Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 47

Friday, January 9, 201511:49(View: 11642)
Phần 47


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 47)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Ư CHƯ CHÚNG SANH, THỊ NHƯỢC TỰ KỶ, CHẨN TẾ PHỤ HÀ, GIAI ĐỘ BỈ NGẠN

“Ư chư chúng sanh, thị nhược tự kỷ”

Hai câu này là thái độ chúng ta giúp đỡ chúng sanh. Chúng ta phải xem tất cả chúng sanh thành chính mình. Người xưa Trung Quốc thường dạy: “Mình không muốn thì đừng làm cho người”, ý nghĩa tương đương. Nhưng kinh Phật sâu sắc hơn, đó là phải xem lợi ích của người khác như lợi ích của chính mình; người khác bị hại như chính mình bị hại. Đó mới là người chân thật giác ngộ. Vì sao? Vì tất cả chư Phật Bồ Tát đều có tâm trạng này. Chư Phật Bồ Tát đều “minh tâm kiến tánh”. Kinh Hoa Nghiêm chỉ rõ những Bồ Tát từ sơ trụ trở lên, gọi là Viên Giáo; Biệt GiáoSơ Địa phá một phẩm vô minh chứng một phần pháp thân. Cái gì gọi là pháp thân? “Ư chư chúng sanh thị nhược tự kỷ”. Tất cả chúng sanh và chính mình đồng một tự tánh, nhà Phật gọi là chân như bổn tánh.

Chúng sanh không chỉ chúng sanh hữu tìnhbao gồm chúng sanh vô tình. Chỗ này không hề nói: “Ư nhất thiết hữu tình chúng sanh thị nhược tự kỷ”, nếu nói như vậy thì giới hạn của nó rất rõ, nhưng chỗ này chỉ nói: “ư chư chúng sanh”. Ý nghĩa hai chữ “chúng sanh” là chúng duyên hòa hợpsanh khởi hiện tượng. Vậy tất cả động vật đều do chúng duyên hòa hợp sanh ra. Thực vật, khoáng vật cũng là chúng duyên hòa hợp, thậm chí đến tất cả hiện tượng tự nhiên cũng đều do chúng duyên hòa hợp, chỉ cần có hình tướng thì đều là chúng sanh. Ý nghĩa chúng sanh quá rộng lớn, tận hư không khắp pháp giới là chính mình. Điều này đúng như kinh Hoa Nghiêm nói: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tận hư không khắp pháp giới là chính mình thì duy tâm sở hiện; mười pháp giới y chánh trang nghiêm là chính mình thì duy thức sở biến.

Thức” là phân biệt. Từ trong phân biệt biến hiện ra trùng trùng pháp giới khác nhau. Lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì không còn pháp giới khác nhau, mới gọi là pháp giới nhất chân. Người trong pháp giới nhất chân cùng người trong mười pháp giới chúng ta không như nhau. Trong mười pháp giới vẫn còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nhưng trong pháp giới nhất chân không còn. Nếu chúng ta cũng có thể lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì pháp giới nhất chân liền lập tức chứng được. Thế nhưng, pháp giới nhất chân cùng mười pháp giới không rời nhau mà đồng thời tồn tại, đồng chỗ tồn tại. Việc này không thể nghĩ bàn. Đồng thời và đồng chỗ nên chư Phật cùng những pháp thân đại sĩ, Bồ Tát Viên Giáo Sơ Trụnăng lực tùy loại hiện thân, tùy cơ nói pháp, thiên bá ức hoá thân. Viên Giáo Sơ Trụnăng lực thị hiện trong mười pháp giới, trong sáu cõi, cùng tất cả chúng sanh hòa quang hồng trần, ở đây “hưng đại bi, mẫn hữu tình” để giúp đỡ chúng ta.

Khi họ thị hiện giống chúng ta, cũng phân biệt, cũng chấp trước, như vậy có phải họ bị đoạ lạc không? Không. Chúng tapháp giới người trong mười pháp giới, còn họ ở pháp giới nhất chân. Chúng ta và họ tuy cùng ngồi một bàn ăn cơm, đồng tay nắm tay, nhưng họ ở pháp giới nhất chân, còn ta ở pháp giới người, không như nhau. Nếu các vị không thể hội được ý nghĩa này thì nên nghĩ đến Đàn Kinh, Lục Tổ từng hỏi Vĩnh Gia rằng: “Ông còn phân biệt không?” Ngài Vĩnh Gia trả lời: “Phân biệt diệc phi ý”. Lục tổ nghe rồi gật đầu: “Không sai, ông như vậy ta cũng như vậy”. Đó chính là Lục TổVĩnh Gia cùng ở pháp giới nhất chân.

Khi giáo hóa chúng sanh, cùng ở chung với chúng sanh, những chúng sanh đó thuộc pháp giới người trong sáu cõi, còn họ thì ở pháp giới nhất chân. Cho nên khi giảng kinh nói pháp cho bạn nghe, họ cũng có phân biệt, chấp trước, nhưng họ thật không phải phân biệt. Chúng ta cho rằng họ phân biệt, chấp trước nhưng không phải vậy. Họ là trí. Chúng ta dùng tám thức, năm mươi mốt tâm sở, còn họ dùng bốn trí. Họ đã chuyển A Lại Da Thức thành Đại Viên Cảnh Trí, chuyển Mạt Na thành Bình Đẳng Tánh Trí, chuyển Đệ Lục Ý Thức thành Diệu Quan Sát Trí, chuyển Tiền Ngũ Thức thành Thành Sở Tác Trí. Ngay cuộc sống thường ngày, họ dùng bốn trí Bồ Đề, còn chúng ta dùng tám thức năm mươi mốt tâm sở, nên tuy hình thức không khác thậm chí hoàn toàn như nhau, nhưng trong cốt tủy lại hoàn toàn khác nhau. Tâm của chúng ta nhiễm ô, tâm của họ thanh tịnh. Chúng ta phân biệt chấp trướcô nhiễm, họ phân biệt chấp trướcthanh tịnh. Không phải họ chính mình phân biệt chấp trước. Họ tùy chúng sanh phân biệtphân biệt, tùy chúng sanh chấp trướcchấp trước, còn chính họ đích thực không phân biệt, không chấp trước.

Hai câu trên nói rõ mười pháp giới đồng thời tồn tại. Nhất chân cùng mười pháp giới không hề cách xa, không có trước sau, đó là chân tướng sự thật. Chính bởi vì sự thật này mà độ người chính là tự độ, tự độ chính là độ người. Tự độ độ tha là một sự việc, không phải hai, tương ứng câu “vào pháp môn không hai” mà pháp đại thừa thường nói. Chúng ta xem thấy hai nhưng người ta thì không hai. Không hai cho nên “phân biệt cũng không phải là ý”. Đạo lý này phải rất tỉ mỉ mà thể hội, vì không phải cảnh giới của chính mình. Tại sao không phải cảnh giới của chính mình? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình không hề lìa khỏi. Chỉ cần có phân biệt, chấp trước thì không phải cảnh giới của chúng ta. Cho nên, chúng ta phải thường quan sát, bắt tay vào từ chỗ này. Kinh Lăng Nghiêm nói “tối sơ phương tiện” là chỗ vào cửa ban đầu. Nhất định phải xem lợi hại của người khác là lợi hại của chính mình. Người khác khó khăn thì chính mình khó khăn; người khác có phước thì chính mình có phước. Câu “ư chư chúng sanh, thị nhược tự kỷ”, chúng ta phải nên học tập. Quả nhiên nếu như thể hội rồi thì lợi ích vô lượng vô biên, nói ra không cùng tận.

“Chẩn tế phụ hà, giai độ bỉ ngạn”

Đây là đại nguyện đã phát ra trong nhân địa chúng ta. Chúng tasứ mạng, có trách nhiệm hoá độ chúng sanh. Vì sao? Vì nơi nhân địa bạn đã từng phát nguyện. Hiện tại đồng tu niệm Phật có người nào không ở trước mặt Phật mà xướng lên “tứ hoằng thệ nguyện”? “Chúng sanh vô biên thệ nguyên độ”. Cho dù bạn có tâm hay không nhưng bạn ở trước mặt Phật Bồ Tát biểu thị đã phát ra nguyện này thì phải xứng hiện, phải có trách nhiệm, có sứ mạng và nghĩa vụ giúp đỡ tất cả chúng sanh. Bạn phải gánh vác trách nhiệmchẩn tế phụ hà”. Sau đó là mục tiêu, không phải độ một người hai người, mà là phổ độ. Bởi vì khi phát nguyện, bạn nói “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, chứ không phát nguyệnchúng sanh Singapore thệ nguyện độ”, bạn không giới định phạm vi thì đó chính là chúng sanh tận hư không khắp pháp giới. Cái nguyện này không phải tùy tiện mà phát ra. Phát rồi thì phải nỗ lực làm.

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, bạn không đoạn phiền não thì bạn trái với thệ nguyện của mình, cho nên nhất định phải làm cho được. Làm chưa được cũng phải chăm chỉ nỗ lực mà làm.

Có lẽ các vị đồng tu cũng thường nghe qua trong nhà Phật có câu “Phật không độ người vô duyên”. Câu nói này cùng câu “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” có trái ngược không, có mâu thuẫn không? Phải tỉ mỉ tư duy mới thấy không mâu thuẫn. Không phải Phật không độ chúng sanh không có duyên, không hề có đạo lý này. Chúng sanh không có duyên thì độ sau, không phải không độ. Không duyên thì kết duyên với họ, còn có duyên thì độ trước, không hề xung đột. Những người nào có duyên? Loại chúng sanh tiếp xúc Phật pháp liền sanh tâm hoan hỉ, đó chính là có duyên. Bạn nói với họ, họ tin tưởng, tiếp nhận, lý giải, đó là có duyên. Còn đối với pháp môn Tịnh Độ họ có thể tin, hiểu, chịu đến niệm Phật đường niệm Phật, đó chính là duyên đã chín muồi. Chúng ta nhất định phải toàn tâm toàn lực giúp đỡ. Vì sao? Vì ngay một đời này họ sẽ đi làm Phật. Thân thể hiện tiền, Phật pháp gọi là thân sau cùng. Từ vô lượng kiếp đến nay trong sáu cõi sanh tử luân hồi, hôm nay đã đến đoạn cuối, về sau không còn nữa. Lần sau đến thế gian, đó chính là Phật Bồ Tát tái sanh, thừa nguyện tái lai. Người thừa nguyện tái sanh sanh tử tự tại, “phân biệt cũng chẳng phải là ý”, không phải người phàm. Việc này chúng ta nhất định phải biết. Giúp đỡ chúng sanh duyên chưa chín muồi thì kết duyên với họ, duyên đã chín muồi thì mau giúp họ đi làm Phật. Tất nhiên người duyên chín muồi rất ít, còn người chưa chín muồi rất nhiều.

Các vị đồng tu thấy rõ ràng, ở Singapore tín đồ Phật giáo bao nhiêu? Tuyệt đối không chỉ có mấy người trong giảng đường của chúng ta. Những người đó cũng học Phật, cũng niệm A Di Đà Phật nhưng chỉ có miệng mà không có tâm, vẫn không muốn vãng sanh, vẫn thấy thế giới này tốt, đáng lưu luyến. Các pháp môn khác họ không tệ, học giới luật, học tham thiền, học Mật chú, học giáo rất nhiều thứ; nhưng nửa chín, nửa không chín. Chúng ta phải dùng phương tiện khéo léo giúp đỡ họ, xúc tiến họ thành Phật. Vậy thì phải giảng kinh nghiên giáo, đưa họ thâm nhập dần dần từng bước, thấu hiểu giác ngộ.

Ngày trước, có một năm tôi ở miền Nam Đài Loan giảng kinh, gặp ông cụ hơn tám mươi tuổi là bậc lão tiền bối học Phật. Chúng ta tuy xuất gia nhưng kỳ thực học Phật không lâu hơn ông lão này. Cả đời ông học mấy mươi năm, tham thiền, học giáo, học Mật, mọi thứ đều thông đạt. Tôi giảng kinh ở miền Nam, ông cũng đến nghe. Chúng tôi quen biết nhau rất lâu. Ông gặp tôi và nói: “Pháp sư! Hiện tại tôi đã già. Những thứ đã học từ trước, nay nghĩ lại đều không thể dùng được”. Tôi hỏi vậy phải làm sao? Ông cho biết: “Hiện tại tôi trung thực niệm Phật, một ngày niệm ba mươi ngàn danh hiệu Phật”. Tôi nói “Rất tốt, xem như ông đã quay đầu”. Hơn tám mươi tuổi mới quay đầu. Cũng được, chỉ cần quay đầu thì có thể được độ. Tuổi tác lớn, mỗi ngày kinh hành niệm Phật là việc rất tốt. Ông ở dưới quê thường hay ra ngoài đường đi bộ. Ông nói: “Tôi niệm một câu Phật hiệu đi một bước. Mỗi ngày niệm ba mươi ngàn danh hiệu Phật thì đi ba mươi ngàn bước. Thân thể khỏe mạnh. Hơn tám mươi tuổi xem ra rất cường tráng. Đi bộ là vận động tốt, đặc biệt đối với người già”.

Cho nên niệm Phật đường cũng lấy nhiễu Phật làm chủ. “Bát Chu Tam muội” chính là nhiễu Phật, gọi là Phật Lập Tam muội. Họ không ngồi cũng không nằm. Hiện tại niệm Phật đường của chúng ta không cần phải nghiêm khắc như vậy vì nếu nghiêm khắc thì mọi người sẽ e ngại, không dám đến niệm Phật. Chúng ta phải mở rộng để mọi người niệm thư thích, an vui. Ưa thích đến đây niệm Phật là bước thứ nhất. Về sau chúng tanăng lực, niệm Phật đường phải có thêm vài người. Lúc đó, đẳng cấp không như nhau, càng lên cao thì càng nghiêm khắc hơn. Còn người sơ học thì phải mở rộng để họ cảm thấy ưa thích, sau đó dần dần đem cảnh giới của chính mình hướng lên, công phu cũng cao hơn. Thế nên luôn phải duy trì đại nguyệngiai độ bỉ ngạn”.

Với người không có duyên, chúng ta trồng hạt giống Phật cho họ. Hiện tại chúng ta làm biểu tượng trên áo, in chữ A Di Đà Phật rồi mặc đi ra đường. Rất nhiều người xem thấy câu A Di Đà Phật thì coi như ta đã gieo hạt giống Phật cho họ. Đó là bước tiếp dẫn thứ nhất, để họ có cơ hội nghe Phật hiệu, xem thấy danh hiệu Phật, nhìn thấy hình tượng Phật. Trong A Lại Da Thức của họ đã có chủng tử, đó chính là “giai độ bỉ ngạn”. Cách làm hiện tại của chúng ta thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày.

TẤT HỘ CHƯ PHẬT, VÔ LƯỢNG CÔNG ĐỨC, TRÍ TUỆ THÁNH MINH, BẤT KHẢ TƯ NGHÌ

Đoạn này là tổng kết.

Tất hộbao gồm những vị Bồ Tát đến dự, mỗi vị đều được “chư Phật vô lượng công đức”. Chữ “chư Phật” có hai ý nghĩa, một là mười phương ba đời tất cả chư Phật, hai là trực tiếp chỉ A Di Đà Như Lai.

Trí tuệ thánh minh”, cái gì gọi là thánh? Vào thời xưa, người có trí tuệ, đối với vũ trụ vạn sự vạn vật đều tường tận, hơn nữa còn thấu hiểu triệt để thì được gọi là thánh nhân. Tường tận mà không đủ thấu triệt thì được xem là hiền nhân. Thánh và hiền khác biệt ở điểm này.

Không thể nghĩ bàn”, Thế Tônchúng ta nói rõ trí tuệ của Bồ Tát đại đức đại năng. Thí dụtám tướng thành đạo”, những Bồ TátCực Lạc mỗi mỗi đều là vạn đức vạn năng, trong sát độ mười phương không bờ mé tùy loại hóa thân. Đáng dùng thân Phật để độ thì thị hiện tám tướng thành đạo, thị hiện thân Phật mà nói pháp. Bồ tátthể hiện thân Phật, thân Thanh Văn, Duyên Giác; thân chúng sanh sáu cõi, thậm chí thân tướng chúng sanh vô tình, đều có thể hiện được. Điều này chứng tỏ các Ngài tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp, đạt đến cứu cánh viên mãn. Vậy Bồ Tát thế giới Tây Phương Cực Lạc ở vị thứ nào, phẩm vị nào? Trong bộ kinh này, bốn mươi tám nguyện là pháp căn bản của Tây Phương Tịnh Độ. A Di Đà Phật khai thị rõ cho chúng ta, thế giới Tây Phương Cực Lạcpháp giới bình đẳng, không thể nghĩ bàn. Phàm hễ người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mỗi mỗi đều có năng lực, thần thông, trí tuệ như vậy, không thứ nào không viên mãn. Cho nên, từ cõi Phàm Thánh Đồng Cư hạ hạ phẩm vãng sanh đến cõi Thật Báo thượng thượng phẩm đều có thể thị hiện như trong Quán Thế Âm Phổ Môn phẩm đã nói: “Đáng dùng thân gì để độ, liền hiện ra thân đó”. Bồ Tát Quán Âmba mươi hai ứng thân, mỗi loại vô lượng vô biên.

Đọc đến đây, nếu chúng ta thể hội sơ lược, nhất định liền nghĩ phải đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Chỉ có đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mới đạt được tự tại chân thậtthực tiễn căn bản đại nguyện của chúng ta, thỏa mãn tất cả mong cầu của chúng ta.

Câu cách ngôn trong nhà Phật nói rất hay: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”. Chúng ta học Phật, ngay cửa Phật có cầu chưa chắc ứng, tThế nhưng đến được Tây Phương Cực Lạc thì không như vậy, cảm ứng hoàn toàn. Thế Tôn trong bổn kinh cho chúng ta biết rất rõ ràng chân tướng sự thật. “Chư Phật vô lượng công đức” là công đức cứu cánh viên mãn; trí tuệ, đức tướng, thần thông, phương tiện, không thứ nào không viên mãn. Đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Áp dụng vào đời sống thực tại, chúng ta phải tu học như thế nào?

Hiện đại địa cầu chúng ta do khoa học phát triển nên địa cầu “càng ngày càng nhỏ”. Không phải địa cầu thu nhỏ mà do giao thông quá thuận tiện. Hôm tôi xem đoạn tin tức cho biết hiện nay Hoa Kỳ đang phát triển một loại phi cơ cực nhanh. Bay từ Gia Châu của Hoa Kỳ đến Nhật Bản, trước đây mất chín giờ đồng hồ, nhưng loại phi cơ tốc hành này chỉ mất một tiếng rưỡi đồng hồ. Loại phi cơ này đi một vòng địa cầu nhiều nhất là sáu giờ, cho nên mới nói địa cầu “càng ngày càng nhỏ”.

Nhờ internet, đường truyền vi tính mà chúng ta giảng kinh nơi đây, thính chúng không chỉ những người ngồi trong giảng đường này, mà truyền đi khắp thế giới. Thế kỷ sau, khoa học tiến bộ đến mức người người phải dùng vi tính, đó là thời đại của vi tính. Vi tính biến thành thứ cần thiết trong đời sống của chúng ta. Mỗi người thông qua vi tính đều có thể nghe, xem hình ảnh của nhau, cũng giống như truyền hình vậy. Chúng ta giảng kinh bất cứ nơi nào cũng như đang giảng cho toàn thế giới, rất gần với câu: “Tất hộ chư Phật, vô lượng công đức, trí tuệ thánh minh, bất khả tư nghì”. Đối tượng giáo hóa của Phật Bồ Tát là tận hư không khắp pháp giới vô lượng vô biên cõi nước chư Phật. Nhiều cõi nước Phật như vậy, mỗi cõi nước Phật lại có vô số vô lượng chúng sanh. Số lượng này không phải số thứ tự số học có thể biểu đạt ra được. Ngày nay, chúng ta nghiên cứu nhân số địa cầu, thống kê hiện tại khoảng sáu mươi ức. Thế nhưng đây chỉ mới một địa cầu, còn thế giới Ta Bà của Thích Ca Mâu Ni Phật thì số lượng chúng sanh nhiều vô kể. Thế giới Ta Bà có bao nhiêu thái dương hệ? Chiếu theo cách nói thông thường của kinh điển thì có mười vạn thái dương hệ, còn chiếu theo cách nói của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ thì một đơn vị thế giới mà kinh Phật nói chính là hệ ngân hà. Khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật khoảng mười vạn ức hệ ngân hà. Vậy có bao nhiêu chúng sanh? Dường như đồng tu học Phật không hề nghĩ qua vấn đề này. Kỳ thực vấn đề này đối với chúng ta quá to lớn, nhưng nếu bạn không hề nghĩ qua chứng tỏ bạn vẫn lơ là qua loa.

Mục đích giáo học của Phật pháp là gì, chúng ta không thể không biết. Bạn phải nói được rõ ràng tường tận thì đại chúng xã hội mới biết Phật pháp nên học. Giáo học của Phật pháp là điều hòa chúng sanh. Trong mười đức hiệu của Phật có một đức hiệu là “Điều ngự trượng phu”, đó là tiền đề. Hiện tại địa cầu thu nhỏ, quan hệ giữa người và người ngày càng mật thiết. Không như thời đại nông nghiệp ngày trước, nhiều người đến già chết không hề qua lại. Phạm vi đời sống của họ rất hạn hẹp, cả đời sống đạm bạc, không tiếp xúc với bên ngoài. Còn hiện tại bạn không tiếp xúc không được. Khi tiếp xúc thì liền nảy sinh vấn đề. Mỗi quốc gia khu vực có bối cảnh văn hoá, phương thức đời sống, ý thức hình thái không như nhau, tín ngưỡng tôn giáo cũng không như nhau. Như vậy khi vừa tiếp xúc nhiều văn hóa khác nhau liền nảy sinh xung đột. Nếu không thể hóa giải sẽ mang đến cho xã hội nhiều động loạn bất an, hiện tại gọi là phân biệt đối xử. Không chỉ kỳ thị chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị văn hóa, mà còn nhiều kỳ thị khác. Khi kỳ thị nghiêm trọng liền sanh ra bạo động chiến tranh. Đó là việc mà mỗi người chúng ta không ai hy vọng thấy, nhưng sự thật bày ra trước mắt gần như không cách gì tránh khỏi. Nhờ đó, chúng ta mới sâu sắc thể hội tầm quan trọng của giáo học Phật pháp. Phật pháp dạy chúng ta làm thế nào để tiêu trừ những ngăn cách này. Cho nên tổng cương lĩnh giáo học của Phật pháp là nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Hiểu rõ chân tướng thì những vấn đề này tự nhiên liền được giải quyết, thậm chí giải quyết tất cả vấn đề của thế kỷ XXI. Chúng ta không thể không lưu ý giáo dục của Phật Đà.

Trung Quốc cổ đại chí ít vào hai ngàn năm trước, Lễ Ký trong Thập Tam Kinh hoàn thành vào cuối thời Chiến quốc, đầu thời nhà Hán. Trong Lễ Ký có một thiên Học Ký là giáo dục triết học cổ xưa của Trung Quốc dạy rằng: “Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”. Điều này khiến chúng ta liên tưởng quốc gia hiện đại hóa đều rất chú trọng xây dựng nền tảng. Thế nhưng trong xây dựng nền tảng lại xem thường giáo dục mà chỉ chú ý xây dựng giao thông bao gồm những thiết kế đường sắt, xa lộ, cảng khẩu, phi trường, thủy lợi, khai thác năng lượng. Mọi người chỉ chú trọng kiến thiết vật chất trong khi giáo dục quan trọng hơn những thứ này. Hiện tại chúng ta cũng thấy không luận trong nước hay ngoài nước, dường như giáo dục đều rất phát triển và rất phổ biến.

Hôm nay tôi nêu vấn đề này có vẻ dư thừaquốc gia chúng ta làm công tác giáo dục cũng không tệ. Thế nhưng kỳ thực giáo dục mà tôi nói không giống như giáo dục thông thường hiện nay. Vì sao không như nhau? Hiện tại trường học mọc lên nhiều hơn, giáo dục phát triển hơn, nhưng có bỏ được kỳ thị chủng tộc hay không? có bỏ được kỳ thị văn hoá và kỳ thị tôn giáo hay không? Không hề có! Không những không bỏ mà ngày càng phức tạp, nghiêm trọng hơn. Do đây mà biết, giáo dục đã có vấn đề; giáo dục bị thiên lệch.

Chúng ta y theo tư tưởng giáo dục cổ xưa của Trung Quốc, lấy nhà Nho Trung Quốc làm thí dụ. Trung Quốc chọn học thuyết của Khổng Mạnh vào những năm đầu triều nhà Hán. Vua Hán Vũ Đế chế định chính sách giáo dục. Sau hai ngàn năm, chính quyền thay đổi, thay vua đổi chúa, nhưng chế định chính sách giáo dục của Hán Vũ Đế mãi đến đời Mãn Thanh cũng không thay đổi. Chính sách này dùng được hai ngàn năm là không thể nghĩ bàn.

Nội dung giáo học của nhà Nho là gì? Luân lý đạo đức. Khổng Phu Tử phân thành bốn khóa mục, tương đương bốn học viện ngày nay.

Thứ nhất là “đức hạnh”. Trong đức hạnh bao gồm luân lý. Luân lý là nghĩa rộng, dạy chúng ta quan hệ giữa người và người. Hiện tại làm gì có loại giáo dục này. Con người khác loài cầm thú ở quan hệ vợ chồng, quan hệ cha con, anh em, quân thần, bạn bè, gọi là “ngũ luân”. Làm hết nghĩa vụ giữa người với người thì là đạo nghĩa. Nói đạo nghĩa mà không nói lợi hại. Giáo dục như vậy mới xem như thành công, mới có thể tiêu trừ ngăn cách hiểu lầm giữa con ngườicon người.

Thứ hai, luân lý dạy chúng ta nhận biết quan hệ giữa con người với vạn vật tự nhiên. Quan hệ này có thể giúp cho sinh thái tự nhiên của cả thảy địa cầu được quân bình. Ngày nay mọi người đều biết, sinh thái địa cầu mất quân bình. Vấn đề này rất nghiêm trọng, đây là mối quan hệ của hoàn cảnh đời sốngcon người chúng tamọi người không hiểu. Vậy phải làm thế nào thương tiếc hoàn cảnh, bảo hộ, bồi dưỡng hoàn cảnh, không phá hoại nó?

Không phải người Trung Quốc không hiểu khoa học kỹ thuật. Vào triều nhà Hán, sách sử ghi chép, những phát minh tiên tiến trên thế giới ngày nay đa số khởi đầu từ Trung Quốc. Vì sao chúng ta không tiếp tục phát triển khoa học kỹ thuật? Nếu hai ngàn năm trước, chúng ta bắt đầu phát triển khoa học thì e rằng hiện tại thế giới đã sớm bị hủy diệt. Người xưa có quan niệm luân lý, có trách nhiệm đối với lịch sử, với quảng đại quần chúng nên nếu khoa học mang lại lợi ích nhưng kèm theo tác dụng phụ thì không làm. Ví như hiện tại mọi người đều biết, tầng ôzon bầu trời Nam Cực bị thủng lỗ, diện tích ngày càng lớn. Ozon bảo vệ địa cầu, hấp thu tia tử ngoại từ mặt trời. Không nhờ tầng ôzon bảo vệ, ánh sáng mặt trời trực tiếp chiếu xuống trái đất thì rất nhiều động thực vật không thể sinh tồn, sẽ bị tiêu diệt. Vì sao tầng ôzon bị phá hoại? Do tác dụng phụ của khoa học. Tổ tiên xa xưa của chúng ta hiểu rõ tình huống này nên không phát triển khoa học, để sinh mạng thế gian được kéo dài thêm vài năm. Đó là quan hệ giữa người và đại tự nhiên.

Kinh Phật nói rất sâu quan hệ mật thiết của y báochánh báo. Nhà Nho nói ít hơn. Theo nhà Phật, quan hệ của con ngườivũ trụ là tận hư không khắp pháp giới. Đại vũ trụ, người thông thường gọi là thiên địa quỷ thần, Phật pháp gọi sáu cõi, mười pháp giới, mười phương tất cả cõi nước chư Phật có quan hệ gì với chúng ta? Chúng ta phải hiểu rõ ràng tường tận, sau đó mới biết sinh hoạt như thế nào để làm người hoặc làm thánh hiền.

Thánh hiền nhân trong Phật pháp chính là Phật Bồ Tát. Phật là thánh nhân, Bồ Táthiền nhân. Trải qua đời sống thánh hiền, đời sống trí tuệ thánh minh, thì chúng ta đạt nhiều hạnh phúc mỹ mãn. Như vậy mới có thể giải quyết vấn đề của thế kỷ XXI. Quốc gia, chủng tộc, văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau, làm thế nào cùng trên địa cầu này sống một cách hòa thuận, hợp tác lẫn nhau, đồng phồn vinh, đồng đến tạo phước cho xã hội. Việc này phải dựa vào giáo dục.

Hiện tại chúng ta đối mặt với tình huống xã hội hiện thực, nên khi triển khai kinh điển của Phật mới cảm khái vô hạn. Thế giới ngày nay có nguy cơ không? Đích thực có. Kinh điển Phật có thể giải quyết tất cả vấn đề của chúng sanh. Điển tích như vậy không người nhận biết, không được tuyên dương, trái lại còn khiến cho đại chúng xã hội sanh ra hiểu lầm, Phật giáo biến thành tôn giáo. Biến thành tôn giáo thì tôn giáo cùng tôn giáo lại bài trừ lẫn nhau. Cho nên Phật giáo không phải là tôn giáo. Phật giáo giải quyết tất cả vấn đề học vấn, nên hãy xem Phật giáo thành học thuậtlý luận, có phương pháp, giúp chúng ta giải quyết vấn đề cá nhân, sự nghiệp, quốc giathế giới.

Đầu năm Dân quốc, đại sư Âu Dương Cảnh Vô, học trò của Dương Nhân Sơn, từng một lần diễn giảng đề tài: “Phật giáo không phải là tôn giáo, không phải triết học, mà là những điều người đời nay cần đến”. Từ đề giảng này, chúng ta thể hội ông thật đã nhận biếttỉnh ngộ ra. Tuy nhiên, ông sanh vào thời đại biến loạn, tuy phát đại tâm làm giáo dục, bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp kế tục huệ mạng Phật, nhưng khi thành lập một học viện ở Nam Kinh, chỉ mở được hai năm thì phải đóng cửa. Thời gian tuy ngắn, nhưng gần như đầu Dân quốc, hầu hết đại pháp sư, đại cư sĩ đều học tập trong Phật học viện này. Đáng tiếc, thọ mạng Phật học viện của ông quá ngắn. Nếu ông duy trì được mười năm, hai mươi năm, tôi tin thế giới của chúng ta không đến nỗi xảy ra nhiều động loạn, nhiều tai nạn đến như vậy.

Vào năm 1970, Thang Ân Tỷ, một triết học gia người Anh, tại hội nghị quốc tế đã nêu bài phát biểu. Trong đó ông nhắc đến việc chúng ta chân thật giải quyết được vấn đề của thế kỷ XXI, chỉ có học thuyết Khổng Mạnh và Phật pháp đại thừa. Tiên sinh Âu Dương nói vào khoảng thời kỳ đầu của thế kỷ XX, đại khái năm 1920; còn Thang Ân Tỷ thì nói vào năm 1970. Cách nhau nửa thế kỷ nhưng cách nhìn, kiến giải của họ gần như hoàn toàn giống nhau, đều khẳng định Phật pháp đại thừa có thể giải quyết vấn đề. Các Ngài vì chúng sanh khổ nạn ngay trước mắt, nên chúng ta phải chăm chỉ nỗ lực tu học, đem giáo học Phật Đà mở mang rộng lớn.

Vì tránh một số danh từ thuật ngữ trong Phật học khiến nhiều người hiểu lầm, vừa nghe thấy liền sanh ra bài trừ không thể tiếp nhận, cho rằng mê tín, nên chúng ta lần này giảng kinh Vô Lượng Thọ, kinh Hoa Nghiêm, lấy tổng đề mục là đôi liễn viết trên hai cột: “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm”. Tám chữ đại diện toàn thể Phật pháp. Nếu bạn hỏi nội dung của Phật pháp là gì? Tám chữ này đã nói tất cả, một chút cũng không sai, không miễn cưỡng.

” là gương mẫu. “Phạm” là mô phạm. Phật Bồ Tát dạy bảo chúng ta phải làm gương cho tất cả mọi người, gia đình chúng ta làm mô phạm cho thế gian, chúng ta ở trong nghề nghiệp làm mô phạm cho toàn thế giới. Đó là nội dung chân thật của kinh điển nhà Phật, không chỉ kinh đại thừa mà kinh tiểu thừa cũng không ngoại lệ. Mỗi câu mỗi chữ đều áp dụng đời sống hiện thực của chúng ta, chưa bao giờ tách khỏi.

Lần này chúng ta không bị hạn chế bởi thời gian nên có thể chọn cách giảng dài, tỉ mỉ. Nếu không tỉ mỉ nói rõ, tôi sợ mọi người nghe rồi vẫn không thể chuyển được quan niệm. Nếu chúng ta vẫn cứ xem nó là tôn giáo, đem Phật Bồ Tát xem thành thần minh thì chúng ta hoàn toàn sai lầm. Phật, Bồ Tát, A La Hán,… nghiêm khắc mà nói chính là danh xưng học vị. Hoạt động của Phật giáo, nếu dùng lời nói hiện đại thì chính là công tác giáo dục xã hội.

Thích Ca Mâu Ni Phật là nhân vật như vậy, hoàn toàn tận nghĩa, chân thật hiển thị tấm gương để chúng ta noi theo: “Không tranh với người, không mong ở đời”, một đời toàn tâm toàn lực làm công tác giáo dục xã hội. Đó là đặc điểm vĩ đại của Ngài khiến người sau ngưỡng mộ. Ngài có trí tuệ vô tận, đức năng vô tận. Vì sao Ngài phải bắt đầu từ công việc giáo dục? Vì giáo dục không chỉ là nền tảng xây dựng quốc gia mà còn là nền tảng xây dựng toàn thế giới. Hiện tại chúng ta nói rõ, giáo dục không chỉ là nền tảng xây dựng thế giới mà còn là kiến thiết cơ bản nhất cho tận hư không khắp pháp giới. Chư Phật Bồ Tát đều làm công việc này, đó là sự hy sinh phụng hiến, vì tận hư không khắp pháp giới tất cả chúng sanh mà tạo phước. Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Huệ dĩ chân thật chi lợi”. Chúng ta đọc phẩm kinh văn chí ít phải có nhận thức này, sau đó khải phát đạo tâm của chính mình, gọi là “phát Bồ Đề tâm, lập đại chí nguyện”.

Chúng ta cần học Phật, học Bồ Tát nhất là các đồng tu xuất gia. Khi xuất gia, có lẽ bạn mơ mơ hồ hồ, tuyệt nhiên chưa nhận biết. Khi đã xuất gia, bạn nhận biết rõ ràng, thì tôi hỏi bạn có bằng lòng phát nguyện làm công tác giáo dục xã hội, hoàn toàn tận nghĩa vụ không cầu bất cứ báo đáp nào không? Không bằng lòng thì hoàn tục vẫn tốt. Còn bằng lòng thì việc xuất gia của bạn được xem như đã tường tận, đã thấu hiểu mà xuất gia, không phải hồ đồ mà xuất gia. Chúng ta phải xả bỏ danh vọng lợi dưỡng, quyết không ham muốn năm dục sáu trần, bằng lòng trải qua đời sống với mức thấp nhất. Lời nói này tuy là vậy, nhưng đời sống của người xuất gia hiện nay vẫn ở trên mức thông thường, chưa phải mức thấp nhất. Bạn xem, buổi tối các vị nơi đây niệm Phật, tối nay có ba mươi sáu giờ niệm Phật, nhưng bên ngoài niệm Phật đường bày biện rất nhiều đồ cúng dường phong phú. Đồ ăn, thức uống bổ dưỡng đều đầy đủ, đó không phải là mức thấp nhất mà là mức cao. Nhưng phải ghi nhớ, nhất định không khởi lòng tham.

Vì sao Phật dạy chúng ta trải qua đời sống ở mức thấp nhất? Vì mục đích đoạn san tham, thành tựu giới - định - huệ, đạt đại tự tại. Ở thuận cảnh không có lòng tham ái, ở nghịch cảnh không có lòng sân hận. Kinh Kim Cang cho đó là một tiêu chuẩn tuyệt đối. Chúng ta hãy nỗ lực hướng đến tiêu chuẩn này: “Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”. Đạt đến tiêu chuẩn này, bạn liền siêu việt mười pháp giới. Vì trong mười pháp giới có đầy đủ bốn tướng, lìa khỏi bốn tướng thì mười pháp giới cũng không còn, bạn liền khế nhập pháp giới nhất chân.

Thế giới Cực Lạc trong bổn kinh cũng là thế giới Hoa Tạng trong kinh Hoa Nghiêm, nên Hoa Tạng cùng Cực Lạc là một, không phải hai. Cực Lạc là khu vực tinh hoa của Hoa Tạng, cũng như con đường Orchard, khu vực đẹp nhất của trung tâm thành phố Singapore.

Hôm nay xem như chúng ta đã hiểu rõ ràng tường tận, biết thân phận và sứ mạng của chính mình, biết được vì sao chúng ta đến thế gian này, và đến để làm gì. Khi đã rõ ràng thì coi như bạn là người thông suốt, không còn hồ đồ. Muốn rõ ràng tường tận, nhất định phải “thâm nhập kinh tạng”. Hầu như nhận biết của chúng ta ngày nay mới chỉ như sự mở đầu, không đủ độ sâu, vì trí tuệ chưa khai, không có phương tiện khéo léo, ngày tháng vẫn trải qua rất khổ cực. Khi trí tuệ khai mở, bạn có phương tiện khéo léo, đời sống của bạn sẽ trải qua tự tại, an vui, mỹ mãn. Không luận bạn trải qua đời sống như thế nào, không luận bạn từ nghề nghiệp nào, công việc nào, bạn nhất định tự tại an vui vì đã giác ngộ.

Phật pháp chỉ rõ “phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”, lời nói này rất chính xác. Khổ từ mê mà ra, mê rồi thì khổ. Vui từ giác ngộ mà có. Đời sống trước mắt chúng ta bần tiện hay phú quý đều không can hệ. Người bần tiện có tự tại an vui, người phú quý cũng có tự tại an vui. Từ trên tự tại an vui mà nói thì bần tiện cùng phú quý không liên quan, then chốt chỉ ở mê ngộ.

Cho nên kinh điển không thể sơ sài qua loa, mà phải đọc tỉ mỉ và thể ngộ thì chúng ta mới có thọ dụng chân thật. Thực tế, “Chư Phật vô lượng công đức trí tuệ thánh minh” còn một tầng ý nghĩa rất sâu, đó là trong tự tánh chúng ta vốn sẵn đầy đủ. Việc này Thế Tônkinh Đại thừa mới nói, còn kinh tiểu thừa thì Phật không nói qua. Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Xuất Hiện cũng rất rõ ràng, tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ của Như Lai. “Vô lượng công đức” là đức tướng, “trí tuệ thánh minh” là trí tuệ. Tất cả chúng sanh tự tánh vốn sẵn đầy đủ, thế nhưng vì sao chúng ta lại bỏ mất trí tuệ công đức vô lượng của chính mình? Xin nói với các vị, “mất” không phải chân thật đã mất. Tự tánh vốn sẵn thì làm sao mất được, mà hiện tại trí tuệ công đức của chúng ta không khởi tác dụng. Không khởi tác dụngchúng ta còn chướng ngại, tuyệt nhiên không phải mất đi. Bạn có chướng ngại nên ngăn nó không khởi tác dụng. Chỉ cần bạn đem chướng ngại trừ bỏ, thì trí tuệ đức năng của bạn liền hiện tiền. Đã hiện tiền thì không hề khác biệt với mười phương tất cả Chư Phật Như Lai.

Rốt cuộcchướng ngại gì? Phật vì chúng ta nói thẳng, đó là vọng tưởng, chấp trước, “chỉ bởi vọng tưởng, chấp trước mà không được chứng đắc”. Chúng ta phải làm sao? Phải đem vọng tưởng xả bỏ, đem chướng ngại trừ bỏ thì bản năng của tự tánh chúng ta liền hồi phục. Ngoài vọng tưởng chấp trước còn có phân biệt. Phật không bỏ sót. Phân biệt được bao gồm trong chấp trước, cũng có thể bao gồm trong vọng tưởng. Ba loại chướng ngại Phật pháp gọi là phiền não. Chấp trướckiến tư phiền não, phân biệttrần sa phiền não, vọng tưởngcăn bản vô minh, cũng gọi là vô minh phiền não. Phật dạy chúng ta đoạn ba loại phiền não này, chúng ta phải thật làm mới được. Bắt đầu từ chỗ nào? Từ ngay cuộc sống thường ngày, ngay công việc đối nhân xử thế tiếp vật, chân thật đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xả bỏ.

Các vị phải nhớ, xả bỏ không phải trên sự. Trên sự mà xả bỏ thì những việc của tôi cũng đều buông bỏ, không làm nữa. Bạn ngày ngày trải qua đời sống mặc áo ăn cơm, tôi không mặc áo không ăn cơm, vậy là hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa của Phật. Vạn nhất không nên lầm. Hoặc nghĩ rằng buông bỏ là chết, chết chẳng phải buông bỏ hết hay sao? Kỳ thật sai rồi, chết vẫn chưa hết. Kinh Địa Tạng xác quyết, chết sau bốn mươi chín ngày lại phải đi đầu thai, chưa buông bỏ. Nếu thật buông bỏ, họ sẽ không đầu thai, không còn luân chuyển trong sáu cõi. Chết rồi vẫn là chưa buông bỏ, việc này chúng ta nhất định phải hiểu rõ ràng. Phật muốn độ chúng ta, khi hơi thở của chúng ta chưa dứt thì vẫn còn cứu được. Hơi thở đã dứt thì hết cứu, Phật Bồ Tát cũng không thể nào giúp. Cho nên nhất định phải chăm chỉ, nỗ lực.

Buông bỏ không phải trên sự, mà buông bỏ nơi tâm. Trên sự, chẳng phải tiêu đề đã viết rất rõ, làm tấm gương tốt cho tất cả chúng sanh, phải làm càng tốt càng viên mãn. Gương mẫu để người khác xem, gọi là giáo hóa chúng sanh. Bên cạnh việc trở thành tấm gương tốt, trong lòng trong sạch không nhiễm một trần, đó gọi là buông bỏ. Một số người nghe giảng hiểu sai ý nghĩa. Công việc đang thực hiện, họ dừng lại không làm nữa, tiền tài trong nhà đem bố thí hết. Sau đó, họ viết thư hỏi tôi, họ không có cơm ăn thì phải làm sao? Đó là do họ hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa.

Thời xưa cũng có một người như vậy, ông thị hiện tấm gương, thế nhưng bạn phải tỉ mỉ quan sát, việc ăn cơm của ông vẫn còn. Cư sĩ Bàng Uẩn triều nhà Đường chính là tấm gương ấy. Dụng ý câu chuyện này rất sâu nhưng chúng ta cũng rất dễ dàng hiểu sai về ông. Ông tương đối giàu có, học Phật khai ngộ, tông môn gọi là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Sau khi ngộ, ông bán hết gia sản của mình. Ông chất lên một chiếc thuyền, bơi thuyền đến giữa dòng sông, đục một lỗ nhận chìm nó, thảy đều buông xả. Có người hỏi ông: “Bàng cư sĩ! Những tài vật này ông không cần nữa, tại sao không đem nó đi làm việc từ thiện, cứu tế chúng sanh bần khổ trong xã hội?”. Thực tế, hành động của ông chính là nhắn với người một câu: “Việc tốt không bằng không việc gì”. Ý nghĩa câu nói này rất sâu. Mỗi người đều vô sự thì thiên hạ thái bình.

Vô sựtuyệt nhiên không phải khuyên bạn không làm việc, mà là không nên đi phan duyên. Tùy duyên thì tốt, đời sống sẽ không có vấn đề. Bàng cư sĩ biết đan dép cỏ. Mỗi ngày ông bán dép cỏ, đổi chút tiền mua gạo mua rau, đời sống tự tại an vui. Ông không cần tiền, không cần tích chứa, không phải suy nghĩ cho ngày mai. Ông tự tại vãng sanh. Bạn xem trong Truyện Ký, cả nhà đều rất tự tại. Một hôm ông ngồi trong nhà tĩnh tọa, bảo con gái ra ngoài xem bây giờ là lúc nào, vì thời xưa không có đồng hồ. Cô con gái biết cha mình muốn vãng sanh. Cô ra ngoài lớn tiếng nói với ông: “Thời gian vẫn chưa đến”, nói xong cô đứng bên ngoài vãng sanh. Cư sĩ Bàng ra xem, thấy vậy liền nói: “Con gái này, vốn dĩ ta muốn con gái lo hậu sự cho ta. Rốt cuộc ta còn phải lo hậu sự cho nó, nó thật lợi hại hơn ta”. Bạn thử nghĩ xem, sanh tử tự tại, ra đi đẹp như vậy thì chuẩn bị cho ngày mai để làm gì? Không cần thiết.

Chỉ có trong Phật pháp tu học, bạn mới đến được loại công phu này, triệt để thấu hiểu chân tướng đối với vũ trụ nhân sanh. Khế nhập vào cảnh giới đó có thân hay không? Không có! Vô ngã tướng, bạn không có thân mới có thể hiện ra tất cả thân, nhà Phật gọi là sanh tử tự tại. Kinh Hoa Nghiêm nói, tám cái tự tại hay mười cái tự tại, họ đều có thể chứng được. Chúng ta cũng có thể chứng được, nhưng ngày nay chúng ta không cách gì bởi vì không buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Sự việc dính mắc trong lòng quá nhiều là chướng ngại lớn của phàm phu. Lúc nào bạn buông bỏ thì lúc đó liền thành Phật. Làm Phật, thực tế không khó. Chúng sanh cùng Phật khác biệt ở một niệm. Một niệm giác thì thành Phật, một niệm mê chính là chúng sanh. Người niệm Phật thường nói: “Một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”. Chúng ta thường ngày dụng công, một niệm tương ưng thường có, nhưng niệm niệm tương ưng thì không dễ dàng. Nếu chúng ta biết giữ gìn, mỗi ngày chỉ một niệm tương ưng cũng rất đáng quý. Không nên cho rằng thời gian của một niệm này quá ngắn, một ngày chỉ một lần như vậy không đủ. Bạn có một niệm thì bạn sẽ có hai niệm, có hai niệm thì sẽ có ba niệm, cho nên đây là cảnh giới rất khó đạt được.

Năm xưa tôi ở nơi đây khuyên mọi người niệm Phật, rất nhiều đồng tu làm việc bận rộn, không còn thời gian tu thời khóa sớm tối, tôi bèn khuyên họ dùng cách mười niệm. Cách mười niệm của tôi không giống pháp sư Quán Đảnh, mười hơi thở, mỗi hơi thở tính là một niệm, một hơi không bắt buộc bao nhiêu tiếng. Pháp mười niệm của tôi chính là mười câu A Di Đà Phật. Nếu bạn niệm bốn chữ A Di Đà Phật ra mười câu, đại khái một phút thì được. Tuy thời gian ngắn, chỉ mười câu, nhưng phù hợp tiêu chuẩn trên kinh Vô Lượng Thọ: “Một lòng xưng niệm”, và “một lòng chuyên niệm”. Bạn một lòng niệm mười câu Phật hiệu, quyết không có vọng niệm xen tạp, chân thậtkhông hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”, hoàn toàn phù hợp với Bồ Tát Đại Thế Chí dạy: “Gom nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục”. Không nên xem thấy thời gian quá ngắn. Mỗi ngày có một niệm tương ưng, đương nhiên số lần niệm càng nhiều càng tốt. Một ngày nên niệm chín lần:

- Sáng sớm thức dậy niệm một lần một phút. Có tượng Phật thì đối mặt với tượng, không có tượng Phật thì hướng về phía tây.

- Ăn cơm ba bữa, trước khi ăn chắp tay niệm mười câu A Di Đà Phật. Chúng ta không niệm chú cúng dường. Chắp tay niệm mười danh hiệu A Di Đà Phật, một lòng xưng niệm, thì chính là ba lần rồi.

- Buổi sáng, trước khi làm việc niệm qua một lần.

- Làm việc xong buổi sáng, niệm một lần.

- Buổi chiều hai lần nữa, trước khi làm việc và sau khi kết thúc công việc buổi chiều.

- Buổi tối trước khi đi ngủ niệm một lần.

Tổng cộng chín lần. Chín lần là định khóa của chúng ta, mỗi lần chỉ cần một phút. Ngoài ra, nếu có thời gian bạn có thể niệm thêm càng tốt. Phương pháp này rất hiệu quả, lại không chướng ngại bạn làm việc, đích thực tiện lợi đến cùng cực.

Làm thế nào niệm chân thật đạt hiệu quả, nắm chắc phần vãng sanh? Phải xem công phu buông bỏ, nhìn thấu bình thường của bạn. Buông bỏ, nhìn thấu là giác ngộ, bạn thông suốt đối với tất cả pháp thế xuất thế gian. Thông suốt là nhìn thấu; không còn chấp trướcbuông bỏ, bạn có thể đạt đến tùy duyên. Tùy duyên nhưng không phan duyên, tuyệt nhiên không dạy chúng ta đem công việc đáng làm bỏ mặc không làm, vậy là sai. Tùy duyên chính là tùy thuận cơ duyên.

Gần đây, cư sĩ Lý Mộc Nguyên cùng những vị đổng sự của Cư Sĩ Lâm bàn việc Thôn Di Đà, cũng bàn đến việc Phật Học Viện. Thế có phải là phan duyên hay không? Không, đó là tùy duyên. Chúng ta bình lặng quan sát, có cơ hội thành tựu, chúng ta nỗ lực xúc tiến, đó là tùy duyên. Nếu xem thấy không có cơ hội mà vẫn miễn cưỡng làm, chưa chắc thành công, đó là phan duyên. Phải có trí tuệ. Bạn không có trí tuệ quan sát thì cái gì gọi là tùy duyên, cái gì gọi là phan duyên, bạn cũng không rõ ràng.

Tùy duyên là không chút miễn cưỡng, làm một cách tự tại, an vui, chân thật pháp hỷ sung mãn, tất cả vì Phật pháp cửu trụ thế gian, vì tất cả chúng sanhnhân duyên được độ mà không vì chính mình. Chính mình tâm địa thanh tịnh vô nhiễm. Đại sư Huệ Năng nói: “Vốn dĩ không một vật”, chính mình đích thực trụ ở vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Vì Phật pháp, vì chúng sanh, chăm chỉ nỗ lực phục vụ, đó chính là hai bên “không có”. Không trụ là tinh thần của Bồ Tát đại thừa. Đời sống, việc làm của Bồ Tát, hai bên đều không trụ, tâm địa thanh tịnh không nhiễm một trần. Vì Phật pháp, vì chúng sanhphục vụ, chưa từng nghỉ ngơi, không trụ vào “không”, không trụ vào “”. Chỗ này không giống người mê hoặc. Người thế gian mê, chấp có, người nhị thừa chấp không. Phật nói chấp trước hai bên đều sai lầm, cho nên Bồ Táttrung đạo, “trung đạo đệ nhất nghĩa đế”. Trung đạo chính là không trụ hai bên.

Chúng ta từ trong phẩm kinh văn thể hội rất sâu, cũng có cảm khái biết được hiện tiền phải làm những việc gì. Nhất định phải tuân thủ giáo huấn của kinh điển, đặc biệt hai đoạn sau cùng: “Đức dụng vô phương”, “tự lợi đức” cùng “lợi tha đức”. Đó là tổng nguyên tắc chỉ đạo sinh hoạt, làm việc, tu học của chúng ta. Chúng ta tường tận, y giáo phụng hành, liền có thể hòa hợp cùng các vị đại Bồ Tát trong hội này. Các Ngài được trí tuệ thánh minh công đức Phật, chúng ta tuy không thể chứng đắc viên mãn cũng có chút ảnh hưởng, dần dần tiếp cận gần hơn, trong bốn gia hạnh gọi là “Noãn vị”. Hiện tiền chúng ta phải giác ngộ, phải nỗ lực, phải biết sứ mạng nặng nề của chính mình.

NHƯ THỊ ĐẲNG CHƯ ĐẠI BỒ TÁT, VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN, NHẤT THỜI LAI TẬP”.

Bồ Tát tham dự pháp hội kinh Vô Lượng Thọ quá đông. Phía trước từng giới thiệu qua, Thượng thủ xếp vào mười sáu người, “thập lục chánh sĩ”. Mười sáu người toàn là Bồ Tát tại gia. Cho nên từ phần tựa, chúng ta rất rõ ràng thể hội, pháp môn này là pháp môn phổ độ, bình đẳng phổ độ, chúng tại gia nhiều, chúng xuất gia ít. Bồ Tát xuất gia, trên kinh chỉ nêu ba người, còn Bồ Tát tại gia thì nêu ra mười sáu người. Trong mười sáu người, phương này chỉ có một người là Hiền Hộ Bồ Tát, mười lăm vị kia là từ phương khác đến. Như vậy, chúng ta cùng thế giới phương khác có quan hệ mật thiết. Tình hình của thế giới phương khác, chúng ta không thể không biết. Thế giới phương khác gọi là ngoài thái không, hay người ngoài hành tinh. Kỳ thực chỗ này còn rộng lớn hơn nhiều so với người ngoài hành tinh. Ngày nay chúng ta có thể thấy được người ngoài hành tinh, đại khái cư trụ đồng không gian với chúng ta. Nếu không gian khác nhau, chúng ta không thể thấy họ, họ cũng không thấy được chúng ta. Thí dụ, chúng ta cùng quỷ thần không đồng một không gian duy thứ. Tuy quỷ thần cùng ở chung với chúng ta một nơi nhưng bởi vì không gian duy thứ khác nhau nên không hề chướng ngại nhau. Chúng ta cư trụ ở không gian ba độ, họ có thể ở không gian bốn độ, năm độ. Giống như hiện tại chúng ta xem truyền hình có rất nhiều kênh đài trên một màn hình. Kênh đài không giống nhau, nhưng đôi bên hỗ trợ lẫn nhau không hề quấy nhiễu. Bạn mở kênh đài nào thì kênh đài đó xuất hiện, đều trong một khung nhỏ của màn hình. Phật nói, tình huống của mười pháp giới gần giống như vậy, là mười kênh đài.

Người xưa nói Tây Phương Tịnh Độ là “sanh thì quyết định sanh, đi thì thật không đi”. Chúng ta nghe lại hồ đồ, cái gì sanh thì quyết định sanh nhưng đi thì lại không đi? Không đi thì làm sao sanh? Hiện tại bạn hiểu kênh đài của truyền hình sẽ liền thể hội được ý này. Sanh thì quyết định sanh, đi thì có đi không? Vẫn ở trong một khung nhỏ, đó là pháp giới nhất chân. Mười pháp giới không rời khỏi pháp giới nhất chân. Pháp giới nhất chânhoàn toàn không có duy thứ của thời không. Do đây mà biết, duy thứ của thời không gọi là ba độ, bốn độ, năm độ, thậm chí đến vô hạn độ từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà ra; đem pháp giới nhất chân biến thành rất nhiều thời không khác nhau. Nếu buông bỏ tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì hồi phục đến pháp giới nhất chân. Người trong pháp giới nhất chân đối với tình hình hoạt động của chúng sanh ở duy thứ thời không vô hạn thảy đều tường tận, đều thấu hiểu. Chúng ta không biết họ nhưng họ lại biết chúng ta. Cho nên chúng sanh có cảm, Phật Bồ Tát lập tức liền có ứng. Cảm ứng tương thông không thể nghĩ bàn.

Nguyên lý của cảm ứng, phía trước đã nói qua nên ở đây tôi không cần dài dòng nữa. Hiện tượng nguyên lý cơ bản, khoa học gia ngày nay gọi là nguyên lý sóng động, hoặc hiện tượng sóng động. Câu này ý nói, mười phương thế giới trong cõi nước chư Phật, những vị đại Bồ Tát đến tham dự pháp hội, số lượng không cách gì tính đếm.

“HỰU HỮU TỲ KHEO NI NGŨ BÁCH NHÂN, THANH TÍN SĨ THẤT THIÊN NHÂN; THANH TÍN NỮ NGŨ BÁ NHÂN”

Thời xưa nữ chúng xuất gia rất ít, ở đây Tỳ Kheo Ni có năm trăm người. “Thanh Tín sĩ thất thiên nhân” là nam cư sĩ tại gia. “Thanh Tín nữ ngũ bách nhân” là nữ cư sĩ tại gia. Đó là mắt thịt chúng ta có thể thấy. Phía trước nêu đại chúng dự hội, Tỳ Kheo mười hai ngàn người, lại thêm Tỳ Kheo Ni năm trăm người, nam cư sĩ bảy ngàn người, nữ cư sĩ năm trăm người. Tổng cộng mắt thịt nhìn thấy đại chúng gồm hai mươi ngàn người. Các vị thử nghĩ xem, pháp hội giảng kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật ba ngàn năm trước, thính chúng hai mươi ngàn người. Lúc đó không có máy phóng thanh, Thích Ca Mâu Ni Phật đối diện hai mươi ngàn người giảng kinh nói pháp, mọi người đều nghe rõ ràng ý Phật, đều sanh đại hoan hỉ. Chúng ta ngày nay không cần hai mươi ngàn người, giảng đường ở đây với sức chứa nhiều nhất cũng không vượt quá một ngàn người, nhưng nếu không có thiết bị phóng thanh thì âm thanh của chúng ta sẽ không đến được phía sau. Đại khái chỉ có mấy hàng phía trước nghe rõ, phía sau không nghe nổi. Ở điểm này, chúng ta liền nghĩ đến kinh Phật: “Phật dùng một âm nói pháp, chúng sanh tùy loại đều có thể hiểu”. Có nghĩa ngôn ngữ của Phật không chướng ngại. Không chỉ tất cả khác biệt ngôn ngữ không có chướng ngại, mà âm thanh của Phật cũng không chướng ngại, “vô viễn phất cái”, cự ly dù xa hơn cũng đều nghe thấy được. Âm này gọi là diệu âm.

DỤC GIỚI THIÊN, SẮC GIỚI THIÊN, CHƯ THIÊN PHẠM CHÚNG, TẤT CỘNG ĐẠI HỘI

Dục giới có sáu tầng trời. Ngũ dục gồm tài, sắc, danh, thực, thùy. Họ vẫn chưa đoạn ngũ dục. Thế nhưng sáu tầng trời của cõi dục càng hướng lên cao thì tham ái của ngũ dục càng tan nhạt. Tầng trời càng cao, hưởng thụ sẽ càng lớn. Họ hưởng thụ nhưng không tham ái, tâm càng thanh tịnh; phân biệt chấp trước của họ cũng tan nhạt, không phải không có mà vẫn còn. Đến trời Sắc Giới, nơi đó đều trong định. Trong thiền định sâu, định lực khống chế được vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; đè nó xuống, không để khởi tác dụng. Đối với năm dục sáu trần, loại ý niệm phân biệt chấp trước này không có. Không phải họ đã đoạn dứt, mà họ dùng sức định đè xuống. Định có thể hàng phục được, cho nên đây là tứ thiền của Sắc Giới.

Mọi người nghe đến thiền thường nghĩ đến cả ngày từ sớm đến tối ngồi quay mặt vào vách. Nếu cho rằng một ngày từ sớm đến tối ngồi xếp bằng quay mặt vào vách, mặt nhìn mũi, mũi nhìn tâm, đó gọi là thiền thì bạn hoàn toàn sai lầm. Cái thiền đó một chút tác dụng cũng không có. Chúng ta đọc Lục Tổ Đàn Kinh, đại sư Huệ Năng có ở trong định không? Ngài thật đang ở trong định. Ngài có ngồi thiền không? Không. Mỗi ngày Ngài đều làm việc, bận rộn không thở ra hơi, nhưng vẫn ở trong định.

Đàn Kinh giải thích ý nghĩa hai chữ “thiền định”, Ngài nói: “Ngoài không dính tướng gọi là thiền, trong không động tâm gọi là định”. Cách giải thích thiền định của Ngài là như vậy. Thực tế, hai câu nói này là từ kinh Kim Cang, Ngài khai ngộ từ kinh Kim Cang. Trên kinh Kim Cang có câu: “Bất thủ ư tướng, như như bất động”, không dính ở tướng là thiền, như như bất động là định, hoàn toàn không chướng ngại bạn sinh hoạt, cũng không chướng ngại bạn làm việc.

Trong kinh Hoa Nghiêm, Năm Mươi Ba Tham, pháp thân đại sĩrêu rao tu thiền định không? Thiện Tài Đồng Tử đến thăm viếng, tìm cầu họ, họ ở nơi đâu? Kinh cho biết họ ở ngoài chợ. Dùng lời hiện tại mà nói, vị thiện tri thức này tu thiền định ở siêu thị. Người ta thật dụng công phu, dạo siêu thị, xem thấy siêu thị lập lòe lóa mắt nhưng không dính mắc. Nói cách khác, không bị mê hoặc, đó là thiền; trong lòng “như như bất động” gọi là định. Cách tu thiền định của người như vậy, chứ không phải ngồi xếp bằng quay mặt vào vách.

Ngày nay chúng ta xem thấy người xếp bằng quay mặt vào vách, vừa vào định thì một tuần lễ, một tháng cũng không xuất. Chúng ta đảnh lễ năm vóc sát đất, thán phục con người cừ khôi, công phu cao. Nhưng có người tu thiền định thì ngày ngày đi xem kịch, đi khiêu vũ, chúng ta coi như vậy là phá giới, mà không biết công phu thiền định đó còn cao hơn nhiều so với người quay mặt vào vách. Thiền định xếp bằng quay mặt vào vách là hoàn toàn cự tuyệt ngoại duyên, không động tâm. Nhưng nếu họ ra ngoài đi một vòng, có thể công phu của họ sẽ không còn. Người chân thật tu hành ở ngay môi trường náo nhiệt, mắt thấy không bị mê hoặc, tai nghe cũng không mê hoặc, sáu căn tiếp xúc đều không mê hoặc, đó mới là thật công phu. Chúng ta thấy năm mươi ba tham trong kinh Hoa Nghiêm, từ những vị đại thiện tri thức, chúng ta có thể lĩnh ngộ, biết được thiền định là tu bằng cách nào.

Phật pháp chỉ tu tâm thanh tịnh. Chúng ta niệm Phật, nhất định phải tu nhất tâm bất loạn. Tâm không điên đảo chính là thiền định. Tóm lại, Phật pháp lấy thiền định làm căn bản. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn đều tu thiền định, chỉ là cách thức phương pháp không như nhau nhưng đều tu thiền định. Chỉ có tu thiền mới có thể khai trí tuệ. Cho nên Phật pháp tổng quy nạp lại thành giới-định-huệ tam học.

Giới” là như pháp, tu học đúng lý đúng pháp. Tuân thủ lời dạy, phương pháp lý luận trong kinh điển mà Phật Bồ Tát dạy bảo chúng ta gọi là trì giới. Dùng những phương pháp này chúng ta mới có thể được định. Được định thì chúng ta không bị cảnh giới bên ngoài mê hoặc; chính mình có chủ tể. Sau khi được định liền khai trí tuệ.

Kinh Bát Nhã giảng về trí tuệ, có căn bản trí cùng hậu đắc trí.

Căn bản trítrí tuệ chân thật, là thể của trí tuệ. Cái thể này trên kinh nói rất rõ ràng là “Bát Nhã vô tri”. Chỉ có vô tri khởi tác dụng mới là “vô sở bất tri”. Cho nên các vị muốn cầu trí tuệ chân thật, trí tuệ chân thật là gì? Là vô tri, vĩnh viễn giữ gìn tự tánh thanh tịnh giác. Đề kinh này của chúng taThanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác. Giác là không mê, vô tri cũng là không mê, mọi thứ đều phải rõ ràng tường tận, không khởi tâm, không động niệm. Cảnh giới mà Phật Bồ Tát thị hiện ra chính là như vậy. Cho nên tất cả chúng sanhnghi nan tạp chứng thì thỉnh giáo với các Ngài, Phật sẽ từ bi khai thị. Việc khai thị của Ngài có cần phải nghĩ ngợi rằng phải giải đáp vấn đề cho bạn như thế nào hay không? Không hề nghĩ ngợi! Nếu rơi vào tư duy thì đó là ý thức, vậy thì mê rồi. Ngài không hề thông qua tư duy, không thông qua tưởng tượng. Bạn vừa hỏi thì tự nhiên có câu trả lời, thậm chí trả lời không sai chút nào, đó là Hậu Đắc Trí.

Hậu Đắc Trí từ Căn Bản Trí mà có. Cho nên, Căn bản TríVô Tri. Mọi người nghe chữ “”, xem thấy chữ “” có thể cho là không có bất cứ thứ gì. Hoàn toàn sai lầm. Không khởi tâm, động niệm, không phân biệt, chấp trước thì gọi là Vô. “Tri” là cái gì cũng biết. Chữ “Vô Tri” phải phân ra hai vế để xem xét. Họ không vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; không khởi tâm động niệm, nhưng cái gì cũng biết, đó gọi là Căn Bản Trí. Hậu Đắc TríVô Sở Bất Tri. Bạn hỏi họ thì họ giải đáp ngay, đó chính là khởi tâm động niệm. Họ không khởi tâm động niệm thì làm sao nói với bạn? Tuy khởi tâm động niệm, nhưng họ không chấp trước, không có phân biệt. Cũng giống như câu trả lời của đại sư Vĩnh Gia với Lục tổ. Vĩnh Gia kiến tánh, Lục tổ chứng minh cho Ngài. Sau khi chứng thật, Lục tổ liền hỏi đại sư Vĩnh Gia: “Ông còn phân biệt không?” Đại sư Vĩnh Gia trả lời: “Phân biệt cũng không phải là ý”. Lục Tổ gật đầu: “Ông như vậy, ta cũng như vậy”.

Phàm phu chúng ta phân biệt là rơi vào ý thức. Kỳ thực các Ngài vẫn phân biệt chấp trước nhưng hoàn toàn khác với phân biệt chấp trước của phàm phu chúng ta. Phân biệt chấp trước của các Ngài không phải thật, mà là tùy thuận phân biệt của chúng sanhphân biệt; tùy thuận chấp trước của chúng sanhchấp trước, chứ đó không phải là ý của các Ngài. “Phân biệt cũng không phải là ý” của đại sư Vĩnh Gia là như vậy. Nếu không tùy thuận phân biệt của chúng ta, không tùy thuận chấp trước của chúng ta thì Thích Ca Mâu Ni Phật không cách gì giảng kinh. Ngài giảng kinh nhất định phải thuận theo phân biệt, chấp trước của chúng ta, như vậy Ngài giảng chúng ta mới hiểu. Nếu thật khôngphân biệt, chấp trước, thì Thích Ca Mâu Ni Phật một câu cũng không nói ra.

Cho nên trong kinh Đại thừa, khi Phật cùng Phật gặp nhau luôn không có lời nào, đó là thật. Đôi bên đều hiểu rõ thì còn gì để nói. Phật gặp Bồ Tát còn nói, vì Bồ Tát vẫn có chỗ không rõ ràng nên mới nói cho họ nghe. Phật Phật đạo đồng, trình độ mọi người đều như nhau thì còn gì để nói. Không những không nói mà ngay đến biểu thị cũng không cần. Đó mới là khế nhập vào cảnh giới cứu cánh viên mãn.

Hiểu rõ ý nghĩa chân thật của thiền định, vậy người trời tứ thiềnsinh hoạt hay không? Có. Tuyệt đối không thể nói người trời tứ thiền ngày ngày đang ngồi thiền. Ngồi bao nhiêu kiếp không chút ý nghĩa gì, vậy liệu ai bằng lòng đến trời Tứ Thiền? Trời Tứ Thiền thực ra vẫn có hoạt động. Không chỉ trời Tứ Thiền, mà người Tứ Không Thiên cũng có hoạt động. Nhưng người trời Tứ Không Thiên không có sắc tướng, nên kinh không nói đến họ, chỉ nói đến dục giới, sắc giới, chứ không nói đến vô sắc giới.

Chư thiên phạm chúng” là tổng kết. “Tất cộng đại hội” là chúng hội mắt thịt chúng ta có thể nhìn thấy. Mắt thịt thấy số thính chúng rất có hạn, không nhiều, nhưng những thính chúngmắt thịt không nhìn thấy mới nhiều. Đạo tràng Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh nói pháp, không chỉ một hội kinh Vô Lượng Thọ, mà mỗi hội đều vậy. Cho nên mới nói “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Tuy nhiên, sau khi những đại đức kết tập kinh, vì sao có những kinh điển ghi chép thính chúng rất nhiều, và những kinh điển ghi chép thính chúng tương đối ít? Các vị phải hiểu, đó là ý nghĩa biểu pháp, cũng là vì chúng sanh mạt pháp của chúng ta căn tánh khác nhau mà chọn lấy đạo vị của pháp môn đó. Kỳ thật, Thích Ca Mâu Ni Phật không luận giảng kinh nào, thính chúng đều rất nhiều. Đó là chúng ta có thể thể hội được, ngay chỗ này hiển thị thù thắng của pháp môn không thể nghĩ bàn.

Giảng đường của chúng ta ngày nay, mắt thịt nhìn thấy một ngàn người nhưng không thấy nhiều. Đó là nhờ đường truyền chuyển phát đi toàn thế giới. Đồng tu Hoa Kỳ gọi điện nói với tôi, hiện tại họ cũng đang xem. Họ nói, âm thanh nghe rất rõ ràng. Chúng ta biết trên thế giới có nhiều khu vực đồng bộ đang xem trực tiếp trên màn hình. Đây là thính chúngchúng ta không nhìn thấy.

Đạo tràng của chúng ta có chúng quỷ thần không? Dĩ nhiên! Niệm Phật đường của chúng ta có trời Dục Giới, trời Sắc Giới, “chư thiên phạm chúng” ở đây niệm Phật hay không? Có! Không những có, mà còn chư đại Bồ Tát của mười phương đến cũng đang niệm Phậtniệm Phật Đường. Một đạo tràng thù thắng!

Vì sao Bồ Tát, thiên thần, đại chúng đến tham dự pháp hội của chúng ta? Vì sự chân thành chiêu cảm. Chúng ta cho rằng mình là phàm phu, nhưng trong mắt họ xem thấy chúng taBồ Tát. Ngay đến chư thiên phạm chúng xem thấy chúng ta cũng đều là Bồ Tát. Chỉ cần bạn phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật, là đệ tử Di Đà, tương lai bạn nhất định được sanh Tịnh Độ. Hiện tại tuy chưa đi, nhưng thế giới Tây Phương Cực Lạc đã ghi danh rồi. Đã có danh sách, nhất định sẽ đi. Những thiên thần này thấy rõ ràng tường tận mấy ngày nữa bạn phải đi, thì họ làm sao không tôn kính bạn? Làm sao họ không đến ủng hộ pháp hội này của bạn? Cho nên niệm Phật đường có rất nhiều Bồ Tát, hộ pháp, quỷ thần đến tham gia, từ trường không như nhau. Chúng ta bước vào đây pháp hỉ sung mãn, đạo lý chính ngay chỗ này.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 38308)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(View: 7380)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(View: 12820)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(View: 31252)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(View: 31280)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 8680)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(View: 13434)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(View: 12937)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(View: 12393)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(View: 14826)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(View: 37502)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(View: 10679)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(View: 53726)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(View: 11600)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(View: 11240)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(View: 11597)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(View: 11374)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(View: 13940)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(View: 17260)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(View: 23266)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(View: 10166)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(View: 7736)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(View: 11090)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(View: 14208)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(View: 13705)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(View: 17170)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(View: 17480)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(View: 14654)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(View: 18200)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(View: 13223)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(View: 14853)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(View: 15083)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(View: 9911)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(View: 12420)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(View: 12234)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(View: 17494)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(View: 15136)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(View: 16989)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(View: 13360)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(View: 12919)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(View: 12520)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(View: 16545)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(View: 12378)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(View: 14917)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(View: 12836)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(View: 13672)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(View: 16072)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(View: 12594)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(View: 14052)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(View: 15330)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(View: 22045)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(View: 13983)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(View: 11618)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(View: 21703)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(View: 15198)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(View: 21872)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(View: 18864)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 14933)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(View: 32677)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(View: 12707)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM