Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 51

Friday, January 9, 201511:49(View: 12425)
Phần 51


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 51)

 

Pháp Sư Tịnh Không



PHẨM 4

PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

Kinh văn: “Phật cáo A Nan, quá khứ vô lượng, bất khả tư nghì, vô ương số kiếp, hữu Phật xuất thế danh Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”.

Trong khoa phán nói với chúng ta, từ phẩm thứ tư đến phẩm bốn mươi hai là phần chánh tông của bổn kinh, chánh thuyết của bổn kinh, chính thứcmọi người giới thiệu Y Chánh Trang Nghiêm của thế giới Tây Phương Cực Lạc. Ở trong phần này nói rõ nhân hạnh của A Di Đà Phật, tu hànhnhân địa, giới thiệu ra hoằng nguyện của A Di Đà Phật, giới thiệu Y Chánh Trang Nghiêm của thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đây là giới thiệu hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất. Sau khi giới thiệu rồi, lại nói rõ cho chúng ta chánh nhân của ba bậc vãng sanh. Mọi người đều biết rõ ba bậc chín phẩm của thế giới Cực Lạc, họ làm thế nào để tu học, làm thế nào vãng sanh? Việc này vô cùng quan trọng. Sau đó lại giới thiệu cho chúng ta người của thế giới Tây Phương Cực Lạc, tình hình đời sống của người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, làm thế nào tu hành chứng quả. Những việc này chúng ta đều rất quan tâm.

Sau khi giới thiệu những việc này rồi, Thế Tôn cũng vì chúng ta nói ra thế giới Tây Phương Cực Lạc vẫn còn một hiện tượng đặc biệt, đó là “biên địa nghi thành”. Thực tế mà nói, vãng sanh đến biên địa nghi thành của thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng không tệ, vì cũng ra khỏi được sáu cõi luân hồi, cũng ra khỏi được mười pháp giới. Chẳng qua đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, bạn nhất thời không thấy được Phật, không cách gì nghe Phật giảng kinh nói pháp, không thấy được các đại Bồ Tát, pháp hội trang nghiêm, cho nên gọi là biên địa chứ không phải thật là biên địa. Biên địa đều là tỉ dụ, bởi vì bạn không thấy được Phật, cho nên gọi là thai sanh. Thai sanh cũng là thí dụ, trên thực tế đều là do hoa sen hóa sanh thì làm gì có thai sanh? Thai sanh khổ. Ở thế giới Tây Phương Cực Lạc không thấy được Phật, không thể nghe Phật nói pháp thì rất khổ. Đó là do nguyên nhân gì? Ở ngay đây Phật cũng vì chúng ta giới thiệu ra. Hơn nữa, mọi người yên tâm, biên địa nghi thành nhiều nhất cũng không quá năm trăm năm. Năm trăm năm này là năm trăm năm của nhân gian chúng ta, không phải của thế giới Cực Lạc, thời gian năm trăm năm dài như vậy, bạn không thể nghe được pháp, không thấy được Phật. Thực tế mà nói, chúng tathế gian này năm trăm năm là rất lâu, rất dài, bởi vì thọ mạng của con người rất ngắn, nhưng năm trăm năm của nhân gian so với thời gian của thế giới Tây Phương Cực Lạc thì thời gian đó không dài. Người người đều là vô lượng thọ, năm trăm năm cũng chẳng qua là mười ngày hay nửa tháng, nhiều nhất là như vậy mà thôi. Nhưng ngay cả như vậy thì Phật cũng không mong muốn chúng tabiên địa nghi thành, Phật luôn hy vọng chúng ta vừa đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì liền thấy được A Di Đà Phật. Qua đó ta thấy, Phật từ bi đến tột đỉnh.

Sau cùng Phật đặc biệt nhắc nhở, cảnh cáo chúng ta, thế gian này rất khổ, đời ác năm trược. Trược chính là ô nhiễm, thế gian này ô nhiễm nghiêm trọng. Nếu như Phật không hết lời khuyên bảo nhắc nhở chúng ta, thành thật mà nói, chúng ta ở ngay trong ô nhiễm mà quên mất đi chính mình bị ô nhiễm. Khi mở quyển kinh ra, mỗi khi đọc qua một lần thì chính là Thế Tôn nhắc nhở chúng ta một lần. Thế gian này còn có thể ở hay sao? Tâm lý bị ô nhiễm, tinh thần bị ô nhiễm, tư tưởng bị ô nhiễm, kiến giải bị ô nhiễm, thậm chí sinh lý bị ô nhiễm, hoàn cảnh đời sống đều bị ô nhiễm đến chỗ cùng tột. Thân tâm ô nhiễm nên thân này nhiều bệnh. Bạn thấy thế gian này nhiều thứ bệnh kỳ quái, từ trước chưa từng nghe nói qua. Tại vì sao nhiều đến như vậy? Do ô nhiễm, tâm lý bệnh rồi, thần kinh không bình thường, sinh lý bệnh rồi, hiện tại có người nói địa cầu bệnh rồi, vậy thì phiền phức lớn. Đây là nói rõ ác khổ đạt đến cùng tột. Thế giới chúng ta cùng thế giới Tây Phương Cực Lạc làm một sự so sánh, chúng ta gọi nơi đó là cực lạc thì ở nơi đây là cực khổ, hai thế giới đối nhau rất rõ ràng. Những giới thiệu khai thị quan trọng đều ở đoạn kinh văn này, đây là cương lĩnh quan trọng nhất mà Tịnh Độ tông nương tựa tu học. Văn tự tuy là không quá nhiều nhưng giới thiệu được rất rõ ràng, cho nên người xưa đem bộ kinh này xem thành đệ nhất kinh của Tịnh Độ là có đạo lý.

Trong đây phân làm hai đoạn lớn. Đoạn thứ nhất là “chánh thuyết nhân địa”, từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám giới thiệu tình hình nhân địa tu học của A Di Đà Phật. Chỗ này rất đáng được chúng ta tham khảo. Ở ngay chỗ này, phương pháp của chúng ta không giống như phương pháp của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Chúng ta phân “Di Đà Nhân Địa” từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám. Kinh văn phía sau các vị có thể xem thấy được phẩm thứ tám là “Tích công lũy đức”. Đoạn lớn thứ hai là “quả đức viên mãn”, từ phẩm thứ chín đến phẩm mười hai, chúng ta phân từ ngay chỗ này. “Chánh thuyết nhân địa” lại phân làm hai đoạn. Đoạn thứ nhất là “tại gia văn pháp”. Đây chính là phẩm thứ tư “Pháp Tạng nhân địa”, nói rõ nhân duyên Ngài phát tâm học Phật.

“Phật cáo A Nan”.

Thích Ca Mâu Ni Phật nói với A Nan, quá khứ vô lượng không thể nghĩ bàn vô ương số kiếp. Câu này ý nói thời gian rất dài, quá khứ lâu xa về trước, “vô ương số” cũng là không cách gì tính đếm. Thích Ca Mâu Ni Phật có nói là A Di Đà Phật thành Phật đến ngày nay mới có mười kiếp, vì sao nói “bất khả tư nghị vô ương số kiếp?”. Nhiều nhất là nói quá khứ mười một kiếp, quá khứ mười hai kiếp thì xem như thời gian A Di Đà Phật tu hành đã dùng hết năm kiếp, thành Phật đến hiện nay là mười kiếp, hoặc giả là mười lăm kiếp, mười sáu kiếp về trước, chúng ta nghe qua thì còn hợp lý, vì sao đột nhiên lại nói đến vô lượng vô biên vô số ức kiếp làm cho chúng ta bị mê hoặc điên đảo? Cái ý này nói rõ, A Di Đà Phật nhân địa sớm đã thành Phật rồi, lần này ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thị hiện thành Phật, cũng giống như Thích Ca Mâu Ni Phật ba ngàn năm trước ở thế gian này của chúng ta thị hiện tám tướng thành đạo. Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật lúc nào vậy? Ngài đã nói trên kinh Pháp Hoa, Ngài cũng là sớm thành Phật từ vô lượng kiếp, đến thế gian này thị hiện thành Phật giáo hoá chúng sanh. Các vị đọc kinh Phạm Võng, Phật nói lần này là lần biểu diễn thứ tám ngàn, không phải Thích Ca Mâu Ni Phật ba ngàn năm trước làm một vương tử xuất gia tu hành mới thành Phật, đó là biểu diễn cho bạn xem thôi, nhiều kiếp xa đã sớm thành Phật. Cho nên, ý nghĩa trong câu nói này nhiều. A Di Đà Phậtthế giới Tây Phương Cực Lạcthị hiệnTây Phương, xây dựng thế giới Cực Lạc độ hóa tất cả chúng sanh cũng là thị hiện, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa này.

“Hữu Phật xuất thế”, đây là nói vào lúc đó có Phật xuất thế danh hiệuThế Gian Tự Tại Vương. Thế Gian Tự Tại VươngPhật hiệu, danh hiệu của Phật gọi là Thế Gian Tự Tại Vương. “Tự tại”, chỗ này thì không cần nói nhiều, phía trước cùng với các vị dùng mười tự tại trên kinh Hoa Nghiêm đã nói qua, đã giới thiệu qua với các vị rồi. Chư Phật Bồ Tát không có danh hiệu, danh hiệu làm thế nào mà kiến lập? Là vì thuận tiện giáo hoá chúng sanhkiến lập. Hay nói cách khác, danh hiệu chính là ở trong một giai đoạn, tông chỉ giáo hóa ở một khu vực. Vì sao phải kiến lập tông chỉ? Là chúng sanh ở một khu vực này có những tâm bệnh gì, phải dùng phương pháp gì để thay đổi những tâm bệnh này. Như Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta, vì sao Ngài không gọi là Thế Gian Tự Tại Vương? Tại vì sao gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật? Xin nói với các vị, nếu Thế Gian Tự Tại Vương Phật muốn đến thế gian này của chúng ta thì Ngài cũng được gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta muốn đến thế gian đó của Ngài thì cũng gọi là Thế Gian Tự Tại Vương, các vị nhất định phải hiểu rõ cái đạo lý này.

Tại vì sao Phật ở thế gian này xưng là Thích Ca Mâu Ni? Thứ nhất, bởi vì chúng sanh của thế gian này tự tư tự lợi, thiếu kém tâm từ bi, Phật muốn đem tâm bệnh của chúng sanh tu sửa lại thì phải thiết lập tông chỉ giáo học, tông chỉ này là “Thích Ca”. Thích Ca là tiếng Phạn, dịch thành ý Trung văn là “Năng Nhân”, nhân từ. Chúng ta không có tâm nhân từ, thiếu kém nhân từ, cho nên hai chữ Thích Ca này chính là nhân từ, đề xướng nhân từ.

Bệnh lớn thứ hai của chúng sanhthế gian này là tâm không thanh tịnh, vọng tưởng tạp niệm quá nhiều, cho nên trong danh hiệu có chữ “Mâu Ni”. Mâu Ni dịch thành ý nghĩa Trung văn là “Tịch Diệt”. “Tịch” là ý nghĩa tịch tịnh thanh tịnh, “Diệt” là diệt tất cả vọng tưởng tạp niệm.

Danh hiệu của Phật là nhằm bệnh căn của chúng sanh vào thời này chốn này mà xây dựng, cho nên bạn xem danh hiệu của Phật Bồ Tát thì liền biết được Ngài độ là loại chúng sanh nào, cái danh hiệu này liền khởi tác dụng. Cũng giống như thầy thuốc đưa ra phương thuốc, thuốc đến thì bệnh khỏi, ý nghĩa ở ngay chỗ này.

Ngày nay chúng ta ở ngay đây xem thấy Thế Gian Tự Tại Vương, nghĩ lại những chúng sanhthời đại đó của Ngài đại khái là bị những tâm bệnh gì? Nhất định rất là bảo thủ, rất là chấp trước, cho nên Phật phải dùng phương pháp này để giúp đỡ cho họ, phá trừ quan niệm bảo thủ của họ, đả phá vọng niệm chấp trước của họ nên dùng danh hiệu như vậy. “Tự Tại” lại thêm vào chữ “Vương”, vương cũng là ý của tự tại, đặc biệt cường điệu tự tại, đây là biệt hiệu của Phật. Biệt hiệu đều là vì chúng sanhkiến lập, danh hiệu của Bồ Tát cũng là vì độ chúng sanhkiến lập, chỗ này các vị đồng tu nhất định phải biết. Cho nên danh hiệu công đức không thể nghĩ bàn, đó là biểu pháp.

Người xưa đặt tên cho con cái đều có ý nghĩa rất sâu. Chúng ta đọc được ở trong lễ ký, tên một người là cha mẹ người đó ban cho họ cái mệnh. Một con người ở ngay trong một đời muốn thay đổi tên của mình là đại bất hiếu. Tự thì có thể thay đổi (danh cùng tự là hai tên), vì sao vậy? Không phải cha mẹ mệnh danh cho bạn. Tự là vào khi bạn thành niên, bạn đồng lứa của bạn tặng cho bạn. Thế nhưng hiện tại cái tự này phần nhiều là chính mình ưa thích dùng tên gì thì dùng tên đó, trong lễ xưa là bạn tặng cho, anh em đồng lứa của bạn, đồng học bạn bè tặng cho bạn, chỗ này gọi là tự. Sau khi trưởng thành thì không có người nào gọi đến danh của bạn. Gọi đến danh của bạn là rất không cung kính đối với bạn. Con trai 20 tuổi đội mão lễ thành niên. Đội mão lễ là gì vậy? Là đội nón, khi đội cái nón này là người lớn rồi, không còn là trẻ nhỏ nữa nên phải tôn trọng đối với họ, phải có lễ, gọi tự không gọi tên. Con gái 16 tuổi trưởng thành, chải tóc, cũng phải tôn trọng đối với cô ấy, cũng là gọi tự không gọi tên. Ngay trong một đời chỉ có hai người được gọi tên bạn, việc này phải nên biết. Người thứ nhất là cha mẹ, cha mẹ cả đời gọi tên của bạn; người thứ hai là thầy giáo, thầy giáo cả đời gọi tên bạn. Cho dù bạn làm quan ở triều đình, Hoàng Đế cũng tôn trọng đối với bạn, không gọi tên của bạn, cũng chỉ gọi tự của bạn. Nếu như Hoàng Đế gọi tên của bạn thì bạn có tội rồi, bạn phạm pháp rồi.

Danh hiệu ở trong nhà Phật mãi đến hiện tại vẫn còn tuân thủ nguyên tắc này, thế nhưng trong thế pháp đã xảy ra thay đổi rất lớn. Những việc này chúng ta không cần bàn luận đến, biết được một chút thường thức thì tốt rồi.

Từ “Như Lai” đến “Phật, Thế Tôn” là thông hiệu. Mỗi một vị Phật đều có mười hiệu chung này. Những hiệu chung này là ý nghĩa gì vậy? Hoàn toàn là lưu xuất từ tánh đức, tên của tánh đức, chúng ta cần phải hiểu được. Xã hội có một số người không cầu hiểu sâu, nói đến Phật dường như họ hiểu được rất nhiều, Như Lai Phật là lớn nhất trong các Phật. Nói lời này là người không hiểu gì. Như Lai Phật lớn nhất, đại khái thấy nhiều trong Tây Du ký, Tôn Ngộ Không bản lĩnh như vậy cũng không vượt khỏi bàn tay của Như Lai Phật, như vậy là đã hiểu sai đi ý nghĩa.

Đức hiệu thứ nhất, Như Lai

Như Lai là tên chung của chư Phật, mỗi một vị Phật đều có mười hiệu, đầy đủ mười hiệu thì mới gọi là Phật. Danh hiệu thứ nhất là Như Lai. “Như” là ý nghĩa gì vậy? Như là chân như. Chân như chính là chân tâm, chính là bản tánh, có ai mà không có? Tất cả chúng sanh mỗi mỗi đều đầy đủ. Tuy có nhưng hiện tại bị mê rồi, mê mất chứ không phải thật đã mất đi. Vậy muốn hỏi bạn, chân như của bạn có khởi tác dụng hay không? Khởi tác dụng. Tuy khởi tác dụng nhưng bạn chính mình không hề biết. Lúc nào thì khởi tác dụng? Khi khởi tâm động niệm. Niệm thứ nhất là chân tâm, niệm thứ nhất là như như, niệm thứ nhất là Phật tri Phật kiến. Tâm bệnh của phàm phu ở chỗ nào vậy? Không thể giữ được niệm đầu tiên. Nếu như có thể giữ được niệm đầu tiên thì con người này liền thành Phật, thì gọi là Phật, là Như Lai. Phàm phu thì niệm thứ nhất rất ngắn, chỉ một sát na, niệm thứ hai liền rơi vào trong ý thức. Niệm thứ hai là gì vậy? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều khởi lên, vậy thì liền biến thành phàm phu.

Thí dụ bạn mở mắt nhìn thấy tất cả đại chúng, bạn vẫn chưa có phân biệt, vẫn chưa có chấp trước, vẫn chưa khởi vọng tưởng, tâm địa bạn rất thanh tịnh, thấy được rất rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, là Phật tri Phật kiến. Đó là kiến tánh, kiến sắc tánh. Thế nhưng niệm thứ hai thì phiền phức rồi, đây là Trương Tam kia là Lý Tứ, con người này là người tốt, người kia là người xấu thì phiền phức lớn rồi, hoàn toàn rơi vào trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bỗng chốc liền rơi xuống thành phàm phu. Đến lúc nào bạn có thể giữ cho niệm đầu tiên này không thay đổi thì bạn liền thành công. Trong nhà Phật nói rất nhiều phương pháp, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, nói ra hết chỉ là một sự việc, đó là làm thế nào giữ được niệm đầu tiên này không thay đổi. Chỗ này gọi là nhất niệm, Tịnh Độ tông chúng ta gọi là nhất tâm. Ý niệm mới vừa khởi, hai tâm ba tâm liền biến thành nhiều tâm. Hai tâm, ba tâm, nhiều tâm là phàm phu. Vọng tưởng càng nhiều càng đáng lo, càng nhiều càng hướng xuống đọa lạc.

Trong tất cả pháp môn, pháp môn niệm Phậtthù thắng nhất, một ngày từ sớm đến tối không có ý niệm nào khác, khởi tâm động niệm đều là A Di Đà Phật. Tôi dạy mọi người câu Phật hiệu này làm thế nào để niệm được có lực? Xem tất cả mọi người đều là A Di Đà Phật thì niệm Phật của bạn mới có thể niệm được tốt, công phu mới có lực. Không cần phải thấy đây là Trương Tam, kia là Lý Tứ, vậy thì phiền. Đây là A Di Đà Phật, kia là A Di Đà Phật, thảy đều là A Di Đà Phật, bạn xem, bạn vĩnh viễnA Di Đà Phật, bạn liền thành Phật rồi. Không chỉ tất cả mọi ngườiA Di Đà Phật, tất cả mọi vật cũng là A Di Đà Phật, tất cả mọi việc cũng là A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật thì không có bất cứ thứ gì, đều là A Di Đà Phật biến hóa ra hết. Bạn xem, thế giới Tây Phương Cực Lạc bảo thọ thành hàng, các chim nói pháp. Bảo thọ, các chim đều là A Di Đà Phật biến hoá ra. Thế giới Tây Phương như vậy, thế giới trước mắt này của chúng ta không là như vậy hay sao? Cũng là như vậy, chỉ là bạn chính mình không chịu thừa nhận, bạn nhất định phải vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, vậy thì còn cách nào đâu? Cho nên làm thế nào chuyển đổi được cảnh giới, then chốt chính ngay chỗ này.

Hôm nay, Phật thất viên mãn. Thời gian đi qua rất nhanh, các vị từ hải ngoại các nơi đến nơi đây niệm Phật bảy ngày, thiết nghĩ mọi người cũng có cảm giác đến niệm Phật ở nơi đây rất thù thắng. Kỳ thật tôi xin nói với các vị, bảy ngày này các vị ở nơi đây niệm Phật vẫn là không bằng bình thường chúng ta niệm Phật. Tôi không hề bước vào niệm Phật đường, nhưng tôi biết rất rõ ràng. Do nguyên nhân gì? Chúng ta bình thường niệm Phật từ thứ hai đến thứ năm, mỗi ngày 6 giờ thức dậy đến 6 giờ tối, niệm 12 giờ đồng hồ; từ thứ bảy đến chủ nhật niệm 36 tiếng đồng hồ; một tuần lễ niệm Phật 96 giờ đồng hồ, tâm của mọi người là bình lặng. Chúng ta gọi là sóng tư tưởng, mức sóng động đó không lớn, rất gần với mức độ trung bình, cho nên đạo tràng này không giống như các đạo tràng khác, thù thắng không gì bằng. Các vị từ nơi hải ngoại đến, bình thường không có loại huấn luyện này, khi vừa đến hơn 160 người, mỗi một người sóng tư tưởng cao cao thấp thấp đều không như nhau, cho nên bước vào niệm Phật đường đương nhiên làm cho niệm Phật đường loạn lên. Cho nên đồng tu ở bản địa nghe lời của tôi, bạn sẽ có cảm giác không như nhau. Bên ngoài đến bởi vì bình thường họ không có tiếp xúc. Bình thường niệm Phật thù thắng hơn rất nhiều so với Phật thất. Cho nên hoan nghênh các đồng tu thường đến niệm Phật, tham gia bình thường chúng ta niệm Phật, niệm Phật thù thắng hơn rất nhiều so với Phật thất. Đạo tràng này hy hữu khó gặp, chủ yếu chính là bước vào niệm Phật đường thì thân tâm thanh tịnh, tất cả buông bỏ, lại không còn tạp tâm vọng tưởng. Tiêu chuẩn này chính là chân như. Tuy là không đạt đến trình độ này, đến gần được trình độ này thì được thọ dụng rồi.

Chữ “Lai”, “Như Lai”, người xưa giải thích là “thừa như thị đạo nhi lai” liền gọi là Như Lai. Cái gì là thừa như thị đạo nhi lai? Thực tế mà nói, tương ưng với như mà đến. Đến để làm cái gì? Đến hiện thân, nói pháp. Đây là nói với chúng ta ứng thân Phật, báo thân Phật. Như Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa xuất hiệnthế gian, Ngài là người tái lai, Ngài không phải là phàm phu, đáng dùng thân gì để độ thì Ngài liền hiện ra thân đó để độ, Ngài liền thị hiện tám tướng thành đạo, con người này là thừa như thị đạo mà đến ứng hoá, là Như Lai. Chúng ta thì đến như thế nào? Chúng ta là do nghiệp báo mà đến. Chúng ta tạo tác thiện nghiệp ác nghiệp, chúng ta là thừa nghiệp báo mà đến, cho nên không tự tại. Như Lai tự tại, do nghiệp đến thì không tự tại. Hai chữ này có rất nhiều cách nói, chỉ riêng giảng hai chữ này mười ngày cũng giảng không hết, nhưng chúng ta không cần phải phiền phức như vậy, hiểu được chút ý nghĩa của nó thì được rồi.

Trên kinh Kim Cang còn có một giải thích rất hay. Phật nói: “Như Lai giả, chư pháp như nghĩa”. Chỗ này giảng rất hay, cách nói này là nghĩa rộng, đối với người tu học chúng ta có sự giúp đỡ rất lớn. Như vừa rồi tôi dạy các vị niệm Phậtniệm Phật đường, xem thấy tất cả mọi người, tất cả mọi việc, tất cả mọi vật đều là A Di Đà Phật, đây chính là chư pháp như nghĩa. Chúng ta thực hiện câu kinh văn này của kinh Kim Cang, tất cả mọi người, tất cả mọi việc, tất cả mọi vật, không chỉ ở đạo tràng của chúng ta mà cả bên ngoài đạo tràng của chúng ta, cả thảy thế giới, tất cả chúng sanh, tất cả nhân sự, tất cả vạn vật đều là như vậy, đó là chư pháp thật nghĩa. Vì sao vậy? Tất cả pháp đều là tự tánh biến hiện. Tự tánhchân như, chân như biến hiện mọi vật, cho nên nó từ chân như mà đến. Ý nghĩa này nếu như các vị nghe rồi vẫn không thể tường tận, chúng ta dùng thí dụ mà nói. Chúng ta dùng vàng ròng thí dụ cho chân như, chúng ta dùng đống vàng ròng tạo thành một tượng của Bồ Tát Địa Tạng, tượng Bồ Tát Địa Tạng này bằng vàng, cái tượng này là dùng vàng để tạo ra. Vàng thí dụ cho chân như, vị Bồ Tát này là từ như mà có, ý nghĩa là như vậy. Cho nên trên kinh Hoa Nghiêm, Phật nói với chúng tavạn sự vạn pháp giữa vũ trụ này là duy tâm sở hiện. Cái tâm đó chính là chân như, chính là chỉ chân như hiện ra. Cũng giống như khi nói vạn sự vạn pháp đều từ vàng ròng mà tạo thành, lấy vàng làm món đồ thì mỗi món đồ đều là vàng. Mười pháp giới Y Chánh Trang Nghiêm đều là từ nơi như mà có, cho nên Phật mới nói “chư pháp như nghĩa”, câu nói này giảng mới được chân thật viên mãn, chân thật là nói đến chỗ cùng tột. Cho nên trong kinh Phật mới nói, khi chúng sanh thành Phật thì sẽ xem thấy chúng sanh đại địa đều là Phật chính là ý nghĩa này. Đến hôm nào bạn xem thấy tất cả chúng sanh đều là Phật A Di Đà thì chúc mừng bạn, bạn thành A Di Đà Phật rồi. Niệm Phật đường này của chúng ta khác với các niệm Phật đường khác chính ngay chỗ này, mỗi người ngoài chính mình ra thì thấy người khác đều là chư Phật Như Lai.

Khi nói đến ba thân của Phật, pháp thân vô khứ vô lai. Pháp thân là Tỳ Lô Giá Na mà trên kinh Hoa Nghiêm đã nói. Tỳ Lô Giá Na Phật là tiếng Phạn, ý nghĩa là khắp tất cả mọi nơi. Tận hư không khắp pháp giớipháp thân, cho nên bạn phải nên biết, trong Phật pháp thường nói mười phương ba đời tất cả chư Phật cùng đồng một pháp thân. Pháp thân chính là chân như, không có đến đi, chỉ có thị hiện, nơi nào có cảm thì nơi đó liền có ứng. Việc thị hiện này thật không dễ hiểu. Hiện tại chúng ta dùng khoa học kỹ thuật để thí dụ thì sẽ dễ hiểu hơn nhiều. Thí dụ như máy truyền hình, hiện tại mọi người đều rất quen thuộc, những sắc tướng của toàn thế giới, bạn mở một kênh đài nào thì sắc tướng đó lập tức xuất hiện. Thử hỏi cái tướng đó có phải từ bên đó truyền đến hay không? Không hề có, không luận ở bất cứ nơi nào, khi vừa mở đúng kênh đài thì hình ảnh liền lập tức hiện ra, không có đến cũng không có đi. Không muốn xem nữa, tắt máy đi thì sẽ không còn, không đến cũng không đi. Chư Phật Bồ Tát ứng hoáthế gian này của chúng ta nói pháp cũng là không đến, không đi. Chúng ta chính mình hiện tại có đến hay không? Xin nói với các vị cũng là không có đến, đi. Bạn chính mình cho rằng có đến, có đi thì sai rồi, đó là cách nghĩ, cách nhìn sai lầm của bạn. Hiện tại bạn ngồi ở nơi đây, ngay lúc này hiện thân. Bạn rời khỏi cái bước đó, bạn ở ngay một bước này hiện thân. Bước này diệt rồi thì bước kia hiện, chẳng phải đã nghe trên kinh Kim Cang đã nói là “như lộ diệc như điện” sao? Như lộ như điện là thí dụ cái gì? Thí dụ thời gian của hiện tượng này tồn tại rất là ngắn ngủi, ngắn đến không cách gì quan sát được, cho nên gọi là không sanh không diệt. Không sanh không diệt là ý gì vậy? Nếu như nó thật khôngsanh diệt mà nói không sanh không diệt thì đó là lời thừa. Có sanh diệt mà gọi nó là không sanh không diệt vì thời gian của sanh diệt quá ngắn ngủi, nói sanh thì nó đã diệt, nói diệt thì nó lại sanh, đúng như trên kinh Kim Cang đã nói là “như lộ diệc như điện”, đó mới là chân tướng sự thật. Chư Phật Như Lai ứng hóathế gian, chúng ta lại chẳng phải là ứng hóathế gian hay sao? Vì sao không như nhau vậy? Họ tương ưng với chân như, chúng ta tương ưng với phiền não, kém là kém ngay chỗ này. Thế nhưng phiền não vẫn nương vào chân như, không có chân như thì làm gì có phiền não? Mê mất chân như thì khởi phiền não, không hề lìa khỏi chân như. Nhất định phải hiểu được những chân tướng sự thật này.

Người xưa nói “vô lai vô khứ” đó là pháp thân. “Đệ nhất nghĩa đế” gọi là Như, “chánh giác” gọi là Lai, đây gọi là báo thân. “Thừa chân như thật tướng chi đạo như thị nhi lai”, đây gọi là ứng thân. Nói được cũng không tệ, có thể nói được thông, thế nhưng không thể chấp trước, vừa chấp trước thì sai rồi. Cho nên đọc kinh nghe pháp đích thực là phải lìa tướng, “tức tướng lìa tướng”, “ly tức đồng thời” thì chúng ta mới có chỗ vào, mới có chỗ ngộ. Chỉ sợ chấp trước, vừa chấp trước thì chết ngay trong đó, thật không bằng chân như hoạt bát. Chân như biến hiện tất cả pháp mà cũng là hoạt bát linh động.

“Pháp thân” là chân như lý thể. Hiện tại trong triết học đã nói bản thể của vũ trụ vạn hữu. Bản thể trong nhà Phật gọi chính là chân như, chính là tự tánh chân tâm, nó có thể biến, có thể sanh. Mười pháp giới Y Chánh Trang Nghiêm là sở sanh sở biến.

“Báo thân” là cái gì? Báo thân là tự thọ dụng của thị hiện, thị hiện cái thân này, tự thọ dụng đều là báo thân. Báo thân của Phật là báo thân của trí tuệ, báo thân của phàm phubáo thân của phiền não, bạn thọ báo mà đến.

“Ứng thân” là tha thọ dụng. Phật có ứng thân lợi ích tất cả chúng sanh. Cái thân này của chúng ta nếu là vì xã hội phục vụ, vì nhân dân phục vụ, vì đại chúng phục vụ thì cái thân này là ứng thân. Mỗi ngày ở đạo tràng của chúng ta làm nghĩa công là ứng thân, vì đại chúng phục vụ. Chính mình thọ dụng, cảm thọ của chính mình, đó gọi là báo thân. Cách nói này của tôi các vị dễ dàng thể hội.

Phật có ba thân, phàm phu chúng ta cũng có ba thân. Ba thân của Phật tương ưng với chân như, thân này của chúng ta không tương ưng với chân như. Không tương ưng là vì chúng ta mê mất đi tự tánh. Chúng tapháp thân, nguyên bổn cùng chân nhưtương ưng, chỉ là một sự việc, hoàn toàn biến thành vô tri, lỗi lầm chính ngay chỗ này. Cho nên, Phật rất từ bi giúp chúng ta hồi phục. Cách hồi phục thế nào vậy? Trừ bỏ đi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì liền hồi phục.

Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là bạn chính mình khởi lên, người khác không cách gì giúp bạn trừ bỏ, nên có câu là “giải kềm hoàn yếu hệ kềm nhân”. Do chính bạn khởi lên thì bạn chính mình trừ bỏ nó, không có người nào có thể giúp đỡ được, chư Phật Bồ Tát từ bi chỉ là đem cái chân tướng này nói cho chúng ta nghe rõ ràng tường tận. Chúng ta rõ ràng tường tận, biết được nguyên nhân chúng ta bị là do cái này, trừ bỏ thì tốt rồi. Có rất nhiều người nói: “Rất khó! Trừ không hết được”. Làm gì mà trừ không được, bạn không chịu trừ thì còn cách nào chứ? Tại vì sao không chịu trừ chứ? Tham luyến cái sắc thân, tham luyến thọ dụng trước mắt, không hề lìa khỏi tham-sân-si, cho nên bạn sống ở ngay trong phiền não, không phải bạn sống ở ngay trong chân như. Chư Phật Bồ Tát không như chúng ta, các Ngài sống ở ngay trong chân như, cho nên các Ngài được đại tự tại. Loại đời sống trí tuệ cứu cánh viên mãn đó là Phật, Phật là đời sống trí tuệ cứu cánh viên mãn. Bồ Tátđời sống đại trí tuệ nhưng chưa viên mãn. Phàm phuđời sống vô lượng vô biên tham-sân-si-mạn. Cái này quyết định chuyển biến đều ở chính mình, không ở người khác, cho nên chính mình muốn thành Như Lai thì lắc mình một cái liền biến thành Như Lai. Tại vì sao không vứt bỏ đi phiền não tập khí? Cái điểm này rất quan trọng, vứt bỏ đi phiền não tập khí thì chính là vứt bỏ đi sáu cõi luân hồi, chính là vứt bỏ đi vô lượng kiếp sanh tử, thì bạn liền bất sanh bất tử. Sanh tử là giả, không phải là thật, then chốt chính ngay ở một niệm mê ngộ. Ngày nay bạn không thể vứt bỏ được, bạn vẫn đang mê, bạn không giác ngộ.

Niệm Phật đường là huấn luyện bạn được định, giảng đường giúp cho bạn khai trí tuệ, cái đạo tràng này định huệ đều học. Nếu như không nghe kinh, chỉ dựa vào niệm Phật thành tựu, ngày trước lão sư Lý đã làm một thí dụ, chỉ dựa vào niệm Phật, dựa vào tu định thành tựu thì gần như là cần phải mười năm bạn mới có thể thành tựu, mới có thể minh tâm kiến tánh; nếu như bạn vừa niệm Phật lại có thể nghe kinh, có thể nghiên giáo thì liền có thể rút ngắn được thời gian, ba năm, năm năm thì bạn liền khai ngộ. Đây chính là nói lợi ích của định huệ đều học, công đức của định huệ đều học. Bởi vì bạn ở niệm Phật đường niệm Phật, dùng Phật hiệu đè tham-sân-si-mạn xuống như dùng đá cuội đè cỏ, liều mạng mà đè, đè đến mức bảo hòa, khi đè không xuống nữa thì xong, liền bạo phát lên. Thế nhưng bạn nghe kinh nghe pháp, cái trí tuệ này là gì? Bạn một mặt dùng định đè xuống, một mặt dùng trí tuệ hóa giải nó, đem nó hóa giải hết thì không còn nữa. Phương pháp này tốt. Cho nên người chân thật biết dụng công, nhất địnhđịnh huệ đều học, hiệu quả rất là thù thắng.

Chúng ta xem thấy đức hiệu của Phật, đức hiệu thực tế mà nói chính là đức hiệu của tự tánh. Xem thấy hai chữ Như Lai này, chúng ta làm thế nào thực tiễn, làm thế nào để học tập? Nghĩ đến ta ngay một đời này không phải đến cái nhân gian này hay sao? Làm thế nào tương ưng với như thì chúng ta gọi là Như Lai, nếu không tương ưng với Như thì không phải Như Lai. Như là cái gì vậy? Như là chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Chân tướng là cái gì vậy? Trên kinh Bát Nhã nói rất hay, có thể nói sáu trăm quyển Đại Bát NhãThế Tôn đã nói 22 năm quy nạp lại thành hai câu nói là “bất khả đắc, vô sở hữu”. Hai câu nói này ở trong kinh Bát Nhã lặp lại hơn mấy trăm lần. Đây là nói thật với bạn. Tại vì sao “vô sở hữu, bất khả đắc” ? Vô sở hữu là giảng hiện tướng, bất khả đắc là giảng thọ dụng. Trên kinh Kim Cang nói với bạn “mộng huyễn bào ảnh, như lộ như điện”, chỗ này chẳng phải đã nói rõ “bất khả đắc, vô sở hữu” hay sao? Không thể được mà bạn muốn được, không thể có mà bạn cho là có thì bạn hoàn toàn tương phản với Như, bạn không Như, mà bạn Lai, bạn không Như Lai. Nếu như hiểu rõ cái đạo lý này thì đối với người, với việc, với vật chân thật hiểu được tùy duyên. Thông thường giảng hai chữ tùy duyên này ai hiểu được? Ý nghĩa hai chữ tùy duyên này quá sâu, quá rộng, chân thật hiểu rõ “bất khả đắc, vô sở hữu” mới biết tùy duyên. Những người nào tùy duyên? Chư Phật Như Lai ứng hoáthế gian này là tùy duyên, phàm phu chúng ta làm gì có thể làm đến được? Phàm phutùy thuận phiền não, không phải tùy duyên. Chư Phật Như Lai tùy duyêntùy thuận chân như thì làm sao như nhau được?

Đức hiệu thứ hai, Ứng Cúng.

Đây là đức hiệu của tự tánh.

“Ứng Cúng” là nói người này tu hành viên mãn thành tựu rồi. Tướng viên mãn thành tựu là thế nào? Lý viên mãn thành tựu chính là hoàn toàn thông đạt tường tận đối với chân tướng của vũ trụ nhân sanh, không có chút nghi hoặc nào, không hề có chút mê hoặc, không mê không hoặc; biểu hiện ở trên sự tướngphước huệ đầy đủ, hiện ra trí tuệ vô lượng, phước đức vô lượng. Trí tuệ cùng phước đức đều không dễ hiểu, nhất là phước đức. Người thế gian luôn cho rằng ở trong xã hội có tiền tài, có địa vị, có sản nghiệp thì gọi là phước đức. Cái quan niệm này hoàn toàn sai rồi, đó không phải là phước đức chân thật, phước đức chân thật không phải ở những thứ này. Chúng ta thường xem thấy trên kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật cùng với 1250 học trò của Ngài thị hiện ra chính là phước huệ viên mãn. Đời sống của họ rất là kham khổ, ra bên ngoài khất thực, ba y, một bát, dưới gốc cây ngủ một đêm, giữa ngày ăn một bữa. Với cái nhìn của phàm phu chúng ta thì họ có phước báo, có huệ gì chứ? Nghèo đến mức như vậy, phải xin ăn, còn có phước gì chứ? Khi bạn tỉ mỉ quan sát, trong lòng của họ không có vọng tưởng, không có phiền não, không có lo lắng, không có vướng bận, thân tâm thanh tịnh, thế gian bất cứ người nào đều không cách gì so sánh được với họ, đời sống của họ được đại tự tại, biết được sanh ra từ nơi đâu, chết sẽ đi về đâu, rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, đó mới gọi là phước huệ chân thật. Chính mình có phước quyết không phải chính mình thọ dụng, mà phải cho mọi người cùng hưởng.

Tôi ở ngay trong một đời này thấy được hai vị Bồ Tát, ở nơi đây Lý Mộc Nguyên là Bồ Tát, Trung Quốc đại lục còn có một vị Thôi Bồ Tát. Tôi xem thấy hai vị Bồ Tát, ở trong xã hội họ có địa vị, có tiền của, nhưng họ trải qua đời sống như thế nào vậy? Trải qua đời sống rất thanh khổ, những tiền của đó của họ để cho xã hội đại chúng cùng nhau hưởng, chính mình không hề hưởng thụ. Đó là Bồ Tát thật, không phải là Bồ Tát giả. Người thế gian thông thường không thể làm được, nhưng họ có thể làm được, họ làm được rất là an vui. Họ còn nói với tôi, họ rất muốn xuất gia, qua mấy năm họ phát tâm, họ muốn thế phát xuất gia, ăn trường chay. Chính mình công tác rất bận rộn, trong nhà cũng mời hai người giúp đỡ. Mời người nào vậy? Người tàn tật. Người tàn tật không tìm được công việc, không người nào dùng họ, ông ấy dùng người tàn tật. Người tàn tật đầu óc kém cỏi, ông chân thật là rất tùy duyên, làm cơm không được ngon vẫn cứ ăn, giặt quần áo cũng không được sạch, bảo họ mang quần áo đến thì thượng y cùng hạ y màu sắc không như nhau ông ấy cũng mặc, không nói một lời nào, cũng không sợ người cười, chân thậtBồ Tát, đó mới gọi là tùy duyên. Ngay trong tùy duyên được đại tự tại, được đại hoan hỉ. Xem thấy người khác an vui như chính mình an vui; xem thấy người khác đau khổ thì trong lòng rất khó chịu. Họ dường như cả đời không vì chính mình mà sống, mà vì chúng sanh mà sống, đó là Bồ Tát, đây là chân thật đầy đủ phước huệ.

“Nhiêu ích hữu tình”, nhiêu là phong nhiêu, tận tâm tận lực giúp đỡ tất cả chúng sanh, giúp đỡ người khác. Họ buôn bán thì là Bồ Tát thương nhân, Bồ Tát chân thật, không có người nào có thể so sánh được với họ. Đó là thị hiện, đó là hiện thân nói pháp. Người như vậy ở trên kinh Phật nói là “ứng thọ nhân thiên cúng dường”, họ đáng được tiếp nhận. Cái họ tiếp nhận, xin nói với các vị, chỉ là thứ họ cần dùng, rất dễ dàng vừa lòng. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở đời, mỗi ngày ra ngoài khất thực một lần, bát đã đựng đầy đủ ăn rồi thì sẽ không cần nhiều nữa; một bộ quần áo chưa rách vẫn còn có thể mặc, mặc rách rồi vá lại một chút vẫn có thể mặc tiếp. Người hiện tại nếu các vị mặc quần áo vá đi ra ngoài thì sẽ rất ngượng ngùng, người bên ngoài xem thấy cười ngạo. Tôi nói với bạn: “Tốt! Đi nhiều hơn nữa, cười mệt hết cười”. Người hiện tại đều là tham-sân-si-mạn, để cho họ thấy mà tỉnh ngộ ra thì có gì không tốt chứ? Họ cười họ chết, ta không chết. Đó là trí tuệ. Chúng ta xem thấy những người chân thật hành Bồ Tát đạo thì chân thật không sợ người cười, không chỉ trong xã hội không có người cười họ mà còn kính trọng họ, bội phục họ, không người nào có thể làm được, cho nên họ đáng được trời người cúng dường. Ta hỏi buôn bán của họ như thế nào? Tiền của quá nhiều, không ngừng mà đến, họ nói với tôi tiền rất dễ kiếm, càng ngày càng nhiều. Đến nhiều thì thế nào? Họ bố thí, càng thí càng nhiều, chân thật là tu đại bố thí. Họ muốn xuất gia, đem hết tất cả sự nghiệp của họ thảy đều bố thí hết. Chân thật là khó làm, đáng quý. Đó là “ứng Cúng”.

Đức hiệu thứ ba, Đẳng Chánh Giác.

“Đẳng Chánh Giác” cũng có chỗ gọi là Chánh Biến Tri, Chánh Biến Tri cùng Đẳng Chánh Giác ý nghĩa là như nhau. “Đẳng” là bình đẳng, “Chánh” là không có tà, không có sai lầm, “Giác” là giác ngộ. Giác ngộ của họ là chính xác, là bình đẳng với tất cả chư Phật Như Lai, đó gọi là Đẳng Chánh Giác. Nếu như dịch thành Chánh Biến Tri thì “Chánh” trong Đẳng Chánh Giác cũng có chánh; “Biến” chính là ý nghĩa của Đẳng, Biến là không gì không biết không gì không thể, đó mới gọi là Biến; “Tri” chính là ý nghĩa của Giác, cho nên Chánh Biến Tri chính là ý nghĩa của Đẳng Chánh Giác. Cái danh hiệu này trong Phật kinh dùng rất phổ biến. Thế nhưng trong tiếng Phạn gọi là “A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” thông thường dịch thành “Vô thượng chánh đẳng chánh giác”, ngay chỗ này dùng từ đơn giản, tỉnh lược đi hai chữ vô thượng. Vậy thì “Đẳng” bằng với chư Phật Như Lai, đó chính là ý nghĩa của vô thượng.

Đức hiệu này rất quan trọng. Tu học của Phật pháp là học cái gì? Ngay trong tất cả đức hiệu Phật không nêu ra thứ khác, đặc biệt đưa ra một câu “A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Phải nên biết, chúng ta học Phật là học chánh giác, chân thật giác ngộ, học Đẳng Chánh Giác, bình đẳng chánh giác với chư Phật Như Lai. Lại còn thêm vào hai chữ “Vô Thượng”, chư Phật Như Lai. Chỉ cần phá một phẩm vô minh chứng một phần pháp thân chính là chánh giác Như Lai. Mọi người thấy giảng nghĩa kinh Kim Cang của cư sĩ Giang Vị Nông, trong giải thích kinh văn ông giảng nghĩa hai chữ “Chư Phật” chính là dùng 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ. “Chư” chính là bốn mươi mốt, bốn mươi mốt vị Pháp Thân Đại Sĩ là chư Phật. Giải thích này rất hay. Viên Giáo Sơ Trụ liền có trí tuệ, có đức năng, có thần thông, thị hiện tám tướng thành đạo. Cái thân Phật này cũng chính là nói “đáng dùng thân Phật để độ”, Bồ Tát Viên Sơ Trụ liền có thể thị hiện thân Phật giáo hóa chúng sanh, cho nên ông giải thích bốn mươi mốt là chư Phật rất chính xác. Nếu như thêm vào “Vô Thượng” thì chẳng phải là bốn mươi mốt vị Pháp Thân Đại Sĩ là quả giác cứu cánh viên mãn? Vô thượng chỉ có một vị, Chánh Đẳng Chánh Giác thì có bốn mươi mốt vị, vậy thì chánh giác thì càng nhiều, ở trong Phật pháp thì A La Hán, Bích Chi Phật đều gọi là Chánh giác. Do đây có thể biết, trong mười pháp giớiChánh giác, không có Chánh đẳng chánh giác, không Đẳng Chánh Giác. Đẳng Chánh Giác nhất địnhsiêu việt mười pháp giới, trong nhất chân pháp giới mới là Đẳng Chánh Giác, trong mười pháp giới đạt đến cao nhất là Chánh giác. Con người nếu như được Đẳng Chánh Giác thì đó chính là không gì không biết, không gì không thể. Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát liền có loại trí tuệ năng lực này, cho nên gọi là Đẳng Chánh Giác.

Danh hiệu này làm thế nào để thực tiễn?

Bạn nhất định phải xác định mục tiêu học Phật của chính mình. Chúng ta học Phật không cầu phước báo trời người huống hồ là phú quý của nhân gian. Các vị phải nên biết, những thứ này rất dễ dàng mê hoặc người, nếu như bạn không xả mà bạn muốn có được thành tựu thì không dễ. Đó là người như thế nào vậy? Chư Phật Như Lai hóa thân thị hiện thì được, họ có thể hưởng thọ năm dục sáu trần mà không nhiễm trước năm dục sáu trần. Thật cao minh! Nếu như chúng ta hưởng thọ năm dục sáu trần, ở trong năm dục sáu trần khởi lên một ý niệm tham sân, hợp với ý của chính mình thì tham ái, không hợp với ý của chính mình thì chán ghét, chỉ cần có chút xíu ý niệm như vậy thì bạn là phàm phu, bạn bị đọa lạc rồi. Căn bản Phật pháp tuyệt nhiên không chủ trương người nhất định phải tu khổ hạnh, thế nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật rất tán thán khổ hạnh, đạo lý chính ngay chỗ này. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện cũng là thị hiện khổ hạnh, tại vì sao Ngài không thị hiện hưởng thụ? Bởi vì tuyệt đại đa số chúng sanh vừa hưởng thụ thì liền bị mê hoặc, vừa hưởng thụ thì tạo nghiệp, cho nên Ngài làm ra gương mẫu “phản kỳ đạo nhi hành chi” để sau khi mọi người xem rồi có chỗ lĩnh ngộ.

Chân thật buông bỏ được thì liền được đại tự tại. Không chỉ thế gian pháp phải buông bỏxuất thế gian pháp cũng không nhiễm trước thì bạn mới có thể có thành tựu. Thế gian pháp buông bỏ rồi, xuất thế gian pháp vẫn không thể buông bỏ thì không ích gì, không thoát khỏi sáu cõi luân hồi. Phật dạy chúng ta buông bỏ, không phải là đổi đối tượng. Buông bỏ thế gian pháp, nắm lấy Phật pháp, đó là đổi đối tượng, chứ chưa buông bỏ. Triệt để buông bỏ, tâm địa thanh tịnh không nhiễm một trần thì mới được tự tại, đó mới là hưởng thụ chân thật. Các vị chưa có buông bỏ thì kinh nghiệm hưởng thụ này các vị chưa có, nói rồi các vị cũng không thể hội được. Người chân thật buông bỏ họ mới có thể hiểu được. Đời sống của chư Phật Như Lai mới được đại tự tại, đại viên mãn, hạnh phúc chân thật. Chúng ta phải nên học tập, phải cầu chánh giác, đem tất cả chướng ngại nhất định phải viễn ly, phải xả bỏ, chỉ cần chướng ngại giác đạo thì phải đem nó xả bỏ hết, như vậy thì đúng rồi.

Đức hiệu thứ tư, Minh Hạnh Túc

“Minh” là trí tuệ, “Hạnh” là hành trì, chúng ta xem thấy hai chữ này liền hiểu rõtrí tuệthiện hạnh. Chư Phật Bồ Tát các Ngài đã là người giác ngộ. Người giác ngộ thì tư tưởng, lời nói, hành vi đều có thể tương ưng với trí tuệ, cho nên chữ Hạnh phía sau này có thể nói là bao gồm cả tư tưởng, lời nói, hành vi của chúng ta. “Túc” là ý viên mãn, cũng chính là nói hành vi ngay trong cuộc sống thường ngày đều tương ưng viên mãn với trí tuệ vốn đủ trong tự tánh, vậy thì thành Phật rồi. Chúng ta lại nói rõ ràng hơn một chút, nói được tường tận hơn một chút, “Minh” chính là “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” mà Phật pháp thường nói. Có thể thấy được, cái Minh này không phải là trí tuệ của Tiểu thừa, không phải là trí tuệ của Bồ Tát, không phải là trí tuệ của Quyền Giáo Phật quả, đương nhiên càng không phải là trí tuệ của phàm phu, mà là trí tuệ cứu cánh viên mãn trên quả địa Như Lai. Đời sống hành vi ở trong Phật pháp chính là tam học giới định tuệ. Tư tưởng, ngôn ngữ của chúng ta, tất cả tạo tác phải tương ưng với tam học giới định tuệ. Tương ưng chính là Túc, chính là ý nghĩa của chữ Túc này. Việc này người học Phật chúng ta không phải chỉ tường tận, mà phải lý giải sâu sắc, thì công phu tu hành của chúng ta mới có thể có lực. Cái gì gọi là công phu tu hành có lực? Cũng chính là nói hoàn cảnh đời sống của chúng ta có thể thay đổi, đó gọi là có lực. Nếu không thì câu nói công phu có lực này rất trừu tượng. Cái gì gọi là công phu có lực? Hoàn cảnh đời sống của chúng ta có thể chuyển đổi lại, đây mới là tâm mong cầu của mỗi chúng ta. Trí tuệ viên mãn nhất định phải dựa vào lời nói hành vi hiển thị ra. Nếu không thì trí tuệ có thể nhìn ra từ đâu? Từ hành vi đời sống của chúng ta, từ chỗ bạn đối nhân xử thế tiếp vật để biết bạn có trí tuệ hay không và trí tuệ của bạn đạt đến một trình độ như thế nào. Cho nên, thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày chính là tam học giới định tuệ.

“Giới” là gì? Là như pháp. Người thế gian chúng ta gọi là hợp tình, hợp lý, hợp pháp, trong nhà Phật chúng ta gọi là giới học. Nhắc đến giới học, chúng ta không nên nghĩ đến nghĩa quá hẹp, nhắc đến giới học liền nghĩ đến năm giới, mười giới, phạm vi này quá nhỏ. Hợp tình, hợp lý, hợp pháp, đó là giới học. Chúng ta nghĩ tưởng, không nên nghĩ người khác mà nên nghĩ chính mình. Người chân thật tu hành, mỗi giờ mỗi lúc quan tâm chính mình, vậy thì bạn đúng. Cũng giống như đại sư Lục Tổ Huệ Năng bên Thiền tông đã nói: “Nếu là người chân chính tu hành thì không thấy lỗi thế gian”. Quan tâm chính mình còn không kịp, làm gì có thời gian để thấy lỗi lầm của người khác? Chính mình từ vô thỉ kiếp đến nay, tập khí phiền não thường hay khởi hiện hành, cho nên tất cả tạo tác ngay trong một đời này thật đúng như Bồ Tát Địa Tạng trong Bổn Nguyện kinh đã nói là: “Chúng sanh Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm đều là tội”. Nếu như chúng ta thường hay có thể phản tỉnh, có thể kiểm điểm, biết được khởi tâm động niệm chính mình đều là tội nghiệp, lời nói việc làm cũng đều là đang tạo nghiệp, bạn có thể phản tỉnh, có thể quán sát, nhà Phật gọi là giác ngộ, bạn khai ngộ rồi. “Ngộ hậu khởi tu”, sau khi ngộ rồi đem những lỗi lầm của mình tu sửa lại, đó gọi là tu hành. Cho nên mọi người nhất định phải tường tận, tu hành không phải mỗi ngày đánh chuông, gõ mõ, đọc kinh, mà là đem tất cả lỗi lầm từ trong nội tâm của chúng ta sửa đổi lại, đó mới gọi là tu hành.

Các vị đều rất rõ ràng, thế gian này tai nạn trùng trùng, trên thế giới có rất nhiều lời tiên đoán trong và ngoài nước. Có rất nhiều đồng tu đều đã từng xem qua, thấy qua nhưng cho rằng chưa chắc là thật, đều có tâm trạng hoài nghi để nhìn nó, không chịu tin tưởng, không chịu tiếp nhận, vậy thì không còn cách nào. Nếu như là người thông hiểu, người đầu óc tường tận, bình lặng, đến xem qua những truyền thuyết này, lại xem qua tình hình xã hội hiện đại, xem thấy thông thường mọi người khởi tâm động niệm, họ nghĩ tưởng cái gì, nhớ cái gì, nói cái gì, làm những việc gì; sau đó đem đối chiếu với tiên đoán của người xưa thì sẽ lạnh cả xương sống. Chúng ta có thể ý thức đến đại từ đại bi của chư Phật Bồ Tát, lời nhắc nhở sau cùng, chúng ta có cách nào cứu vãn hay không? Có! Quay đầu là bờ, chỉ cần bạn chịu quay đầu, từ tham sân si quay lại nương vào giới định huệ thì được rồi.

Phật pháp bắt đầu học từ đâu vậy? Bắt đầu học từ trì giới. Trì giới gì vậy? Hiện tại rất khó, thời đại này đồng tu chúng ta phát tâm học Phật, nói đến thành tựu thì không bằng người xưa. Tại vì sao vậy? Người xưa làm đúng pháp, người xưa rõ lý. Ngày nay chúng ta tại vì sao không như pháp? Không hiểu đạo lý. Tại vì sao không hiểu đạo lý? Không có người nói, không có người dạy bạn thì bạn làm sao biết được? Vào thời xưa người dạy bảo bạn nhiều, cha mẹ bạn biết dạy bạn, lão sư của bạn biết dạy bạn, nếu bạn muốn học Phật thì sư phụ xuất gia liền dạy bạn, người dạy rất nhiều. Hiện tại không có người dạy. Phát tâm học Phật, bạn cũng quy y cũng thọ giới, thậm chí cho đến cũng xuất gia, sư phụ dạy bạn cái gì? Dạy bạn bái sám, dạy bạn hóa duyên, tên tuổi tốt đẹp, chỉ là tu phước. Nhưng rốt cuộc là phước chân thật hay là phước giả? Thời đại này của chúng ta kém xa so với thời xưa, nguyên nhân chính ngay chỗ này.

Chúng ta ngay trong lúc giảng giải thường hay nhắc nhở các đồng tu, học Phật, “Phật” là ai? Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện ra như vậy chính là tấm gương chúng ta học tập. Trên kinh nói Thích Ca Mâu Ni Phật là “phước huệ nhị túc tôn”. Chúng ta đọc thấy được trên kinh, so sánh phước báovô số so sánh, Thế Tôn dùng phương pháp này để chúng ta thể hội. Ngài nói một người ăn xin, người ăn xin ở thế gian bần tiện đến cùng tột, người ăn xin cùng đứng chung với một Hoàng Đế, các vị thấy con người nào thì phước báo lớn? Vừa nhìn thì liền biết được, người ăn xin thì làm sao sánh được phước báo của vị Hoàng Đế kia. Loại phước báo đó, Ngài nói nếu như là Đế Vương của nhân gian cùng đứng chung với vua trời Đao Lợi thì Đế Vương nhân gian chúng ta cũng sẽ giống như người ăn mày vậy, hiển thị phước báo của vua trời Đao Lợi rất lớn. Cứ từng tầng từng tầng mà so sánh, so đến vua trời Đại Phạm Thiên vương cao nhất, Ma Hê Thủ La Thiên Vương, đây là phước báo lớn nhất trong ba cõi của chúng ta. Phật nói cho dù vua trời Ma Hê Thủ La so với Bồ Tát vãng sanh Tịnh Độ hạ hạ phẩm thì vua trời Ma Hê Thủ La cũng giống như người ăn mày vậy. Như vậy các vị mới biết được, phước báo của người vãng sanh Tây Phương to lớn không thể nghĩ bàn. Trên kinh này nói được rất rõ ràng, người hạ hạ phẩm vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, phước báo giống như Phật A Di Đà. Đây là chỗ khó tin của kinh này, “pháp thật khó tin”. Tại vì sao có được phước báo lớn đến như vậy? Oai thần gia trì của bổn nguyện A Di Đà Phật, phước báo không phải do bạn tu mà là do hưởng phước báo của Phật A Di Đà, cho nên đến thế giới Tây Phương Cực Lạc dung mạo của chúng ta giống y như Phật A Di Đà, thân thể giống y như Phật A Di Đà, phước báo, trí tuệ, thần thông, đạo lực đều giống y như Phật A Di Đà. Do đây có thể biết, tu hành đúng pháp quan trọng hơn bất cứ thứ gì.

“Pháp” là gì vậy? Nếu như dùng lời hiện tại dễ dàng hiểu rõ mà nói, chính là pháp tắc tự nhiên, trong kinh Phật không nói tự nhiên, mà nói “pháp nhĩ như thị”. Trong bổn kinh đã nói ra tám chữ tự nhiên, ý nghĩa rất sâu rất rộng, cái tự nhiên này chính là tương ưng với tánh đức, đó là tự nhiên. Ngày nay tư tưởng hành vi của chúng ta trái ngược với tánh đức, trái với tánh đức thì phá hoại tự nhiên, phá hoại tánh đức. Chư Phật Bồ Tát ở trong sáu đường, ở trong mười pháp giớitùy loại hiện thân, tùy cơ nói pháp, các Ngài là tùy thuận pháp tánh, cho nên các Ngài được đại tự tại. Ngày nay chúng ta khởi tâm động niệm trái ngược với pháp tánh. Nếu như bạn muốn hỏi pháp tánh rốt cuộc là cái gì? Tôi cũng không thể nói ra được, thế nhưng tôi có thể nói với bạn, ở trên cây cột này của chúng ta viết lên mười chữ mà trên tựa đề của kinh Vô Lượng Thọ đã nói rất rõ ràng: “Chân Thành, Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Chánh Giác, Từ Bi”, đây chính là tánh đức. Bạn có thể khởi tâm động niệm đều tùy thuận mười chữ này, không rời khỏi mười chữ này, vậy thì bạn chân thật đang học Phật, bạn chân thật đang trì giới. Nếu như khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của chúng ta hoàn toàn trái ngược với mười chữ này thì là bạn đang tạo nghiệp.

Một người tạo nghiệp, bạn tạo nghiệp thiện thì tương lai bạn được quả thiện, trong sáu đường bạn được quả báo của ba đường thiện; nếu bạn tạo ác nghiệp thì nhất định bạn đọa ba đường ác. Những đạo lý này ở trong kinh luận Phật nói quá nhiều, không luận là kinh luận Đại Tiểu thừa, gần như Thích Ca Mâu Ni Phật mỗi lần giảng kinh đều nhắc đến, đó là từ bi đến tột đỉnh. Không chỉ nhắc đến, Thế Tôn Ngài còn làm ra tấm gương để cho chúng ta xem. Vừa rồi chúng ta đã nói qua, Phật trí tuệ phước báo đạt đến cùng tột, có người nào có thể so sánh được với Ngài? Nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện ra kiểu dáng này là gì? Dưới gốc cây ngủ một đêm, nửa ngày ăn một bữa, ngày ngày ra bên ngoài khất thực, Ngài thị hiện ra đời sống như vậy. Tại vì sao Ngài không thị hiện đại phú đại quý mà thị hiện thành một người ăn xin? Các vị có thể hiểu được ý này hay không? Từ bi đến cùng tột. Nếu như thị hiện là trưởng giả đại phú, là quốc vương, Ngài có thể thị hiện ra, nhưng trong mắt của tất cả chúng sanh, nhất là chúng sanh nghèo khổ, xem thấy Phật Đà trên cao vời vợi, cao không thể với tới, muốn gần gũi mà không dám gần. Thế Tôn thị hiện một người khất thực, người bần tiện nhất, nhìn thấy Thế Tôn thì cảm thấy gần giống như họ vậy, ta xin ăn, ông ấy cũng xin ăn, người bần tiện nhất cũng có thể thân thiết tiếp cận với Ngài. Đây là từ bi đến tột đỉnh. Lại nói với người, tướng phước đức trí tuệ viên mãn thị hiện ra thì ra là loại tướng này. Ở trong loại tướng này để bạn thể hội đến “phước huệ nhị túc tôn”, bạn dần dần mà thể hội. Không phải ở loại thân phận quốc vương đại thần đại phú trưởng giả bảo bạn đi thể hội “phước huệ nhị túc tôn”, mà để cho bạn trong việc khất thực ăn xin mà thể hội, bạn nói xem, cái ý này bao sâu. Ngài cụ thể hiển thị ra chân thật nhìn thấu buông bỏ, cho nên sau cùng tổng kết gọi là Thế Tôn.

Thế là thế gian, thế gian là nói hữu tình thế gian, trí chánh giác thế gian, cũng chính là nói mười pháp giới. Mười pháp giới không có một người nào không tôn kính đối với Phật. Trong mười pháp giới, người đáng được tôn kính nhất được gọi là Thế Tôn. Bình thường chúng ta đọc kinh xem thấy những danh tướng này, thậm chí xem thấy truyền ký của Thích Ca Mâu Ni Phật nhưng không thể hội được cái ý này, bạn không thể nhìn ra, tại vì sao vậy? Quá hời hợt, quá sơ ý. Chúng ta học Phật đích thực là không có chỗ nương tựa, bắt tay vào từ chỗ nào cũng không biết. Phật đã thị hiện cho chúng ta xem phải bắt tay vào từ chỗ nào? Bắt tay vào từ không tham, không sân, không si, bắt đầu từ tri túc thường lạc. Những tổ sư đại đức này của Trung Quốc thời xưa tường tận, cho nên ở nơi cửa của đạo tràng, nơi cửa chính là điện Thiên Vương, ở ngay chính giữa thờ cúng Hòa thượng Bố Đại.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 40329)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(View: 7589)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(View: 13089)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(View: 31495)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(View: 31469)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 8823)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(View: 13594)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(View: 13062)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(View: 12551)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(View: 15138)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(View: 37950)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(View: 10849)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(View: 53988)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(View: 11754)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(View: 11411)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(View: 11803)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(View: 11572)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(View: 14118)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(View: 17444)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(View: 23540)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(View: 10269)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(View: 7848)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(View: 11234)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(View: 14357)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(View: 13884)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(View: 17363)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(View: 17638)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(View: 14793)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(View: 18557)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(View: 13412)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(View: 15009)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(View: 15202)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(View: 10001)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(View: 12558)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(View: 12362)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(View: 17653)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(View: 15262)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(View: 17161)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(View: 13494)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(View: 13027)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(View: 12659)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(View: 16711)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(View: 12498)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(View: 15073)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(View: 12973)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(View: 13838)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(View: 16270)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(View: 12700)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(View: 14212)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(View: 15528)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(View: 22250)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(View: 14112)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(View: 11752)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(View: 21846)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(View: 15388)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(View: 22134)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(View: 19061)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 15134)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(View: 32837)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(View: 12839)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM