháp sư Giác Quang gọi điện cho tôi. Ông vừa từ Seattle Hoa Kỳ trở về. Ông ấy có hai đạo tràng ở Seattle, nên mỗi năm phải đi về hai lần, mỗi lần mười mấy ngày. Ông bảo, ở Seattle ngày ngày ông đều nghe tôi giảng kinh. Tôi lấy làm lạ, làm sao tôi có thể giảng kinh ở Seattle? Thì ra trên truyền hình. Mỗi ngày ở Hoa Kỳ có thời gian một giờ đồng hồ phát sóng băng đĩa giảng. Ông xem thấy rất hoan hỉ, gọi điện nói với tôi. Ông nói từ trước đó, trên truyền hình cũng có một số tà sư nói pháp, mê hoặc người. Sau khi phát tiết mục này của tôi, những tiết mục đó liền rất ít, người xem cũng giảm. Ông báo tin cho tôi, rồi mời tôi ăn cơm.

Cho nên, chúng ta phải cố gắng lợi dụng công cụ khoa học kỹ thuật. Ngạn ngữ thường nói “không sợ không biết hàng, chỉ sợ hàng đụng hàng”. Chúng ta dùng hàng thật, hàng tốt để tạo sự so sánh. Một số người có thiện căn tự biết chọn lựa. Do đó chúng ta phải xem trọng khoa học kỹ thuật, phải khéo lợi dụng nó mà đem chánh pháp của Phật, pháp thuần thiện của Phật truyền bá khắp thế giới.

Mọi người đều biết kiếp nạn tai biến triền miên, vậy có thể hoá giải được không? Trên lý luận khẳng định có thể hoá giải. Kiếp nạn hình thành do tri kiến tà ác, hành vi tà ác, chúng sanh nghiệp lực trói buộc, ác nghiệp chiêu cảm. Hiện tại có rất nhiều người không tin điều này. Họ không tiếp nhận, nhưng những điều này đều là sự thật. Phật thường nói “mười pháp giới y chánh trang nghiêm, duy tâm sở hiện duy thức sở biến”, đó là nói rõ nguồn gốc của vũ trụ nhân sanh, do vậy mà đến. Lại nói với chúng tatất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, hữu tình có tưởng liền biến thành hữu tình thế gian, vô tình vô tưởng liền biến thành khí thế gian. Hữu tình thế gian cùng khí thế gian đồng một căn nguyên. Người học qua pháp tướng duy thức đều biết. Bốn phần của a lại da, hữu tình hữu tưởng kiến phần, vô tình vô tưởng tướng phần. Kiến phần tướng phần cùng đồng một tự chứng phần. Nếu chúng ta có thể đoạn tất cả tà ác, nỗ lực tu thiện thì nghiệp thiện thêm lớn, hoàn cảnh y báo liền chuyển, tai nạn tự nhiên cũng có thể tiêu trừ, hoặc chuyển biến, chân thật là “y báo tùy theo chánh báo chuyển”.

Tóm lại, người chân thật hiểu dụng công, biết dụng công thì không gì khác hơn “gom nhiếp sáu căn”. Người niệm Phật so với phương pháp Bồ Tát Đại Thế Chí đã nói còn phải đơn giản hơn, có hiệu quả hơn. Dùng phương pháp một danh hiệu Phật gom nhiếp sáu căn, “nhất thanh Phật hiệu, nhất thanh tâm”, “nhất niệm tương ưng, nhất niệm Phật”. Ngay trong một niệm không có tà ác thì tương ưng; không có tà tư, không có ác niệm thì tương ưng. Niệm Phật vẫn khởi vọng tưởng, vẫn còn tham sân si mạn, vẫn có phải quấy nhân ngã, thì không tương ưng. Nói chung, những tri kiến thế tục này thảy đều không còn, tâm địa thanh tịnh mới tương ưng.

“Hiển minh thanh bạch”

Thanh bạch” là thí dụ chân tâm bổn tánh, tự tánh. Loại bỏ hai chướng ngại, phiền não chướngsở tri chướng thì tự tánh thanh bạch liền hiển lộ. Ngày nay tự tánh thanh bạch của chúng ta bị hai loại chướng này chướng ngại nên không thể hiển lộ. Như Bồ Tát Đại Thế Chí đã nói “Bất dã phương tiện, tự đắc tâm khai”.

Hiển minh” chính là tự đắc tâm khai. Tông môn gọi là “minh tâm kiến tánh”. Bốn chúng đồng tu chúng ta ngay đời này phải lấy đây làm mục tiêu. Tất cả cái khác đều giả, cái này là thật, tịnh tông gọi là “Nhất tâm bất loạn”. Bạn niệm Phật đến nhất tâm thì thành tựu của bạn là chân thật.

Buổi tối hôm qua, một học sinh đến hỏi tôi, làm thế nào để học giảng kinh? Tôi hỏi anh ấy năm nay bao nhiêu tuổi? Anh trả lời hai mươi tám tuổi. Tôi bảo anh hãy chuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ trong mười năm, đến ba mươi tám tuổi. Trong mười năm, không nên can dự đến các kinh điển khác, chỉ chuyên một môn. Khi một môn thâm nhập tâm của bạn liền định. Một bộ kinh được giảng trên dưới mười năm thì mỗi năm chí ít cũng phải giảng hai lần. Hy vọng trong mười năm, bộ kinh này được giảng từ đầu đến cuối ba mươi lần, thậm chí năm mươi lần càng tốt. Sau mười năm, chắc chắn bạn sẽ trở thành giảng sư hay nhất thế giới, là chuyên gia của kinh Vô Lượng Thọ. Bạn chính là Vô Lượng Thọ Phật sống, Vô Lượng Thọ Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ. Bạn liền có thể hóa độ tất cả chúng sanh thế giới.

Còn nếu bạn muốn học cùng lúc hai ba bộ kinh thì sức mạnh của bạn sẽ bị phân tán, không thể thành tựu. Bạn có học mười bộ kinh thì bạn cũng chỉ là một nhà Phật học, không liên quan gì đến việc thoát sanh tử vượt ba cõi. Tương lai bạn chết như thế nào vẫn phải chết như thế đó, đáng luân hồi như thế nào vẫn phải luân hồi như thế đó. Bạn phải hiểu đạo lýchân tướng sự thật này.

Bạn cũng không nên học tôi. Hôm nay tôi giảng nơi đây, ngày mai tôi lại giảng Hoa Nghiêm, giảng cái này, cái kia. Nếu bạn học tôi thì thật đáng lo. Vì tôi bị ép không còn cách lựa chọn. Nếu có người giảng Hoa Nghiêm, tôi sẽ tuyệt đối không giảng Hoa Nghiêm nữa mà một đời chỉ chuyên giảng một bộ kinh. Nhưng sở dĩ tôi phải giảng nhiều như vậy vì không có người giảng. Tôi không còn cách nào nên mới làm vậy. Rất nhiều người nói, “Pháp sư à! Lưu lại bộ băng đĩa này đi, đây là một công trình thật to lớn”. Thế nhưng tôi hy sinh có mức độ khi một đời giảng nhiều bộ kinh. Hạ hạ phẩm vãng sanh là mức thấp nhất, tôi biết mình có thể vãng sanh ít nhất là bậc hạ hạ phẩm. Còn nếu hạ hạ phẩm vãng sanh bạn cũng không thể nắm chắc thì việc giảng nhiều bộ kinh nhất định không nên làm. Hãy nghe lời tôi khuyên, ngay trong một đời này chuyên giảng một bộ kinh, tương lai các vị vãng sanh sẽ là thượng thượng phẩm. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, phẩm vị của bạn sẽ cao hơn tôi nhiều.

Năm xưa Đại sư Trí Giả ở đời cũng đã hi sinh rất lớn. Khi ngài sắp vãng sanh cõi phàm thánh đồng cư, học trò hỏi phẩm vị vãng sanh của ngài. Ngài nói: “nếu tôi không độ chúng, phẩm vị rất cao. Nhưng vì độ chúng, phải lo việc trụ trì, cho nên chỉ vãng sanh ở phẩm vị thứ năm”. Công phu của phẩm vị thứ năm không cao, tương đương với ngũ đình tâm vị trong tiểu thừa. Thị hiện này xả mình vì người, đó là việc rất khó được. Thế nhưng chính ngài phải nắm chắc mức độ thấp nhất để vãng sanh. Đó là từ bi chịu hi sinh chính mình. Một khi chấp nhận hi sinh, phẩm vị cũng không gì đáng tiếc. Còn nếu chính mình không nắm chắc được phần vãng sanh thì vạn nhất không nên làm. Đó là việc chính mình nhất định phải biết, quyết không làm trung gian.

Bạn thông đạt các loại kinh luận, đều giảng được, tiếng tăm của bạn cao, vậy coi như xong. Tiếng tăm đó hại chết bạn. Bạn sẽ không bằng người chân thật cừ khôi, bậc đại thiện tri thức. Những người đó, bạn hỏi họ, thứ gì họ cũng không biết, chỉ biết một môn. Năm mươi ba tham trong Hoa Nghiêm chính là tấm gương như vậy. Khi Thiện Tài đến tham phỏng năm mươi ba vị thiện tri thức, họ ngay trong vô lượng pháp môn chỉ học một pháp môn, không học các pháp môn khác, chính mình khiêm tốn, tán thán người khác. Họ tự cho cái biết của mình rất có hạn, người khác biết nhiều hơn nên lại giới thiệu Thiện Tài Đồng Tử đến nơi khác tham phỏng. Chư Phật Bồ Tát đều làm tấm gương tốt nhất cho chúng ta xem. Chúng ta phải giác ngộ.

Ngạn ngữ Trung Quốc nói: “Chỉ cần công phu sâu, lo gì sắt không mài thành kim”. Chỉ cần bạn hạ công phu, làm gì không thể thành tựu vô thượng bồ đề. Ngay một đời này, chúng ta đích thực có thể chứng đắc, chỉ cần bạn thật chịu làm, chân thật buông bỏ phiền não, xả bỏ dục vọng, một lòng một dạ chuyên môn công phu minh tâm kiến tánh. Phải biết sau khi ngộ, tất cả thông đạt vô ngại. Giáo học thời xưa không chỉ là Phật pháp mà còn có giáo học của nhà Nho. Lão sư rất xem trọng ngộ tánh của học trò. Thời kỳ kháng chiến, trường học chúng tôi ở Quế Châu, lão sư vẫn xem trọng ngộ tánh của học trò. Học trò nào ngộ tánh cao, thầy giáo đặc biệt quan tâm, chăm sóc. Họ không truyền bá tri thức mà dùng phương tiện khéo léo giúp bạn khai ngộ, đó mới là giáo dục chân thật. Còn trường học hiện tại hoàn toàn truyền thụ tri thức, không chú trọng ngộ tánh, sai lầm to lớn. Sau khi ngộ, bạn không chỉ thông đạt pháp xuất thế gian, mà pháp thế gian cũng thông đạt.

Có người hỏi những Bồ Tát này cùng phàm phu chúng ta đồng một a lại da thức không? Không sai, là như nhau. Họ lại hỏi, ngay trong giống nhau vì sao lại nói “khứ hậu lai tiên tác chủ công”? Trong giống có không giống. Thế Tônkinh Lăng Nghiêm đem tâm tánh thí dụ cho đại hải. A lại da thức của mỗi chúng sanh thí dụ cho bọt nước. Mỗi người là một bọt nước, vậy những bọt nước trong biển lớn giống nhau hay khác nhau. Đều từ đại hải biến hiện ra. Khi bọt nước này của bạn trong bể thì không giống, bởi vì phạm vi của bạn rất hẹp. Bọt nước của bạn sau khi ra bể mới hoàn toàn giống nhau. Cho nên quả nhiên có thể chuyển thức thành trí. Trí tuệ khai thì tất cả chư Phật công đức trí tuệ đã tu vô lượng kiếp đều biến thành chính ta. Các ngài tu biến thành của ta, vì đồng một pháp thân, đồng một tự tánh, đồng một a lại da thức. Tương tự, vô lượng kiếp đã tu của ta cũng biến thành của người khác. “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc”, đến quả địa Như Lai Phật Phật như nhau, không hề khác.

Hiểu rõ đạo lý này mới biết khai ngộ rất đáng quý. Sau khi ngộ, tất cả thông đạt, thế xuất thế gian pháp cũng thông đạt. Từ xưa đến nay thế xuất thế gian pháp, bậc thiện tri thức chân thật thương yêu chúng sanh đều chủ trương dạy bảomột môn thâm nhập, huân tu lâu dài”, không hề dạy nhiều và tạp. Rất nhiều rất tạp chính là hại bạn, làm cho bạn hướng đến con đường danh lợi, không phải hướng đến học vấn chân thật. Học vấn chân thật không liên quan danh vọng lợi dưỡng. Có học vấn chân thật sẽ không còn truy cầu danh vọng lợi dưỡng. Bên cạnh đó, nếu có duyên có thể nhờ danh vọng lợi dưỡng giáo hoá chúng sanh, lợi ích chúng sanh, quyết không ham muốn danh vọng lợi dưỡng. Phải hiểu đạo lý này, phương châm tu học mới có thể nắm chắc thành tựu.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32342)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11023)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30188)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30265)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11958)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12129)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11450)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12478)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34279)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9668)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52059)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10579)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10330)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10534)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10311)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12903)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16007)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21599)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 6983)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12446)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12612)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16065)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16325)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13685)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16327)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11882)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14198)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11634)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16046)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14213)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16047)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12578)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11901)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11637)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15516)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11359)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13874)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11856)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12409)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14784)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11833)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 12969)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14301)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20447)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13047)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10822)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14180)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20075)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13791)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31686)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11878)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant